Trước đây tôi có đọc một cuốn sách tiếng Pháp dưới nhan đề: "Ce que
parler veut dire". Đây tôi xin tạm chuyển dịch là "Cái Nói Bói
Cái Suy" để dùng làm cái tít cho bài viết này.Trong các cuộc giao
tiếp giữa người với người, những "cái nói" tức là những lời thốt ra từ
miệng người nói thường bao hàm nhiều ư nghĩa. Khi người nghe bói ra được"cái
suy" trong tâm tư người nói th́ đôi bên thông cảm, tránh được mọi ngộ
nhận.
Từ mấy tháng qua, lối xưng danh Đức Kitô Khác để dịch Alter
Christus, được dùng trong Nguyệt San Diễn Đàn Giáo Dân có khi
đă bị đảo ngược là khác Đức Kitô, để rồi phát sinh những vụ tranh căi
giữa mục tử và giáo dân. Trong bài viết này, qua việc "bói cái suy"
giữa đôi bên, tôi cố t́m cái chân ư của hai chữ alter Christus trong ư
nghĩa cũng như trong cuộc sống hầu mong đóng góp một vài cảm nghĩ khả
dĩ hướng cuộc đối thoại về chân lư Tin Mừng giữa đàn con dân Chúa.
Lời viết, cũng như lời nói, thường gây nên ngộ nhận v́ bị, hay được,
đặt ra ngoài văn mạch của bài viết hoặc ra ngoài khung thất của cuộc
sống cho nên vượt quá ư niệm, hay đi ngược lại ư niệm của người nói.
Thí dụ: alter, tiếng latinh có nghĩa là thứ hai(second), cũng có nghĩa
là khác(autre)nữa. Theo niềm tin trong Giáo Hội Công Giáo, một vị linh
mục đương nhiên được xem là một Đức Kitô khác, hoặc là một đức Kitô
thứ hai. Nếu dịch alter Christus là khác Đức Kitô, th́ theo ngữ vựng
latinh, đấy là lối dịch phản nghĩa. Đức Kitô khác hay khác Đức Kitô là
hai ư niệm không những khác nhau mà lại c̣n chống nhau nữa. Song nếu
áp dụng vào trường hợp một vị linh mục mất hết tư cách ở tư thế linh
mục, tức là khác Đức Kitô th́ "cái nói" lại bói đúng "cái suy". Nếu đôi
bên không đồng ư về t́nh trạng này th́ sẽ xảy ra sự bất ḥa, rồi từ
bất ḥa đưa đến xung khắc, từ xung khắc đến mạt sát, rốt cuộc là "cạn
tàu ráo máng", không c̣n ǵ là t́nh yêu thương giữa con cái Chúa nữa.
Vậy Đức Kitô khác, hay khác Đức Kitô, to be or not to be? đấy là vấn đề.
Bài này được chia làm ba phần. Phần một nói về chức vụ hàng giáo phẩm
khiến họ là những Đức Kitô khác. Phần hai bàn về t́nh trạng khi vị
linh mục đă "biến chất" để trở thành khác Đức Kitô. Và phần ba bàn về
sự hiện diện cần có của Đức Kitô giữa mục tử và giáo dân để có sự hài
ḥa trong sứ mệnh chung là mở rộng Nước Chúa.
Những Đức Kitô khác xét qua thiên chức và sứ vụ hàng giáo phẩm.
Lối giải thích một vài từ ngữ trong Kinh Thánh hay Giáo Luật có thể
gây ngộ nhận và bất b́nh trong hàng ngũ con cái Chúa. Thử hỏi: chức
linh mục là một thánh chức hay là một chức thánh? Đấy, cũng như hai
cách nói Đức Kitô khác và khác Đức Kitô, là một lối chơi chữ do cái
"thần" của tiếng Việt. Sự kiện này đă phát sinh ra một cuộc tranh luận
giữa mục tử và giáo dân. Đây tôi muốn nhắc đến mấy đoạn văn có vẻ
''dạy đời'' nơi mấy bài viết trong nguyệt san Diễn Đàn Giáo Dân( các
số 30, 31) với chủ ư là mong làm sáng tỏ một ư niệm, tránh mọi hiểu
lầm, ngộ nhận. Một vị giải thích lối dịch chữ ''ORDO'' trong giáo luật
ra tiếng Việt là thánh chức thay v́ là chức thánh. Hai chữ thánh chức
và chức thánh, cũng trong cái thần tiếng Việt, vốn bao hàm hai ư nghĩa
khác biệt. Nếu đặt nặng vấn đề chức tước với hàm ư là đương nhiên phải
được sự kính nể, trọng vọng, th́ dịch từ ORDO là ''thánh chức''. Nhưng
nếu muốn ám chỉ một ''phẩm trật'' trong giai tầng quản nhiệm do Chúa
Giêsu đặt ra để phân cấp trong hàng ngũ con cái Chúa th́ lại dùng từ
chức thánh. Từ latinh ORDO, nghĩa chính là thứ bậc, ordre, và nghĩa
phụ là giới chức, ghép thêm vào đó chữ thánh: chức thánh tức là để nói
lên nguồn gốc thiêng liêng của một sứ vụ. Trong lễ nhạc phong chức
thánh, Giáo Hội dùng dầu, tiếng hylạp khrisis , để xức lên trán và nơi
tay người được thụ phong, khiến kẻ được xức dầu, khristos, biến thành
một Đức Kitô, khác, dịch ra tiếng latinh là Alter Christus. Do đó,
chức thầy cả là một chức thánh do lễ thụ phong mà nên. Ngoài ra c̣n có
các phép bí tích khác trong Giáo Hội như phép rửa tội, phép hôn phối,
phép thêm sức, phép xức dầu người hấp hối, trong đó dầu thánh cũng được
dùng để tạo nên nhiều loại chức thánh nữa. Như thế, không chỉ hàng
giáo phẩm, mà trong hàng ngũ giáo dân như kẻ dự ṭng, cô trinh nữ, bà
góa phụ đều là những bậc có chức thánh cả, v́ do một nghi thức trong
Giáo Luật mà tác thành.
Thế nhưng "ngoài đời", sự kính nể và trọng vọng người có chức thánh
không hẳn gắn liền vào chức tước, phẩm trật, mà lệ thuộc vào tư cách
của đương sự. Sự kính nể phát xuất từ gương sáng được tỏa ra từ những
hành vi, những cung cách, đức độ của người được mang chức thánh, chứ
không lệ thuộc hẳn vào bản chất của một phẩm trật nữa. Tuy vậy mà
riêng tôi, tôi vẫn cho rằng xúc phạm tới hàng giáo phẩm nói chung và
những vị linh mục nói riêng, bất luận có tư cách hay vô tư cách, phải
được mặc nhiên coi là "phạm sự thánh", nếu không gọi là phạm thượng,
chỉ v́ những người ấy đă được Chúa chọn làm mục tử. Tuy nhiên, c̣n phải
định nghĩa thế nào là xúc phạm nữa. Xúc phạm, theo tầm mức, tức là
khích bác, mạt sát, chửi bới, đánh đập. Song nếu chỉ dùng ng̣i bút để
trong t́nh cha con nói lên những điều sai trái, vô lư vô luân, hoặc để
truy tố những trường hợp gia trọng, nêu gương mù gương xấu cho mọi người,
và nói lên các điều ấy với tất cả sự cẩn trọng đối với sự thật cũng như
sự kính nể đối với thể giá của người mang chức thánh, th́ đấy vẫn là
nhiệm vụ của người cầm bút bất luận ngoại giáo hay công giáo. Như vậy
không nên kết vào tội chống cha chống Chúa khi người cầm bút đưa lời
chỉ trích các đấng, v́ không c̣n cách nào khác để quét sạch những mầm
mống vấp phạm do những phong cách khác Đức Kitô trong cộng đồng dân
Chúa.
Nhưng thế nào gọi là khác Đức Kitô?
Chức linh mục vốn là cao trọng, là chức thánh, một chức thánh vĩnh
viễn theo phẩm trật từ thượng tế Melchisedec trong Cựu Ước. Trong gia
đ́nh tôi có hai ông anh làm linh mục. Cả hai đều được mọi người tôn
kính trong tước vị "thầy cả". Thầy mẹ tôi gọi hai con là cha, và tự xưng
ḿnh là con. Tuy vậy mà không ông anh nào tự cảm thấy ḿnh là "cao vời,
khanh tướng" cả, có lẽ v́ các người đang sống trong một hoàn cảnh éo
le, chung quanh toàn là những người nghèo khó cần được đoái hoài cứu
giúp. Vào thời ấy các giáo sĩ không gặp được một cơ may nào để bôn ba
hải ngoại như bây giờ. Như thế họ tránh được những cơ nguy vấp ngă để
từ những Đức Kitô khác có thể trở thành khác Đức Kitô. Vào thời nay,
cái địa vị "cao vời khanh tướng" là địa vị của một số, chắc là rất ít,
các vị linh mục đang sống trong thời b́nh tại các quốc gia tân tiến.
Họ dễ trầm ḿnh trong sự phong phú dinh dư để tạo cho ḿnh một cơ ngơi
và một môi trường sống thoải mái. Rồi từ những đễ dàng do đồng đôla
mang lại, cái năo trạng cao vời khanh tướng dần dần xuất hiện và lấn
át cái thiên chức mục tử của ḿnh đi. Mọi vấn đề bê bối, khả dĩ gây
vấp phạm, "xói ṃn niềm tin" trong cơ chế Giáo Hội hiện nay nằm ở đấy.
Hiện nay, những bài báo Pháp, Anh, Mỹ, xuất xứ từ những tổ chức giáo
dân tại các quốc gia Âu phương bàn quá nhiều về t́nh trạng đó, nhưng
không mấy ai cho rằng những bài báo ấy có dụng ư đánh phá Giáo Hội.
Khi đă đạt đến một tŕnh độ văn hóa trung b́nh nào đó th́ trí óc con
người có thể đủ bản lĩng để đảm nhận cái thực trạng của chính ḿnh
hoặc đủ sáng suốt để truy xét một cách vô tư những điều ngay lẽ chính
hoặc lỗi lầm sai trái nơi người khác. Vậy tại sao khi những bài tiếng
Việt do người công giáo chủ trương, cũng dám nêu lên một vài sự thật
th́ lại bị kết án là "chửi", là "lăng mạ các đấng Hồng Y, các Giám Mục
Linh Mục, cho đấy là "chống cha chống Chúa"? Tôi là một độc giả của
Diễn Đàn Giáo Dân, nhưng cho đến nay tôi chưa đọc thấy một lời lẽ phỉ
báng nào gọi là chống cha chống Chúa trong ấy, khả dĩ xói ṃn được
niềm tin nghiêm trọng nơi hàng giáo phẩm cả. Niềm tin không bị xói ṃn
bởi những lời nói lên sự thật, v́, như Chúa Giêsu đă phán: sư thật sẽ
giải thoát các con. Niềm tin chỉ bị xói ṃn khi người viết báo công
giáo, bất luận ở cương vị nào, đem dùng các phương tiện truyền thông
để rao truyền sự dối trá. Đây tôi muốn nói đến một vài tờ báo hay cơ
quan truyền thông gọi là "Công Giáo" đă trực tiếp hay gián tiếp nối
tay, hoặc có liên hệ mật thiết với cơ quan Tôn Giáo quốc doanh trong
nước để tŕnh bày ngược lại t́nh trạng vô cùng đau đớn của Giáo Hội
Việt Nam hiện tại. Nếu có vị nào trong hay ngoài hàng giáo phẩm mà
công khai tuyên bố rằng tại Việt Nam có tự do tôn giáo, tôi xin thưa
rằng đấy là những vị khác Đức Kitô, v́ thay v́ làm chứng cho sự thật
th́ lại tuyên truyền cho sự man trá. Ngay khi các vị giữ im lặng trước
sự bách hại tôn giáo nhăn tiền tại Việt Nam, quư vị đă không c̣n là
các Kitô khác, huống chi là trong trường hợp linh mục Nguyễn Văn Lư,
các vị giữ im lặng, hay hơn thế, lên án người hiện đang bị bách hại, đang
bị tẩy năo trong ngục tù cộng sản, như thế các vị đă trở mặt, đă tiếp
tay cho những kẻ chống cha chống Chúa chính hiệu. Đấy là một trong
nhiều sự kiện đă xoi ṃn niềm tin trong hàng ngũ dân Chúa hiện nay.
Những bài báo thuộc cộng đoàn dân Chúa mà tôi nói trên đây được viết
lên để minh chứng sự thật, nhưng đă bị một vài vị mượn cơ quan truyền
thông quốc doanh trong và ngoài nước để trả lời. Quư vị trả lời với
những lời lẽ mỉa mai, châm biếm, đượm bản chất xúc phạm, hoàn toàn
trái ngược với tinh thần phúc âm tỉ như: "vài ông tu xuất...trí thức
nửa vời"(mi-savant) đă nói...." những lời lẽ như thế, thay v́ d́u đắt
đàn chiên vào đường ngay lẽ chính, th́ lại gây phẫn uất, tức tối một
cách vô ích, oan uổng. Cái năo trạng cao vời, khanh tướng, tôi đă nhận
diện ra trong câu này:" Thử hỏi khanh tướng nào, vua chúa trần gian
nào cao trọng hơn, quyền năng hơn Linh Mục trong nhăn giới thiêng
liêng vô cùng quan trọng này? Vậy mà có người dám coi thường chức linh
mục để có thể phát ngôn ngạo mạn như sau 'Linh mục và giáo dân cũng là
người như nhau: trí tuệ, đạo đức, nhiệt tâm và ảnh hưởng chưa hẳn ai
đă hơn ai' ". Theo tôi, lời phát ngôn bị xem là "ngạo mạn'' này không
nên đem đối chất với Thánh kinh, với giáo luật, mà nên đặt vào khung
thất của cuộc sống quá xô bồ hiện tại. Dưới nhăn quan của Tin Mừng,
Pharisêu hay Publicanô, con người chỉ hơn nhau ở cái tâm thật và ở
cung cách sống đạo của ḿnh mà thôi. Khi đă lột hết cái hào nhoáng bên
ngoài của tước vị, th́ dưới tầm mắt của Thiên Chúa mọi người chỉ là "cá
mè một lứa" cả. Dưới nhăn quan này tôi cũng dám viết: linh mục và giáo
dân cũng là người như nhau: trí tuệ, đạo đức, nhiệt tâm và ảnh hưởng
chưa hẳn ai đă hơn ai. Tôi đă có dịp tham gia vào các sinh hoạt hội đoàn
giáo dân. Tôi nhận thấy có nhiều "con chiên" c̣n biết sống đạo hơn một
vài vị linh mục xuất ngoại mà tôi có dịp tiếp xúc trong cuộc sống bôn
ba tại xứ Mỹ này. Tại trong nước, các vị không lấy làm đủ với nếp sống
"khi ly khi tô"Ạnơi chốn đô thị lại c̣n khánh tận lương tâm, bán linh
hồn ḿnh đi để chấp nhận mọi điều kiện man trá ḥng được cấp hộ chiếu,
ra nước ngoài. Rồi tại đấy, nhặt đôla đem về nước. Thay v́ dùng tiền
cứu giúp con dân nơi thôn quê hẻo lánh đang co rút trong các túp lều
tranh rách nát, th́ dồn cả vào việc xây cất nhà thờ khang trang lộng
lẫy. Dựa vào cái hào nhoáng bên ngoài phết lên mặt các nhà thờ, cơ
quan tuyên truyền cộng sản đến quay video rồi minh chứng rằng cảnh
Việt Nam là cảnh tốt đời đẹp đạo, không bao giờ có chuyện đàn áp tôn
giáo cả! Tôi xin lỗi: đây không phải là nơi để đem các vị ấy ra tố khổ
trong sứ mạng tông đồ của họ. Nhưng phàm là một người viết báo, viết
sách, tôi chỉ xin nêu lên một vài điểm để nói lên sự thật trong vai
tṛ thông tin mà thôi. Dưới nhăn quan của Cộng Đồng Vatican II đấy
cũng là một tác vụ tông đồ giáo dân. Làm chứng cho sự thật là sứ vụ
thiêng liêng của mọi người, riêng những người cầm bút.
C̣n xét về mặt tích cực về những đấng Kitô khác, tôi xin đặt một câu
hỏi: làm thế nào với ng̣i bút, người giáo dân có thể hợp tác với mục
tử trong sứ vụ đem đời vào đạo, hầu mở rộng Nước Chúa dưới trần gian
này ?
Sứ vụ tông đồ giáo dân: đem đời vào đạo.
Đem đạo vào đời, hay đem đời vào đạo là hai khía cạnh của một vấn đề.
Đem đạo vào đời tức là lồng những giá trị trong Tin Mừng vào nếp sống
của con người, một lối thích nghi Lời Chúa với cuộc sinh hoạt thường
nhật. Đấy vốn là chuyện "truyền giáo" vốn được xem là tác vụ của mục
tử. Từ Cộng Đồng Vatican II, 1964, công cuộc truyền giáo mang một
chiều kích mới. Để suy diễn điều đó tôi xin tạm dùng công thức: đem
đời vào đạo, và cho đấy là tác vụ của những người giáo dân có một ít
suy tư để được gọi là người trí thức. Thế nào là người trí thức? Người
trí thức thật ra chỉ là những người biết dùng ng̣i bút hay cái micro
để nói lên những cảm nghĩ của ḿnh một cách chính trực và trung thực,
để tŕnh bày hiện thực xă hội và đưa ra một vài giải pháp để cải
thiện. Ngược lại là người "trí ngủ", những người chỉ quen nhắm mắt đưa
chân để thoải mái sống qua ngày, không màng lo nghĩ ǵ đến những
chuyện trên trời dưới đất, ngoài chuyện làm, ăn, chơi, ngũ. Song, nghĩ
cho cùng, nói lên sự thật để làm ǵ? và nói lên cho ai nghe? Hay lại
là tiếng kêu trong sa mạc? Đấy là những mối trăng trở của những người
trí thức công giáo về số phận làm người, riêng số phận làm người trí
thức công giáo: một điều đáng sợ!
Sợ làm người, hay sợ làm người công giáo? Sợ tất cả! Thật đáng sợ v́
mọi người chúng ta đang sống trong một thời đại mà con người dường như
đă đánh mất địa bàn, không c̣n xác định được vị trí và phương hướng
của ḿnh nữa. Các cộng đồng giáo dân, đôi khi gồm những con chiên lạc
hướng, mỗi con muốn tách rời đàn để t́m một lối đi riêng biệt, như lời
Thánh Kinh.Ạ Thế rồi Cộng Đồng Vatican II đến với chúng ta như một
thách thức lớn trong việc sống đạo giữa đời. Cộng Đồng mời gọi giáo
dân mở rộng ḷng tin của ḿnh ra, và chia sẻ với người bên cạnh. Thật
ra, chuyện chia sẻ ấy, tại các nước tân tiến đă có từ lâu. Thí dụ bên
Pháp, trên báo chí, sách vở gồm những chuyện thường t́nh "rất người"
được trao đổi: Paul Claudel chia sẻ những cuộc xáo trộn trong tâm tư
của ḿnh trước các vấn đề lứa đôi, xác thịt(Partage de Midi, L'Annonce
faite à Marie), Francois Mauriac, Jacques Maritain, Joseph Malègue đă
nói rất nhiều đến những cơn thử thách đă trải qua về đức tin, về cuộc
sống lứa đôi, về dục tính, về liên hệ giữa bạn đồng t́nh luyến
ái(Jacques Maritain - Jean Cocteau, Francois Mauriac - Marcel
Proust..). Họ can đảm đặt hẳn vấn đề Lành, Dữ (le problème du mal) và
phân tích dưới mọi khía cạnh những kinh nghiệm sống. Trong khi văn hóa
Đông Phương, riêng văn hóa Việt Nam vẫn c̣n những vấn đề " cấm
kỵ"(tabou), chỉ có thể đóng cửa, ghé tai nói nhỏ với nhau mà thôi,
thay v́ đặt hẳn ra trước mắt để cùng nhau suy luận dưới ánh sáng của
Tin Mừng. Nếu đặt vấn đề tông đồ giáo dân, vấn đề đem đời vào đạo, th́
quả đấy là những chuyện mà người trí thức công giáo Việt Nam nên kể ra
để cùng các độc giả thẳng thắn chia sẻ. Cho đến bây giờ một vài vấn đề
như khủng hoảng niềm tin do những phát hiện khoa học, sự đảo ngược
trong giai tầng luân lư và xă hội với những thay đổi lớn trong mối
liên hệ giới tính, những phong trào khải đạo, như phong trào Thời Đại
Mới (New Age), đang len lơi vào các tổ chức Cộng Đoàn Giáo Dân, làm
chao đảo niềm tin nơi bao nhiêu người công giáo.
Người công giáo Việt Nam hầu như chưa bỏ được cái "lưỡi gổ" khi nói về
tâm thật của ḿnh, hoặc những trường hợp vấp ngả trong kinh nghiệm bản
thân. Nếu chưa có một cách nào nói về Đạo Chúa và đức tin công giáo
với ngôn ngữ trần tục th́ đấy là một thách thức lớn cho người làm báo,
viết sách. Việc dấn thân vào đời để đem đời vào đạo ḥng thánh hóa mọi
giá trị về con người và văn hóa trần tục sẽ gặp nhiều khó khăn về ngôn
ngữ, suy diễn và cảm thông: một thách đố lớn của Giáo Hội trong giai
đoạn hiện nay.
|