Đà Lạt: Môi Trường Tu Tŕ
Trong Điều kiện Đa Năng
1. Cao nguyên Đà Lạt: Khi Hậu Thiên Nhiên Trong Lành Yên Tĩnh,
Cảnh Trí Thoáng Đăng Duyên Dáng
Từ 1879, khi tiến hành các cuộc thám hiểm, Toàn quyền P. Doumer, từ
thời thuộc địa, đă t́m gặp bác sĩ Yersin để thảo luận về việc t́m
kiếm một nơi có khí hậu lư tưởng ở Nam Kỳ để tĩnh dưỡng, nghỉ ngơi,
phục hồi sức khỏe. Bác Sĩ có ư kiến khuyến cáo, nên chọn đỉnh Lâm
Viên.Thế là năm 1898, Pháp cho thiết lập tỉnh Đồng Nai Thượng lấy Đà
Lạt làm thủ phủ.
Ngoài ra c̣n lập tỉnh Tánh Linh làm điểm giao dịch giữa vùng cao
nguyên và đồng bằng. Tỉnh Đồng Nai Thượng được chính thức thành lập
ngày 1/11/1899, sau khi các đường lên tỉnh cao nguyên về cơ bản được
chuẩn bị. Nhưng năm sau, chương tŕnh kiến thiết hạ tầng cơ sở cho
Đà lạt đă bắt đầu.
Nhưng ai muốn đến Đà Lạt có thể lên bằng hai ngả đường bộ từ quốc lộ
1, đi qua Trảng Bom, Nga Ba Dầu Giây, La Ngà, Đinh Quán, Blao,
Djiring, Ngă Ba FinNom, Đà Lạt, hay ngả Phan Rang, leo dốc Belle Vue
lên sông Đa Nhim, rẽ theo lối Trạm Hành, hay lối Dran, Finnom, qua
đèo Prenn di lên Đà Lạt. Có một đường ṃn đi theo ngả Tánh Linh. Về
sau, người ta có thể bay theo đường Hàng không, từ sân bay Tân Sơn
Nhất, hay bất cứ sân bay xuất phát nào đến sân bay Liên Khàng, rồi
theo dốc Prenn lên thị xă Đà Lạt
Như ta biết, Các Giám mục Việt nam ở Miền Nam vĩ tuyến 17 đă xin Ṭa
Thánh Vatican thành lập một Giáo Hoàng Học Viện tại Đà Lạt, có tŕnh
độ tương đương đại học trong phân khoa Thần Học. Bộ Truyền Bá Đức
tin tại Rôma đă chấp nhận trong phiên họp ngày 25/1/1957, theo đề
nghị của hàng Giám Mục Việt Nam, và ủy nhiệm Ḍng Tên lập phương án
điều hành cơ chế giáo dục đại học này.(Thư của hàng Giám mục miền
Nam Việt nam gửi Linh Mục Bề Trên Cả Ḍng Tên, 25.01.1957)
2. Môi Trường Thuận Lợi Cho Nhiều Hoạt Động Mà Nhất Là Giáo Dục
Và Tu Tŕ
Thực ra, bắt đầu, từ năm 1916, Khách San Palace h́nh thành đầu tiên
cho khách tạm trú, mỗi khi đến Đà Lạt.
Từ chung quanh thập niên 1930, th́ nhiều cơ sở giáo dục bắt đầu phát
triển ở Đà Lạt: Petit Lycée de Dalat (1927), biến thành Grand Lycée
(1932), rồi Lycée Yersin (1935); Crèche de Nazareth (Ḍng Saint Paul
de Chartres, 1927); Collège d'Adran (Ḍng Frères des Ecoles
Chrétiennes, 1932); Trung Tâm Truyền Giáo Tin lành (và Dalat
Missionary Schhol thuộc Hội Tin lành Phước Âm Liên Hiệp Christian
and Missionary Alliance –C&MA, 1930); Notre Dame de Langbian (Ḍng
Chanoinesses de Saint Augustin, hay Couvent des Oiseaux, 1935);
Domaine de Marie (Ḍng Vincent de Paul)
Trong thập niên 1950, ngoài một loạt các trường học khác xuất hiện
như Trường Vơ Bị Quốc Gia (Trường Liên Quân Vơ Bị Quốc Gia) (1950),
Trường Quốc Gia Hành Chánh Đà Lạt (1953), Trường Trung Học Trần Hưng
Đạo (Bảo Long), Trường Trung Học Bùi Thị Xuân (Phương Mai, Quang
Trung), Trường Chỉ Huy Tham Mưu, Trường Chiến Tranh Chính trị, và
nhiều cơ sở giáo dục khác, về phía các cơ sở cư trú và giáo dục Công
giáo, có cơ sở của nhiều ḍng tu khác, như:
Ngành nam có: Tu viện Ḍng Chúa Cứu Thế ở Tùng Lâm, Biệt Thự Thánh
Tâm ở khu dốc gần Nhà Tḥ Saint Nicolas, Ḍng Don Don Bosco
(Salésiens) ở Trạm Hành, Ḍng Franciscains, Ḍng Đa Minh, Ḍng Tận
Hiến ỏ gần khu Du Sinh Cam Ly, Ḍng Đồng Công, Ḍng Tên, Ḍng Giuse
Nha Trang, …
Ngành nữ có thêm các cở sở như Ḍng Mến Thánh Giá Hà Nội gần Couvent
des Oiseaux sau năm 1954, Mến Thánh Giá Thanh Hóa, Nữ tu Đa Minh,
Nhiều cơ sở ḍng tu khác, hoăc cư trú, hoạt động tông đồ và giáo dục,
cũng được thiết lập ở thị xă Đà Lạt, hoăc trong khuôn khổ giáo phận
Đà Lạt, hay trong khuôn khổ ḍng tu bên ngoài giáo phận, nhưng ở
trong khu vục giáo phận Đà Lạt (từ sau 24.11.1960, khi chính thức
thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam).
Các tôn giáo khác cũng có cơ sở tại Đà Lạt, như Chùa Linh Sơn, …
Như vậy, có một truyền thống chung cho nhiều cơ quan chọn Đà Lạt làm
nơi giáo dục hay nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, huấn luyện, giáo dục hay tu
hành.
Trường Hợp Dẫn Đến Ủy
Nhiệm Ḍng Tên
Mặc dù các tu sĩ Ḍng Tên thích dùng thuật ngữ có vẻ hiện đại, tự
gọi tên ḿnh là Giêsu hữu, gần giống với chữ Jesuite của phương Tây,
nhưng, tôn trọng cách gọi b́nh dân có ư nghĩa truyền thống của văn
hóa Việt Nam, dường như tên vẫn ưa dùng là "tu sĩ ḍng Tên" thay cho
thuật ngữ "Giêsu hữu", có phần nào xa la với đặc điểm văn hóa truyền
thống lâu đời là kính trọng tên Giêsu, mà không dám nói đến tên của
nhân vật đáng kính trọng ấy, như kiểu gọi Thiên Chúa là Giavê (Yavheh)
Đấng Chí Tôn, Đáng Tối Cao trong tín ngưỡng thời Cựu Ước hay Do Thái
ngày nay, ….
Vả lại chữ "Giêsu hữu" phảng phất chữ "Kitô hữu", chứa đựng ư tưởng
mọi tín hữu đều tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Đáng Cứu Thế, là Ngôi
Hai, mà không nhấn mạnh đến một đặc sủng ơn gọi của Ḍng Tu.
Việc Ḍng Tên được ủy thác trách nhiệm giáo dục triết thần có thể có
nhiều lư do. Ngoài lư do là một ḍng tu trí thức và nhiệt t́nh như
được nhắc đến trong giáo hội, Ḍng Tên có một hoàn cảnh khá riêng
biệt trong lịch sử giáo hội là một ḍng tu đă được chính Ṭa Thánh
dẹp bỏ, giải tán, và gần hai thế kỷ, ḍng tu này mới được phục hồi.
Riêng tại Việt Nam, th́ Ḍng Tên đă vắng bóng từ khoảng cuối thế kỷ
18, sau khi đă truyền giáo ở Việt Nam trong thế kỷ 17 và gần hết thế
kỷ 18.
Nhưng nhất là hoàn cảnh và Ḍng Tên đă bị trục xuất khỏi Trung Hoa
từ năm 1949, như tóm tắt mấy nét về Lịch sử Ḍng Tên tại Việt Nam có
thể gồm ba giai đoạn như sau:
1/. Vài Hàng Lược Sử Ḍng Tên ở Việt Nam (1615-1975)
1. Giai đoạn 1615 – 1773
Ngày 18 tháng 01 năm 1615, ba tu sĩ Ḍng Tên đặt chân đến Cửa Hàn (Đà
Nẵng, Đàng Trong) để chính thức mở ra công cuộc loan báo Tin Mừng
tại Việt Nam. Ba tu sĩ Ḍng Tên đó là Lm. Francesco Buzomi (người
Ư), Lm. Diego Carvalho (người Bồ Đào Nha) và tu huynh Antónios Dias
(người Bồ Đào Nha). Các nhà truyền giáo long trọng mừng Lễ Phục Sinh
năm ấy với các tín hữu người Nhật tại đó. Năm sau, đă có hơn 300 tân
ṭng người Việt và Linh mục Buzomi chiếm được cảm t́nh của quan trấn
thủ, và được Chúa Nguyễn sủng ái.
Tại Đàng Trong các Linh mục thừa sai thiết lập ba cư sở (residentia)
đầu tiên. Đó là Hội An năm 1615, Nước Mặn (ngày nay thuộc tỉnh B́nh
Định) năm 1618 và Thành Chiêm (cách Hội An chừng 7km) năm 1623.
Linh mục Alexandre de Rhodes (thường quen gọi là thầy Đắc Lộ) đến
Đàng Trong từ cuối tháng 12 năm 1624 đến tháng 07 năm 1626 th́ bị
trục xuất về Áo Môn (Macao).
Năm 1626, Đàng Ngoài đón tiếp các thừa sai. Linh mục Giuliano
Baldinotti, người Ư cùng với tu huynh Giuliô Piani, người Nhật, theo
tàu buôn thăm ḍ khả năng loan báo Tin Mừng. Trở về Áo Môn, Linh mục
Baldinotti tŕnh bày cho Bề Trên hoàn cảnh thuận lợi ở đây. Ngày lễ
Thánh Giuse năm 1627, Linh mục Alexandre de Rhodes cùng với Linh mục
Pedro Marquez đến Cửa Bạng (Thanh Hóa) gây dựng Giáo Hội Đàng Ngoài.
Ngày lễ T́m Được Thánh Giá 03 tháng 05 năm 1627, ngôi nhà thờ đầu
tiên ở Đàng Ngoài được khánh thành tại An Vực (Thanh Hóa ngày nay).
Tháng 05 năm 1630, bốn nhà truyền giáo Ḍng Tên Pedro Marquez, Đắc
Lộ, Gaspar d'Amaral và Paulo Saïto, bị Chúa Trịnh Tráng trục xuất
khỏi Đàng Ngoài, sau hơn 3 năm trời tận lực truyền giáo. Để nâng đỡ
giáo đoàn, các nhà truyền giáo « chính thức » thành lập Tu hội thầy
giảng. Tu hội được thành lập ở Kẻ Chợ ngày 27 tháng 04 năm 1630, c̣n
ở Đàng Trong, Tu hội ra đời ngày 31 tháng 07 năm 1643 tại Hội An.
Thể chế Kẻ Giảng này kéo dài trong Giáo Hội ban đầu và giúp ích cho
giáo hội rất nhiều ít ra là buổi giao thời, nhất là những đ̣i hỏi
cho việc huấn luyện linh mục c̣n nhiều khó khăn.
Năm 1644, Thầy Giảng Anrê Phú Yên bị quan trấn Quảng Nam xử tử. Linh
mục Đắc Lộ cũng bị kết án tử h́nh, nhưng rồi được chuyển thành án
trục xuất. Năm sau, quan trấn c̣n xử tử hai thầy giảng Inhă ở Quảng
Trị và Vinh Sơn Quảng Ngăi để cho các thừa sai biết ông quyết tâm
cấm đạo.
Trong thời gian 1615-1773, trên 155 tu sĩ của Ḍng thuộc 20 quốc
tịch (nhiều nhất là Bồ Đào Nha) đă đến loan Tin Mừng trên Đất Việt,
cùng với 33 tu sĩ Ḍng Tên người Việt. Trong số đó, có 12 tu sĩ này
đă làm việc trong Thái Y Viện và Khâm Thiên Giám của các Chúa Nguyễn.
Ngày 21.7.1773, trước sức ép nặng nề của các chính quyền ác cảm với
Ḍng Tên, và nhiều lư do phức tạp khác, ĐGH Clementê XIV ra đoản sắc
Dominus ac Redemptor giải thể ḌngTên, không những chỉ ở xứ Tunkim
hay Cochinchina (Đàng Ngoài hay Đàng Trong Đại Việt - Việt Nam khi
đó), mà trên toàn thế giới, làm cho 23.000 tu sĩ Ḍng Tên tan tác.
Từ đó các tu sĩ Ḍng Tên Việt Nam cũng theo số phận chung với anh em
ḿnh trong toàn Giáo Hội. Khi ĐGH Piô VII ra trọng sắc Sollicitudo
Omnium Ecclesiarum, tái lập Ḍng Tên từ ngày 07 tháng 08 năm 1814,
các cựu tu sĩ Ḍng Tên ở Việt Nam đă chết hết rồi, chẳng c̣n ai để
làm sống lại Ḍng Tên tại đây.
Đây là một thử thách lớn lao nhất về tính khiêm tốn, tan biến cả một
hiện hữu đang diễn tiến sinh động, một đức vâng phục sâu thẳm, mà
chỉ có những người trong cuộc mới cảm thấu và chịu đựng "Chết đi để
sống lại theo màu nhiệm Kitô thập giá".
Dù sao, đó cũng là một cơ hội để Ḍng Tên xét ḿnh và sống tinh thần
lư tưởng Ḍng Tên trung thành và đắn đo cẩn trọng, thể hiện thích
hợp trong cách ứng xử với cộng đồng dân Chúa, tuy không thể và không
nhất thiết ư nghĩ và hành động của ḿnh làm vừa ḷng mọi người vi "nhân
vô thập toàn".
Như thế từ năm 1814 trở đi, Ḍng Tên không có mặt trong lịch sử Việt
Nam cho măi đến năm 1957.
2. Giai Đoạn 1957-1975
Từ sau hiệp định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954 Việt Nam bị chia
làm hai miền như nói trên. Miền Bắc sống trong chế độ xă hội chủ
nghĩa, lấy tên Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, Miền Nam theo chế độ tự do
trở thành Việt Nam Cộng Ḥa.
C̣n tại Trung Hoa, năm 1949, chính quyền cách mạng trục xuất hơn 700
tu sĩ Ḍng Tên thừa sai thuộc 9 tỉnh Ḍng ngoại quốc khỏi Hoa Lục.
Các tu sĩ Ḍng Tên phải tản mác đi phục vụ nhiều nơi, nhất là tại
Hồng Kông, Macao và Đài Loan. T́m đâu ra việc cho hàng trăm thừa sai
trên các lănh thổ nhỏ bé này?
Năm 1953, theo gợi ư của một số cựu sinh viên đại học Aurora (Thượng
Hải) sinh sống tại Chợ Lớn, linh mục Paul O'Brien, Linh mục Kinh
Lược coi các tu sĩ Ḍng Tên, đă bị trục xuất, tới Sài G̣n nghiên cứu
việc gởi các tu sĩ Ḍng Tên qua phục vụ cư dân gốc Hoa tại Việt Nam.
Các Linh mục Thừa Sai Paris đang phục vụ cộng đồng cư dân gốc Hoa ở
Chợ Lớn cho biết, họ cũng có các thừa sai bị trục xuất khỏi Trung
Quốc được gởi qua Việt Nam.
Năm 1955, Giám Mục Ngô Đ́nh Thục đến Roma gặp Linh mục Bề Trên Tổng
Quyền Ḍng Tên Gioan Baotixita Janssens bàn việc mời các tu sĩ Ḍng
Tên lập một Viện Đại Học Công Giáo tại Việt Nam.
Năm 1956, Linh mục André Gomane, ḍng Tên, trên đường về Bangkok,
được Linh mục Kinh Luợc mới là Oñate, sai ghé vào Việt Nam để thăm
ḍ khả năng gởi các tu sĩ Ḍng Tên qua phục vụ Giáo Hội Việt Nam.
Các vị hữu trách trong Giáo Hội và cả phía chính quyền gợi ư mở cư
xá sinh viên như ở Hồng Kông và giảng dạy ở đại học. Khâm Sứ Ṭa
Thánh đề nghị Ḍng Tên nhận trách nhiệm mở một chủng viện thuộc
quyền Giáo Hoàng để giúp đào tạo hàng giáo sĩ. Trở về Roma, báo cáo
của Linh mục Gomane được tŕnh bày với Bề Trên Tổng Quyền. Tháng 12
năm 1956, Linh mục Kinh Lược Oñate gặp BTTQ. Vị này liền yêu cầu
khối thừa sai Trung Quốc nhận việc lập cơ sở mới phục vụ Giáo Hội
tại Việt Nam.
Tháng 4 năm 1957, hai Linh mục Oñate và Georges Germain tới Sài G̣n
để thực hiện chương tŕnh. Các giới hữu trách trong Giáo Hội cũng
như chính quyền đề nghị, gởi giáo sư qua giảng dạy ở các Đại Học.
Khâm Sứ Ṭa Thánh yêu cầu lập Chủng Viện thuộc quyền Giáo Hoàng và
đề nghị đặt tại Đà Lạt, nơi có Đại Học Công Giáo vừa được thành lập.
Linh mục Germain được giao nhiệm vụ cấp tốc t́m nhà cho 4 tu sĩ Ḍng
Tên tới giảng dạy đại học có nơi trú ngụ. Sau mấy tuần lễ t́m kiếm
không thành công, nghe biết có một ngôi nhà do chính phủ Pháp sắp
trả lại cho chính phủ Việt Nam, Linh mục nhờ Bộ Trưởng Giáo Dục can
thiệp, xin cho phép mua lại ngôi nhà đó làm nơi cư trú cho các anh
em tu sĩ Ḍng Tên tới giảng dạy ở đại học.
Ngày 26.04.1957, ngoài Linh mục Germain, hai tu sĩ Ḍng Tên khác là
Linh mục Ferdinand Lacretelle, vừa kết thúc nhiệm vụ hướng dẫn Năm
Tập Ba, và tu huynh J. B. Haňrio, cả hai đều là người Pháp được sai
đến Sài G̣n và lập cộng đoàn đầu tiên ở đây. Như vậy, các tu sĩ
chính thức trở lại Việt Nam sau gần 200 năm vắng bóng. Ngày 31 tháng
5 năm 1957, Linh mục Germain nhận ch́a khóa nhà 175 B đường Yên Đổ (sau
là 161 Yên Đổ, Quận 3, Sài G̣n và nay là 171 Lư Chính Thắng, Phường
7, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh). Đây là cơ sở đầu tiên của Miền Ḍng khi
trở lại Việt Nam.
Cuối năm 1957, thêm bốn linh mục Ḍng Tên đến Sài G̣n và giảng dạy
tại Đại Học Y Khoa: Giáo sư Bác sĩ Marcel Lichtenberger, 51 tuổi (người
Bỉ); tại Đại Học Văn Khoa: Giáo sư Triết học André Gaultier, 59 tuổi
(người Pháp), Giáo sư Sử học André Gélinas, 33 tuổi (người Canada),
Giáo sư Hán học Claude Larre, 38 tuổi (người Pháp). Về sau, Linh mục
Yves Raguin cũng giảng dậy nhân chủng học, khảo cổ học ở Trường Văn
Khoa.
Về phía Ḍng, như đă nói trên, trong thời gian 1949-1954, hơn 700 tu
sĩ Ḍng Tên tản mác đi phục vụ tại Hongkong, Macao, Đài Loan, Phi
Luật Tân, Thái Lan (1954) và Việt Nam (1957). Ngày lễ Giáng sinh
25.12.1957, cha Bề Trên Cả J.B. Janssens kư sắc lệnh thành lập Tỉnh
Ḍng Viễn Đông gồm các nhà tại Trung Hoa, Đài Loan và Phi Luật Tân,
Thái Lan và Việt Nam. Tại Việt Nam lúc này mới chỉ có cư sở thánh
Inhă, sau này là Trung Tâm Đắc Lộ.
.................
Trở lại quá tŕnh thành lập Giáo Hoàng Học Viện, theo gợi ư ban đầu
của Khâm Sứ về việc các Linh mục Ḍng Tên đảm nhận việc huấn luyện
chủng sinh. Năm 1958, có lẽ đúng hơn là năm 1957, Linh mục Ferdinand
Lacretelle lên Đà Lạt lập Giáo Hoàng Chủng Viện. Chủng viện này sẽ
được xây dựng quy mô vào năm 1961 và đổi tên là Giáo Hoàng Học Viện
Thánh Piô X. Ban Giáo sư của GHHV gồm 8-10 quốc tịch khác nhau, hầu
hết là tu sĩ Ḍng Tên.
Năm 1959 trong khuôn viên của cộng đoàn thánh Inhă, các linh mục đă
mở Trung Tâm Đắc Lộ. Tính đến năm 1975, trung tâm này đă phát triển
thành một quần thể bao gồm một cư xá cho trên 60 sinh viên, một thư
viện lớn với nhiều pḥng học yên tĩnh cho hơn 1000 sinh viên tới học
hỏi và nghiên cứu, một trung tâm truyền h́nh.
Thêm vào đó c̣n có tạp chí Phương Đông và phong trào Hưng Giáo Văn
Đông, Gia Đ́nh Nhập Thể, với chủ trương về nguồn dân tộc và sống đạo
sâu xa với hết con người Việt, đưa Chúa nhập thể vào những tinh hoa
văn hóa đông phương theo tinh thần hội nhập văn hóa của Cha Đắc Lộ.
Năm 1960 Linh mục F. Lacretelle lập Nhà Tập Ḍng Tên tại Thủ Đức
dâng kính Thánh Tâm Chúa Giê-su. Cha cũng là Giáo Tập đầu tiên của
Nhà Tập Ḍng Tên Việt Nam. Nhà Tập đầu tiên ở Thủ Đức, Gia Định,
Việt Nam khi đó có 6 tập sinh: Khuất Duy Linh (gốc giáo phận Hưng
Hóa), Đỗ Hữu Nghiêm (gốc Gp Hà Nội), Nguyễn Đ́nh Phùng, Hoàng Sĩ Quư
và Đinh Văn Trung (gốc Gp Bùi Chu), Ngô (Nguyễn?) Văn Vững (gốc Gp
Sài g̣n). Họ được hướng dẫn thường xuyên bởi các tu sĩ sau:
Ferdinand Lacretelle, Yves Henry, Mariano Manso, và 1 tu huynh (J.
B. Hanrio) theo một chương tŕnh đặc biệt.
Sinh hoạt nhà tập ban đầu diễn ra một cách êm đềm. Ngoài những việc
đạo đức hằng ngày, các tập sinh theo học tiếng La tinh và tiếng Pháp
do Linh mục Mariano Manso và Yves Henry phụ trách. Song song với
chương tŕnh tu đức hàng ngày (nguyện ngắm, thánh lễ, cầu nguyện,
chầu Thánh Thể, Tĩnh Tâm,…) và linh thao theo phương pháp Thánh Inhă
do Linh mục F. Lacretelle hướng dẫn.
Về sinh hoạt vật chất, các tập sinh làm cỏ, quyét dọn, giữ vệ sinh
trong khu nhà tập và tự phân công rửa chén bát, sau khi ăn cơm sáng
trưa tối. Khẩu phần ăn thường được dọn theo tiêu chuẩn phương Tây.
Mỗi thứ năm đều có giờ đi dạo tập thể ở khu công viên lân cận,
thường ở khu rừng Cao su Thù Đức gần Trường Kỹ Thuật Việt Đức, sau
là trường Bách khoa Kỹ Thuật Thủ Đức.
Sau ba tháng Prima Probatio, tập sinh Việt Nam đầu tiên quyết định
dứt khoát chuyển hướng ơn gọi là Đỗ Hữu Nghiêm, dù Linh Mục giáo tập
F. Lacretelle ngỏ ư đề nghị đưa đương sự lên nghỉ tại một cơ sở của
Ḍng tại Đà Lạt, có thể là Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X. Một thời
gian sau, có tin Nguyễn Đ́nh Phùng cũng chuyển hướng ơn gọi, khi đă
tốt nghiệp Ph.D. ngành toán học, giảng dậy tại Fordham University,
do Ḍng Tên sáng lập và điều hành ở New York City (hiện nay cả hai
cựu tu sinh đều cư ngụ tại Hoa Kỳ). Bốn tập sinh khóa đầu tiên c̣n
lại tại Việt Nam đều tiếp tục ơn gọi Ḍng Tên, và thụ phong linh mục
Ḍng Tên.
Trong số các tu sĩ Ḍng Tên người Việt Nam đầu tiên, ngoài sáu tập
sinh trong nước, c̣n có một số tu sinh khác ở nước ngoài, như Linh
Mục Đỗ Quang Chính, Đoàn Cao Lư, Nguyễn Đức Nhuận (từ Ḍng Chúa Cửu
Thế chuyển sang). Nguyễn Đức Nhuận về sau đă chuyển hướng, c̣n hai
vị kia tiếp tục đời sống tu tŕ Ḍng Tên.
Về sau có các thế hệ hậu sinh nối tiếp và phát triển Ḍng Tên tại
Việt Nam và dần dần tạo nên một nếp sống truyền thống Ḍng Tên Việt
Nam.
Năm 1962, Linh mục Jacques de Leffe, lúc ấy là Bề Trên cộng đoàn
Thánh Inhă, lập Trung Tâm Sinh Viên Xaviê tại Huế với mục đích tương
tự như Trung Tâm Đắc Lộ và mở Trường Trung Học Tín Đức kể từ niên
khóa 1964-1965.
Năm 1965, Nhà Ứng Sinh Đại Học được thiết lập trong khuôn viên Trung
Tâm Đắc Lộ, Sàig̣n.
Ngày 8 tháng 9 năm 1966, các nhà tại Thái Lan và Việt Nam được gom
thành Miền Thái-Việt, thuộc Tỉnh Ḍng Viễn Đông. Linh mục Jacques de
Leffe làm Trưởng Miền tiên khởi.
Cùng năm ấy, Học viện dành cho các học viên tỉnh Viễn Đông từ
Baguio, Phi Luật Tân, được chuyển về Đà Lạt. Học Viện Thánh Giuse
được thành lập với ngôi nhà đầu tiên tọa lạc tại số 02 Đường Huyền
Trân Công Chúa. Tuy nhiên, trong một lần pháo kích năm 1968, một
phần nhà đă bị hư hỏng. Cùng với nhu cầu có một cơ sở lớn hơn, năm
1969, Học Viện chuyển sang cơ sở mới tại số 09 Đường Cô Giang. Ngôi
nhà này là Học Viện Miền Ḍng (Miền Viễn Đông) cho đến năm 1975, và
được nhà nước trưng tập sử dụng từ năm 1987.
Đến năm 1970, Trung Ương Ḍng tổ chức lại Tỉnh Ḍng Viễn Đông và đổi
tên là Tỉnh Ḍng Trung Hoa. Các nhà của Tỉnh Viễn Đông cũ tại Phi
Luật Tân được giao lại cho Tỉnh Ḍng Phi luật Tân. Dịp này, Thái Lan
và Việt Nam, trước đây là một đơn vị, tách làm hai Miền trực thuộc
Tỉnh Ḍng Trung Hoa. Năm 1972 Linh mục Sesto Quercetti làm Trưởng
Miền Việt Nam cho đến tháng 04.1975.
Với sự thay đổi trên về cơ cấu tổ chức, cùng năm 1970, Cộng đoàn An-rê
Phú Yên, 105 Nguyễn Đ́nh Chiểu, Quận 3, Sài G̣n (nay là đường Trần
Quốc Toản) được thành lập và là Trụ Sở Của Miền Việt Nam cho đến năm
1975.
Vào đầu thập niên 70, Ḍng thiết lập Cơ sở Truyền h́nh Đắc Lộ (cạnh
Trung Tâm Sinh Viên Đắc Lộ) nhắm đến việc giáo dục đại chúng với
nhiều chương tŕnh giáo dục thiếu nhi, giáo dục lối sống gia đ́nh.
Bên cạnh đó một số Linh mụ, trong đó có Linh mục Đoàn Cao Lư, bắt
tay vào chương tŕnh 'Đặc Nhiệm Phát Triển Nông Thôn', nghiên cứu và
thực nghiệm các kỹ thuật canh nông mới, xuất bản những tài liệu phổ
biết kỹ thuật canh tác chăn nuôi, ngư nghiệp vừa giúp nông dân tăng
gia lợi tức, vừa nhắm đến phát triển cộng đồng.
Tài liệu Linh mục Vũ Đức Trung ghi năm 1972, thành lập nhà ứng sinh
thứ hai dành cho các em học Trung Học tại Thủ Đức, trong khuôn viên
Nhà Tập. Cũng trong năm ấy, Cha Pedro Arrupe, Bề Trên Cả Ḍng Tên
viếng thăm Miền Việt Nam.
(Nhưng bút tích của học viện c̣n ghi lại là, ngày 26.02.1969 hồi
11g50: cha Tổng quản ARRUPE (Ḍng Tên) đến Học viện. Các cha các
thày đón Đức Giáo hoàng đen với muôn tràng pháo tay và muôn nụ cười
tươi. Cùng đi với ngài có cha Dargan Phụ tá và cha Chu, Giám tỉnh
Viễn đông.
2g30: cha Tổng quản nói chuyện với các cha và các thày tại giảng
đường Học viện. Cuộc nói chuyện gây nhiều hứng thú sâu sắc. Đại ư
ngài vạch cho linh mục tương lai thấy chiều hướng của Hội thánh sau
Công đồng Vaticanô II: sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian.
Hăy tận dụng mọi phương tiện tân tiến ngày nay để phát huy giá trị
siêu nhiên.[…]
7g30 tối: đại yến, có Đức Giám mục Đàlạt tham dự chung vui. Trong
bữa ăn, các cha các thày Kinh viện ḍng Tên đón mừng cha Tổng quản
bằng hai tiếng gà gáy (v́ năm Con Gà) và một bài ḥ miền Nam. Khớ
thiệt! Đừng tưởng ḍng Tên hát dở mà gây tiếng xấu cho người ta nhé!
Anh em Học viện đón mừng cha bằng bản hợp ca 'Đàlạt trăng mờ'. Và để
đáp lễ, cha Tổng quảng tặng anh em 4 ngày nghỉ từ thứ năm 27.2 đến
thứ hai 3.3. Mừng quá cỡ! - 27.02.1969: 8g30 chụp h́nh chung trước
vườn hoa Học viện… (Thông Tin số 16, 1969).
Phải chăng đây là lần viếng thăm thứ hai của Linh mục Arrupe?
Đầu năm 1975, khi t́nh h́nh Miền Nam Việt Nam trên đà tiến tới việc
thay đổi chế độ chính trị, Linh mục Pedro Arrupe biết rằng dưới chế
độ mới, sẽ không có chỗ cho anh em tu sĩ Ḍng Tên người nước ngoài
tại Việt Nam, nên đă sai linh mục phụ tá Herbert Dargan đặc trách
vùng Đông Á và Châu Đại Dương qua Việt Nam gặp gỡ anh em tu sĩ Ḍng
Tên để t́m một người Việt Nam thay thế Linh mục Quercetti trong
trách nhiệm Trưởng Miền.Linh mục Nguyễn Công Đoan lúc ấy mới từ Roma
về, được chỉ định vào nhiệm vụ này từ ngày 29 tháng 4 năm 1975.
Ngày 28 tháng 8 năm 1975, tất cả các tu sĩ Ḍng Tên cũng như tu sĩ
ngoại quốc các Ḍng khác có mặt tại Đà Lạt được yêu cầu rời khỏi
Việt Nam trong ṿng 48 giờ. Trước khi ra đi,các vị c̣n kịp chụp với
nhau một tấm h́nh trong khuôn viên Giáo Hoàng Học Viện.
Tính cho đến lúc linh mục Joseph Audic, tu sĩ Ḍng Tên ngoại quốc
cuối cùng rời Việt Nam năm 1977, Miền Việt Nam đă được 91 tu sĩ nước
ngoài đến phục vụ. Trong số các tiền nhân ấy có các linh mục Giáo Sư
tại Giáo Hoàng Học Viện, các Linh mục làm công tác huấn luyện và
tông đồ, các chủng sinh Học Viên và các Tu Huynh đă âm thầm xây dựng
Ḍng. Bốn vị tu sĩ ngoại quốc đă chọn Việt Nam làm nơi an nghỉ cuối
cùng: Linh mục Michel Martin tại Huế, linh mục Ramón Cavanna tại Sài
G̣n cùng với hai cố Giáo sư Giáo Hoàng Học Viện tại Đà Lạt, Jean
Motte và Anton Drexel.
Tháng 03 năm 1975 v́ t́nh h́nh chiến sự trở nên căng thẳng, các giáo
sư và sinh viên Giáo Hoàng Học Viện cũng như Học Viện Ḍng Tên tản
cư về Sài G̣n. Đến tháng 05 th́ tất cả trở về Đà Lạt an toàn. Với
việc các linh mục Ḍng Tên ngoại quốc phải ra đi vào tháng 09, Giáo
Hoàng Học Viện được trao lại cho Giám mục Nguyễn Sơn Lâm, giáo phận
Đà Lạt quản lư thay mặt Hội Đồng Giám Mục.
Sau ngày 30.4.1975, 41 tu sĩ Ḍng Tên người nước ngoài rời khỏi Việt
Nam theo yêu cầu của chính quyền cộng sản mới. Số tu sĩ Ḍng Tên
Việt Nam c̣n lại vào cuối năm 1975 là 26 tu sĩ: 11 Linh mục, 10 Học
viên, 1 Tu huynh, 4 Tập sinh và khoảng 15 Ứng sinh.
[Chú thích: Dù không thuộc phạm vi bài viết, người biên tập đề nghị
chú thích thêm phần Lược sử Ḍng Tên từ sau 30/4/1975 đến khi có
Tỉnh Ḍng Tên Việt Nam (2007)]:
3. Giai đoạn 1975-2007
Với việc các Linh mục Ḍng Tên ngoại quốc phải ra đi vào tháng 09,
Giáo Hoàng Học Viện được trao lại cho Giám mục Nguyễn Sơn Lâm, Giáo
phận Đà Lạt, quản lư thay mặt Hội Đồng Giám Mục.
Sau ngày 30.4.1975, 41 tu sĩ Ḍng Tên người nước ngoài rời khỏi Việt
Nam theo yêu cầu của chính quyền mới. Số tu sĩ Ḍng Tên Việt Nam c̣n
lại vào cuối năm 1975 là 26 tu sĩ: 11 Linh mục, 10 Học viên, 1 Tu
huynh, 4 Tập sinh và khoảng 15 Ứng sinh.
Đúng như năm 1949 tất cả hơn 700 tu sĩ Ḍng tên rời khỏi Trung Quốc,
bây giờ đến lượt màn kịch trục xuất các tu sĩ Ḍng Tên ngoại quốc
cũng diễn ra tại Việt Nam, sau khi Cộng sản chiếm cứ miền Nam Việt
Nam sau 30/4/1975.
Mùa Chay năm 1976, sau khi cầu nguyện và nhận định chung, Miền Ḍng
quyết định, theo truyền thống của cha anh năm xưa, tiếp tục sống ḥa
ḿnh vào xă hội Việt Nam mới. Với t́nh h́nh nhân sự ít ỏi, dù không
thể quản lư và sử dụng trọn vẹn số cơ sở và trang thiết bị hiện có,
Miền đă miễn cưỡng phải trao cho Nhà Nước cơ sở và máy móc của Trung
Tâm truyền h́nh Đắc Lộ.
Cuối thập niên 1970, phong trào nghĩa vụ quân sự và thanh niên xung
phong phát triển mạnh. Tiếp tục đường hướng vạch ra, một số anh em
trẻ trong Miền dấn thân, lên đường thi hành nghĩa vụ quân sự và gia
nhập TNXP. Những anh em ở nhà th́ lao động sản xuất tại chỗ hoặc làm
việc trong các xí nghiệp quốc doanh.
Biến cố "có bàn tay vô h́nh dàn dựng một số linh mục Ḍng Tên dính
dấp vào việc chuyển nhận ngoại tệ hối đoái chui" (theo như người
biên soạn biết) xảy ra vào tháng 12 năm 1980 tại Trung Tâm Đắc Lộ,
đặt cho Ḍng những thách đố không nhỏ, cả về nhân sự lẫn cơ sở hoạt
động. Nhưng bàn tay yêu thương và quyền năng của Chúa lại được cảm
nhận rơ nét hơn bao giờ. Sống mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu, sống
bậc khiêm nhường thứ ba trong sách Linh Thao, đó là những ơn lớn mà
Ḍng được lănh nhận, khi bước theo Đấng khó nghèo, vác thập giá.
Tính cho đến năm 1987, Nhà Nước đă tiếp quản các nhà và các cơ sở
tông đồ do Ḍng đảm trách như sau: Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt (13
Đinh Tiên Hoàng) hiện nay là cư xá cho nhân viên viện hạt nhân Đà
Lạt cũng như cơ sở của Đại Học Dân Lập Yersin mới thành lập, Học
Viện Ḍng Tên (09 Cô Giang) hiện nay là Khu Vật Lư trị liệu thuộc
bệnh viện Y Học Dân Tộc Lâm Đồng, phần c̣n lại của Trung Tâm Đắc Lộ
(161 Lư Chính Thắng, TP HCM), Trụ Sở Bề Trên Miền Ḍng Tên (nay là
Đường Trần Quốc Toản), Nhà Tập Ḍng Tên (Thủ Đức) nay là trường Kỹ
thuật Công nghiệp Thủ Đức, Trung Tâm Sinh Viên Phanxicô (Huế) và
trường Trung Học Tín Đức. Miền Ḍng chỉ c̣n lại khu canh tác Tam Hà,
nhưng thửa đất này một phần lớn cũng bị trưng dụng.
Cuối thập niên 1980, các anh em trẻ dấn thân trở về sau nhiều năm
phục vụ công ích. Người phục vụ dài nhất khoảng 12 năm, trong đó có
4 năm bộ đội và 8 năm TNXP hay đi lao động tại Nông Trường Thiên
Chúa Giáo ở Củ Chi. Trở lại với Ḍng, trở lại với việc học đă vị
gián đoạn trước đây khi tuổi trẻ đă qua, là một thách đố lớn với các
anh em. Một số anh em hoàn tất chương tŕnh triết và thần học trong
t́nh cảnh thiếu thốn sách vở cũng như giáo sư. Một số khác chuyển
hướng ơn gọi, rời bỏ Ḍng và trở lại đời sống Kitô hữu giáo dân b́nh
thường
Năm 1991, năm Thánh kỷ niệm 500 năm ngày sinh thánh Inhă, Tổ phụ
Ḍng. Vài hoạt động được tổ chức tại Nhà thờ chính ṭa cũng như các
giáo xứ nhỏ bé mà Ḍng đảm trách tại Thủ Đức. Cũng trong năm ấy, với
việc tổ chức lại các đơn vị của Ḍng tại Đông Nam Á, Miền Ḍng Việt
Nam trở thành Miền Độc Lập, trực thuộc Bề Trên Tổng Quyền.
Từ năm 1993, một số tu sĩ dấn thân ngày trước được đồng ư cho lănh
nhận tác vụ linh mục. Các lớp đàn anh trong Miền cũng theo đó trở
lại sinh hoạt với các lớp đàn em sau thời gian dài vắng bóng. Các
sinh hoạt mục vụ của Miền Ḍng cũng từ từ được chấp thuận. Để duy
tŕ và phát triển Ḍng, Miền đă cố gắng thiết lập những cơ sở, tuy
c̣n thiếu thốn, nhưng tạm ổn định để đón nhận các ứng sinh mới vào
Ḍng. Tuy con số này không nhiều nhưng cũng đủ để nối tiếp ngọn lửa
truyền lại từ 40 năm qua.
Năm 1995, Tổng Hội Ḍng Tên nhóm họp tại Roma. Linh mục Nguyễn Công
Đoan đại diện các tu sĩ Việt Nam tham dự Tổng Hội, nối lại t́nh liên
đới với Ḍng quốc tế sau nhiều năm gián đoạn. Các cuộc gặp gỡ của
các tu sĩ bắt đầu được tổ chức đều đặn. Như ngày xưa, các tu sĩ muốn
sống với nhau theo t́nh huynh đệ như một trong một gia đ́nh. Từ đó
tên gọi "Gia đ́nh Miền" trở thành tên gọi tập thể của các tu sĩ
ḌngTên Việt Nam.
Những năm cuối cùng của thế kỷ 20, Ḍng bắt đầu có được nhiều ơn gọi
mới, năng động và nhiệt thành. Được Nhà Nước Cộng sản chấp thuận,
một số linh mục trong Ḍng lên đường du học ở vài nơi trên thế giới,
canh tân chất lượng phục vụ của Ḍng cho Giáo Hội và xă hội. Trước
thềm thiên niên kỷ mới, Miền Ḍng lại một lần nữa cầu nguyện, và
nhận định chung để tái khám phá ơn gọi của Ḍng tại Việt Nam, và t́m
hướng đi cho những năm tháng đầy hứa hẹn sắp tới.
Năm 2003, Linh mục Nguyễn Công Đoan được Linh mục Bề Trên Cả
Peter-Hans Kolvenbach gọi về Roma làm phụ tá cho Vùng Ḍng Đông Á-
Úc châu. Linh mục Tôma Vũ Quang Trung thay thế linh mục Đoan trong
trách vụ Bề Trên Miền Ḍng. Cùng thời điểm ấy, hiện diện của Ḍng
trên Đất Việt được chính thức nh́n nhận. Các tu sĩ Ḍng Tên từ đây
có điều kiện sinh hoạt và phục vụ như bao công dân, tu sĩ và linh
mục khác.
Năm 2007, 50 năm sau ngày các tu sĩ Ḍng Tên có mặt lại Việt Nam,
nhận thấy quá tŕnh hội nhập và thử luyện của cộng đ̣àn tu sĩ Miền
Ḍng, cũng như tŕnh độ trưởng thành của mỗi người trong hoàn cảnh
mới, Trung Ương Ḍng đề nghị nâng Miền Ḍng Việt Nam lên hàng Tỉnh
Ḍng trong tổ chức Ḍng Tên tại Viễn Đông.
2/. Những Đặc Điểm Của Ḍng Tên Thể Hiện ở Việt Nam
Nhân cơ hội này, Giám mục Bùi Văn Đọc, một thân hữu của Ḍng Tên,
từng là giáo sư Đại Chủng Viện Minh Ḥa thuộc giáo phận Đà Lạt, đă
nêu lên một số nhận định của Ngài về 50 hiện diện (1957-2007) của
Ḍng Tên tại Việt Nam và người ta có thể chú ư nhất đến những điểm
ngài đúc kết sau:
"Khi nói đến anh em Ḍng Tên, hai đặc điểm đầu tiên mà tôi nghĩ
ngay tới là trí thức và sự nhiệt t́nh đối với Chúa cũng như đối với
Giáo hội. Cả hai đặc điểm ấy là những điều cần thiết trong đạo của
chúng ta, thiếu một trong hai, Giáo hội khó có thể là Ánh sáng muôn
dân (Lumen Gentium). Điều đó không có nghĩa là Giáo hội chỉ dành cho
những người trí thức. Giáo hội là của mọi người và dành cho mọi
người."
"Các Giêsu hữu đă làm cho ngọn lửa ấy bừng lên ở nhiều nơi, trong
thời gian đầu đến truyền giáo ở Việt Nam, từ năm 1615, ở Đàng Trong
thuộc quyền Chúa Nguyễn, và sau đó từ 1627 ở Đàng Ngoài thuộc quyền
Chúa Trịnh. Cám ơn Chúa đă ban cho Giáo hội Việt Nam những nhà
truyền giáo lớn như Cha Đắc Lộ, Cha Buzomi, Cha Majorica. Không
những Giáo hội Việt Nam, mà Đất nước và con người Việt Nam không bao
giờ quên ơn các cha Ḍng Tên khi sử dụng chữ Quốc ngữ như hiện nay."
"Trước năm 1975, Giáo hoàng học viện của Ḍng Tên tại Đàlạt đă góp
phần đào tạo nhiều linh mục ưu tú cho Giáo hội Việt nam, trong số đó
có những Đức Cha đang ngồi giữa chúng ta đây. Ngày nay các Giêsu hữu
tại Việt Nam vẫn đang hăng say tiếp tục phục vụ cho ngọn lửa T́nh
yêu cứu độ của Chúa. Sự nhiệt t́nh làm công tác giảng linh thao của
các cha Ḍng Tên, tạo điều kiện cho nhiều người được gặp gỡ Chúa. Đó
không những là điều hữu ích, mà c̣n cần thiết cho các Kitô hữu, đặc
biệt là các tu sĩ và giáo sĩ. Các tu sĩ, giáo sĩ, kể cả hàng giáo
phẩm muốn có lửa, phải được gặp Chúa."
"Chính v́ thế mà lẽ sống của mọi người, nhất là của người Kitô hữu
là được biết Chúa Giêsu. Phaolô nói với chúng ta điều đó trong thư
gởi tín hữu Philíp. Ngài nói cách mạnh mẽ, say sưa, về kinh nghiệm
gặp gỡ Chúa của ngài, về cuộc đời của ngài: "Tôi coi tất cả mọi sự
là thiệt tḥi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu,
Chúa tôi." Đối với Phaolô, biết Chúa Giêsu là biết tất cả, không
biết Chúa Giêsu là không biết ǵ cả, có Chúa Giêsu là có tất cả,
không có Chúa Giêsu là không có ǵ cả."
"Điều này không dừng lại với Phaolô mà lan rộng ra cho mọi người.
Thiên Chúa muốn cho mọi người biết Chúa Giêsu, tin Chúa Giêsu để
được sự sống đời đời. Và Giáo hội có sứ mạng phải loan báo Chúa
Giêsu, Đấng Cứu độ Duy nhất cho cả thế giới. Trong ngàn năm thứ ba
này, Giáo hội hướng về Á châu, ư thức một cách mănh liệt Chúa Giêsu
là người Châu Á. Đức thánh Cha Bênêđíctô XVI đă viết một lá thư thật
dài và thật cảm động cho mọi thành phần Dân Chúa tại Trung Hoa về
T́nh yêu hiệp thông trong Thiên Chúa Ba Ngôi và trong Giáo hội. Tôi
xin cầu chúc cho sự thiết lập chính thức Tỉnh Ḍng Việt Nam sẽ mang
lại những đóng góp to lớn cho việc loan báo Tin Mừng tại Á Châu,
không những tại Việt Nam, mà c̣n tại Trung Quốc. "
3/. Mười Đặc Điểm Chung Nhất Của Ḍng Tên Trên Thế Giới, do Hồng
Y Averell Dulles Tổng Kết
Linh mục Vũ Đức Trung nhân dịp Ḍng Tên Việt Nam được nâng lên Tỉnh
Ḍng (2007), đă nêu lên 10 đặc điểm của Ḍng Tên trên thế giới, được
Hồng Y Averell Dulles, SJ đúc kết, trong đó có Việt Nam:
Muời đặc diểm đó là:
1. Tận hiến cho vinh quang Thiên Chúa, một Thiên Chúa luôn cao cả
hơn, mà ta chẳng bao giờ có thể chúc tụng và phục sự đủ. Điều này
khiến cho Giêsu hữu cảm thấy như có một sự lo toan thánh thiện, một
nỗ lực không ngừng nghỉ đến làm tốt hơn, để hoàn thành nhiều hơn nữa,
hay là "magis" như trong tiếng La-tinh. I-Nhă có thể được coi như
một con người bị "nhiễm Chúa" theo nghĩa là ngài lấy "vinh quang lớn
hơn của Chúa" làm tiêu chuẩn tối cao cho mọi công việc, dầu lớn hay
nhỏ.
2. Một t́nh yêu thân thiết đối với Chúa Giêsu Kitô và một ước muốn
được xếp vào hàng ngũ những bạn thân của Ngài. Trong Linh Thao,
Giêsu hữu không ngừng cầu xin để hiểu biết Chúa Giêsu rơ ràng hơn,
yêu mến Người nhiều hơn và bước theo Người gần kề hơn. Khi giảng dạy
tại các thành phố ở Italia, các bạn hữu đầu tiên đă cố gắng bắt
chước nếp sống của các môn đệ mà Chúa Giêsu đă sai đi loan báo Tin
Mừng trong các thành phố ở Galilêa.
3. Hoạt động trong và cho Giáo Hội, bằng cách luôn đồng cảm với với
Giáo Hội trong sự vâng phục các mục tử của Giáo Hội. Xuyên suốt qua
các Hiến Pháp, I-Nhă nhấn mạnh đến việc dạy giáo lư "vững chắc hơn
và được chấp thuận nhiều hơn" để cho các học viên có thể nhận một
giáo thuyết "chắc chắn và bảo đảm hơn."
4. Sự ứng trực luôn sẳn sàng để cho Giáo Hội định đoạt, sẳn sàng để
làm việc bất cứ nơi nào, v́ sự thiện lớn hơn và phổ cập hơn. Khi
nh́n Ḍng Tên như một đạo quân thiêng liêng của Đức Giáo Hoàng,
thánh I-Nhă nh́n thấy toàn thể thế giới, một cách nào đó, như môi
trường hoạt động của ngài. Được linh hướng bởi viễn tượng bao trùm
vũ trụ, ngài không chấp nhận những sự phân loại dựa trên biên giới
quốc gia hay liên hệ sắc tộc.
5. Sự hợp nhất hỗ tương. Giêsu hữu phải nh́n thấy chính ḿnh như
thành phần của một thân thể nối kết với nhau bởi sự hợp nhất trí tuệ
và tâm hồn. Trong Hiến Pháp, thánh I-Nhă khẳng định rằng Ḍng Tên
không thể đạt mục tiêu của ḿnh, nếu các phần tử không được nối kết
bởi một t́nh yêu sâu xa giữa họ và với thủ lănh. Trong lĩnh vực này,
nhiều người trích dẫn thuật ngữ mà thánh I-Nhă dùng để chỉ các bạn
đầu tiên: "những người bạn hữu trong Chúa."
6. Ưu tiên cho thừa tác vụ thiêng liêng và tư tế. Ḍng Tên là một
ḍng tư tế, mọi thành viên đại thệ phải được truyền chức linh mục,
mặc dù sự cộng tác của các "trợ sĩ" linh vụ và thế vụ được đánh giá
cao. Trong việc chọn lựa các thừa tác vụ, thánh I-Nhă viết: "sự
thiện thiêng liêng phải được chuộng hơn sự thiện thể lư," và chúng
dẫn đến "mục đích cuối cùng và siêu nhiên" hơn.
7. Nhận định. I-Nhă là bậc thầy trong đời sống thực dụng và trong
nghệ thuật quyết định. Ngài cẩn thận phân biệt giữa mục đích và
phương tiện, bằng cách chọn lựa những phương tiện thích hợp nhất để
đạt mục đích đang nhắm đến. Trong việc xử dụng các phương tiện ngài
luôn áp dụng nguyên tắc: "tantum…quantum," theo nghĩa: "bao lâu nó
trợ giúp" chớ không hơn nữa. Trong bối cảnh này ngài dạy kỷ luật của
sự "dửng dưng" (b́nh tâm – indifference) theo nghĩa siêu thoát khỏi
bất cứ điều ǵ không được t́m kiếm v́ chính nó.
8. Thích nghi, uyển chuyển. I-Nhă luôn cẩn thận chú ư đến thời gian,
nơi chốn và con người mà ngài đang đối diện. Ngài lưu đến việc xếp
đặt các lề luật tổng quát như thế nào để có thể cho phép sự uyển
chuyển khi áp dụng.
9. Trân trọng khả năng nhân bản và tự nhiên. Mặc dù I-Nhă ưu tiên
dựa trên các phương tiện thiêng liêng, như ân sủng thần linh, cầu
nguyện và thừa tác vụ bí tích, nhưng ngài cũng chú trọng đến các tài
năng tự nhiên, kiến thức, văn hoá và cách hành xử lịch sự như các
tặng phẩm phải được sử dụng cho việc phụng sự và làm vinh danh Thiên
Chúa. V́ lư do này, ngài bày tỏ một sự chú tâm đặc biệt đối với việc
giáo dục.
10. Một tổng hợp độc đáo giữa đời sống hoạt động và chiêm niệm. Cha
Jerome Nadal (1507-1580) nói đến thực hành của Giêsu hữu là "t́m
kiếm sự hoàn thiện trong cầu nguyện và thao luyện thiêng liêng để
giúp người thân cận, và bằng việc giúp họ này, thâu đạt toàn thiện
hơn nữa trong cầu nguyện, để có thể giúp tha nhân nhiều hơn nữa."
Theo Nadal, đó là một ân sủng đặc biệt cho toàn Ḍng Tên là chiêm
niệm không chỉ trong những lúc cô tịch nhưng cả trong hoạt động, nhờ
đó mà "t́m kiếm Thiên Chúa trong tất cả mọi sự."
Một giới thiệu tổng hợp về Ḍng Tên Việt Nam và thế giới như vậy
thiết tưởng cũng tạm đủ để tin cậy vào khả năng và sứ mệnh quản
nhiệm cùng điều hành Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X Đà Lạt được các
Giám mục Việt Nam trao thác.
(c̣n tiếp)
|