Cửa Tùng

Nỗi Nhớ Không Nguôi        

 

Dương Bỉnh       

Montréal

 

 

     Cửa Tùng là hải khẩu sông Bến hải, con sông mang dấu ấn tang thương của đất nước. Tôi rời Cửa Tùng đă trên nửa thế kỷ mà nỗi nhớ vẫn không nguôi, ḷng cứ bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người, bởi nơi đây là ‘’Quê Cha Đất Tổ’’, nơi Tổ Tiên tôi cùng các vị đồng bối, hưởng ứng công cuộc di dân của chuá Nguyễn Hoàng, đă đến đây lập nghiệp. Các bậc tiền bối, qua nhiều thế hệ nối tiếp nhau khai sơn phá thạch biến hoang địa thành vùng đất ph́ nhiêu và cửa Tùng trở nên chốn ‘’Thanh phong lưu thủy’’, một hải ngạn đẹp đẽ được người đương thời so sánh ‘’nhất Đồ sơn, nh́ Cửa Tùng’’. Thi sĩ Đông Hồ khi tả cảnh Hà tiên đă nhắc đến Cửa Tùng ‘’...có một ít Đồ sơn, Cửa Tùng, một ít Nha trang, Long hải...’’.

     Theo Việt sử, vùng đất Cửa Tùng nguyên là lănh thổ của nước Chiêm thành. V́ quân Chiêm hay quấy nhiễu nước ta nên năm 1069 vua Lư Thánh Tông thân  chinh đi đánh Chiêm thành, bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Chế Củ xin dâng ba châu để chuộc tội là châu Địa lư, châu Bố chính và châu Ma linh. Ba châu ấy nay thuộc địa hạt tỉnh Quảng b́nh và một phần phía bắc  tỉnh Quảng trị. Năm 1075, vua Lư Nhân Tông sai ông Lư Thường Kiệt vẽ lại họa đồ h́nh thể sông núi của ba châu và đổi tên châu Địa lư thành châu Lâm b́nh, châu Bố chính vẫn giữ nguyên tên cũ và châu Ma linh đổi thành châu Minh linh, rồi chiêu mộ di dân sang ở.

     Theo Cương mục chính biên th́ châu Địa lư là phần đất huyện Quảng ninh, châu Bố chính là phần đất thuộc các huyện Bố trạch, Quảng-trạch và Tuyên đúc thuộc tỉnh Quảng b́nh, c̣n châu Ma linh là phần đất toàn phủ Vĩnh linh và một phần phía bắc huyện Gio linh, tỉnh Quảng trị.                                                                                                                        

     Như vậy, Cửa Tùng, phần đất phía đông bắc của phủ Vĩnh linh được sáp nhập vào lănh thổ Việt nam kể từ năm 1069, năm mà Chế Củ xin dâng ba châu để chuộc tội.

     Chủ trương của vua Lư Nhân Tông chiêu mộ di dân sang lập nghiệp vùng ba châu đă mở đầu công cuộc Nam tiến của nước ta. Tuy ban đầu, người Việt c̣n dè dặt trong việc di cư xuống phía Nam v́ e ngại người Chiêm quấy nhiễu, trả thù, nhưng dần dần lănh thổ phía nam nước ta bành trướng đến đèo Hải vân, rồi đến Quảng nam, Quảng ngăi..., người Việt phía Bắc  mới an tâm đến lập nghiệp ở phía Nam.

     Năm 1558 (Mậu ngọ), đời vua Anh Tông, chuá Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận hoá, đóng ở Ái-Tử tỉnh Quảng trị. Bấy giờ những người họ hàng với chuá Nguyễn ở huyện Tống sơn tỉnh Thanh hoá và những quân binh ở Thanh hoá Nghệ an và gia đ́nh họ cùng đi theo chuá Nguyễn. Đợt di dân nầy được xem là đông đúc. Những đợt di dân tiếp theo trong nhiều năm sau đă tăng dân số trong vùng được gọi là ‘’Đàng Trong’’ từ sông Gianh trở vào thuộc quyền cai trị của chuá Nguyễn. Qua hàng trăm năm các đời vua nối tiếp nhau  cho đến cuối triều nhà Nguyễn, ngày vua Bảo Đại thoái vị (29-8-1945), th́ vùng Cửa Tùng gồm có các làng xă sau đây:

     Đại xă An du gồm có bốn làng : An du Đông, An du Tây, An du Bắc, An du Nam, làng Di loan (Di luân), làng An ninh, làng Vĩnh an, làng Tân trại, làng Cổ trai và làng Tùng luật thuộc tổng Hiền lương, phủ Vĩnh linh, tỉnh Quảng trị.

     Cửa Tùng là nơi sông Bến hải chảy ra biển. Con sông nầy phát xuất từ dăy Trường sơn, dài 59 km, diện tích lưu vực 936 km2.  Đoạn nguồn mang tên ‘’Ben Hai’’ một tên gọi của người Thượng địa phương. Khúc sông nầy dài nhưng hẹp và cạn, có nơi có thể lội bộ qua được, nhưng khi chảy đến bến đ̣ Hiền lương (cầu Bến hải) được một phụ lưu khác hợp lưu, chảy vào địa phận tổng Hiền lương nên được gọi là sông Hiền lương, vừa rộng vừa sâu, chảy qua các làng  Thuỷ khê, Cẩm phổ, Xuân mị, Cát sơn phía bờ nam và làng Tùng luật, Di loan, Vĩnh an phía bờ bắc rồi chảy ra biển.

     Hải khẩu cửa Tùng nguyên thuộc địa phận một phường của làng Tùng luật, người địa phương gọi là làng Tùng, cửa biển gọi là cửa Tùng. Vào khoảng năm 1915-1920, phường nói trên được xuất làng mang tên là làng Vĩnh an. Dân cư trong làng sống chen chúc trên một đọan bờ bắc cạnh cửa biển. Sát cửa biển, mặt tiền làng Vĩnh an, một ngôi chợ nhóm vào buổi chiều gọi là chợ Hôm hay chợ Cựa (Cửa). Chợ gồm mấy dăy quán tranh, sạp tre, bán các loại hải sản như cá, tôm, cua ... của các thuyền câu cập bến sau một ngày ra khơi. Cạnh chợ có mấy nhà gạch, một tiệm thuốc bắc, một tiệm hớt tóc và một tiệm may. Khu vực chợ Cựa ban mai mang bầu khí tịch mịch nơi thôn dă, đến xế chiều, thuyền câu đổ bến và họp chợ mang lại cảnh tấp nập huyên náo, trên bến dưới thuyền chen chúc nhau mua bán vội vàng v́ chợ tan trước lúc mặt trời lặn.

     Hằng năm, hai mùa xuân hạ, sóng êm biển lặng, các thương thuyền cũng cập bến để thu mua các loại sản phẩm như khoai khô, sắn khô, chè (trà) khô gọi là chè Tùng, cá khô, mực khô, hạt tiêu.......

     Xa về phía bắc chợ Cựa, một vùng đá khá rộng chạy từ bờ đất  doi ra biển. Mỏm đá nầy tạo cảnh quang cho cửa biển thêm đẹp nhưng cũng là mối nguy cho thuyền bè có thể bị vỡ khi vào cửa gặp lúc băo lụt sóng to gió lớn.

     Cách mỏm đá nói trên vài cây số về phía bắc, một dàn đá khác lớn gấp ba, nhô ra biển. Sóng biển nhấp nhô len lỏi trong các gềnh đá phủ đầy rong, một vài loại hải sản như đỉa biển (hải sâm), cua, c̣ng ở vùng cạn, c̣n vùng cao, mặt đá phẳng ĺ, người địa phương chia ô, cô nước biển thành nước muối, sau đó chế thành muối ăn.

     Giữa hai vùng đá nói trên là một eo biển, gọi là Băi Eo hay ‘’ Băi Tắm Cửa Tùng’’, cong h́nh trăng non với băi cát trắng mịn, dài trên 1 km rộng độ 100 mét, với hai đường xe song song theo độ cong của bờ đất. Băi Eo là một băi tắm lư tưởng  bởi đáy biển thoai thoải, cát mịn, nước trong, muà hè  mặt biển gợn sóng lăn tăn, gió nồm hiu hiu thổi từ biển vào rừng dương liễu bọc quanh bờ băi tắm nghe vi vu như tiếng sáo trúc trầm bổng vang vọng trong cảnh yên hà tịch mịch.

     Phía bắc băi  Eo độ 2 km, một mỏm đá vôi doi ra biển trông xa như đầu con voi, người địa phương gọi là ‘’trôốc voi’’, danh từ địa lư gọi là ‘’Mũi Lài’’, người Pháp gọi là ‘’Cap Lay’’.

     Xa xa phía biển đông có cù lao ‘’Cồn Cỏ’’thấp thoáng in h́nh trên mặt biển. Tương truyền rằng : ngày xưa có ông ‘’Thồ lồ’’ (khổng lồ) gánh đất từ dăy Trường sơn về lấp biển, bị gảy đ̣n gánh nên một đầu bị đổ ra biển đông nay gọi là đảo Cồn Cỏ và đầu kia đổ ở làng Hồ xá, nay là núi ‘’Ḷ Reng’’

     Phía tây băi tắm là sườn dốc cao với rừng dương liễu dày đặc xanh ŕ, cao vút, tiếng reo vi vu hoà quyện với gíó biển tạo âm hưởng vọng lên khắp vùng hải ngạn.

     Hết dốc cao đến vùng b́nh địa đất đỏ bazan, loại đất thích hợp trong kinh tế vườn với các loại cây mít, chè, thơm, chanh, cam, quít, bưởi, cau, tiêu, sắn, khoai, chuối v.v...

     Giữa hai đường cái quan song song dọc bờ đất h́nh cánh cung, nhiều nhà cửa, nhà hàng, biệt thự của người Pháp, các cơ quan như nhà Dây thép (Bưu điện), Nhà thương (Trạm y tế), Đồn lính tập (Lính khố xanh), Nhà máy đèn (Nhà máy phát điện) và nhà Thừa Lương (Nhà hóng mát) của các vua cuối đời nhà Nguyễn.

     Tuy là nhà Thừa lương của vua nhưng chẳng phải ‘’lầu son gác tiá’’ hay ‘’Lầu đăi nguyệt đứng ngồi dạ vũ, gác thừa lương thức ngủ thu phong’’ (CgO), mà là một ngôi nhà khá to, lợp tranh, đóng lát bằng gỗ mang dáng uy nghiêm. Nơi đây đă nảy sinh mối t́nh dang dở của vua Duy Tân.

     Chuyện kể rằng năm 1914, vua Duy Tân ra nghỉ mát ở Cửa Tùng, lúc ấy nhà vua độ 15 tuổi muốn có bạn chơi cùng lứa nên đă truyền cho ông Hồ đắc Trung, Thượng thư bộ Học theo hầu và dẫn thêm mấy người con của ông Trung, 2 trai 16 và 15 tuổi, 2 gái 13 và 10 tuổi đi theo cho vui. Nhà Vua tuy nghiêm trang nhưng vẫn vui đùa với hai cậu trai và cô gái út, c̣n cô gái 13 được Ngài lưu ư để mắt tới nhưng ít tiếp chuyện. Nghỉ hè sắp măn, vua tôi bịn rịn quấn quít lúc chia tay, cô chị ứa lệ nh́n Ngài. Ngài bảo sang năm sẽ gặp nhau lại. Năm sau, gần đến hè, cô chị xin đi theo các anh em ra Cửa Tùng, nhưng quan Thượng không cho, bảo ở nhà với mẹ, cô chị oà lên khóc nức nở. Khi đến Cửa Tùng, gặp lại mấy anh em, Nhà Vua hỏi  sao thiếu mất một người, cô em tâu rằng mẹ bảo ở nhà. Vua nói ‘’Thật tội nghiệp cho chị ấy’’. Măn hè một tháng, một hôm có quan Thị vệ đến xin ảnh cô chị đem vào Nội cho bà Thái Hậu xem mặt. Khoảng một tuần sau đó, Thái Hậu cho mời ông bà Thượng thư Hồ đắc Trung vào chầu. Ít bữa sau, kiệu vua đệ ra nhà quan Thượng một đôi bông tai và một đôi ṿng vàng cho cô chị. Đó là lễ hỏi và cô chị ra lạy tạ ơn vua hạ cố.

     Vào khoảng tháng 12 năm 1915, sau khi ở triều về, quan Thượng kín đáo báo cho quan Bà và bảo con lấy đôi ṿng và đôi bông tai để mẹ con đem vào Nội dâng lại cho vua v́ Ngài từ hôn và Ngài bảo hăy an ủi con và gả ngay cho người khác, đừng để con buồn tội nghiệp, Ngài c̣n bảo  ‘’Thầy nên hiểu v́ ta thương gia đ́nh thầy nên mới phải từ hôn với người mà ta mến từ hai năm nay’’.

     Sở dĩ có sự đổi ư đột ngột như thế v́ vua Duy Tân đă có kế hoạch đánh quân Pháp ở Huế vào đêm 3 tháng 5 năm 1916. Cuộc khởi nghĩa bại lộ, vua Duy Tân bị bắt. Ngài có tâm sự rằng ‘’V́  tôi thương gia đ́nh ông Hồ đắc Trung, sợ ông ấy bị liên lụy nên tôi từ hôn’’.

     Cũng có một vài giai thọai về vua Duy Tân tại Cửa Tùng: Có lần tay vua đầy cát bẩn, quan Thị vệ đem chậu nước đến để vua rửa. Vua vừa rửa vừa hỏi quan Thị vệ ‘’Tay nhớp th́ lấy nước rửa, nước nhớp th́ lấy chi rửa?’’.

     Ông quan c̣n ấp úng chưa trả lời được, th́ vua nói ‘’Nước nhớp th́ lấy máu mà rửa. Nhà ngươi biết chưa?’’.

     Sau khu biệt thự của người Pháp và cơ quan của nhà nước là làng mạc sầm uất, đường sá ngoằn ngoèo, nhà cửa ẩn khuất trong những khu vườn đất đỏ trồng cây lưu niên như chè, mít, tiêu, cau, trầu, ổi, cam, quít, chanh, bưởi, vả, thơm, chuối .....Cây chè (trà) ở đây to lớn, gốc đường kính 2,3 tấc, cao 5,6 mét, mỗi năm bẻ (cắt cành)  2 lần, giả nát, phơi khô, cho vào bao xuất khẩu gọi là ‘’Chè Tùng’’. C̣n cây mít cao trên chục mét, trái để ăn, gỗ ṛng màu vàng dùng làm phản, giường, tủ, bàn, ghế, cột nhà, rui, kèo...Những cây mít cổ thụ được dùng làm cột đ́nh, chùa, nhà thờ ....

     Hai bên đường và bià vườn người  ta trồng tre. Tre khắp nơi, nhiều loại, nhiều thứ, đường nào cũng có tre, vườn nào cũng có tre, dùng để ăn măng, làm nhà, làm phên, đan đát thúng mủng, sàng, dần, gàu giai, gàu ṣng, thuyền nan, chuồng trại gia súc, v.v...

     Trung tâm khu vực Cửa Tùng là một vùng đất cao, rộng và bằng phẳng được dùng làm sân máy bay loại nhẹ thường gọi là ‘’máy bay bà già’’. Vào một trưa mùa đông năm 1941, một phi cơ chiến đấu của Nhật bổn lâm trận với máy bay địch ở Biển Đông không trở về hậu cứ được, cạn xăng, nên t́m nơi gần nhất để hạ cánh, đă đáp xuống phi trường Cửa Tùng. Bởi phi đạo quá ngắn nên phi cơ đă vượt ra xa, đâm vào bờ đất, bị vỡ. Phi hành đoàn 6 người  gồm  1 Trung úy, 1 Thiếu uư và 4  quân nhân. Thân phụ tôi đă dùng chữ Hán tiếp xúc với Trung úy Trưởng đoàn, ông muốn có một nơi tạm trú cho phi hành đoàn. Ba tôi đă mời cả 6 người về nhà và cung cấp ẩm thực trong 7 ngày, cho đến khi họ liên lạc được với Bộ Tư Lệnh Bộ Binh Nhật ở Huế cho xe đến đón.

     Cạnh phi trường nầy có một sở Tằm (Sở Canh nông) cung cấp trứng tằm giống, cố vấn việc nuôi tằm, giới thiệu giống dâu năng suất cao (lá to và nhiều lá).

     Gần phi trường có một sân vận động nhỏ và một trường học tọa lạc trên đất xă An du, sát tỉnh lộ, cạnh sân banh cuả Tiểu chủng viện An ninh, trên cổng trường có một bảng lớn đề : ‘’École élémentaire d’An-du’’.

     Người Cửa Tùng gọi trường này là ‘’Trường Hương sư’’, thời Pháp thuộc chỉ có ba lớp: Đồng ấu (cours enfantin), Dự bị (cours préparatoire) và Sơ đẳng (cours élémentaire). Lúc đầu chỉ có thầy giáo Thạnh, người làng An du tây dạy 2 lớp đồng ấu và dự bị, sau thầy Thạnh là 2 thầy Nguyễn quang Yêng , người làng An du Nam  và thầy Phiên người làng Sơn công Sơn quả tỉnh Thừa thiên, dạy 3 lớp Đồng ấu, Dự bị và Sơ đẳng. Hai thầy Yêng và Phiên thuyên chuyển, hai thầy khác đến thay là thầy Lê văn Thử người làng Vĩnh an và thầy Nguyễn văn Nghi người làng An ninh. Các thầy phục sức chỉnh tề: khăn đóng, áo dài đen, quần trắng, mang guốc hay sandale, thỉnh thoảng áo chemise trắng, quần tây xanh đậm. Cả trường chỉ có một cái đồng hồ để bàn của thầy Hiệu trưởng. Hộc bàn thầy nào cũng có một cây roi ngắn để ‘’trị’’ các tṛ không thuộc bài. Đặc biệt bài ‘’Học thuộc ḷng’’phải thuộc làu, đọc suôn sẻ như tụng kinh. Năm 1940, đệ nhị thế chiến diễn ra khốc liệt tại châu Âu, Chính phủ Bảo hộ Pháp kêu gọi người Việt đi lính sang giúp Pháp đánh Đức, đă truyền hịch ‘’Tùng chinh’’, được thầy cắt làm 3 đoạn bắt học thuộc ḷng như sau:

   Hỡi anh em bạn tùng chinh,

   V́ sao nước Pháp hưng binh phen này.

   Chỉ v́ nước Đức cố gây,

   Muốn làm bá chủ đông tây một ḿnh.

   Bấy lâu sinh sự hoành hành,

   Chiếm xong Áo Tiệp lại dành Ba lan.

   Kể sao xiết nỗi hung tàn,

   Giết người cướp của dă man vô cùng.

   Pháp Anh hai nước một ḷng,

   Quyết pḥ công lư, chẳng dung cường quyền

   Đồng minh quân đội kết liên,

   Với quân Thuộc địa khắp miền gần xa.

   Binh hùng tướng dũng kéo ra,

   Dưới cờ Đại Pháp kể là rất đông.

   Thù giặc Đức, cũng thù chung,

   Nếu không chinh phạt thời không hoà b́nh.

   Đánh cho Quốc xă tan tành,

   Hít-le đến phải thất kinh oai trời.

   Anh em Nam Việt ta ơi!

   Vốn ḍng nghĩa khí, vốn ṇi thông minh.

   Trong ḷng vốn sẳn cảm t́nh,

   Biết ơn Bảo hộ với ḿnh lâu nay.

   Tùng chinh lại gặp hội này,

   Đền ơn ta phải góp tay với người.

   Quản ǵ vượt biển ra khơi,

   Chí nam nhi đặng gặp thời càng hay.

   Sắt son ghi tạc dạ này,

   Lo tṛn phận sự cho tày người ta.

   Khi về cổi bức chiến bào,

   Hai Nhà nước thưởng công lao cho ḿnh.

   Ngoài xă hội, trong gia đ́nh,

   Tháng ngày vui hưởng thái b́nh phước chung

   Anh em nên cố gắng công!.

     Không biết tác giả bài nầy, nhưng được thầy giáo bắt học thuộc ḷng và bảo đọc lớn tiếng cho trong nhà và hàng xóm nghe để cổ động đi lính qua Pháp đánh Đức.

     Mỗi chiều, nửa giờ trước khi bải, thầy tập hát. Thời đó chưa có tân nhạc, chỉ có cổ nhạc theo điệu dân ca B́nh Trị Thiên, cũng gọi là dân ca Huế.

     Một vài bài điển h́nh sau đây:

1)      Khuyến học (điệu lư con sáo)

     Bớ tṛ đi học nhà trường,

     Phải chăm, phải chăm mà bước,

     Kẻo đường ơi tṛ ơi c̣n xa.

     Giữa đường chớ giỡn chớ la,

     Phải so, phải so ngày tháng,

     Thoát đà ơi tṛ ơi nhường thoi.

2)      Đạo làm trai (điệu kim tiền)

Sanh ra đạo làm trai, chăm lo học cho đặng nên người.

Để đua trí đua tài kịp người ta, đường lớn xa.

Khi bên thầy, khi bên bạn, khi bên đèn.

Lấy văn tự đêm ngày đặng mà coi.

Này con ơi! Này con! gắng công mà học cho đặng nên người, gặp thời giúp đời.

Ai mà chăm chỉ th́ nên.

Cố công rèn tập ư thời gặp, thời gặp hội rồng mây.

Cố công rèn tập ư thời gặp.

     Trường tuy nhỏ nhưng cũng qui tụ học sinh các làng ở xa 3, 4 cây số, đem theo cơm trưa, ngày học hai buổi mai chiều, tuần nghỉ hai ngày thứ năm và chủ nhật. Mỗi sáng nghe trống đánh 1 hồi 3 dùi, học tṛ sắp hàng trước cửa lớp, thầy bảo “Entrez’’, học sinh đáp “Nous entrons’’ rồi lễ phép đi vào lớp, đứng tại chỗ, thầy cho lệnh “Asseyez-vous’’,học sinh đáp “Nous nous asseyons’’ rồi ngồi xuống. Thầy mở sổ “appel’’ gọi tên từng tṛ, học sinh lần lượt trả lời “présent’’. Chiều bải, ông phu trường đánh một hồi trống, học sinh xếp sách vở. Thầy hô “Levez-vous’’, học tṛ đứng dậy và nói  “Nous nous levons’’.Thầy nói tiếp “Sortez’’, học sinh đáp  “Nous sortons’’ rồi lần lượt ra cửa. Học sinh xưng hô với nhau bằng ‘’tṛ’’ không được nói tao mi. Ra đường gặp thầy, phải cất nón chào thầy. Đúng là tiên học lễ hậu học văn.

     Thời ấy (Pháp thuộc), quá tuổi không cho nhập học nên một số học sinh ở thôn quê khai hạ tuổi. Đi học để vừa biết chữ vừa kiếm mảnh bằng ‘’Sơ Học Yếu Lược’’ (Certificat élémentaire) để tŕnh làng, được miễn tạp dịch và sau nầy ra làm hương lư gánh vác việc Làng việc Tổng, xin làm Cai Lục lộ (Công chánh), hoặc ông Cai ông Bếp lính Khố xanh hay xin học làm y tá hương thôn, nữ hộ sinh hương thôn, v.v...Học hết lớp ba (cours élémentaire) ở trường Hương sư, muốn học tiếp th́ lên Phủ (quận) học École primaire, xa 10 km, ở trọ nhà quen, góp gạo và tiền mua thức ăn.

     Cùng học chung với nhau từ thuở tấm bé lớp Đồng ấu đến lớp Sơ đẳng trong ba năm liên tiếp, theo thứ tự ghi trong sổ appel của thầy, gồm có các tṛ : Niên, Nước, Thiên, Tới, Lự, Phận, Vị, Để, Hồng, Nghi, Ân, Niệm,Bỉnh, Tuấn, Tường, Tường, Lội, Hoè , Thảo, Điền, Cư, Đinh, Khánh, Cung, Bỉnh, Ba. (Hai mươi sáu tṛ, 66 năm qua,  bây giờ ai c̣n ai mất, xin hoài niệm).

     Khoảng năm 1940, có lần học sinh được xếp hàng dọc theo tỉnh lộ, tay cầm cờ long tinh nhỏ, miệng hô to ‘’Vive l’Empereur’’ khi xe hoàng đế Bảo Đại đi qua để về Thừa lương. Cũng dịp nầy, một đoàn Hướng đạo đến đóng trại, ca hát, lửa trại, hài kịch rất vui.

     Hằng năm đến ngày 14 Juillet, Quốc khánh Pháp, có đội kèn tây về tŕnh diễn âm nhạc, buổi tối có chiếu phim lộ thiên cho tây và ta xem.

     Khu vực Cửa Tùng gồm 10 làng: An du đông, An du tây, An du nam, An du bắc, An ninh, Di loan (Di luân) Cổ trai, Tân trại, Tùng luật và Vĩnh an. Ranh giới khu vực được giới hạn đông giáp biển, nam giáp sông Bến hải, tây giáp làng Liêm công, bắc giáp làng Thủy cần và Thạch bàn.

     Một vài làng điển h́nh sau đây:

     Xă An du cũng gọi là An do rộng lớn hơn cả, xưa kia là một đại xă. Vị khai khẩn là ông Nguyễn như Long, ông có người em ruột là Nguyễn như Hổ là vị khai khẩn làng Tân trại. Hằng năm, lễ giỗ khai khẩn, An du xướng tên cả hai vị ‘’Nguyễn như Long, Nguyễn như Hổ’’, Tân trại cũng xướng tên hai vị nhưng ngược lại ‘’Nguyễn như Hổ, Nguyễn như Long’’. An du có một ngôi chợ khá lớn gọi là chợ Do (An do), giữa chợ có đ́nh chợ lợp ngói, ba bốn cây sanh cây đa rợp bóng mát, mặt tiền chợ là cánh đồng nho nhỏ, ba mặt hậu, tả, hữu là nhà cửa, quán xá, 2 tiệm thuốc bắc, 2 tiệm may, ba bốn sạp vải, nhiều sạp tạp hoá. Chợ mua bán nhiều loại nông sản, hải sản, thịt gia súc, chim chóc, đồ thủ công như nón lá, tơi lá, dần, sàng, thúng, mủng, v.v... Chợ nhóm suốt buổi mai đến xế trưa, đông đúc, nhộn nhịp mang vẻ sầm uất nơi thôn dă.

     Bởi cư dân ngày càng đông, xă An du được chia làm hai làng: An du đông và An du nam. Về sau, để đáp ứng việc gia tăng dân số, chính quyền tỉnh Quảng trị cho chia làng An du đông thêm làng An du bắc, làng An du nam thêm làng An du tây. Về điền thổ không chia, chỉ chia dân số theo tiêu chuẩn tín ngưỡng: An du đông lương, An du bắc công giáo,  An du nam lương, An du tây công giáo. Tuy chia như vậy nhưng nhân hoà đoàn kết, nhân tâm vui vẻ.

     Làng Di loan (Di luân), quê quán của đức cha Lê hữu Từ, Giám mục Giáo phận Phát diệm. Di loan trước kia là một xă lớn, v́ dân số đông nên vào năm 1950 cho một phường xuất làng mang tên là làng Di loan bắc, làng nầy chiếm 2/3 dân số giáo xứ Loan lư, ở sát băi tắm Cửa Tùng.

     Phong cảnh làng Di loan khá đẹp, mặt tiền làng hướng về phiá nam nơi ḍng sông Bến hải lững lờ chảy ra biển. Dọc bờ sông, tầng thấp làm ruộng muối, tầng cao ruộng lúa, đến một con đường khá rộng suốt từ đầu làng đến cuối làng. Sau con đường nầy là cư dân, nhà cửa, vườn tược xanh tươi.  Giữa làng, phía mặt tiền nh́n ra sông, một ngôi thánh đường trang nghiêm cổ kính với ba quả chuông lớn. Chánh xứ coi sóc họ đạo Di loan là linh mục Léopold Cadière, tên Việt là cố Cả, thuộc hội Thừa sai Ba lê (Mission Étrangère  de Paris), đến Việt nam năm 1892, làm giáo sư Tiểu chủng viện An ninh  Cửa Tùng 1893-1894, Chính xứ Di loan kiêm Hạt trưởng Giáo hạt Đất đỏ (Cửa Tùng) từ tháng 9 năm 1918 đến tháng 3 năm 1945, bị Nhật bắt giam 5 tháng trong dịp Nhật đảo chánh Pháp. Ngày 19.12.1946 bị Việt minh bắt đi an trí tại Vinh (Xă đoài) cho đến ngày đ́nh chiến, được trả tự do và hưu trí  tại nhà Hưu dưỡng toà Giám mục Huế. Ông là một học giả kiệt xuất, giỏi hán, nôm, quốc ngữ, thông thuộc sử sách, địa dư, phong tục, tập quán Việt nam, Trung hoa, Cambodge và Lào. Năm 1990, Chính quyền Hà nội đă vinh danh Léopold Cadière là ‘’Nhà Huế Học’’ và là ‘’Nhà Việt nam Học’’do những công tŕnh nghiên cứu của Ngài đă làm cho thế giới biết đến văn hoá, nghệ thuật, kiến trúc và lịch sử Việt nam.

     Sau vườn nhà thờ Di loan là Nữ Tu viện ḍng Mến Thánh giá Di loan, sống âm thầm trong một khuôn viên khá rộng, cây cối rợp bóng quanh năm. Hằng ngày, các D́ Phước, luôn đi cặp đôi, đến các trường học giáo xứ để dạy giáo lư và khai tâm quốc ngữ miễn phí cho các em nhỏ. Nhờ công khai trí ấy mà tất cả người công giáo Cửa Tùng đều biết đọc chữ quốc ngữ. Các nữ tu lo tu hành nhưng cũng góp phần vào việc phát triển kinh tế như sản xuất muối ăn, nuôi tằm, dệt tơ lụa. Thuở ấy các loại vải nội hoá khổ ngắn, nhưng tu viện Di loan  đă dệt được lụa khổ rộng như hàng ngoại hoá nhờ biết cải biến khung cửi (máy dệt bằng tay). Tu viện cũng cung cấp các loại thuốc tây thay các loại cao đơn hoàn tán để trị các bệnh thông thường như cảm mạo, nhức đầu, đau bụng, ghẻ chốc,v.v...

     Đầu làng Di loan có 2 ḷ vôi cung cấp vôi ăn trầu, xây nhà, quét tường đủ cho nhu cầu địa phương.

      Nơi giáp ranh làng Di loan với làng Tùng luật có một trạm Thương-chánh để thu thuế toàn vùng do một người Pháp làm Trưởng trạm và vài nhân viên người Việt. Ai sản xuất muối, rượu hay thuốc lá phải khai báo. Muối lậu, rượu lậu, thuốc lá lậu sẽ bị tịch thu và nộp phạt. V́ vậy đă có những xích mích dẫn đến đánh lộn với vài người địa phương.

     Làng Cổ Trai : Theo tương truyền th́ làng Cổ Trai là quê của bà Nguyễn thị Băng, vợ của chuá Nguyễn phúc Nguyên tức chuá Săi (1613-1635). Nghe các cụ nói hồi xưa có vụ tranh chấp giữa hai làng Cổ trai và Tân trại về chủ quyền một con đê. Quan phủ Vĩnh linh xử cho làng Tân trại thắng, làng Cổ trai phản kháng, Hội đồng Kỳ mục làng đi thẳng vào Huế xin Hội đồng Hoàng tộc can thiệp, lấy cớ Cổ trai là quê quán của nguyên phi của Săi vương, nếu Cổ trai thất kiện th́ tổn thương danh dự hoàng gia. Bởi vậy , Quan phủ được lệnh xử lại và cho Cổ trai thắng kiện.

     Các cụ cũng kể chuyện vui, xưa kia Tri phủ (Quận trưởng) hành hạt thăm các làng, thường đi cáng (vơng có mui hai người gánh), đến làng nào làng ấy lo cắt cử phu gánh cáng quan đến làng kế tiếp. Lúc đi qua khu rừng gần làng Cổ trai, quan phủ nằm trên cáng hỏi ông Lư trưởng (Xă trưởng):

     -Này Xạ nầy! nghe nói ở rừng nầy có cọp phải không ?

     -Ông Xạ trả lời: Bẩm quan đừng có lo, cỡ một đ̣n th́ tui coi thường. (Ư nói cọp lớn nặng cỡ l đ̣n (2 người gánh), ám chỉ quan cũng một đ̣n. Quan làm thinh, biết ông Xă nói xỏ ḿnh).

     Đi thêm một đoạn đường nữa, ông Xă ra dấu cho hai người phu khiêng cáng, rồi hô to: Cọp! Cọp! Cọp! ơi quan cọp!. Hai người khiêng đồng loạt vứt cáng xuống đất rồi cùng ông Xă chạy thoát khỏi rừng. Quan bị té như khúc gỗ từ trên cao rơi xuống mặt đường, lổm ngổm ngồi dậy và chạy theo ông Xă.

     Làng An ninh : Một làng trung b́nh về diện tích lănh thổ lẫn dân số. Người làng An ninh hiền hoà. An ninh được nhiều người biết v́ có Tiểu chủng viện cuả Giáo phận Huế đóng lâu đời tại đó. Tiểu chủng viện là nơi đào tạo linh mục trong giai đoạn 8 năm đầu, sau đó vào học ở Đại chủng viện Huế 6 năm rồi mới thụ phong linh mục. Tiểu chủng viện An ninh cũng giúp giáo huấn chủng sinh cho Giáo hội Công giáo Lào. Một ít chủng sinh thụ giáo ở đây sau nầy nổi danh như Đức cha Hồ ngọc Cẩn, Giám mục Giáo phận Bùi chu; Đức cha Ngô đ́nh Thục, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Huế; Đức cha Lê hữu Từ, Giám mục Giáo phận Phát diệm; Đức cha Nguyễn văn Hiền, Giám mục Giáo phận Đà lạt; Đức Hồng y Nguyễn văn Thuận, Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lư và Hoà b́nh Toà thánh Vatican; Đức cha Nguyễn như Thể, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Huế; Linh mục Nguyễn hy Thích, giáo sư hán văn và triết học Đông phương tại Đại học Huế, Sài g̣n và Đà lạt; Linh mục Nguyễn văn Lập, Viện trưởng viện Đại học Đà lạt.

     Tiểu Chủng viện tọa lạc trong một khuôn viên khá rộng, trên 1 mẫu tây (hectare) đất. Trong đó có ba nhà thờ: Nhà thờ chính, Nhà thờ Đức Bà và Nhà thờ thánh An tôn; hai dăy nhà lầu lớn làm nơi học và ở cho giáo sư và chủng sinh, c̣n có nhà khách, nhà chơi, sân chơi, nhà ăn, nhà bếp và lẫm luá (kho thóc),...

     Tiểu chủng viện An ninh cũng là nơi trú ẩn và bảo vệ  giáo dân trong thời kỳ Văn thân giết hại tín đồ Công giáo vào năm 1885.

     Nguyên vào thời bấy giờ, t́nh h́nh trong nước quá rối loạn: Vua Tự đức băng hà, vua Dục đức lên nối ngôi, làm vua được ba ngày bị truất phế và giam đói cho đến chết; vua Hiệp hoà lên thay, làm vua được bốn tháng mười ngày bị ép uống thuốc độc chết; vua Kiến phước lên ngôi được tám tháng  th́ chết đột ngột, nghi là bị đầu độc; vua Hàm nghi  lên ngôi lúc 12 tuổi. Thời đó, việc triều chính ở Huế đều do hai quan phụ chính là Nguyễn văn Tường và Tôn thất Thuyết định đoạt. Do t́nh h́nh căng thẳng giữa triều đ́nh Huế và quan chức Pháp tại Huế, họ áp bức triều đ́nh nộp chiến phí 20.000 thoi vàng, 200.000 thoi bạc, 200.000 quan tiền và có thái độ hống hách với triều đ́nh. Đêm 4 tháng 7 năm 1885, nhân phía Pháp tổ chức tiệc, ông Tôn thất Thuyết đă cho lệnh tấn công, đốt cháy các trại ở ṭa Khâm, đánh vào thành Mang cá, một số sĩ quan và binh lính Pháp chết. Đến sáng ngày 5 tháng 7 quân Pháp mới chấn chỉnh lại hàng ngũ và phản công. Hai quan phụ chánh Nguyễn văn Tường và Tôn thất Thuyết thấy thất bại, vội pḥ vua Hàm Nghi ra Quảng trị. Việc hai ông Tường và Thuyết đánh Pháp, vua chẳng hay biết ǵ cả. Ông Tôn thất Thuyết sau khi đưa vua Hàm Nghi  đến Tân sở, Quảng trị, nhân danh vua ra một chiếu thư kể tội giặc Pháp và hô hào nhân dân cả nước chống Pháp. Chiếu thư nầy được gọi là ‘’Hịch Cần vương’’ (hết sức cứu viện vua), sau đó ông Tôn thất Thuyết đưa vua ra Quảng b́nh rồi ông trốn sang Trung hoa, c̣n ông Nguyễn văn Tường  ra đầu thú Pháp.

     Hịch Cần vương kêu gọi b́nh tây sát tả. B́nh tây th́  chẳng chống được giặc Pháp, c̣n sát tả th́ giết dă man tàn bạo vô số đồng bào ruột thịt theo đạo công giáo trên khắp nước. Hịch Cần vương được nhóm Văn thân, gồm thành phần thư lại, thân hào, hưởng ứng cuồng nhiệt, họ cho người trang bị giáo mác xông vào các làng công giáo vùng Cửa Tùng chém giết không nương tay bất kể nam phụ lăo ấu, đốt sạch nhà thờ và nhà giáo dân, vơ vét hết của cải thóc gạo áo quần, làm thịt hay dẫn đi tất cả trâu ḅ heo gà cuả giáo dân.

   Giáo dân nào may mắn thoát khỏi chém giết th́  chạy đến Tiểu chủng viện An ninh, tại đây, họ cùng nhau đào hào đắp lũy chống lại lũ người đang hăm he tấn công cướp của giết người ở Tiểu chủng viện. Toán quân của Văn thân đă mấy lần tấn công bằng hỏa mai đốt phá hàng rào để đột nhập, nhưng lực lượng bên trong kiên quyết cố thủ. Quân tấn công dần dần rút lui.

     Tháng 8 năm 1885, vua Đồng Khánh lên ngôi.

     Nước đă có vua, trật tự an ninh được văn hồi, giáo dân trở về nơi ở, giúp nhau chặt cây, cắt tranh làm lại tạm thời nhà ở và nhà thờ, gây dựng lại cơ nghiệp với nhiều lầm than gian khổ trong nhiều năm liên tiếp. Các giáo xứ dần dần ổn định và xây dựng lại cơ sở bằng gạch ngói như nhà thờ, trường giáo lư và khai tâm quốc ngữ,v.v...

     Theo tổ chức của Giáo phận Huế th́ các giáo xứ vùng Cửa Tùng được gọi là Giáo hạt ‘’Đất Đỏ’’ gồm có các giáo xứ sau đây: Di loan (Di luân),An ninh,An du tây, An du đông, An bằng, An lễ, An trí, An ngăi, Loan lư (Luân lư) và Hoà ninh. Hằng năm vào tháng 9 dương lịch, Giáo hạt tổ chức kiệu Đức Mẹ Mân-côi tại nhà thờ An ninh. Đoàn rước dài hàng cây số, thiếu nhi tung hoa, cờ phướn rợp trời, chuông đổ hồi, trống đại điểm nhịp, trống cà-rầng rập ràng như một bản nhạc tuyệt vời trổi lên giữa tiếng cầu kinh của hàng ngàn giáo dân.

     Đầu làng Vĩnh an có một ngôi chùa cổ, một vị tăng già trụ tŕ. Xóm nhà ở gần chùa gọi là xóm Chùa.

     Các làng An du đông, An du nam, Tân trại, Cổ trai đều có đ́nh thờ Thành hoàng và có tự điền, hằng năm thu hoa lợi ở đó mà lo việc tế Kỳ Phúc xuân thu nhị kỳ và giỗ Khai khẩn. Dịp nầy đ́nh làng trở nên náo nhiệt, cờ quạt phất phới, các chức sắc mặc áo rộng xanh xướng lễ trước hương án, chiêng trống rộn ră, tiếng sáo hoà đờn c̣ các bản cổ nhạc nam ai nam b́nh trầm bổng. Khi lễ tất, dân làng yến tiệc rất vui vẻ.

     Người Cửa Tùng hiền hoà, tiếng nói mang đặc điểm thổ ngữ miền bắc Trung phần Việt nam (Thanh hoá, Nghệ an, Hà tĩnh, Quảng b́nh, Quảng trị, Thừa thiên). Có một số ngữ ngôn cổ xưa như : ả (chị), cụ mự (cậu mợ), cơn (cây), cấy giôông (vợ chồng), cươi (sân), nác chiếng (nước giếng), ló chôống (lúa giống),eng ả (anh chị), nghin ngái (gần xa), ôông mụ (ông bà), roọng (ruộng), v.v...

Một mẫu đối thoại: Mùa ni tui có làm thêm một trào roọng, eng có ló chôống khôông, để cho tui ít thúng. (Mùa này tôi có làm thêm một sào ruộng, anh có lúa giống không, để cho tôi ít thúng).

-Eng qua bên cụ mự tui. (Anh qua bên cậu mợ tôi.)

-Từ đay qua đó nghin ngái (Từ đây qua đó xa gần)

-Đứng đay ngó chộ nị (Đứng đây trông thấy mà).

     Từ ngơ ngách trong các thôn xóm, thỉnh thoảng vọng lên giọng hát khoan thai, dịu dàng, truyền cảm của bà ru cháu, mẹ ru con theo điệu dân ca B́nh Trị Thiên:

     Ơ! à! ơ! chàng về thiếp một theo mây. Ơ! à! ơ! con thơ (mà) để lại  Ơ! à! ơ! chốn nầy ai nuôi.

     Ơ! à! ơ! chàng về th́ đục cũng về, ơ! à! ơ!  dùi cui ở lại, ơ! à! ơ! làm nghề chi đây?

     Ơ! à! ơ! gió đưa cây cải về trời. Ơ! à! ơ! cây rau răm ở lại, Ơ! à! ơ! chịu lời đắng cay.

     Ơ! à! ơ! Ru em! Ơ! à! ơ! em théc cho muồi, ơ! à! ơ! để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu. Ơ! à! ơ! mua vôi, ơ! à! ơ! th́ mua chợ Quán chợ Cầu, ơ! à! ơ! mua cau Nam phổ, ơ! à! ơ! mua trầu chợ Dinh. Ơ! à! ơ! chợ Dinh bán áo con trai, ơ! à! ơ! Mậu sơn bán vải, ơ! à! ơ! Mậu tài bán Kim.. Ơ! à! ơ! kim xa kim ở bên Tàu, chỉ xa Hà nội, ơ! à! ơ! gặp nhau t́nh cờ. T́nh cờ mà đáng nhân duyên, ơ! à! ơ! những nơi kết vấn thề nguyền bỏ đi,v.v...        

     Nơi thôn lương hiền hoà yên tĩnh ấy vẫn có những hoạt động chính trị âm thầm len lỏi trong dân chúng dưới thời Pháp thuộc. Một ít thân hào nhân sĩ địa phương kín đáo ủng hộ các nhà ái quốc Phan bội Châu, Ngô đ́nh Diệm và thỉnh thoảng bàn tán về Việt nam Quốc dân đảng. Cũng có một vài ông người Nghệ an, hoạt động chính trị, bị mật thám Pháp tầm nả, trốn đến Cửa Tùng, xin nhập làng An du bắc, đổi tên và cải họ Nguyễn.

     Một sáng mùa thu năm 1941, một lá cờ đỏ có h́nh búa liềm được treo trên một cây tre dài 3,4 mét cắm tại sân máy bay Cửa Tùng. Xă địa phương báo phủ Vĩnh linh, Phủ cho một thầy Kư về cùng với địa phương lập biên bản và hạ cờ. Kể từ đó, chính quyền cho lệnh mỗi làng phải lập điếm canh, cắt đinh tráng (đàn ông khỏe mạnh) tổ chức toán  ‘’Tuần đinh’’ trang bị bằng gậy gộc và dây buộc, hằng đêm tuần tiểu trong làng để giữ an ninh trật tự.

     Một đêm hè năm 1942, toán ‘’Tuần kiểm’’ của phủ Vĩnh linh gồm năm sáu người do thầy Ba dẫn đầu, tất cả đều đi bằng xe đạp, khi đến địa phận làng An du bắc vào khoảng 9 giờ tối, trăng sáng lờ mờ, toán Tuần đinh đang đứng ở điếm canh nh́n thấy biết là toán Tuần kiểm của Phủ, Tuần đinh hô to ‘’Ai đó, đứng lại’’ Toán Tuần kiểm khinh thường, tiếp tục đạp xe đi, Tuần đinh liền dùng gậy thọc bánh xe, Tuần kiểm xuống xe dùng roi da ḅ đánh Tuần đinh, Tuần đinh dùng gậy phang đầu Tuần kiểm, hai bên cận chiến vật lộn nhau, rồi mơ làng đánh gấp ngũ liên, chuông nhà thờ đổ hồi, dân chúng kéo tới hỗ trợ Tuần đinh đánh toán Tuần kiểm một trận nhừ tử.  Kể từ đó, cơ quan phủ huyện bớt thói hống hách với nhân dân địa phương.

     Tuy ở gần biển nhưng chỉ độ 5% cư dân sống theo ngư nghiệp. Vùng Cửa Tùng ruộng ít đất nhiều, đại đa số dân chúng theo nông nghiệp. Một số sản phẩm được xuất bán các nơi khác  như: muối  ăn, nước mắm, ruốc, cá, tôm hùm, mực khô, chè (trà) khô,hạt tiêu, tơ lụa, nón lá, tơi lá, khoai sắn khô, các đồ bằng mây tre,v.v...

     Có hai loại tiền tệ lưu hành song song trên thị trường địa phương: Tiền đồng h́nh tṛn giữa có lỗ vuông, một mặt trơn, mặt khác có bốn chữ hán, do vua phát hành, như: tiền Gia long, tiền Minh mạng, tiền Tự đức... Tiền đồng phát hành lần chót  ghi năm phát hành là ‘’Bảo đại nguyên niên’’. Lưu hành song song với tiền đồng là Giấy bạc Đông dương (dùng chung cho ba nước Việt Miên Lào) do Chính phủ Bảo hộ Pháp phát hành.  Bạc giấy Đông dương ngày càng mất giá nên dân chúng thích lưu trử tiền đồng cho đến ngày 1 tháng 8 năm 1954, ngày di cư vào Nam.

     Cách mạng tháng 8 năm 1945: một số người không rơ xuất phát từ làng nào, trang bị bằng gậy gộc, tới chiếm Nhà Dây thép (Bưu điện), Đồn Lính tập (lính khố xanh), cờ đỏ sao vàng cũng đồng thời xuất hiện tại hai nơi nầy. Mấy ngày sau, một cuộc mít-tinh (meeting) được tổ chức tại sân vận động Cửa Tùng, dân chúng tham dự khá đông, ba bốn cán bộ đứng trên ghế gỗ, tay cầm loa  thông báo ‘’Bảo đại thoái vị ... chống thực dân Pháp và quân phiệt Nhật ... dành chánh quyền lại cho nhân dân... Từ nay nước ta độc lập dưới sự lănh đạo của Chủ tịch Hồ chí Minh .... Tha hẳn thuế thân.... Khi nghe tuyên bố ‘’Tha hẳn thuế thân’’ dân chúng hoan hô nhiệt liệt, bởi ‘’Thuế thân’’ là loại thuế mà tất cả đàn ông đến tuổi, phải đóng hằng năm  cho Chính quyền Bảo hộ Pháp, ai không đóng sẽ bị h́nh phạt kềm kẹp tay chân đau khủng khiếp.

     Sau khi dành được độc lập, trong tiến tŕnh tiến tới thể chế dân chủ, các chính đảng công khai hoạt động, gây ảnh hưởng lôi cuốn nhân dân bầu cho người của đảng phái ḿnh vào quốc hội để có tiếng nói bày tỏ lập trường góp phần xây dựng đất nước. Trong tinh thần đó, Liên đoàn Công giáo cũng được thành lập với khối giáo dân Công giáo hạt Đất Đỏ. Một Ban Chấp hành Liên đoàn Giáo hạt được bầu ra để điều hành công việc.

     Cửa Tùng trong chiến tranh 1945-1954

     Trước khi quân Pháp tái chiếm Cửa Tùng, Uỷ ban Hành chánh Kháng chiến phủ Vĩnh linh cho lệnh đập phá toàn bộ cơ quan và nhà cửa của người Pháp, đốn sạch rừng dương liễu quanh băi tắm và phi trường Cửa Tùng, đào hào ngang dọc giữa sân bay để không cho máy bay đáp, cắm nhiều cây tre vạt nhọn trên sân bay để đề phóng quân nhảy dù, đào lỗ dọc theo bờ biển đặt ống tre lớn hướng mũi ra biển ngụy tạo súng đại bác để đánh lừa tàu chiến Pháp đang đậu ngoài biển.

     Đầu năm 1947, quân bộ Pháp từ Đồng hà tới Cửa Tùng không có tiếng súng giao tranh, thỉnh thoảng điểm vài tiếng hải pháo từ tàu thủy bắn vào. Bộ đội Pháp đóng 2 đồn, 1 tại làng Tân trại và 1 tại làng Vĩnh an, ngay trên hải khẩu, cạnh nhà Thừa lương của vua Bảo đại.

     Dần dần chánh quyền lâm thời địa phương được thành lập, các chánh phó tổng và hương lư chế độ quân chủ cũ trở lại làm việc. Lúc nầy đời sống yên ổn, kinh tế thịnh vượng , xe hàng mỗi tuần vài chuyến CửaTùng - Đồnghà - Huế.  Trường An du được xây mới mang tên trường ‘’Tiểu học An du’’ với 5 lớp (từ lớp năm đến lớp nhất), Nữ tu viện Di loan cũng mở một trường Tiểu học tại đầu làng Vĩnh an. Chợ Do chợ Cựa họp đông đúc. Đ́nh làng chiêng trống cờ quạt tiệc tùng linh đ́nh sôi nổi náo nhiệt mỗi lần tế Kỳ phúc cầu quốc thái dân an. Ba ngày tết mở hội ‘’Bài cḥi’’ tại chợ Do, nghe hô ‘’Ông Ầm, Ông Rún’’ ồn ào, ai tới th́ gơ mơ, đốt pháo, nhắp rượu và lănh thưởng. Muà hè có cuộc đấu vơ giữa các vơ sinh 2 ḷ  của 2 vơ sư, 1 của ông Túy (Di loan) và 1 của

 ông Hiếu (Tùng luật). Nghe các Cụ nói vào thập niên 1920-1930 có ông Nguyễn văn Bổn, người làng An du bắc, giáo xứ Hoà ninh, là người vơ nghệ cao cường, ông có mở ḷ dạy vỏ và thanh trừng bọn cướp trong vùng.

     Cảnh thái b́nh chỉ ngắn ngủi vài năm trong thời gian lực lượng Việt minh rút vào mật khu để kháng chiến chống Pháp.

     Kể từ mùa thu năm 1949 t́nh h́nh an ninh trở nên bất ổn. Khởi đầu với vụ ông Chánh tổng bị giết ngay tại sân nhà ở làng An du nam. Một thời gian sau, một số thân hào làng An du bắc bị bắt mất tích, ông Lư trưởng (Xă trưởng) làng An du nam bị ám sát.  Kể từ  đây, các Cán bộ của Liên đoàn Công giáo, Chánh Phó tổng, Hương lư và các nhân sĩ trong vùng đều đi ngủ chui ở nhà bà con hay bạn bè để tránh khỏi bị bắt cóc hay ám sát. Về phía Cán bộ Việt minh cũng bị đồn Pháp bắt giết như anh Đinh (làng Tùng luật), ông Thuận (làng An du nam), ông Mậu (Giáo xứ An bằng), ông Diêm (làng An du đông).

     Một buổi sáng mùa hè năm 1949, một toán tuần tiểu của đồn Cửa Tùng do một sĩ quan Pháp chỉ huy với 10 lính người Việt, bị phục kích tại sân banh Tiểu chủng viện An ninh. Mấy người lính chạy thoát được vào làng An ninh, c̣n vị Sĩ quan Pháp  bị thương được quân phục kích băng bó và đem gửi trong Tiểu chủng viện. Đêm đó, họ tấn công đồn Cửa Tùng nhưng không chiếm được. Sáng hôm sau, viện binh Pháp giải tỏa áp lực địch và đưa sĩ quan bị thương đi bệnh viện.

     T́nh h́nh an ninh ngày càng bất ổn, dân chúng sống trong lo sợ dưới áp lực của 2 phía,  ngày th́ lính Pháp, đêm th́ Việt minh.

     Do nhu cầu chiến sự, quân bộ Pháp rút lính các đồn để  thành lập các đơn vị lưu động, hai đồn Cửa Tùng và Tân trại được giao cho Bảo vệ quân Việt nam trấn giữ. Các làng Công giáo cũng tổ chức ‘’Đoàn Hương vệ’’ trang bị bằng súng trường mousqueton và lựu đạn, xây đồn đắp lũy để tự bảo vệ xóm làng. Nhờ vậy xóm làng được yên ổn và vùng Cửa Tùng trở thành nơi tạm gọi là an toàn, giúp cho những người ở ngoài vùng đang lo sợ đến tính mạng đến đây ẩn náu. (Một chút hồi tưởng: Năm 1885, khi quân của Văn thân chém giết dă man đồng bào theo đạo Công giáo, một số giáo dân đă chạy đến các làng lương và được các người lương che chở khỏi bị sát hại. Thảm cảnh giết tróc  lại tái diễn với chu kỳ 60 năm (1885-1945), các biến cố chính trị xảy đến, một số anh em bên lương cũng đă đến ẩn náu trong các gia đ́nh ở khu vực Công giáo để được bảo toàn tính mạng).

     Hiệp định Genève:  Nỗi đau của Đất Nước, Nỗi niềm  của Di Dân:

     Sau khi chiếm được Trung quốc, Chính phủ Bắc kinh viện trợ ồ-ạt cho bộ đội Việt minh chống Pháp. T́nh h́nh chiến sự trở nên khốc liệt. Do áp lực quốc tế, cả hai phía Pháp và Việt minh đều muốn chấm dứt chiến tranh và giải quyết vấn đề Việt nam theo phương cách hoà b́nh. Một cuộc họp tứ cường gồm Anh, Pháp, Mỹ và Liên xô  ngày 18-2-1954 đă đưa ra quyết định mở hội nghị Genève vào ngày 26-4-1954 để giải quyết vấn đề Triều tiên và Đông dương trong hoà b́nh.

     Để gây áp lực tại hội nghị, Việt minh tấn công mạnh, Điện biên phủ thất thủ vào ngày 7-5-1954. Ngày 26-5-1954, Pháp và Việt minh đồng ư ngưng bắn và rút quân về các khu chỉ định.

     Tại hội nghị Genève, Pháp và Việt minh đồng ư chia cắt lănh thổ Việt nam. Phía Việt minh đ̣i chia ở vĩ tuyến 13 (sông Đà Rằng, Tuy hoà), sau đó đ̣i chia ở vĩ tuyến 16 (Đà nẵng). Ngày 12-7-1954, Thủ tướng Trung hoa Chu ân Lai và Thủ tướng Pháp Mendès France thỏa thuận lấy vĩ tuyến 17  (sông Bến hải, bắc Quảng trị) và ngưng bắn theo lịch tŕnh như sau :

     27-7-1954 : ngưng bắn tại Bắc Việt.

     01-8-1954 : ngưng bắn tại Trung Việt.

     11-8-1954 : ngưng bắn tại  Nam Việt.

                 (Theo tài liệu Hiệp định Genève)

      Thời bấy giờ thiếu phương tiện thông tin nên  đa số người  Cừa Tùng không hay biết ǵ về Hội nghị Genève và Hiệp định Đ́nh chiến.

     Việc di cư đă đến với dân chúng quá đột ngột. Thoạt tiên, có tin cụ Ngô (Ngô đ́nh Diệm) về nước chấp chánh. Giới thân hào nhân sĩ và hương lư lâu nay ngưỡng mộ cụ Ngô, mặt khác, v́ sợ Việt minh, nên dự định di cư cá nhân hay gia đ́nh, để tài sản lại cho bà con, bạn thân, xóm giềng... Họ chưa kịp thực hiện dự tính ấy th́ có tin hai đồn Cửa Tùng và Tân trại rút, các đoàn Hương vệ giải tán, giao nộp vũ khí cho đồn Cửa Tùng. Dân chúng hoang mang, dao động và cảm thấy sợ hải. Các Linh mục trong hạt cũng muốn cho giáo dân có được cuộc sống yên ổn trong một xă hội an b́nh, tự do nên cũng giúp hướng dẫn giáo dân di cư vào Nam.

     Di dân ra đi trong thương tiếc quê hương làng xă, nhà cửa, vườn tược, ruộng đất, mồ mă tổ tiên, thánh đường, đ́nh chùa, lăng miếu, trường học,v.v... Qua nhiều trăm năm kiến công lập nghiệp của tiền nhân, nay đành chịu bỏ đi.

     Năm 1558, Tổ Tiên người Cửa Tùng đă ĺa bỏ quê hương Thanh hoá, Nghệ an, theo chúa Nguyễn di cư xuống phía nam đến định cư tại Quảng trị để tránh một cuộc chiến tranh kéo dài trên 50 năm giữa Bắc triều của nhà Mạc vùng Bắc bộ và Nam triều của chúa Trịnh từ Thanh hoá trở vào. Đây là một cuộc nội chiến ác liệt giữa hai tập đoàn phong kiến, nạn nhân trực tiếp của cuộc nội chiến ấy là nhân dân, cả hai phe dùng mọi thủ đoạn vơ vét nhân, tài, vật lực của nhân dân để phục vụ cho chiến tranh.

     Năm 1954, người Cửa Tùng cũng rời bỏ quê hương đi về phía nam để t́m một cuộc sống an b́nh, tự do  và dân chủ.

     Đoàn di dân đầu tiên khởi hành ngày 01 tháng 8 năm 1954 (nhằm ngày 3 tháng 7 năm Giáp ngọ) là ngày ngưng bắn tại Trung Việt. Các đoàn khác đi vào các ngày kế tiếp. Đa số di dân đều chọn định cư ở những vùng đất gần thị xă Quảng trị như An đôn, La vang chính, La vang trung, La vang tả, La vang hữu, La vang thượng. Các làng di cư nầy, một lần nữa, phải di tản v́ chiến sự ‘’Mùa hè đỏ lửa 1972’’ và phân tán đến nhiều địa phương khác trên lănh thổ miền Nam nước ta và sau biến cố tháng 4 năm 1975, nhiều người gốc Cửa Tùng đă đến định cư tại nhiều nước trên thế giới như Hoa kỳ, Canada, Úc, Tân tây lan, Pháp, Nhật, Anh, Đức, Ư, Hoà lan, Thụy điển, Đan mạch... Riêng giáo xứ Loan lư (Luân lư) được linh mục Phan văn Cơ hướng dẫn đến định cư tại Lăng-cô, dọc quốc lộ 1, trên một vùng cát trắng ven biển, gần chân đèo Hải vân tỉnh Thừa thiên. Giáo xứ Loan lư vẫn tồn tại trọn vẹn cùng với kỷ vật ‘’Quả chuông đồng và Bàn thờ cổ chạm trổ rất công phu’’ được giáo dân đem từ Cửa Tùng vào. Hiện nay, một ngôi thánh đường khang trang vừa được xây xong thay cho ngôi nhà thờ cũ. Nay toàn xă Lăng cô đă trở thành ‘’Thị trấn Lăng cô’’, có điện, khu du lịch, băi tắm, khách sạn, pḥng trọ, cửa hàng, tiệm vàng, tiệm thuốc tây, hảng nước đá, chợ, trường học...  Con đường hầm xuyên đèo Hải vân nối liền Đà nẳng - Lăng cô - cảng Chân mây giúp kinh tế địa phương phát triển.

     Tất cả người Cửa Tùng ở lại (không di cư) đều phải sơ tán đến các tỉnh Quảng b́nh, Hà tĩnh, Nghệ an để tránh bom đạn thời chiến và hồi cư sau khi hoà b́nh đă văn hồi trên toàn lănh thổ Việt nam. Tất cả 10 nhà thờ của 10 giáo xứ và các đ́nh, chùa, tu viện, tiểu chủng viện đều bị bom san bằng.

     Tháng 5 năm 1989, trở về thăm quê cũ, Cửa Tùng c̣n đậm nét thê lương.

     Mùa thu năm 2004, đúng 50 năm xa quê, tôi trở về thăm cố hương lần nữa, Cửa Tùng đă hồi sinh, tuy chưa bằng thuở trước nhưng sức sống đang vươn lên với nhiều triển vọng. Xe đưa tôi từ Huế, Đồng hà, Gio linh, xuống Ba dốc, qua cầu Bến hải, rẻ phải vào tỉnh lộ, qua làng Liêm công  đến hết làng Tân trại có dựng một bảng lớn ‘’Làng An du nam’’, đi tiếp đến ngả ba vào chợ Do cũ, cũng dựng một bảng lớn ‘’Làng An du đông’’, vườn Tiểu chủng viện An ninh nay được chia lô làm nhà ở, vùng đất đỏ Hoà-ninh Di-loan, vườn mít, chè, tiêu, cam, quít, chuối...xanh tốt. Tại vườn nhà thờ Di loan, một ngôi trường học 2 gian mới xây, tường gạch mái ngói, cửa lá sách sơn nâu, mái hiên đúc với hàng chữ nổi ‘’Trường Mầm non Di loan’’. Đi tiếp về phía Loan lư cũ, người sơ tán hồi cư nay đă xây nhà gạch, vườn tược xanh tươi. Gần bờ biển, một số nhà gạch mái ngói ẩn khuất trong những vườn cây lưu niên. Sát băi biển, năm sáu quán ăn với thực đơn đặc sản Cửa Tùng như tôm hùm, mực cơm, mực nang, mực thước, cá mú ...

Du khách ngồi ăn chỉ cách bờ sóng vỗ vài chục thước, những làn sóng bạc đầu từ xa cuốn vào bờ, tỏa nhẹ lên băi cát trắng mịn tạo âm thanh ‘’ầm ầm’’, hơi nước bốc lên tựa làn sương mỏng quyện với gió lùa vào pḥng ăn,  thực khách cảm thấy mát rượi, thoải mái và ngon miệng.

     Biết bao giờ Cửa Tùng lấy lại phong độ ngày trước, ngày mà Cửa Tùng được xem là thắng địa thắng cảnh của Đất Nước, là vùng trù phú trù mật cuả Vĩnh linh.

     Cụ Thượng thư Nguyễn hữu Bài đă đề cảnh Cửa Tùng qua bài thơ sau đây:

     Hóng mát chiều hôm dạo cảnh chơi, 

     Trông vào băi cát, ngó ra khơi.

     Núi bông trắng xát bao Cồn Hến,

     Ḥn Cỏ xanh dờn thẳng Trôốc Voi.

     Phất phưởng đầu gành hơi gió thổi,

     Long lanh mặt nước bóng trăng soi.

     Hỏi thăm ông Tạo khi nào rảnh

     Lấp biển, dời non dễ thử coi.

     Cố Bác sĩ Phan văn Hy đến thưởng ngoạn Cửa Tùng năm 1936 đă cảm đề bài thơ ‘’Vịnh Cửa Tùng’’ như sau:

     Qua Cửa Tùng chơi bóng xế chiều,

     Cảnh Thừa lương trước ngó buồn thiu.

     Năm xưa Bến Ngự đôi gềnh đá,

     Dấu cũ sân chầu mấy cụm rêu.

     Quyên gọi luống đau ḷng cố quốc,

     Tùng reo như nhắc chuyện Tiền Triều.

     Cuộc đời dâu bể nh́n thêm ngán,

     Nhớ Chúa thương ai ruột chín chiều.

     Tôi xót xa mỗi lần hoài cảm cố hương và càng xót xa hơn, ḷng rạo rực bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người, khi viết về Cửa Tùng.