NHẠT NH̉A

 TRÊN NỬA THẾ KỶ

HÙNG TÂN


 

 

           Ngày tôi đặt chân đến “NHÀ TRƯỜNG AN-NINH” lần đầu tiên vào giữa NĂM THÁNH 1950, tính đến nay đă trên nửa thế kỷ. Đó là nơi mà xưa kia THÁNH TÔMA THIỆN trên đường đi tới đó đă được diễm phúc tử đạo và cũng là nơi mà Đức cố H̉ÂNG Y NGUYỄN-VĂN-THUẬN đă trải qua thời thanh xuân tám năm tu học. Những ǵ c̣n lại trong trí nhớ của tôi về mái trường thân yêu đó nay chỉ là một mớ kỷ niệm “nhạt nḥa qua lớp bụi thời gian” kéo dài trên năm thập niên. Mái trường đó ngày nay cũng chỉ c̣n lại trong kư ức những người đương thời mà thôi, v́ thựïc tế đă đổi thay theo "cuộc hí trường", nằm trong định luật "dâu bể".

 

Hồi đó tôi là một tiểu chủng sinh trên mười tuổi, được cho "đi tu học" để trở thành linh mục. Tôi vốn sinh trưởng ở một họ đạo bên gịng SÔNG HƯƠNG, cách kinh thành HUẾ độ bảy cây số. Sau khi được gia đ́nh đưa tiễn trên một con thuyền nho nhỏ xuôi gịng sông Hương, tôi đă theo chân đám chủng sinh chen chúc trong một va-gông xe lửa di chuyển trên CON ĐƯỜNG BẮC NAM từ kinh đô HUẾ đến ga QUẢNG-TRỊ, với bao nỗi phập phồng lo âu, v́ có thể bị ḿn nổ tung xe lửa trên CON ĐƯỜNG XUYÊN VIỆT. Đó là con đường song hành với ĐẠI LỘ KINH HOÀNG trong MÙA HÈ ĐỎ LỬA vào năm 1972. Lần đầu tiên trong đời, vào giữa năm 1950, từ một va-gông xe lửa đang chạy, tôi được ngắm nh́n đền thờ ĐỨC MẸ LAVANG thấp thoáng xa xa, khi mờ khi tỏ, khi ẩn khi hiện.

 

Đoạn đường chót khá vất vả và cũng đầy lo âu là khi chúng tôi phải di chuyển từ thành phố THẠCH HĂN qua ĐÔNG-HA Øđể đến miền GIO-LINH. Đó là miền ĐỊA ĐẦU GIỚI TUYẾN vào thập niên 1970 khi chiến tranh QUỐC CỘNG trở nên ác liệt. Sau khi vượt qua cầu HIỀN LƯƠNG nối hai bờ SÔNG BẾN HẢI là nơi mà đất nước VIỆT-NAM bị chia đôi vào giữa năm 1954, chúng tôi về vùng đất AN-NINH, gần băi biển CỬA TÙNG. Khi đặt chân đến “NHÀ TRƯỜNG AN-NINH” vào đầu thu 1950, bước qua cổng gạch với đôi cánh cửa sắt kiên cố mà tứ bề được bao bọc bằng lũy tre dày đặc kín mít, tôi có cảm tưởng như vào sống trong một tu viện khép kín. Đời chủng sinh lúc bấy giờ được thu hẹp lại trong bốn dăy nhà nằm vuông vức đối diện nhau trong một khu vườn cũng vuông vức được bao bọc bởi một lũy tre khá kiên cố. Đây là pháo đài xưa kia dùng làm nơi ẩn náu cho những giáo hữu trong cơn bách hại bị đám VĂN THÂN vây hăm.

 

Kể từ năm 1952, chiến tranh VIỆT-PHÁP đến hồi quyết liệt. V́ vậy chúng tôi phải rời bỏ “NHÀ TRƯỜNG AN-NINH” để dời vào tu học ở CHỦNG VIỆN KIM-LONG, PHÚ XUÂN và hai năm sau được chuyển về tiếp tục học ở THIÊN-HỮU HỌC ĐƯỜNG, nơi mà sau nầy ngay bên cạnh đă mọc lên CHỦNG VIỆN HOAN-THIỆN mà tôi chỉ được nghe tên nhưng chưa nh́n thấy bao giờ (“văn kỳ thanh bất kiến kỳ h́nh”).

 

Thời gian tôi rời chủng viện vào năm 1956, tính đến nay đă trên bốn thập niên. Gót chân lăng tử của tôi đă phiêu bạt giang hồ khắp các tỉnh MIỀN NAM VIỆT-NAM, rồi BẮC MỸ và ÂU Á. Nay dừng chân phiêu lăng, nh́n lại đoạn đường quá khứ, tôi vẫn cảm thấy tiếng Chúa hằng ngày thổn thức trong tâm hồn.

 

Tôi chẳng khác ǵ "một con cá sống ở đại dương luôn luôn khắc khoải t́m kiếm và ngày kia đă hỏi một con cá khác: ‘Xin lỗi bác, bác già hơn cháu, hẳn bác có thể nói cho cháu biết t́m thấy ở đâu cái mà người đời thường gọi  là Đại Dương?

Cá già nói: “Đại Dương là cái mà cháu đang lội trong đấy!”

"Cái nầy ư? Nhưng chỉ là nước thôi mà. Cái mà cháu t́m kiếm là Đại Dương kia.’ Con cá bé tí rất thất vọng đă nói như thế rồi lội đi xa t́m kiếm ở nởi khác"

(Trích chuyện "Chú Cá Bé Tí" trong sách "Như tiếng Chim Ca" của cha Anthony de Mello. Bản dịch của Đỗ Tân-Hưng và Trần Duy-Nhiên).

 

Nhưng rồi tôi đă nghe theo lời chỉ bảo của cha De Mello : Chú cá bé tí ơi, đừng đi t́m kiếm mất công. Không có ǵ để kiếm t́m cả. Tất cả những ǵ chú phải làm là mở mắt ra mà xem thôi.

Và tôi đă mở mắt ra để thấy Chúa trong cuộc sống hằng ngày, cuộc sống của những người giàu sang cũng như bất hạnh, cuộc sống của những người sống trong nệm ấm chăn êm hay đầu đường xó chợ.

 

Cuối cùng tôi muốn làm "một con búp bê bằng muối đă vượt xa ngàn dặm và ngày kia dừng chân nơi bờ biển.
Búp bê mê mẩn khi thấy khối nước bao la chuyển động, hoàn toàn khác với những ǵ đă thấy từ trước đến giờ.
Búp bê bằng muối hỏi biển: ‘Bạn là ai vậy?’
Biển cười đáp: ‘Em hăy vào trong nước của tôi rồi em sẽ thấy.’
Và rồi con búp bê đă lội xuống biển. Càng xuống sâu bao nhiêu nó càng tan ră bấy nhiêu cho tới khi chỉ c̣n lại một nhúm nhỏ. Trước khi hạt muối cuối cùng tan ră, búp bê la lên, hết sức kinh ngạc: ‘Giờ đây tôi mới biết tôi là ai’"

(Trích chuyện "Búp Bê Bằng Muối", trong sách đă trích dẫn).

 

Bao lâu tôi vẫn là tôi và Chúa vẫn là Chúa th́ tôi với Chúa vẫn xa cách. Ngày mà tôi lấy hết can đảm như con búp bê bằng muối dám mạo hiểm trầm ḿnh xuống Đại Dương th́ ngày đó tôi mới biết tôi là ai và Chúa là ai (“ut me videam ut Te videam” – để cho con thấy con, để cho con thấy Chúa).

 

Cuối cùng lá rụng về cội...nước về nguồn . Xin để tâm hồn lắng đọng, cùng nhau suy niêm bài Thánh vịnh sau đây:

 

“Lạy Chúa, Ngài ḍ xét con và Ngài biết rơ,

Biết cả khi con đứng con ngồi.

Con nghĩ tưởng ǵ, Ngài thấu suốt từ xa,

Đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét,

Mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả.

Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời,

Th́ lạy Chúa, Ngài đă am tường hết.

Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước,

Bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con.

Kỳ diệu thay, trí thức siêu phàm,

Quá cao vời, con chẳng sao vói tới!

Đi măi đâu cho thoát thần trí Ngài,

Lẩn nơi nào cho khuất được Thánh Nhan?

Con có lên trời, Chúa đang ngự đó,

Nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài.

Dù con chắp cánh bay từ phía hừng đông xuất hiện

Hay biệt cư nơi chân trời góc biển phương tây,

Th́ vẫn tay Ngài đưa đường dẫn lối

Tay phải Ngài nắm dắt con đi

Con tự nhủ: ‘Ước ǵ bóng tối bao phủ tôi

Và ánh sáng quanh tôi thành đêm tối!’

Nhưng đối với Ngài, tối tăm chẳng có chi mù mịt,

Và đêm đen sáng tỏ như ban ngày,

Bóng tối và ánh sáng cũng như nhau

……

Lạy Chúa, xin ḍ xét dể biết rơ ḷng con,

Xin thử con cho biết những điều con cảm nghĩ.

Xin Ngài xem con có lạc vào đường gian ác

Th́ dẫn con theo chính lộ ngàn đời.”

 

( Thánh Vịnh 139, 1 – 12, 23-24 )

 

 

(NHÂN LỄ THÁNH TÔMA THIỆN, CHỦNG-SINH TỬ ĐẠO VÀ NGÀY AN TÁNG ĐỨC CỐ HỒNG Y  PHANXICÔ XAVIE NGUYỄN-VĂN-THUẬN)