|
Tưởng Nhớ Giáo Hạt Đất Đỏ Cửa Tùng, Giáo Phận Huế Thương Kính 1300 Vị Tiền Nhân Vĩnh Linh “Tử V́ Đạo” năm 1645, 1838 và 1885
|
Dương Bỉnh |
Giáo hạt Đất Đỏ nằm gọn trong địa hạt phủ Vĩnh linh tỉnh Quảng trị, nơi đây một thời nổi tiếng là vùng Công giáo sầm uất. Nhưng nay đă tan tác theo vận nước điêu linh nghiêng ngửa.Các làng công giáo vùng nầy phần nhiều ở dọc ven sông Hiền lương (Bến hải) thuộc phủ Vĩnh linh, xưa kia gọi là huyện Minh linh và sông Hiền lương gọi là sông Minh lương. Con sông nầy bắt nguồn từ Trường sơn chảy về tưới lúa đồng bằng Vĩnh linh rồi chảy ra hải khẩu Cửa Tùng. Có lẽ nhờ cửa biển nầy mà trước đây các nhà truyền giáo đă cập thuyền men sông, tiếp xúc với cư dân để giảng đạo. Theo Việt nam giáo sử (tóm lược), công cuộc truyền giáo ở Trung Việt (1615-1659) được bắt đầu từ cửa Hàn (Đà nẳng) vào năm 1615 rồi dần đến Quảng nam, B́nh định. Đang khi giảng đạo ở Quảng nam, các linh mục chia nhau khu vực để làm việc. Cha Perdo Mattos lo giảng đạo ở Thuận hóa - Quảng b́nh (Thừa thiên, Quảng trị, Quảng b́nh). Cha Đắc lộ (Alexandre De Rhodes) phụ trách các tỉnh Quảng nam, B́nh định, Phú yên. Ngày 15-01-1644, cha Đắc lộ gửi thầy I-nha-xô và thầy Vinh-sơn đi ra các tỉnh phía bắc Trung Việt (Thừa thiên, Quảng trị, Quảng b́nh). Thầy I-nha-xô (tên thánh, không rỏ tên Việt) sinh năm 1610 tại làng Liêm công, miền Cửa Tùng. học thức rộng, thông sử kư, được bổ nhiệm một chức tại phủ Tổng Trấn tức dinh ông Hoàng Khê. Ông Hoàng Khê là con của bà Minh Đức Vương Thái Phi, vợ lẽ chúa Nguyễn Hoàng. Năm 30 tuổi, thầy I-nha-xô theo đạo Công giáo do cha Đắc lộ rửa tội. Hai năm sau, Thầy từ chức quan để gia nhập đoàn Thầy Giảng gồm 9 người, Thầy được cử làm Trưởng đoàn. Thầy I-nha-xô đă rửa tội cho 293 người, nhưng chính trong quê hương làng xă của ḿnh, I-nha-xô chỉ rửa tội được cho bà mẹ và bà cố của Thầy đă 80 tuổi. Ngày 16-7-1645, đoàn Thầy Giảng bị bắt, thầy I-nha-xô và thầy Vinh sơn bị xử tử h́nh, 7 thầy c̣n lại mỗi người bị chặt mất một ngón tay, vào thời chúa Công Thượng Vương. Qua đoạn Giáo sử (tóm lược) nói trên, có thể quyết đoán vùng Vĩnh linh đă được truyền giáo dưới thời linh mục Perdo Mattos, đồng thời có các thầy trong đoàn Thầy Giảng do thầy I-nha-xô Trưởng đoàn cùng giảng đạo ở đây do cha Đắc lộ gửi đến vào ngày 15-01-1644. Qua 310 năm (1644-1954) truyền giáo, người công giáo vùng Vĩnh linh chịu nhiều gian nguy khổ nạn do nhiều đạo dụ của các triều đại Cảnh Thịnh (Tây sơn), Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức (Nhà Nguyễn).
Vụ khủng bố ngày 6 tháng 6 năm 1838
Lúc sáng sớm, một toán lính của huyện Vĩnh linh xông vào làng Di loan lục soát t́m bắt cha Candall, Giám đốc Tiểu chủng viện, nhưng linh mục đă trốn thoát được. Quân lính bèn lùng bắt giáo dân ở vùng nầy, đa số chạy thoát được, một số bị bắt và bị hăm dọa tra tấn, mục đích để buộc giáo dân bỏ đạo`và khai báo chỗ ẩn náu của cha Candall. V́ sợ chịu không nổi cực h́nh nên số bị bắt tuân lệnh xuất giáo. Duy chỉ chú TômaTrần văn Thiện, một chủng sinh Tiểu Chủng viện An ninh, sinh năm 1820 tại làng Trung quán tỉnh Quảng b́nh, đă không chịu bỏ đạo, bị dẫn về thị xă Quảng trị và chịu tra tấn rất dă man. Ngày 18-9-1838, vua Minh Mạng châu phê bản án tử h́nh . Ngày 21-9-1838, chú Thiện bị lính triều đ́nh thắt cổ “Tử V́ Đạo” tại pháp trường làng Nhan biều, tỉnh Quảng trị.
Vụ Văn thân tàn sát người Công giáo năm 1885
Biến cố chính trị dẫn đến vụ tàn sát người có đạo Công giáo : Vua Tự Đức không con, lập di chiếu chọn Ưng Chân con của Thụy Thánh Vương Hồng Y lên nối ngôi và cho gọi ba ông Trần tiển Thành, Tôn thất Thuyết và Nguyễn văn Tường vào để kư thác tự quân. Ngày 16-7-1883 vua Tự Đức băng hà, ngày 19-7-1883 làm lễ tấn tôn Ưng Chân lên ngôi lấy hiệu là Dục Đức. Ba ngày sau đó, hai ông Nguyễn văn Tường và Tôn thất Thuyết phế vua Dục Đức, bắt giam vào ngục, bỏ đói đến chết. Quan Ngự sử Phan đ́nh Phùng lên tiếng chỉ trích liền bị hai ông Tường và Thuyết cho lính trói lại và hạ ngục. Các quan trong triều khiếp sợ không ai dám hó hé nửa lời.
“Thấy lời ai nấy sởn ghê, Sốt gan Tường Thuyết truyền đè xiềng ngay “ (Hạnh Thục ca)
Từ đó hai ông Tường và Thuyết lộng quyền lấn át triều đ́nh, tôn em ruột vua Tự Đức là Hồng Dật lên làm vua hiệu là Hiệp Ḥa vào ngày 2 tháng 6 năm Quí Mùi (1883). Vua thấy hai ông Tường và Thuyết lộng quyền nên bí mật t́m cách loại bỏ hai Ông. Việc bị lộ, hai Ông sai người giết vua Hiệp Ḥa vào đêm 29 tháng 10 năm Quí Mùi (1883). Giết xong vua Hiệp Ḥa, hai ông Tường và Thuyết tôn người con nuôi thứ ba của vua Tự Đức là Kiến Phước lên làm vua vào ngày 3 tháng 11 năm Quí Mùi (1883). Kiến Phước làm vua được 8 tháng th́ mất, nghi là bị đầu độc. Hai Ông đưa Ưng Lịch 14 tuổi lên làm vua vào ngày 01 tháng 8 năm 1884, hiệu là Hàm Nghi. Nhà vua c̣n nhỏ, chỉ ngồi làm v́, mọi việc triều chính đều do hai ông Tường và Thuyết định đoạt. Về đối ngoại, hai Ông đă thiếu khôn khéo trong cách ứng xử với ṭa Khâm sứ Pháp đang có nhiều hành vi sách nhiễu, hống hách và cho tổ chức các cuộc tập trận để diễu vơ dương oai làm xáo động kinh thành Huế. Nhóm người Pháp ở đây lộng hành, ỷ sức mạnh hiếp đáp quan chức của chính phủ ta, đ̣i triều đ́nh phải nạp chiến phí trị giá 20.000 thoi vàng, 200.000 thoi bạc và 200.000 quan tiền. Đêm 4 tháng 7 năm 1885, lợi dụng lúc Pháp tổ chức dạ tiệc, ông Tôn thất Thuyết cho lệnh tấn công đốt cháy các trại ở Ṭa Khâm, đánh vào đồn Mang cá, đại bác từ các pháo đài ta trên cửa thành bắn sang làm cho Ṭa Khâm sập gần hết, nhiều quan binh Pháp chết, măi đến gần sáng quân Pháp mới củng cố được và phản công, nă đạn pháo và tấn công vào Thành Nội. Quân ta kháng cự mạnh mẽ nhưng v́ khí giới kém nên rút lui và tan ră dần. Quân Pháp tiến vào đốt cháy bộ Binh và bộ Lại. Dân chúng trong thành chạy tán loạn, bị lính Pháp tàn sát dă man. Hai quan phụ chánh Nguyễn văn Tường và Tôn thất Thuyết thấy thất bại,vội pḥ vua Hàm Nghi và tam cung chạy ra phía Kim long rồi đi măi ra Quảng trị. Việc hai ông Tường và Thuyết đánh Pháp, lưỡng cung và vua Hàm Nghi chẳng biết một tí ǵ. Sáng ngày 5 tháng 7 năm 1885, thấy quân ta bại trận, ông Thuyết mới tâu lên Hoàng Thái hậu, Bà đành lên kiệu rời kinh thành. Tiếp đó, ông Thuyết vội giục vua Hàm Nghi xuất sơn, lúc đó vua c̣n nhỏ chẳng biết ǵ, không chịu đi và nói “Ta có đánh với ai đâu mà chạy”. Ông Thuyết không nói, sai lính vực vua lên kiệu, thoát nhanh lên Kim long. Cảnh vua quan triều đ́nh Huế chạy loạn thật thê thảm. Gần 10.000 người, nam phụ lăo ấu, trong đó có nhiều ông hoàng bà chúa xưa nay sống trong cung điện, nay phải kéo lê đôi chân vất vưởng vật vờ trên đường chạy loạn, chịu không nổi cảnh khổ nên sáng ngày 9 tháng 7 năm 1885 phải trở về Huế. Riêng vua Hàm Nghi buồn bă theo ông Tôn thất Thuyết ra Tân sở thuộc huyện Cam lộ, tỉnh Quảng trị. Tại đây, ông Tôn thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi ra một chiếu thư gọi là “Hịch Cần Vương”. Tờ hịch có đoạn như sau : “.....Trước hết phải bài trừ bọn giáo dân để thắng quân Pháp sau nầy, v́ chính những giáo dân nầy đă cùng với giặc Pháp cấu kết phản lại ta. Cuộc tập công đêm 22 rạng 23 tháng 5 năm Ất Dậu đă giết được một số lớn giặc Pháp, tuy nhiên dân chúng v́ quá đông cũng chết rất nhiều. Nay lúc Nguyễn văn Tường thay ḷng đổi dạ trốn vào nhà giáo Kim long ..... Tường lại theo giặc đối đầu, lại mạo chữ kư của Thái Hậu để dụ ta.....” Lúc vua Hàm Nghi c̣n ở Tân sở (Quảng trị) th́ ông Nguyễn văn Tường ra đầu thú Pháp. C̣n ông Tôn thất Thuyết đem vua ra căn cứ địa Ấu sơn thuộc làng Phú gia, Hương khê, tỉnh Hà tịnh, để hai con trai lại pḥ vua, c̣n Ông trốn sang Trung hoa cầu viện. (Theo sách 13 Vua Nhà Nguyễn). Hịch Cần vương được ban hành khi vua Hàm Nghi mới 15 tuổi, chính ông Tôn thất Thuyết là tác giả. Nội dung hịch : Kể tội giặc Pháp, hô hào cả nước chống giặc Pháp và bài trừ bọn giáo dân.
Việc chống giặc Pháp
Tháng 8 năm Bính Thân (1856) là năm Tự Đức thứ 9, quân Pháp bắn phá các đồn lũy của ta ở Đà nẳng rồi bỏ đi. Pháp thực sự đánh chiếm Việt nam khởi từ tháng 7 năm Mậu Tuất (1858) là năm Tự Đức thứ 11, quân Pháp vào Đà nẳng hạ thành An hải và thành Tôn hải. Sau đó chiếm Gia định, Định tường, Biên ḥa, Vĩnh long, rồi toàn bộ Nam kỳ, dần dần thôn tính Bắc kỳ. Sau đó đặt nền đô hộ theo ḥa ước năm Quí Mùi (1883). Vua Tự Đức tự phê trong suốt 36 năm trị v́ như sau :”.... Ôi! dốt nát mà quen sống yên ổn, mong muội mà ở chốn nhà cao cửa rộng, chẳng biết pḥng bị, tôi tài tướng giỏi cũng đă tàn tạ hơn phân nủa.....Các triều đại dày công khó nhọc mở mang đất đai, bỗng nhiên một sớm thấy giao cho địch ..... Nhưng không sáng suốt trong việc biết người, ấy là tội của ta.....” Cuộc xâm lăng của Pháp kéo dài 27 năm, từ 1856 là năm Pháp đánh phá Đà nẳng đến năm 1883 là năm triều đ́nh Huế kư ḥa ước nhận sự bảo hộ của Pháp. Trong hai mươi bảy năm, triều đ́nh đă không lo tái tổ chức quân đội và huấn luyện quân sĩ chống ngoại xâm. Bởi vậy t́nh h́nh ngày càng nguy cấp, vua quan giữ lấy thói cũ, bài bác các đề nghị canh tân để phú quốc cường binh hầu bảo vệ đất nước. Năm Bính Dần (1866) là năm Tự Đức 19, ông Nguyễn trường Tộ, một người công giáo, dâng mấy bài điều trần, kể hết t́nh thế nước ḿnh, rồi xin vua phải mau mau cải cách mọi lănh vực th́ không mất nước. Triều đ́nh cho là nói càn. Ông c̣n đề ra kế hoạch đánh úp Tây, nhưng vua quan chẳng nghe. Linh mục Đặng đức Tuấn dâng lên vua bản điều trần “Hoành Mao Hiến B́nh Tây” ( Sách lược đánh giặc Tây), Vua xem rồi bỏ qua.
Bài trừ ‘bọn giáo dân’
Vua Minh Mạng trước lúc lên ngôi đă tuyên bố “Ta ghét đạo của người Âu châu. Ta sẽ cấm và trừ cho triệt đạo ấy” (Louvet: La Cochinchine religieuse). Sau 5 năm lên ngôi trị v́, năm 1825, vua ra dụ cấm đạo. Ngày 6-01-1833, vua ra sắc dụ cấm đạo toàn quốc. Tiếp theo sau là các sắc dụ cấm đạo ban hành năm 1836 và 1838. Năm 1841 vua Minh Mạng chết v́ bị té ngựa. Các vua Thiệu Trị và Tự Đức kế vị cũng ra nhiều đạo dụ cấm đạo. Nhiều giáo sĩ và giáo dân bị xử tử, trong đó có một số quan quân của triều đ́nh như ông Đội Tống viết Bường,v.v... Các vị đă từng tuyên bố “Tôi sẵn sàng đi đánh Tây nhưng không thể bỏ đạo”. Vua quan bắt bớ, tra tấn, hành hạ, tù đày, chém giết, nhưng người công giáo vẫn cầu nguyện cho vua quan trong mỗi buổi kinh sáng chúa nhật: “Xin Chúa ḷng lành phù hộ cho đức vua chúng tôi cùng các quan văn vơ quần thần, nhất là quan nhậm xứ nầy, thảy đều an trị ...” Khi tra tấn, đánh đập, kềm kẹp. họ vẫn chịu dựng, không than van, khi xử tử họ chết vui vẻ hiền lành, chết trong lời cầu nguyện. Họ trung tín với Thiên Chúa và trung thành với vua cho đến chết. Họ không phản quốc, không chống vua, không bán nước, không phạm tội h́nh sự. Thế mà vua quan ta lại nhẫn tâm giết hại người công giáo Việt nam, con dân của ḿnh. Họ chết chỉ v́ không chối bỏ đạo. Trong lúc quốc gia lâm nguy, thực dân Pháp đang xâm chiếm đất đai, thay v́ phải nổ lực tạo đoàn kết, chống ngoại xâm, vua quan ta lại đi tróc nả chém giết giáo dân vô tội, gây chia rẽ và gieo hận thù trong nhân dân. Lỗi ấy vua Tự Đức đă tự phê: “.....Bỗng nhiên một sớm thấy giao cho địch.....Nhưng không sáng suốt trong việc biết người, ấy là tội của ta.....”
Xin trở lại Hịch Cần Vương : Hịch được ban ra, lập tức các bậc khoa bảng (gọi là Văn thân) triệu tập nghĩa sĩ, rèn đúc gươm giáo, thay v́ đi giết giặc Pháp họ lại phất cờ gióng trống đi giết người có đạo Công giáo, đồng bào với họ. Tại vùng Vĩnh linh (Cửa Tùng, Quảng trị) giáo hạt Đất Đỏ, trong ngày 06-09-1885, Văn thân thăm ḍ quanh các họ đạo và bắt đầu tấn công vào 2 ngày sau đó : Ba họ (giáo xứ) Gia môn, Cao xá và An lộc: Buổi sáng ngày 08-09-1885, quân lính Văn thân xông vào cướp của đốt nhà, lùa giáo dân vào nhà thờ, chất rơm đốt, thiêu sống khoảng 500 giáo dân Gia môn. Hai họ Cao xá và An lộc gồm khoảng 60 giáo dân cũng bị chết thiêu cùng lúc với Gia môn. Hai họ Ba ngoạt và Ḥa lạc : Nghe tin Văn thân sắp sửa tàn sát công giáo Ba ngoạt, linh mục chánh xứ là cha Thới chạy trốn ở Quảng b́nh, giáo dân bơ vơ kinh hải. Ngày 8-09-1885, có độ 150 người Ba ngoạt và độ 60 người Ḥa lạc chạy ra Quảng b́nh trốn trong lúc Văn thân giục trống liên hồi, tràn vào Ḥa lạc cướp của giết người, đốt nhà giáo dân và nhà thờ. Tiếp đó, Văn thân càn quét giáo xứ Ba ngoạt, lùng sục của cải, đốt nhà, chém giết khoảng 400 giáo dân cuả hai giáo xứ nầy. Họ nhánh Liêm công : Sau khi tàn sát xong các họ đạo Cao xá, Gia môn, trên đường di chuyển về đánh phá Di loan, quân lính Văn thân đă chém giết vài chục giáo dân Liêm công, một họ nhỏ nằm trên trục giao thông Chợ Huyện - Cửa Tùng. Họ An do Tây : Tàn sát xong Liêm công, quân Văn thân kéo đến An do Tây giết hại khoảng 15 giáo dân. Bốn họ An bằng, An lễ, An ngăi và An trí : Trước khi tấn công Di loan, quân lính Văn thân lùng sục họ đạo An bằng, bao vây nhà thờ, dùng mác đâm chết khoảng bốn, năm chục giáo dân. Đốt nhà dân và nhà thờ. Ba họ An lễ, An ngăi, An trí cũng đồng thời bị Văn thân tàn sát độ 150 giáo dân vào ngày 08-09-1885. Hai họ Loan lư và Ḥa ninh : Hai giáo xứ nầy liên cư với Di loan, v́ vậy, khi Văn thân tấn công Di loan th́ đồng thời cũng tàn sát hai họ nầy vào ngày 10-9-1885. Chủ đích của quân Văn thân là giết người có đạo, cướp của và đốt phá nhà dân và nhà thờ. Khoảng 50 giáo dân họ Loan lư bị lùa đến một vùng đất trống, bắt đào hào rồi xô giáo dân xuống hào, lính Văn thân đứng trên bờ hào dùng lưỡi đ̣ng đâm từng nạn nhân rồi rải rơm lên đốt. Sau khi t́nh h́nh đă tạm ổn, những giáo dân sống sót hồi cư đă xây tại nơi hành quyết nầy một “Lăng Tử V́ Đạo”. Họ Ḥa ninh cũng gần 50 giáo dân bị giết, nhà cửa bị thiêu đốt hoàn toàn. Họ Di loan : Từ ngày tàn sát giáo dân các họ Gia môn, Cao xá, An lộc, Ba ngoạt, Ḥa lạc, Liêm công, An do tây, An bằng, An lễ, An ngăi, An trí, Loan lư và Ḥa ninh, đội quân Văn thân đă chém giết gần 1300 giáo dân, họ chịu chết mà không chống cự lại. Nhưng khi đến tấn công Di loan và An ninh, quân Văn thân gặp sức kháng cự mảnh liệt. Di loan là một làng công giáo toàn ṭng có từ lâu đời, hương chức trong làng đều có đạo. Di loan có chung ranh giới với làng Tùng luật, một làng toàn lương, dân t́nh hiền ḥa, giữa hai làng không có hận thù ǵ, nhưng khi được Văn thân khích động, cổ vơ và tuyên truyền rằng Di loan và Tiểu chủng viện An ninh có nhiều của cải, tấn công vào, ai muốn lấy ǵ tùy sức. Văn thân vừa dọa nạt vừa khuyến dụ nên một số dân làngTùng đă a ṭng theo Văn thân, đàn ông cầm giáo mác, đàn bà th́ triêng gióng thúng mủng đi theo lính Văn thân để hôi của. Ngày 08-09-1885, Văn thân vây đánh Di loan, chém giết một số giáo dân nhà ở ŕa làng, nhưng khi tiến sâu vào làng, bị giáo dân kháng cự mảnh liệt, Văn thân rút lui. Ngày 09-09-1885, Văn thân tái chiến, giáo dân xuất kích đuổi đến làng Tùng luật. Ngày 10-09-1885, Văn thân đánh lần thứ ba, giáo dân phản công kịch liệt, quân Văn thân rối loạn hàng ngũ phải tháo chạy. Ngày 12-09-1885, đội quân Văn thân được tăng viện quân số và vũ khí. Trong khi Di loan kháng cự suốt bốn, năm ngày, một số giáo dân bị thương hay tử thương, một số trốn thoát ra Đồng hới (Quảng b́nh) hay Huế, v́ thế số chiến hữu bị giảm sút. Về mặt chiến thuật cần có vị trí vững chắc, địa thế thuận lợi, có đủ lương thực và đông chiến hữu, v́ vậy, linh mục Đăng (Dangelzer) chính xứ Di loan quyết định di chuyển hơn 1.000 giáo dân Di loan, gồm mọi thành phần nam phụ lăo ấu, tập trung về Tiểu chủng viện An ninh. Ngày 13-09-1885, tấn công lần nữa vào Di loan nhưng chỉ thấy vườn không nhà trống, Văn thân liền phá b́nh địa Di loan, thiêu hủy tất cả nhà dân, nhà thờ, cướp toàn bộ của cải, thóc gạo, áo quần, trâu ḅ, heo gà... Họ An ninh và Tiểu chủng viện An ninh : Ngày 10-09-1885, Văn thân đánh Di loan nhưng thất bại, họ lui về đánh Tiểu chủng viện An ninh, không thắng, trên đường rút lui họ đốt nhà thờ An ninh, rượt bắt và chém giết nhiều giáo dân. Quân Văn thân c̣n tấn công mấy lần nữa nhưng đều thất bại. Trong khoảng thời gian nầy, một thuyền từ một giáo xứ ở Đồng hới (Quảng b́nh) vào Cửa Tùng, cập bến Di loan, chuyển đến Tiểu chủng viện An ninh 2 súng tiểu thần công, 4 súng nạp đạn tiền và một số đạn dược. Về phía Văn thân, ngày 18-09-1885, sau khi nhận được khí giới , đạn dược và lính từ Cùa (Cam lộ, Quảng trị) tăng viện và huy động một số dân Tùng luật và các làng lân cận tham gia, số quân lên khoảng 3000 người, Văn thân chuẩn bị một cuộc tấn công lớn vào Tiểu chủng viện An ninh với hỏa hổ, giáo mác, súng thần công, súng trường, quyết một trận thư hùng, dứt điểm ổ kháng cự cuối cùng ở Tiểu chủng viện nầy và san bằng các làng công giáo vùng Cửa Tùng. Phía Tiểu chủng viện An ninh, linh mục Ḥa (Girard), Giám đốc Tiểu chủng viện với sự giúp sức của linh mục Đăng từ Di loan đến, 5 linh mục khác và 7 chủng sinh đă vạch kế hoạch phản công với 800 chiến hữu cường tráng trang bị bằng giáo mác sẳn sàng quyết tử khi có lệnh xuất kích. Riêng nữ giới chuẩn bị nước để dập tắt các đám cháy do Văn thân sử dụng hỏa hổ đốt phá hàng rào nơi chiến hào. Người giáo dân lúc nầy ư thức rằng: chống cự được th́ sống c̣n, nếu thất bại th́ tiêu vong mấy ngàn sinh mạng. Chiều hôm ấy, 18-09-1885, một buổi chiều quyết định sự thắng bại tồn vong của đạo Công giáo vùng nầy, bởi Văn thân quyết tâm làm cỏ, nhổ sạch, không c̣n một tên công giáo sống sót ở đây. Quân Văn thân bao vây tứ phía, la hét ầm ĩ, xông tới chiến hào, hỏa hổ sắp khạc lửa đốt cháy hàng rào, quân lính toan vượt chiến hào tràn ngập cứ điểm để tiêu diệt toàn bộ người có đạo tại Tiểu chủng viện An ninh. Giờ quyết định đă điểm, ba tiếng trống lệnh vừa dứt, các cửa chiến hào lập tức đồng loạt mở tung, 800 chiến hữu công giáo trang bị giáo mác đồng loạt ào ạt xung kích tốc chiến, súng thần công từ trong Tiểu chủng viện bắn ra yểm trợ. Đội quân Văn thân, một đội quân ô hợp, khiếp đảm tháo chạy, để lại 2 súng thần công, 2 súng trường, hỏa hổ, đạn dược và một thùng lương thực. Trận nầy, phía giáo dân mất 10 chiến hữu, địch thiệt 85 mạng. Sau trận nầy, Văn thân c̣n tái chiến nhiều lần nữa, nhưng càng đánh càng thua, để lại 30 tử vong, 3 súng thần công, 1 súng phá lũy, 6 súng trường, nhiều giáo mác, 7 cái cáng, 1 con ngựa, nhiều đạn dược, hỏa hổ và 1 ấn tín của cấp chỉ huy. Ngày 02-10-1885, quân Pháp dẹp loạn, đánh đại đồn Văn thân ở Tân trại. Gần 3000 quân Văn thân tháo chạy. Chính quyền văn hồi an ninh, tái lập trật tự. Chấm dứt t́nh trạng hỗn loạn. Sau một tháng bị bao vây, 7 lần chống cự quyết liệt, 800 chiến hữu công giáo đối đầu với khoảng gần 3000 quân lính của Văn thân. Kết cuộc, Văn thân bị 200 tử thương, khoảng 1300 giáo dân Vĩnh linh bị giết dọc đường, tại nhà hay tại nhà thờ vào lúc Văn thân mới nổi dậy.
Tài kiệu tham khảo : -Việt nam Sử lược của Trần trọng Kim. -Việt nam Giáo sử của LM.Phan phát Huồn. -Một Trang Huyết Lệ Trong Lịch Sử Tỉnh Quảng Trị của Jabouille, nguyên Công sứ Pháp tại tỉnh Quảng trị. -Mười Ba Vua Nhà Nguyễn của Thi Long. -Vè Văn Thân của ông Dương Viên.
Sau khi an ninh được văn hồi, giáo dân lần lượt trở về nhà đă bị đốt cháy, chôn cất hàng chục, hàng trăm tử thi của đồng đạo trong giáo xứ bị Văn thân giết và lo tạo dựng lại cơ nghiệp. Sau vài chục năm vất vả, người công giáo Vĩnh linh xây cất thánh đường bằng gạch ngói thay cho nhà thờ tranh tre, xây dựng trường học giáo lư, nhà cha sở, hội quán, may sắm cờ phướn, lập hội hát (ca đoàn), đội trống, hội Nghĩa binh Thánh Thể, tổ chức các cuộc rước kiệu Ḿnh Thánh Chúa, kiệu Môi khôi, kiệu lễ Đức Mẹ Mông triệu Thăng thiên,v.v... Cuộc hành tŕnh trên 350 năm gian khổ với những chứng tá khí phách anh hùng : Thầy Giảng I-nha-xô người Liêm công Tử V́ Đạo năm 1645, Thánh Tô-ma Thiện, chủng sinh An ninh, Tử V́ Đạo năm 1838 và gần 1300 giáo dân hạt Đất Đỏ bị Văn thân thảm sát Tử V́ Đạo năm 1885. Máu các vị Tử V́ Đạo đă thấm sâu vào mạch đất nầy nảy sinh nhiều hoa trái tốt đẹp cho Giáo hội nói chung và Giáo phận Huế nói ŕêng. Quá tŕnh xây dựng và phát triển trong khoảng 50 năm an b́nh (1888-1945), vùng đạo Vĩnh linh được tổ chức thành Giáo hạt, gọi là “Giáo Hạt Đất Đỏ”. Mang tên “Đất Đỏ” v́ thổ nhưỡng địa phương nầy nhiều đất đỏ bazan (6.950Ha trong tổng diện tích 627 Km2 toàn huyện). Giáo hạt Đất Đỏ có các Tu viện và các Giáo xứ sau đây : Tiểu Chủng viện An ninh, Phước viện Mến Thánh giá Di loan, Đan viện Xi-tô Phước sơn và các Giáo xứ: An bằng, An do đông, An do tây, An lễ, An lộc, An ngăi, An ninh, An trí, Ba ngoạt, Cao xá, Cổ trai, Di loan, Gia môn, Ḥa ninh, Loan lư, Phan xá, Phước sơn, Quảng xá, Thủy ba. Ba Tu viện,19 giáo xứ với khoảng trên 10.000 giáo dân, một con số tương đối cao (30%) so với dân số huyện Vĩnh linh vào năm 1945 có khoảng 30.000 người trong tổng số toàn quốc 20 triệu đồng bào thời bấy giờ.
Các Tu Viện
*Tiểu Chủng viện An ninh, c̣n gọi là Nhà trường An ninh, tọa lạc trên một khu đất khá rộng và quang đảng tại làng An ninh. Theo sách Hành Hương của ông Trần quang Chu: “Năm 1783, Đức cha Gioan Labartette thành lập Tiểu chủng viện ở Di loan. Tháng 8-1798 vua Cảnh Thịnh (Tây sơn) bắt đạo nên chủng viện phải giải tán. Năm 1801, Nguyễn Ánh phục quốc, năm 1802 lên ngôi hoàng đế lấy hiệu Gia Long, đem gia quyến và hoàng tử Đảm (10 tuổi, sau nầy nối ngôi hiệu là Minh Mạng) ra thăm quê ngoại ở làng Cổ trai (kế làng An ninh). Dịp nầy, để tỏ ḷng biết ơn Đức cha Pigneau (Bá đa lộc), Nguyễn Vương đă dành cho Đức cha Gioan Labartette một cuộc viếng thăm kính trọng và bất ngờ. Dịp nầy Nguyễn Vương ban cho Đức Cha một sở đất quang ánh và rộng rải tại làng An ninh để xây dựng chủng viện”.
Tiểu chủng viện An ninh là nơi đào tạo linh mục trong giai đoạn 8 năm đầu, sau đó vào học ở Đại chủng viện Huế 6 năm rồi mới thụ phong linh mục. Tiểu chủng viện An ninh cũng giúp giáo huấn chủng sinh cho Giáo hội Công giáo Lào. Một ít chủng sinh thụ giáo ở đây sau nầy nổi danh như Đức cha Hồ ngọc Cẩn, Giám mục Giáo phận Bùi chu; Đức cha Ngô đ́nh Thục, Giám mục Giáo phận Vĩnh long và Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Huế; Đức cha Lê hữu Từ, Giám mục Giáo phận Phát diệm; Đức cha Nguyễn văn Hiền, Giám mục Giáo phận Sài g̣n và Đà lạt; Đức Hồng y Nguyễn văn Thuận, Giám mục Giáo phận Nha trang, Tổng Giám mục phó Tổng Giáo phận Sài g̣n, Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lư và Ḥa b́nh Ṭa thánh Vatican; Đức cha Nguyễn như Thể, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Huế; Linh mục Nguyễn văn Thích, giáo sư Hán văn và Triết học Đông phương tại Đại học Huế, Đà lạt và Sài g̣n; Linh mục Nguyễn văn Lập, Viện trưởng viện Đại học Đà lạt. Một ít chủng sinh rời chủng viện sau nầy dấn thân vào đời cũng xuất chúng, như : Ông Ngô đ́nh Khả, học ở Tiểu chủng viện An ninh sau đó chuyển đến Chủng viện Pénang (Mă lai), Thượng thư bộ Công. Ông được người đời truyền tụng “Đày vua không Khả, đào mă không Bài” (Năm 1907, Thượng thư Ngô đ́nh Khả phản đối việc lưu đày vua Thành Thái sang đảo Réunion. Năm 1908 Thượng thư Nguyễn hữu Bài chống kịch liệt Khâm sứ Mahé (Pháp) đ̣i khai quật mộ vua Tự Đức để lấy vàng ngọc). Ông Ngô đ́nh Khả là người đă vận động thành lập trường Quốc học Huế, niên khóa đầu tiên 1896-1897 vua Thành Thái đích thân chủ tọa. Ông cũng là người vận động thành lập một tư thục cho con em lương giáo, lấy tên là trường Pellerin Huế, khai giảng khóa đầu tiên năm 1904 do sư huynh ḍng Lasan điều khiển. Ông Nguyễn hữu Bài, Thượng thư bộ Lại kiêm bộ Hộ sung Cơ mật viện Đại thần dưới triều vua Khải định. Ông được người đời truyền tụng “Đày vua không Khả, đào mă không Bài”….
Tiểu chủng viện An ninh có một cơ ngơi bề thế gồm 2 dăy nhà lầu làm nơi ở và học cho các giáo sư và chủng sinh, 1 nhà thờ chính, 1 nhà thờ nhỏ gọi là nhà thờ Đức Bà và 1 gọi là nhà thờ Thánh An-tôn, nhà chơi, nhà khách, nhà ăn, nhà bếp, lẫm lúa (kho thóc), v.v.. Vua Khải Định đă một lần tới thăm và ban cho Tiểu chủng viện nầy một bức hoành phi bốn đại tự “ Phụ Thế Trưởng Nhân “ Qua các biến cố dồn dập bắt đạo liên miên, đến thời an b́nh kiến thiết xây dựng tiếp đến thời kỳ chiến tranh tàn phá, Tiểu chủng viện An ninh tồn tại đến tháng 8 năm 1954 di cư, chuyển vào Huế. Vị Giám đốc cuối cùng của Chủng viện An ninh là cha An-rê Bùi quang Tịch, một linh mục thánh thiện và nhân đức. Khi bị ngứa không găi, đau răng không dùng thuốc giảm đau, sống khổ hạnh, chịu đựng, khắc khổ. Khi về già ngài vào tu ở ḍng khổ tu Xi tô Thủ đức.
*Phước viện Mến Thánh Giá Di Loan : Phước viện có từ lâu, cơ sở bị Văn thân tiêu hủy hoàn toàn tháng 9 năm 1885, được linh mục Alfred Maria Eugenio Barthe Lémy (cố Mỹ) làm quản xứ Di loan vào năm 1887, đă cho tu tạo lại phước viện nầy. Sau năm 1918, linh mục Léopold Cadière (cố Cả) giúp củng cố và phát triển tu viện nầy. Phước viện Di loan sống âm thầm trong một khuôn viên khá rộng, cây cối rợp bóng quanh năm. Hằng ngày, các D́ Phước, luôn đi cặp đôi, đến các trường học giáo xứ để dạy giáo lư và khai tâm quốc ngữ miễn phí cho các em nhỏ, nhờ công khai trí nầy mà tất cả người công giáo hạt Đất Đỏ đều biết đọc chữ quốc ngữ. Các nữ tu lo tu hành nhưng cũng góp phần vào việc phát triển kinh tế, như sản xuất muối ăn, nuôi tằm, quay tơ, dệt lụa. Thuở ấy các loại vải nội hóa khổ ngắn, nhưng phước viện Di loan đă dệt thao, lụa khổ rộng như hàng ngoại hóa nhờ biết cải biến khung cửi (máy dệt bằng tay). Hàng tơ lụa của Phước viện nầy có thời đă nổi t́ếng trên thị trường Đông dương, gọi là “Hàng Tơ Lụa Cửa Tùng”. Hàng nầy c̣n xuất khẩu sang Pháp và quanh vùng Đông Nam Á nữa. Phước viện cũng cung cấp các loại thuốc tây thay các loại cao đơn hoàn tán để trị các bệnh thông thường như cảm mạo, nhức đầu, đau bụng, ghẻ chốc,v.v... Sau ngày đất nước bị chia đôi, 01-08-1954, Phước viện Mến Thánh Giá Di loan đă dời vào thánh địa La vang, Quảng trị.
* Ḍng Xi tô Phước sơn : Linh mục Henri Denis, tên Việt là Cố Thuận, người Pháp, giáo sư Tiểu chủng viện An ninh, năm 1918 thành lập ḍng khổ tu “Đan viện Xi tô” đầu tiên tại Việt nam trên khu đất hoang vắng thuộc tổng Thủy ba, phủ Vĩnh linh, bên ŕa Trường sơn. Khoảng vài chục năm sau, Ḍng nầy phát triển thêm ḍng Châu sơn ở Phát diện (Bắc Việt). Năm 1949, vùng Phước sơn mất an ninh, ngày 26-04-1953, cha Bề Trên (người Việt), 2 Cha khác và 2 Thầy bị bắt giam tại mật khu Ba ḷng, Quảng trị, Nhà Ḍng bị Việt minh chiếm, các đan sĩ di tản vào Sài g̣n và lập các đan viện mới như Phước lư ở Thủ đức, Phước sơn ở Phúc lộc (Bà rịa),Thiên phước ở Vũng tàu, Phước vĩnh ở Trà vinh (Miền Tây).
Một vài Giáo xứ điển h́nh
Họ Di loan : Di loan vừa là tên giáo xứ vừa tên làng hành chánh. Theo Danh Sách Xă Thôn Trung Kỳ của Phủ Thủ Hiến Trung Phần Việt Nam th́ làng nầy tên là Di Luân thuộc tổng Hiền lương, phủ Vĩnh linh, tỉnh Quảng trị. Di loan là quê quán của Đức cha Lê hữu Từ, Giám mục Phát diệm. Phong thổ Di loan khá đẹp, mặt tiền làng hướng về phía nam, nơi ḍng Hiền lương (Bến hải) lững lờ chảy ra biển. Dọc bờ sông, tầng thấp làm ruộng muối, tầng cao ruộng lúa, đến một con đường khá rộng suốt từ đầu đến cuối làng. Sau con đường nầy là cư dân, nhà cửa vườn tược xanh tươi. Giữa làng, phía mặt tiền nh́n ra sông, một ngôi thánh đường trang nghiêm cổ kính kiến trúc theo nghệ thuật gothique của châu Âu. Ngày lễ lớn và chúa nhật, ba chuông cùng đổ hồi dồn dập ngân vang khắp vùng hải ngạn Cửa Tùng. Cai quản họ đạo nầy là linh mục Léopold Cadière, tên Việt là Cố Cả, thuộc hội Thừa sai Ba lê (Mission Étrangère de Paris), một học giả uyên bác, đến Việt nam năm 1892, giáo sư Tiểu chủng viện An ninh, Cửa Tùng 1893-1894, Quản xứ Di loan kiêm Quản hạt Đất Đỏ từ tháng 9-1918 đến tháng 3-1945, bị Nhật bắt giam 5 tháng trong dịp Nhật đảo chánh Pháp tại Việt nam. Ngày 19-12-1946 bị Việt minh bắt đi an trí tại Vinh (Xă Đoài) cho đến ngày đ́nh chiến được trả tự do và về hưu trí tại nhà Hưu dưỡng Ṭa Giám mục Huế. Năm 1942. cố Cả mừng Kim Khánh (50 năm linh mục) tại Di loan, dịp nầy được chính phủ Pháp tặng Bảo Quốc Huân Chương (Légion d’honneur) và huy chương khác của Chính phủ Nam Triều, bởi ngài là nhà bác học qua những công tŕnh khoa học, văn hóa, xă hội.. Năm 1990, Chính quyền Hà nội đă vinh danh Lépold Cadière là “Nhà Huế Học” và “Nhà Việt Nam Học” do những công tŕnh nghiên cứu của ngài đă làm cho thế giới biết đến văn hóa, nghệ thuật và lịch sử Việt nam. Tháng 8 năm 1954, Di loan đă di cư vào Nam và định cư tại An đôn, Quảng trị, đến mùa hè đỏ lữa 1972, phân tán nhiều nơi trên lănh thổ Việt nam Cộng ḥa.
Họ An ninh : An ninh là một làng công giáo toàn ṭng. An ninh vừa là tên làng hành chánh vừa là tên giáo xứ. C̣n có tên gọi khác là làng Phường, Họ Phường. Người An ninh tính t́nh hiền ḥa. Nhà thờ họ nầy khá lớn, kiến trúc dáng vẻ cổ kính, mặt tiền trang trí hoa văn bằng mảnh kính mảnh sành của dĩa bát xưa đập vỡ. Nhà thờ An ninh là nơi Giáo hạt Đất Đỏ tổ chức kiệu Mân côi (Môi khôi) mỗi năm với hàng ngàn giáo hữu từ nhiều giáo xứ , đoàn kiệu kéo dài hàng cây số, chuông, chiêng , trống đại, trống cà rầng, cờ phướn rợp trời. Hai họ Di loan và An ninh đă cung cấp cho Giáo hội nhiều giáo sĩ và tu sĩ.
Họ An do Tây : Là một làng công giáo toàn ṭng. An do Tây là tên làng hành chánh vừa là tên giáo xứ. An do Tây có một Hội Hát (Ca đoàn) có vẻ chuyên nghiệp, hát la-tinh với đàn phong cầm (orgue) khá hay, có đội Nghĩa Binh Thánh Thể rất linh hoạt. Nhà thờ An do tây có tháp cao vút tưởng chừng như thấu từng mây.
Họ Ba Ngoạt : Là một giáo xứ lớn, đông giáo dân của ba làng Ba b́nh, B́nh đức và Ḥa lạc thuộc tổng Hồ xá phủ Vĩnh linh hợp thành. Người giáo dân Ba ngoạt tính t́nh hiền ḥa chân thật, giữ đạo sốt sắng, trung kiên, là nơi cung cấp cho giáo hội nhiều linh mục và tu sĩ nam nữ. Di cư 1954, Ba ngoạt định cư tại La vang Trung. Mùa hè đỏ lửa 1972, La vang Trung tản mác nhiều nơi ở miền Nam Việt nam : Sông pha (Ninh thuận), Suối nghệ ((Bà rịa), Cam ranh (Khánh ḥa), B́nh tuy, Quảng biên (Biên ḥa)..... Hai họ Cao xá và An lộc : Cao xá có ngôi thánh đường đẹp, giáo dân sống đạo đức, sốt sắng, kinh tế sung túc nhờ có nhiều ruộng. Cao xá là quê quán của cụ Nguyễn hữu Bài, Thượng thư bộ Lại kiêm bộ Hộ, sung Cơ Mật viện Đại thần dưới triều vua Khải Định. An lộc là họ nhánh của Cao xá, có nhiều ruộng tốt, dân số tuy ít nhưng phú túc, sống đạo trung kiên. Hai họ nầy thuộc tổng Xuân ḥa, ở bờ nam sông Bến hải nên khỏi di cư 1954, nhưng trong chiến tranh 1960-1975, giáo dân hai họ nầy phải di tản đến tạm trú tại Hà thanh (Gio linh) và Cam lộ, đến mùa hè đỏ lửa 1972 phải phân tán đến định cư tại Suối nghệ (Bà rịa), Sông pha (Ninh thuận), Quảng biên (Biên hóa) .v.v...
Bốn họ An bằng, An lễ, An ngăi, An trí : Có nhiều Nữ Tu ở ḍng Mến Thánh Giá Phủ cam (Huế). Di cư 1954, định cư tại La vang hữu. Hè đỏ lửa 1972 phân tán đến nhiều địa phương khác như Phước long, Long khánh, Cam ranh (Khánh ḥa), Suối nghệ (Bà rịa), B́nh tuy, v.v...
Họ Ḥa ninh : Nơi cung cấp cho Giáo hội nhiều giáo sĩ và tu sĩ nam nữ. Giáo dân Ḥa ninh có gốc từ ba làng : An du bắc, An ninh và Di loan. Di cư 1954 định cư tại La vang thượng . Hè đỏ lửa 1972 tản mác nhiều nơi như Suối nghệ (Bà rịa), Sông pha (Ninh thuận), B́nh tuy,v.v.....
Họ Loan lư : Trong số 19 giáo xứ thuộc Giáo hạt Đất Đỏ của Giáo phận Huế di cư vào tháng 8 năm 1954, 18 giáo xứ định cư tại Quảng trị đều tan rả do chiến cuộc mùa hè 1972, phân tán đến định cư tại các địa điểm “Khẩn hoang Lập ấp” như Sông pha (Ninh thuận), Vĩnh linh (Cam ranh), B́nh tuy, Quảng biên (Biên ḥa), Bầu cá, Thái thiện (Long khánh) hay các khu Dinh điền Phước long, B́nh long, Tánh linh ,v.v... và nhập vào Giáo phận địa phương. Duy chỉ Giáo xứ Loan lư tồn tại đến nay tại Lăng cô thuộc Giáo hạt Hải vân, Giáo phận Huế. Loan lư trong thời kỳ sơ khai chỉ là một xóm đạo, sau phát triển thành họ đạo, có tên là họ Biện Hoản (Biện là một chức nhỏ phụ trách một số việc trong họ đạo, Hoản là tên của người phụ trách). Sau đó lấy tên chính thức là “ Luân lư” , theo sổ bộ viết bằng hán nôm cuả Họ gọi là “Hội Giáo Luân Lư”. Theo niên lịch của Địa phận Huế từ năm 1945 trở lên trước, ở mục sinh quán và bổn sở (Họ phụ trách) của các linh mục, năm th́ ghi là Luân lư, năm khác lại là Loan lư. Giáo xứ Loan lư do giáo dân hai làng hợp lại : 2/3 giáo dân thuộc làng Di loan, mang ḍng họ Hoàng, họ Lê; c̣n 1/3 giáo dân thuộc làng An du Bắc, mang họ Dương, họ Nguyễn và họ Phùng. Nói cách khác, ở Loan lư, những người mang họ Hoàng và họ Lê là gốc làng Di loan, những ai mang họ Dương, họ Nguyễn, họ Phùng là gốc làng An du Bắc Loan lư c̣n tồn tại đến nay là bởi khi di cư, được linh mục Phan văn Cơ dẫn dắt đến định cư trên băi cát Lăng cô dọc quốc lộ 1 dưới chân đèo Hải vân, nơi đây phong cảnh hữu t́nh, biển sâu, núi cao, đầm rộng, có nhà nghỉ mát của vua Bảo Đại, của Linh mục già Giáo phận Huế. Lăng cô cũng là địa điểm lịch sử : Khi vua Hàm Nghi bị bắt ở Hà tịnh được đưa về Thuận an (Huế), sau đó được chuyển xuống tàu vào Lăng cô, rồi từ Lăng cô Vua lên tàu La Comette vào Sài g̣n. Từ Sài g̣n xuống tàu sang Alger. (Theo sách 13 Vua Nhà Nguyễn). Loan lư ban đầu được Cha Sở Di loan coi sóc, nhưng kể từ năm 1921, các Linh mục sau đây quản xứ :
Lm.Mathêô Nguyễn hữu Oai 1921-1923 Lm.Giuse Phạm văn Huấn 1923-1928 Lm.Phêrô Nguyễn văn Giáo 1928-1930 Lm.Phêrô Đổ khắc Tuế 1930-1936 Lm.Giuse Nguyễn văn Kiểu 1936-1937 Lm. Đôminicô Phạm văn Yến 1937-1941 Lm.Phanx-Xavie Trương văn Lương 1941-1947 Lm Phan văn Ngăi (hưu trí) 1947-1948 Lm.Giacôbê Phan văn Cơ 1948-7/1954
Kể từ Di cư tháng 8-1954 :
Lm.Giacôbê Phan văn Cơ 1954-1957 Lm.Phêrô Trần văn Điển 1957-1958 Lm.G-Baotixita Trương văn Thắng 1958-1963 Lm.Phao lô Ngô văn Triệu 1963-1965 Lm.Phanx-Savie Trần văn Cần 1965-1966 Lm.Tađêô Hồ bảo Huỳnh 1966-1969 Lm.Phêrô Huỳnh văn Hóa 1969-1972 Lm.Giuse Ngô văn Trọng 1972-1975 Lm.Anrê Nguyễn văn Trúc 1 tháng Lm.Batôlômêo Nguyễn văn Phước 1975-1978 Lm.Giuse Cái hồng Phượng 1978-2008.
Nhờ sự hy sinh của toàn thể giáo hữu Loan lư và đặc biệt của một gia đ́nh ân nhân, giáo xứ đă xây dựng một ngôi thánh đường khang trang vào năm 1995, thời cha Cái hồng Phượng làm quản xứ.
Ơn Gọi của Giáo xứ Loan lư :
*15 Linh mục :
Lm.Tôma Nguyễn văn Luật (1901-1972), Lm.Phê rô Hoàng Kính (1913-2007) Lm.Giuse Hoàng Cẩn, Lm.An tôn Dương Quỳnh, Lm. Đôminicô Nguyễn Tưởng, Lm.Hoàng Quốc, Lm.Hoàng Nhật, Lm.Hoàng Tuân, Lm.Hoàng Chỉ, Lm.Nguyễn Trần Vĩnh Linh (ở La ngà), Lm.Hoàng Sơn (ở Nha trang), Lm. Hoàng Thời (ở Mỹ), Lm.Phùng Chí (ở Mỹ), Lm.Nguyễn kim Phú (ở Mỹ), Lm. Gia Công, ḍng Thánh Tâm Huế. C̣n một số Giáo sĩ và Tu sĩ không được biết tên hiện ở Hoa kỳ và Úc châu.
Các Nam Tu sĩ:Thầy Lôrensô Hoàng Trương và Thầy An phong Hoàng Nỉ, ḍng Thiên an Huế.
Các Nữ Tu sĩ :
Nguyễn thị Hiếu, Dương thị San, Mến Thánh Giá Di loan , đă qua đời Hoàng thị Thiệp, Hoàng thị Tu, Mến Thánh Giá Di loan, đă qua đời. Hoàng thị Pha, Mến Thánh Giá Tam ṭa (Quảng b́nh), đă qua đời, Hoàng thị Máy, Mến Thánh Giá Tam ṭa (Quảng b́nh), đă qua đời, Hoàng thị Đủ, MTG Di loan, Maria Hoàng thị Lê, MTG Tam ṭa, ở Italia, Madalêna Hoàng thị Hoàn, Mến Thánh Giá Huế, Matta Nguyễn thị Phiến, Mến Thánh Giá Huế, Maria Phùng thị Thức, ḍng Phú xuân, Huế.
Phần Kết
Đạo Công giáo hiện diện trên nước Việt nam từ năm 1596, đời chúa Nguyễn Hoàng. Tính đến năm 1954 chia đôi đất nước, di cư, th́ Phúc Âm đă được rao truyền ở Việt nam trên 350 năm, trải qua nhiều giai đoạn, lúc khó lúc dễ, khi bắt khi tha, nhưng khắc nghiệt và tàn ác nhất là dưới triều ba vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức đă ban hành các đạo dụ bài trừ đạo Công giáo, thực thi các cực h́nh rất tàn nhẫn như chém đầu, thắt cổ, xẻo thịt, kẹp da bằng kềm lửa, giam đói, tù đày, tra tấn, nung mảnh sành nóng khắc lên trán hai chữ tả đạo, tước đoạt hết nhà cửa, của cải của người có đạo. Trong 350 năm, cả nước có khoảng 3000 nhà thờ bị đốt phá và trên 100.000 người công giáo bị giết chết (theo Việt nam Giáo sử). Họ là những công dân nước Việt, không phản quốc, không chống vua, không phạm tội ác, họ bị giết chết chỉ v́ tín ngưỡng họ theo không được triều đ́nh chấp thuận. Họ chịu tử h́nh v́ không bỏ đạo, không bước qua Thánh Giá. Họ chết cách hiền lành, không hận thù, chết trong lời cầu nguyện. Tháng 9 năm 1885, giáo dân Cửa Tùng chống lại quân Văn thân với tính cách đề kháng để sinh tồn, để bảo vệ mạng sống, một sự tự vệ rất chính đáng chống lại chủ trương giết hàng loại, giết tập thể người công giáo hạt Đất Đỏ. V́ vận nước điêu linh, giang sơn nghiêng ngửa, Giáo hạt Đất Đỏ chung cảnh quốc họa, giáo dân Đất Đỏ di cư 1954 phân tán khắp nơi, từ các thành thị, làng mạc miền Trung và miền Nam Việt nam, sau 1975 di tản đến những phương trời xa thẳm nơi châu Âu, châu Úc, châu Mỹ ... Dù phiêu bạt nhưng nặng t́nh hoài hương và mang niềm vui chung : “ Niềm Vui Công Giáo “.
Vui thích được làm người Công giáo, Sống chung trong con tàu Giáo hội, Dù gặp băo tố hay phong ba, Chúa làm cho sóng êm gió lặng. Dù bị khổ nạn hoặc tai ương, Chúa dang tay đoái thương nâng đỡ. Dù gặp lúc mất mùa, đói khổ, Chúa chăn nuôi, chẳng thiếu thốn chi !. Dù phong hủi đui què câm điếc Chúa chữa lành. Cứ việc cầu xin !. Dù người đời chê khinh nhạo báng, Chúa xót thương vỗ về an ủi. Dù đàn áp bắt bớ tù đày, Chúa giúp cho can trường bất khuất. Dù thế gian xảo quyệt phi luân, Chúa thương kẻ từ tâm lương thiện.
Dù đời nầy nham hiểm gian manh, Chúa dạy sống hiền lành công chính. Dù gặp lúc âm u tăm tối, Chúa rọi soi ánh sáng lối đi. Dù lạc hướng sai nẻo nhầm đường, Chúa dẫn dắt về quê hương thật.
Dù phải lên thác xuống gềnh, Chúa cho vượt nhẹ, căng buồm lướt êm. Con tàu Giáo hội cập bến, Đưa người lữ khách đến bờ b́nh an. Thiên đàng một cơi thanh nhàn, Thảnh thơi vui hưởng muôn vàn vinh phúc.
Montréal, Thu 2008.
|