Ḍng Sư huynh La San ở Việt Nam

 

 

ĐHN , Oakland, CA ghi lưu

 

 

 

A. Lược sử

 

1-  Thời kỳ mở đầu

 

Năm 1892, Pháp chiếm sáu tỉnh miền Nam và thiết lập chế đô thuộc địa ở trên phần đất này. Chánh quyền Pháp rất cần thông ngôn để làm trung gian giữa các quan cai trị người Pháp và dân thuộc địa. Muốn có người đi học làm thông ngôn, chánh quyền Pháp cần mở trường để dạy tiếng Pháp và tiếng Việt (chữ quốc ngươ) cho trẻ em, để chuẩn bị một đội ngũ có thể vào học trường thông ngôn. V́ thế, khoảng cuối năm 1865 có sáu Sư huynh rời Toulon sang Việt Nam. Khi đến Sài g̣n vào đầu năm 1866 các Sư huynh đaơ bắt tay ngay vào việc điều khiển trường Trung học Adran (Collège d'Adran) (1) vốn đă được các linh mục thuộc Hội Thừa sai mở ở Sài g̣n từ năm 1861. Mọi chi phí ăn ở, giảng dạy (trường sở, tập sách và trợ huấn cụ) của các Sư huynh và học sinh đều do Hội Thừa sai đài thọ. (Xin xem Nguyễn văn Trung để biết thêm v́ sao Pháp dạy chữ quốc ngữ).

 

V́ dạy tiếng Việt (chữ quốc ngữ) mà không dạy chữ nho nên việc dạy học của các Sư huynh có kết quả rất tốt. Nhiều nơi như Chợ Lớn, Mỹ tho đă xin mở trường vào năm 1867, rồi Vĩnh Long và Sóc trăng, vào năm 1869. Chánh quyền Pháp ở thuộc địa đă tài trợ phần nào các trường mới mở và cấp học bổng cho học sinh. Nhưng đến năm 1879, chánh quyền ở Pháp thay đổi chánh sách với các trường tư. Chánh quyền thuộc địa ngưng cấp học bổng và không tài trợ nữa. Trường Adran phải đóng cửa vào khoảng 1887.

 

Vào năm 1873, linh mục Kerlan có mở một trường nghĩa thục dạy các trẻ bị bỏ rơi, trong số đó có nhiều trẻ lai. Trường được gọi theo tên Giám mục Taberd, giám mục địa phận Nam Việt từ 1830 đến 1840. Khi trường Adran đóng cửa, cha mẹ học sinh trường này đem con đến theo học trường Taberd. Linh mục Kerlan thấy không đủ sức lo cho nhương học tṛ mới liền mời các Sư huynh Ḍng La San trở qua giúp ông. Năm 1889 có chín Sư huynh từ Marseille qua. Năm sau đó, các Sư huynh tiếp nhận trường Taberd, lúc đó có khoảng 160 học sinh mà một nửa ở nội trú. Số học tṛ theo học tăng nhanh, nên năm 1891 có thêm năm Sư huynh theo qua, mở thêm một trường nghĩa thục nằm ngay cạnh trường Taberd. Các Sư huynh lại mở thêm một chi nhánh ở Vũng tàu. Do sự sắp xếp của linh mục Kerlan, Hội Thừa sai gánh chịu trách nhiệm tài chánh đối với những trường do các Sư huynh điều hành và giảng dạy.

 

Năm 1894, hai Sư huynh ra Hà nội mở trường. Số học sinh tăng lên rất nhanh. Giám mục Hà nội là Gendreau phải mua một thửa đất rộng hơn để xây cất trường mới. Trường được khánh thành năm 1897, có 400 học sinh, và được đặt tên là Trường Puginier, tên vị Giám mục tiền nhiệm. Trước đó, vào tháng 1 năm 1896, các Sư huynh ở Đông Dương được tách ra khỏi Tỉnh Ḍng Ấn độ để thành lập Tỉnh Ḍng Sài g̣n.(2) Năm 1897, trường Taberd được mở rộng thêm. Năm 1898, Ḍng mở trường đào tạo thày giáo ở Thủ Đức, cạnh tiểu chủng viện đă được mở năm trước đó nhằm đào tạo các Sư huynh tương lai cho Ḍng.

 

2- Thời kỳ khuếch trương và củng cố

 

Đến thời điểm này, Ḍng La San ở Việt nam đă có sáu trường, 76 Sư huynh, 17 người tập sự học ở nhà tập sư phạm, và 6 chủng sinh. Chánh quyền Pháp ở Đông Dương đă ngưng yểm trợ các nhà trường và không tài trợ cho Ḍng nươa. Tuy thế, các Sư huynh đă không ngừng nghỉ, lại phát triển các công tác giảng dạy của Ḍng.

 

Năm 1904, mở trường Pellerin (sau này gọi là trường B́nh Linh) ở Huế;

 

Năm 1906, trường St. Joseph (Thánh Giuse) ở Hải pḥng và trường Ḍng ở Battambang (Cao mên);

 

Năm 1908, mở trường St. Joseph (Thánh Giuse) ở Mỹ tho;

 

Năm 1911, mở trường Miche ngay trong thủ đô Nam vang của Cao mên.

 

Năm 1924, mở trường Thomas d'Aquin ở Nam định;

 

Năm 1932, trường Thánh Louis ở Phát Diệm và trường Gagelin ở B́nh Định.

 

Đến năm 1933 lập ra Nhà tập (gồm tiểu chủng viện và chủng viện) ở Nha trang, tọa lạc trên đồi La San, hết sức yên tĩnh.

 

Năm 1934, lập ra "nhà tập sự" (probatorium) ở Bùi Chu và

 

Năm 1941, thành lập trường Adran ngay bên rừng Ái ân, Đà lạt. Ngoài ra c̣n trường La San Đức Minh ở Tân Định, trường La San Kỹ thuật ở Đà lạt, và trường Bá Ninh (tên Á thánh Bénilde) ở Nha trang không rơ là được mở vào nhương năm nào. Riêng trường Thánh François Xavier (Phanxicô Xaviê) ở Sóc trăng, không rơ có phải đă được mở từ năm 1869 không.

 

Vào năm 1955, tất cả các trường La San ở miền Bắc được chuyển vào Nam, học sinh các trường này tùy vị trí định cư mà theo học các trường đang có trong Nam. Riêng học sinh các trường Puginier ở Hà nội, trường Thánh Giuse ở Hải pḥng được theo học ở trường Taberd, Saig̣n.

 

Năm 1956, mở trường La San Kim Phước ở Kontum;

 

Năm 1957, trường La San B́nh Lợi ở Qui nhơn;

 

1958, La San Ban Mê Thuột. La San Nghĩa Thục ở góc đường Nguyễn Thông và Yên Đổ, Sài g̣n dường như cũng được mở vào năm này. Trường này thâu học phí rất hạ, dành cho trẻ em nghèo. Chi phí trường được các Sư huynh trường Taberd dùng học phí thu ở Taberd, giúp đỡ. Tại trường La San Nghĩa thục cũng có các lớp tối, do Đoàn Thánh Mẫu Sinh Viên trường Taberd cắt cử các sinh viên năm thứ ba các trường Đại học ở Sàig̣n đảm trách việc giảng dạy. Cũng giống như La San Nghĩa thục là trường La San Chánh Hưng và các trường thâu học phí thật nhẹ như Xóm Bóng ở Nha trang, Tuk Lak ở Nam Vang, và Phú Vang ở Huế.

 

Đến cuối thập niên 1960, v́ chiến tranh, thiếu thày giáo, trường Taberd và một số trường khác phải nhờ các nữ giáo sư có Cử nhân giáo khoa (3) hay đă được Bộ Giáo dục công nhận, đảm nhận việc giảng dạy trong nhiều lớp học.

 

Các trường La San không ngừng phát triển, cùng nâng cao phẩm chất đào tạo.

 

Vào đầu năm 1975, Ḍng La San ở Việt nam đă có 300 Sư huynh, và khoảng 15 chủng sinh. Ngoài các trường học, Ḍng c̣n có Trang trại Mai thôn ở bên kia cầu sắt Thanh Đa, để các Sư huynh lớn tuổi về hưu dưỡng ở đây, và cũng là nơi để các Hội đoàn cấm pḥng. Các Sư huynh điều khiển 23 trường gồm từ tiểu học đến trung học và kỹ thuật, có trường c̣n có nội trú, và một trung tâm dạy trẻ em mù cùng một trường đào tạo giáo chức. Học sinh phần lớn là người Việt cùng một số thuôc các sắc dân thiểu số. Trong các trường do nhà Ḍng quản lư, học sinh ngoài giờ học văn hóa và thể dục, c̣n tham gia các hoạt động Công giáo Tiến hành (Action catholique), qua các đoàn thể như Thanh Sinh Công (JEC), Hiệp hội Thánh mẫu ở cấp trung học, Hùng tâm và Nghĩa sĩ Chúa Hài đồng ở cấp tiểu học.

 

Từ 1961, Hiệp hội Thánh mẫu Taberd có thêm Đoàn Thánh Mẫu Sinh viên (do SH Adrien tổ chức), tham gia hoạt động trong khuôn khổ Công giáo Tiến hành với Tổng hội Sinh viên Công giáo Sài g̣n.

 

Trong những năm đầu thập niên 1970, SH Théophile đưa học sinh Taberd các lớp 9 và 10, hằng tuần đi thăm viếng các khu lao động nghèo, hớt tóc cho các em nhỏ và phát thuốc cho những người đến khám bệnh ở những trạm chẩn bệnh miễn phí như ở La San Chánh Hưng (theo toa các bác sĩ và các sinh viên y khoa). Sư huynh Vincent phụ trách dạy các học sinh lớp 9 và 10, một số nghề như chụp h́nh, rửa ảnh, sửa radio ...

 

3- T́nh trạng các trường học công và tư ở Việt Nam trong thời gian này

 

Đến đây xin được nói sơ qua về các trường học ở Việt Nam thời đó. Trong suốt thời gian này, xaơ hội Việt nam trải qua nhiều thay đổi và xáo trộn, nhưng việc học vấn được thực hiện trong chiều hướng thuận lợi cho đại đa số người Việt. Trong những năm giữa hai Thế chiến, đă có rất nhiều trường Tiểu học và Trung học trên hầu hết ba miền Nam, Trung, và Bắc. Sau Đại chiến thứ Hai, các trường tiếp tục sinh hoạt, và hầu hết ở các tỉnh và thành phố, đều có những trường công lập cũng như tư thục với đội ngũ giáo chức tận tâm dạy dỗ, và học tṛ lễ phép, siêng học trong tinh thần kỷ luật cao.

Tại Sài g̣n đaơ có các trường công lập danh tiếng như Pétrus Kư dành cho nam sinh, Gia Long, dành cho nữ sinh, c̣n có các trường tư thục Chấn Thanh, Lê Bá Cang, Vương gia Cần ... dạy nhiều về chương tŕnh Việt. Các trường dạy chương tŕnh Pháp như Chasseloup-Laubat (sau đổi tên là Jean Jacques Rousseau, sau cùng là Lê Quư Đôn), Marie-Curie cùng Colette và Saint-Exupéry đều do chính phủ Pháp đài thọ mọi chi phí. Ngoài hai trường La San đă ghi ở trên, c̣n có các trường Couvent des Oiseaux, Regina Pacis, Regina Mundi, Thiên Phước ... dành cho nữ sinh, thuộc nhóm các trường Công giáo. Trường Nguyễn Bá Ṭng dạy cả nam lẫn nữ do giáo hội Công giáo điều khiển. Lyceum Cửu Long và Les Lauriers là hai tư thục dạy chương tŕnh Pháp. Ở gần trường Pétrus Kư có trường Bác Ái (Collège Fraternité) dạy chương tŕnh Pháp và Việt cho học sinh phần đông là con em người Hoa. Các tư thục Huỳnh Khương Ninh, Huỳnh thị Ngà dạy cả nam lẫn nữ. Hai trường Nguyễn Trường Tộ (trung học đệ nhất cấp) và Cao Thắng (trung học đệ nhị cấp) là trường công lập kỹ thuật.

Mỹ tho có trường Nguyễn Đ́nh Chiểu

Cần Thơ có trường Phan Thanh Giản là những trường công lập rất có uy tín được lập từ lâu.

Sau 1955, hai trường công lập danh tiếng ở Hà nội là Chu văn An (nam sinh) và Trưng vương (nữ sinh) dời vào Sài g̣n. Gia định có hai trường công Hồ ngọc Cẩn (nam sinh) và Lê văn Duyệt (nữ sinh), học sinh xuất sắc không thua ǵ các trường công lập lớn ở Sài g̣n và có trường Don Bosco dạy nghề cho thanh thiếu niên nghèo.

Trường Vơ Tánh ở Nha Trang, hai trường Quốc Học và Đồng Khánh ở Huế, cùng với trường Sư phạm Qui nhơn đều là những trường có tiếng dạy giỏi.

Ở Đà lạt có Lycée Yersin của Pháp, Couvent des Oiseaux dạy nữ sinh do các nữ tu công giáo, ngoài các trường Ḍng La San ghi trước.

Hai trường Bưởi và Albert Sarrault c̣n ở lại Hà nội sau 1955.

Tại Sàig̣n về sau này c̣n có trường Bồ Đề là trường do Phật giáo điều hành. Ngoài ra c̣n có các trường dạy trẻ em bị khuyết tật, như trường Hoàng Thụy Năm (dạy trẻ em bị mù), trường câm điếc ở Lái thiêu. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi không thể đề cập đến các trường đại học ở Việt nam. Tóm lại, cần ghi nhận là trong thời gian này, sinh hoạt giáo dục ở Việt nam rất phong phú, và thầy hay, tṛ giỏi, ở thành phố, ở vùng ven biển, hay đồng bằng, đâu đâu cũng có.

 

4-  Sau 1975

 

Sau 1975, các trường bị trưng thu, biến thành trường công, do chánh phủ quản lư và bổ nhiệm người dạy. Trừ năm hay sáu Sư huynh c̣n được lưu dụng, tất cả các Sư huynh khác phải rời trường, nơi đă được các vị dày công xây dựng và vun quén. Các trường do chánh phủ quản chế, và bổ nhiệm giáo chức, thu nhận học sinh nam và nữ. Hoạt động của các Sư huynh trong Ḍng bị hạn chế rất nhiều. Cơ sở chỉ c̣n Nhà Mai thôn ở Thanh Đa. Một số Sư huynh rời nước, ra ngoài, tiếp tục công việc giảng dạy ở Nouvelle Calédonie, Thái lan, Pháp, và Hoa kỳ ... Những Sư huynh ở lại chăm sóc lẫn nhau và tiếp tục, làm tất cả nhương ǵ làm được theo lời nguyện, trong hoàn cảnh khó khăn. Và Sư huynh, không quên lời nguyện, đă làm được rất nhiều việc, như dạy nghề, kèm dạy toán, đồng thời dạy giáo lư. Khi t́nh h́nh Đổi Mới có hơi sáng sủa một chút, Sư huynh Désiré đă bôn ba các nơi gây quỹ, đem tiền về mở trường dạy trẻ em nghèo ở Cái Nhum, và tiếp tục lan ra các nơi khác.

 

B. Áp dụng phương pháp dạy học của Ḍng

 

Các trường Ḍng La San ở Việt Nam áp dụng đứng đắn lư thuyết do Gioan La San lập ra.

 

1- kỷ luật và thi hành kỷ luật

 

Trường học giữ kỷ luật nghiêm và minh, mọi quy luật được ghi ra rơ ràng và thường được nhắc nhở luôn. Đến giờ vào lớp, học sinh xếp hàng đôi rất trật tự ở ngoài sân, lớp nào theo lớp đó, rồi tuần tự theo nhau đi vào lớp, khi di chuyển không có nói chuyện. Vào đến lớp, học sinh đứng vào chỗ, đọc kinh xong, có lệnh của Sư huynh dạy, mới ngồi xuống. Trong lớp giữ trật tự, ngồi đâu, yên đó, làm bài trong yên lặng, và giữ im lặng khi có học sinh đọc bài cho cả lớp, hoặc nghe theo Sư huynh hoặc thày hay cô giáo đọc rồi lập lại chung với nhau khi học ngoại ngữ. Đến giờ ra chơi có chuông báo hiệu. Học tṛ đứng lên, sắp hàng rồi đi ra lớp một cách có trật tự, đến sân chơi mới tan hàng, chơi đùa với nhau. Nhờ vào sự duy tŕ kỷ luật mà nhà trường tạo được không khí học tập chín chắn, học sinh biết rơ những ǵ trông đợi nơi ḿnh, ra sức học hành, và hưởng điều kiện thích hợp cho việc học. Trong mhững trường khi c̣n có nội trú, học sinh nội trú cũng theo kỷ luật hợp với lứa tuổi và hợp với tŕnh độ học. Giờ ăn, giờ ngủ, giờ học được sắp xếp rất quy củ. Mỗi tuần có ngày thu quần áo giặt, có sáng thứ năm đi lễ mi-sa, tối thứ sáu chầu Thánh thể (hay chầu phép lành), và cuối tuần về thăm nhà hay ra phố chơi. Tối chủ nhật có chiếu bóng.

H́nh phạt ở các lớp trường Taberd, nhẹ như làm ồn ào trong lớp hay lo ra, hoặc không thuộc bài thường bị bắt đứng xây mặt vào một góc, hay bị chép phạt. Nặng hơn như tập sách để dơ, làm bài quấy quá mà không sửa đổi sau khi bị la rầy vài lần sẽ bị cấm túc, không được ở nhà nghỉ mà phải vào trường buổi chiều thứ bảy. Sau khi bị cấm túc ba lần, sẽ bi khiển trách công khai trước ban, như tiểu học, trung học đệ nhất cấp ... Nặng nhất là bị đuổi học, nhưng trong khoảng hơn mười năm từ 1949 đến 1960, chỉ thấy có hai trường hợp đuổi học mà thôi. Việc thi hành kỷ luật dường như nặng về răn dạy, chứ không có tánh cách nghiêm khắc.

 

2-  Trí, đức, và thể dục

 

Các Sư huynh chú trọng đến cả ba phần trí dục, đức dục và thể dục. Lớp học khang trang, sách học đầy đủ và cập nhật theo chương tŕnh, Pháp cuơng như Việt. Tập học được bao theo một màu riêng reơ cho từng môn học, và điều này được giữ cho đến hết bậc trung học đệ nhất cấp. Hàng ngày đều có giờ giáo lư, và khi lên đệ nhị cấp, c̣n được giảng dạy cách đối xử khi vào đời, khi lập gia đ́nh, trong tinh thần công giáo.

Các trường của Ḍng đều có sân bóng chuyền và bóng rổ, và mỗi lớp đều có đầy đủ banh cho hai môn thể thao này. Khi nhỏ, có chơi tṛ dành banh trong vài năm, về sau này, có dịp ra ở xứ ngoài, mới biết là môn rugby theo Anh và Pháp. Sân bóng rổ lát xi măng, đôi khi c̣n có cọc để giăng lưới, trở thành sân quần vợt. Trong pḥng thể thao, có bàn để đánh bóng bàn. Lê văn Tiết (vô địch Pháp quốc) và Huỳnh văn Ngọc là những cao thủ môn này. Cả hai xuất thân từ trường Taberd, dưới sự d́u dắt ban đầu của Sư huynh Gaétan, trong những năm đầu thập niên 1950. Thời gian này trường Taberd hằng năm vẫn tổ chức các giải bóng bàn Bridgestone, có nhiều danh thủ thời đó như Mai văn Ḥa (vô địch Á châu), Trần văn Đức, Nguyễn Kim Hằng và Trần văn Liễu dự tranh.

Trường chú trọng nhiều hơn đến các môn thể thao đồng đội như bóng rổ, bóng chuyền và bóng tṛn. Học sinh c̣n được khuyến khích trau dồi bơi lội, trường Mossard Thủ đức có sân đá banh và hồ bơi. Treillis, năm 1953 đoạt giải bơi lội các trường tiếng Pháp ở Sài g̣n trong hạng tuổi của anh. Huỳnh (Trương?) kế Nhơn đoạt huy chương vàng bơi lội học sinh do bộ Quốc gia Giáo dục tổ chức vào cuối thập niên 1950. Cả hai đều là học sinh trường Taberd.

Tháng năm (quanh ngày 15), thường có lễ Thánh Gioan La San. Năm 1958, lễ này đă được tổ chức cách trọng thể trong sân Tao Đàn, với học sinh nhiều trường đến dự khán. Học sinh Taberd có tŕnh diễn nhiều tiết mục thể dục đồng diiễn rất ngoạn mục, và lần đầu tiên, biểu diễn môn nhảy ngựa gỗ (4) do Sư huynh Roland, một người Canada (trước ở Đại học Laval, Québec) hướng dẫn. Trong những năm đầu thập niên 1950, trường Taberd c̣n dạy môn đánh kiếm. Trong các đêm văn nghệ nhân dịp Giáng sinh hay Tết, có tŕnh diễn nhu đạo. Phương châm các trường vẫn là "Tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện."

 

3- Ôn luyện thường xuyên

 

Về việc học, các Sư huynh theo nguyên tắc ôn luyện thường xuyên và lúc nào cũng sẵn sàng. Bài học, bài làm được kiểm hàng ngày, và học sinh tập được thói, mỗi ngày học đầy đủ bài học trong ngày hôm đó, mà không đợi đến gần kỳ thi mới học gấp. Các trường phát phiếu điểm hàng tuần cho các lớp tiểu học và hai tuần một lần cho các lớp trung học. Học sinh học đều đặn, không dám bê trễ. Mỗi năm học thi ba lần bán tam cá nguyệt, và ba lần tam cá nguyệt. Kết quả thi bán tam cá nguyệt (sau sáu tuần học) được công bố trong các lớp cùng cở, kết quả thi tam cá nguyệt (sau ba tháng học) được công bố trong ban (tiểu học, trung học đệ nhất, đệ nḥ cấp). Cuối năm học có lễ phát phần thưởng tổ chức cho toàn trường, có phụ huynh tham dự. Học sinh xuất sắc được nhiều phần thưởng rất có giá trị.

Trong dịp nghỉ hè, các Sư huynh vẫn cho bài tập làm theo tuần, và khi nhập học phải nộp các bài làm. Nhờ thế mà học sinh nhớ dai, không mất quăng, không bị thiếu sót trong chương t́nh học. Nhưng ôn luyện thường xuyên vẫn được các Sư huynh xem xét theo sức của học sinh, và nhắm vào việc ôn tập cho nhuần nhă, chứ không phải nhồi nhét. Các bài tập, bài học trong lớp theo chương tŕnh học hàng năm, nhưng thường thường trong nhương tuần đầu, tháng đầu, các Sư huynh đều giảng bài chậm và thật kỹ, cùng hỏi bài kiểm nhiều hơn để chắc chắn là cả lớp đă thông hiểu các phần cơ bản quan trọng. Sau đó mới theo sức học sinh mà nâng cách giảng, cùng mức độ khó theo đúng chương tŕnh và hợp với nền móng hiểu biết đă đạt được. Nhờ thế mà việc học có kết quả cao.

 

4- Dạy và học giáo lư

 

Ngoài các môn học theo chương tŕnh, niềm hănh diện của các Sư huynh là dạy giáo lư. Môn này do Sư huynh phụ trách lớp đảm nhiệm, và thường được dạy vào tiết đầu tiên, mỗi ngày học. Những ngày lễ lớn cả trường cùng lên nhà nguyện dự lễ Mi-sa. Tháng hai, thường lên chầu Ḿnh Thánh trong dịp lễ Đức Bà. Trong các dịp lễ khác, trường tổ chức các tuần cửu nhật, tạo một không khí sùng kính và đạo đức trong toàn trường.

Vào nhương năm 1955-59, trường Taberd cuơng tổ chức nhiều cuộc cấm pḥng do các Linh mục ở nhiều nơi đến giảng. Học sinh có ḍp nghe Linh mục Jean Marie Nguyễn văn Thích, và Linh mục Gagnon (DCCT), tên Việt nam là Nhân, một người Âu nói tiếng Việt rành rẽ hơn nhiều học sinh Việt nam giảng trong các cuộc cấm pḥng. Nhương cuộc cấm pḥng này nhằm củng cố đức tin, và cũng nhằm hướng dẫn học sinh đáp ứng với các ́nh huống ngoài đời, chứ không chỉ nhằm riêng vào việc rao giảng đạo Công giáo. Hiệp hội Thánh Maău Sinh viên cuơng tổ chức cấm pḥng trong khuôn viên Trại Mai thôn. Các đoàn viên sinh viên cuơng tham dự nhiều cuộc sinh hoạt trại do Liên Đoàn Sinh viên Công giáo, Viện Đại học Sài g̣n tổ chức.

Nhưng chỉ học giáo lư thôi, chưa đủ. Trường Ḍng các Sư huynh c̣n mời những nhà chuyên làm việc từ thiện đến nói chuyện với học sinh, đồng thời tạo cơ hội cho học sinh tham gia các công tác xă hội. Cảm động nhất là vào năm 1958, ông Raoul Follereau đến nói chuyện ở trường Taberd về nỗi bất hạnh của những người bị phung cùi. Sau đó học sinh trường đă thăm viếng bệnh viện Chợ quán, số học sinh tham dự đông đảo hơn tất cả các lần khác bệnh viện đă được người đến viếng thăm và ủy lạo.

 

5- Tinh tiến luôn

 

Các Sư huynh cuơng hiểu dạy hay, không ǵ bằng làm gương. Chính các Sư huynh nêu gương kỷ luật. Trong giờ ăn, các Sư huynh ăn yên lặng, và một Sư huynh đă dùng bữa trước, đứng ở bục đọc một chương sách. Các Sư huynh cũng tham gia thể dục, thể thao. Năm 1960, theo thông báo, đội bóng rổ trường Taberd sẽ tranh tài với đội XYZ, không biết từ trường nào đến. Đến buổi đấu mới rơ XYZ là các Sư huynh của trường.

Các Sư huynh c̣n nêu cao gương tinh tiến không ngừng trong việc học. Năm 1955, Sư huynh Rémi du học về nhạc lư, trở về nước, gây một ấn tượng đẹp trong ḷng học sinh, và khơi dậy ḷng ham thích nhạc. Sư huynh Casimir, sau thời gian làm giám học đệ nhất cấp Pháp, đă du học, trở về với bằng Tiến sĩ Triết học năm 1958. Sư huynh Humbert tŕnh luận án cao học về Thực vật học, đề tài "Tảo dọc theo sông Saig̣n," tại Đại học Khoa học Sàigon vào đầu năm 1960. Sư huynh Gagelin Tâm du học và đạt học ṿ Tiến sĩ Giáo dục trong giữa thập niên 1960. Ngoài ra c̣n nhiều Sư huynh khác tu nghiệp Anh ngữ ở Pénang, hay Anh quốc (như các Sư huynh Bonnard, Sư huynh Maximin) hơặc toán và khoa học (như các Sư huynh Maurice Triều, Sư huynh Georges). Đặc biệt là Sư huynh Romuald, một người Pháp vui tính và chân thật, đă ghi danh theo học các chứng chỉ Việt nam ở trường Đại học Văn khoa tại Sàig̣n trong các năm 1958, 59, trước khi trở về Pháp.

 

6- Giữ mục tiêu của Ḍng mà thích ứng với các thay đổi trong xă hội

 

Các trường Ḍng La San đaơ thích ứng với hoàn cảnh xă hội đương thời. Như việc bổ nhiệm các Sư huynh Việt nam vào những chức vụ điều khiển khi Việt Nam trở thành một quốc gia độc lập. Các trường Ḍng đă mở ngay ban trung học dạy chương tŕnh Việt khi có điều kiện, và phát triển song song ban này với ban trung học chương tŕnh Pháp. Các trường cũng mở pḥng thực tập khoa học và trang bị đầy đủ các trợ huấn cụ. Trường Taberd c̣n có chương tŕnh Thương mại, dạy bằng tiếng Pháp, gọi là Section (ban) Commerciale do S.H. Anathanase dạy. Học sinh ban này đi thi lấy Certificat d'aptitude professionnelle (chứng chỉ khả năng thương mại) do Pháp tổ chức (tức là học nghề, khi học sinh không có khả năng theo học lên đệ nhị cấp (cấp ba).

Ngay trong những năm cuối thập niên 1950, các trường đă thành lập Hội Phụ huynh học sinh tại từng trường, tạo mối liên lạc chặt chẽ giữa trường học và gia đ́nh. Trước đó, tại Taberd, trường đă phát hành báo Liên San, phát cho học sinh từ năm 1958, để có sự liên lạc thường xuyên giữa trường và gia đ́nh. Báo cũng là nơi để học sinh, thường học đệ nhị cấp trau dồi Việt ngữ. Phụ trách Liên San trong những năm đầu là hai anh Trần Tử Huyền (con Nghị sĩ Trần văn Tuyên, VNCH) và anh Trần thế Độ. Ngay khi nhạc trẻ thịnh hành và trở nên nguồn giải trí cho thanh thiếu niên, trường Taberd cũng tổ chức các buổi đại hội nhạc trẻ trong thính đường mới của trường trong những năm 1965, 1966.

Đến cuối thập niên 1960, các Sư huynh đă thay môn giáo lư trong các lớp từ lớp 8 trở lên. Các Sư huynh phụ trách lớp đă dùng giờ đó nói về chuyện đời - dấn thân, nền tảng gia đ́nh, đạo đức cổ học, triết, cùng các vấn đề y tế cùng sức khỏe. Các đề tài tùy tiện, không g̣ bó, nhưng thực tế, và các buổi thảo luận rất cởi mở, tự do. Năm 1971, nhận thức được sự không trọn vẹn của việc phân biệt và tách rời nam, nữ trong nền giáo dục công giáo, Taberd và Couvent des Oiseaux ở Sài g̣n đă tổ chức để học sinh các lớp 12 (classes terminales) hai trường (nam, Taberd, và nữ Couvent) gặp nhau vào sáng thứ bảy, trong 2 hay 3 giờ đồng hồ. Mỗi lần gặp đều có đề tài để thảo luận.

Điều quan trọng nhất khi Gioan La San thành lập Ḍng là nhắm vào việc dạy dỗ trẻ em nghèo. Các trường Ḍng lúc ban đầu đều dạy miễn phí, không thâu tiền học. Điều này có thể làm được trong hoàn cảnh xă hội thời bấy giờ và đáp ứng được các đ̣i hỏi trong cách giáo dục thời đó. Càng về sau này, các chi phí cần thiết cho việc dạy học tăng rất cao, nhu cầu về trợ huấn cụ và các chi phí khác về y tế, về pḥng ốc, về trách nhiệm dân sự của nhà trường (như bảo hiểm, bảo hộ lao động) cũng tăng cao. Ngoại trừ ở một vài quốc gia như Canada, chánh phủ tỉnh bang đài thọ chi phí cho các trường công lập dân chính và công lập công giáo bậc tiểu và trung học nên các trường này không phải thu học phí, c̣n ở các quốc gia khác, các trường học đều phải thu học phí. Tại những nơi đó, các trường Ḍng La San đều thu học phí, nhưng các Sư huynh vẫn tuân giữ mục đích của Ḍng. Trong một số trường các Sư huynh thu học phí cao hơn hay bằng các trường khác. Nhưng trong các trường này vẫn có một số học sinh được giảm hẳn hết hay một phần học phí tùy theo điều kiện gia cảnh. Nhiều địa hạt hay giáo phận, theo đề nghị của Giám mục, cũng gởi các học sinh ưu tú mà nghèo theo học các trường La San. Các học sinh này được mieăn học phí, và trong vài trường hợp, được ở hẳn nội trú mà không phải đóng tiền.

Cạnh những trường trên, các Sư huynh luôn luôn mở trường Nghĩa thục, với học phí nhẹ, dành cho con em các gia đ́nh có lợi tức thấp. Đây là phương pháp chia sẻ theo tinh thần công giáo, dựa trên sự công bằng và nhân ái, thực hiện công tác cải cách xă hội một cách rơ ràng và hết sức ôn ḥa. Trong tất cả các trường này, các Sư huynh đón nhận con em các gia đ́nh theo đủ mọi tôn giáo. Các Sư huynh vẫn giảng đạo bằng cách làm gương, và làm việc Tông đồ một cách không cưỡng ép, với ư niệm là tạo điều kiện để học sinh được biết đến tinh thần công giáo.

Tinh thần này không những được phổ cập trong phạm vi của trường, mà c̣n được đưa ra ngoài cộng đồng. Các trung tâm chẩn bệnh và phát thuốc miễn phí phục vụ đồng bào các khu lao động nghèo, không phân biệt tôn giáo hay tín ngưỡng. Học sinh các trường trong những buổi du ngoạn vẫn đi thăm viếng các cơ sở tôn giáo khác. Trường thánh Phan-xi-cô Xa-viê ở Sóc trăng thường tổ chức du ngoạn vào ngày thứ năm đầu tháng. Ngày đó, học sinh thường đi bộ đến các nơi quanh ngoài tỉnh lỵ, như Băi Xàu, Xày Cá Nă, Đại ngăi ... Thường ghé vào nghỉ và ăn trưa trong đất thuộc các chùa Miên. Nhờ đó học sinh có dịp xem các chú tiểu Miên trả bài, đọc kinh bằng tiếng Phạn. Quanh chùa thường có các cây cổ thụ, có rất nhiều c̣ và diệc làm ổ. Học sinh có dịp sống một cách thực tế việc tôn trọng và ḥa đồng với các tín ngưỡng khác.

Tuy kỷ luật Ḍng chặt cheơ và sự trau luyện, thử thách trước khi trở thành một Sư huynh rất khắt khe, nhưng tại vài nơi, vẫn có những người không kềm giữ được tánh xấu. Tại một số nơi, nhất là ở Bắc Mỹ, trong nhương năm gần đây, có nhiều vụ kiện tụng, và tố cáo các hành động bạo lực, bạo hành trong các trường và họ đạo Công giáo hoặc Anh giáo, hay Tin Lành. Có một số trường hợp liên quan đến vài Sư huynh Ḍng La San. Nhưng dân chúng chỉ lên án nhương người phạm tội chứ không vơ đũa cả nắm. Ngoài ra các vụ tố cáo đều được đưa ra ṭa án để điều tra và phân xử công minh. Các nạn nhân được bồi thường theo án lệnh Ṭa. Người dân thời đại nầy nh́n nhận là trong mỗi cộng đồng đều có vài người, hay một thiểu số xấu. Cần thẳng thắn chỉ trích cái xấu, và nh́n nhận có cái xấu, th́ dần dần những phần tử không tốt sẽ có cơ hội tự tân, hoặc bị đào thải. Điều này không trái với nhân tính và sự công bằng.

Các Sư huynh Ḍng giữ đúng quy luật là người tu hành có khấn nguyện nhưng không làm linh mục. Có vài Sư huynh, sau khi ở trong Ḍng một thời gian, đă xin được phép trở lại chủng viện học thần học, và sau đó, thụ phong linh mục. Ḍng không ngăn trở. Riêng tại mỗi trường thuộc Ḍng Sư huynh, việc dâng lễ, giải tội, và các nghi thức công giáo khác như Rửa tội, Thêm sức (Confirmation) đều do một linh mục tuyên úy (Aumônier) phụ trách. Các tuyên úy cho trường Taberd ăn ở luôn trong trường, có pḥng ăn riêng, không dùng chung pḥng ăn tập thể với các Su huynh. Linh mục Paulus Mười có lẽ là Tuyên úy lâu nhất trong trường Taberd. Linh mục đă giảng dạy phần giáo lư cho các lớp 12 chương tŕnh Pháp từ 1959 (Terminales) và c̣n có mặt ở trường khi các phi hành gia đổ bộ lần đầu tiên lên mặt trăng.

Tóm lại, các trường Ḍng La San không bao giờ là một môi trường khép kín, riêng biệt. Trường cởi mở, đón nhận một cách thận trọng nhưng chí t́nh, các thay đổi trong xă hội, thực hiện phương châm "hoà ḿnh để cùng nhau đi lên," hầu hoàn thành thiên chức của con người. Có lẽ nhờ thế nên tuy đa số học sinh các trường Ḍng là người không theo đạo công giáo, ảnh hưởng của trường Ḍng rất sâu đậm trong ḷng các cựu học sinh. Trong tiệc gây quỹ của nhóm Cánh Én tổ chức tại Paris tháng 10 năm 2003, khách dự đaơ đến, không nhương từ các nước Âu châu như Bỉ, Đức, Ḥa Lan, Ư, Thụy sĩ ... mà c̣n cả từ Hoa kỳ và Canada. Đó cuơng là một chứng tích.

 

C.  Kết

 

Hy vọng trong một tương lai không xa lắm, các Sư huynh lại sẽ có dịp góp phần vào việc đào tạo thế hệ tương lai, xây dựng đất nước giàu mạnh, và truyền bá t́nh thương đến mọi tầng lớp xă hội, trong tinh thần tự do và nhân ái. Học sinh cũ của các Sư huynh, có rất nhiều người thành công ở trong nước và ở hải ngoại, chắc chắn sẽ đóng góp tận t́nh công sức và tài chánh vào việc này. Trên thế giới, cựu học sinh các trường Ḍng La San đă họp thành một Hội Ái hữu quốc tế, đă nhóm hợp mấy lần, vinh danh các thầy dạy cũ. Hội mang tên Union Mondiale des Anciens Élèves Lasalliens (viết tắt là UMAEL). (5) Các hiệp hội Cựu học sinh từng trường La San ở Việt Nam cũng có những hoạt động tương trợ và có giúp các Sư huynh c̣n ở Việt Nam. Tương lai chắc sẽ tươi sáng hơn, cho trẻ em Việt Nam, cho Ḍng La San, và cho đất nước. (6)

 

***

 

Ghi chú

 

1. Theo chương tŕnh Pháp, Collège là trường dạy hết bậc Trung học đệ nhất cấp, Lycée là trường dạy dạy Trung học đệ nhị cấp (thi Tú tài). Ngoài ra c̣n có sự phân biệt chi phí Collège do quỹ Thuộc địa tài trợ (tức Nam Việt), c̣n Lycée do quỹ Quốc gia (tức là của Pháp) tài trợ. Trường Adran lúc đó ở gần Thảo Cầm Viên, Sài g̣n.

2. Sau này, Sư huynh Cyprien Gẫm là Sư huynh Việt Nam đầu tiên làm Giám tỉnh Tỉnh Ḍng này (1956), sau khi cũng là Hiệu trưởng Việt nam đầu tiên của trường Taberd (1952 ?) thay thế Sư huynh Venant. Các Sư huynh hiệu trưởng sau đó là SH Alloysius, SH Bernard Bường (sau làm Giám tỉnh), SH Félicien Lương, SH Désiré .... Một SH Giám tỉnh sau 1975 là SH Maurice Triều.

3. Chương tŕnh giáo dục bậc Đại học ở Việt nam lúc đó (1960) c̣n theo chế độ Pháp. Có hai loại cử nhân: giáo khoa (licence d'enseignement) và tự do (licence libre). Muốn có bằng cử nhân phải đậu đủ một số chứng chỉ (sáu ở Khoa học, hay năm ở Văn khoa - riêng Luật tính học tŕnh là ba năm). Muốn đậu đủ các chứng chỉ đă được quy định trước sẽ được bằng cử nhân giáo khoa, c̣n không sẽ được bằng cử nhân tự do. Sau 1960, có nhiều sửa đổi. Tại Đại học Khoa học, chia ra nhiều chứng chỉ nhỏ hơn, như chứng chỉ Toán Vi tích phân chia ra làm Toán 1 và Toán 2, nên có thay đổi về số lượng chứng chỉ. Tại đại học Văn khoa chia ra từng Ban, moăi Ban có một quy chế riêng về bằng cử nhân giáo khoa và tự do trong Ban đó.

 

4. Biểu diễn ngựa gỗ lúc đó gọi là "Cheval d'Arậon," nhưng đúng ra là "Cheval de voltige" v́ không có hai tay quay để nắm trên thân gỗ.

 

5. UMAEL: Union Mondiale des Anciens Elèves Lasalliens : http://www.umael-lasalle.org/

 

6. Chúng tôi không được biết nhiều về các hoạt động khác của những Sư huynh Ḍng La San c̣n ở lại Việt nam sau 1975. Độc giả muốn biết thêm có thể liên lạc với