Câu chuyện một con tem

Cách đây hơn nửa thế kỷ, đúng ra là vào khoảng những năm
1943-1946 ǵ đó, tôi đang chỉ là một chú bé nhà quê. Thế giới chung
quanh tôi chỉ có mẹ và mấy chị. Nhưng không nhớ bằng cách nào, tôi
được nh́n thấy h́nh Hoàng Hậu Nam Phương trên mấy con tem . Chỉ bằng
mấy con tem đủ ấp ủ h́nh ảnh người phụ nữ hiền lành, phúc hậu đến cả
đời. H́nh ảnh con tem đó cứ như thế giữ măi trong ḷng, trong kư ức
chả quên được. Con tem nhỏ xíu h́nh một người phụ nữ, chít khăn vàng,
áo dài. Quá nhỏ để nhận ra chân dung người đó, cũng quá nhỏ để biết
được con người. Vậy mà h́nh ảnh đó có sức thu hút, đeo đuổi măi cho
đến bây giờ. Kư văng sự việc th́ có thể quên. Nhưng dấu ấn t́nh cảm,
niềm kính trọng người phụ nữ đó th́ không. H́nh ảnh qua con tem nhỏ
bé toả ra sự uy nghiêm, trang trọng, quư phái, nhưng dung dị hiền từ.
Dôi mắt có vẻ buồn, Sốn mũi cao. Đẹp không chê vào đâu được. Vẻ đẹp
kín đáo, nhưng có sức thu hút khó quên được. Hỏi nhiều người cỡ tuổi
tôi cũng đều nhận như thế. Nhưng nó lại không có cái nét kiêu kỳ
hănh tiến như những người sang trọng giầu có. Nhất là con mắt có cái
nh́n thẳng thắn, đầy độ lượng. Nhiều người sau này nh́n ảnh Hoàng Hậu
sau cũng phải nhận một điều: Hoàng Hậu có nét uy nghi, đoan trang và
phúc hậu. Chỉ tội buồn.
Sao Hoàng Hậu lại buồn thế..
Xin dẫn một chứng từ của một cô nữ sinh thời 1937-1941 nhắc lại kỷ
niệm gặp gỡ Hoàng Hậu Nam Phương, viết trong tập san Dồng Khánh :
Hànội, mái trường thân yêu. Dược sĩ Nguyễn thị Huyền, vửa mất năm
ngoái đă viết lại cảm tuởng của ḿnh như sau :* Ngày Bà Nam Phương đến
thăm lớp, cô Thục Viên, giáo sư Pháp Văn vẫn đứng trên bục giảng
ch́a tay đứng bắt tay Hoàng Hậu và từ tốn trả lời các câu hỏi của
Hoàng Hậu, không hề mất chủ động. Trong khi đó Nguyễn tiến Lăng, người
đi cùng Hoàng Hậu muốn tâu gửi ǵ với Hoàng Hậu đều quỳ xuống đất.
Cô xin phép tiếp tục giảng. Hoàng Hậu dự giảng và sau đó cho gọi học
sinh giỏi Văn lớp là chị Nguyễn thị Thứ lên thưởng cho một bức ảnh
do Hoàng Hậu kư tên. Thái độ đường hoàng của cô đă gây cho chúng tôi
một niềm tự hào chính đáng, trong lúc ấy chúng tôi cũng thích vẻ đẹp
dịu dàng Dông Phương và thái độ b́nh tĩnh không có vẻ ǵ hách dịch của
Nam Phương Hoàng Hậu*. Một trong những học tṛ có mặt bữa hôm ấy là
cô Ngô thị Ngà, nguyên giáo sư Trưng Vương đă cho biết cảm tưởng :
Mê cái vẻ đẹp dịu dàng của Hoàng Hậu và v́ thế sau này cô đặt tên
cho một cô con gái là Thu Phương, tức Hương mùa thu nhắc nhớ đến tên
Hoàng Hậu Nam Phương, hương miền Nam.
Hôm nay ngồi viết lại một chút cuộc đời Bà mà h́nh như Bà đang ngồi
trước bàn máy. Sự biết về Bà quá ít, mầy ṃ sách vở đủ loại, lục lọi
chỗ này chỗ kia cũng chỉ là những mảnh vụn rời rạc, cũng không thấy
bóng dáng Bà đâu cả. Cũng chả thu thập được nhiều nhọm ǵ. Người đời
coi ra vô t́nh với Bà đă đành, sách vở sử học cũng vậy.
Ngay trong hồi kư của vua Bảo Đại, "Le Dragon d'Annnam", (1) tôi đă
lật đi lật lại nhiều lần, chỉ thấy loáng thoáng từ trang 62 đến 68
nói về cuộc hôn nhân của nhà vua hơn là nói về Hoàng Hậu. Tôi đành
ḷng với một ít tài liệu trong báo Indochine vào những năm
1942-43-44 với vài bài của Nguyễn Tiến Lăng và một vài người bạn
Pháp của gia đ́nh. Bài viết về Bàø của Cù huy Cận không có trong
tay. Cuốn sách quan trọng của Phạm khắc Hoè : từ Triều đ́nh Huế đến
chiến khu Việt Bắc và Kể chuyện vua quan nhà Nguyễn chỉ được đọc những
đọan trích dẫn mà nội dung quả thực khiếm nhă và tuyên truyền nhiều
hơn là sự thực. Một số bài báo trên các báo chí Hải ngoại thường viết
thiếu dữ kiện khả tín, viết cho có mà thôi.
V́ thế, cũng chả thu tập được bao nhiêu. Thật là bất công với Bà quá
và cũng vô t́nh quá. Chỉ xin lấy tấm ḷng đáp lại được phần nào hay
phần ấy.
1.- THỜI CON GÁI
Cô Nguyễn Hữu thị Lan Marie Thérèse là con một nhà điền chủ, đất G̣
Công. Bố được Tây cho đi học ở Pháp về, rồi mở đồn điền trà và cà
phê ở cao nguyên Trung phần. Các điền chủ khác thường ít chữ nên chỉ
loay hoay với ruộng, vườn tược, sống nhờ bổng lộc từ đó mà ra. Nhưng
ông bà Nguyễn Hữu Hào có vốn Tây học, có đầu óc nên mới nghĩ đến
khai thác đồn điền. Vào thời kỳ đó, khoảng những năm 1920-30, báo
Nam Kỳ địa phận ra hàng tuần đă khuyến khích người Annam khai thác đồn
điền, mở mang kinh doanh, kỹ nghệ để cạnh tranh với người Tây và cả
với người Tầu như trong lời mở đầu của tờ báo: "Tờ báo có ư khai
đàng văn minh cho nhân dân đặng tấn phát cho bề đạo việc đời đều
thông thuộc. V́ thế trong nhựt báo 'sẽ biện luận về những điều đạo
lư, phong hóa, bá nghệ, bác học và văn tin... nên sự ǵ tốt và hữu
ích th́ đem đặng vô hết'". (trích lại trong bài Chữ Quốc Ngữ, giai
đoạn sơ khởi của chính tác giả).
Nhà chỉ có hai chị em, chị là Agnès Nguyễn Hữu Hào đă hẳn có nếp sống
văn minh thành thị của lớp dân giầu có. Cuộc sống hai chị em cứ
khách quan mà nói là sung sướng, đầy đủ, được cưng chiều. Họ đă sống
tuổi thanh xuân êm đềm và mơ mộng. Và có lẽ đó là giai đoạn hạnh
phúc nhất đời của người thiếu nữ sau này làm Hoàng Hậu. Theo những bức
h́nh chụp trong tờ Indochine th́ cả hai chị em đều cao lớn hơn hẳn
những người phụ nữ Việt Nam b́nh thường. Tôi mê bức ảnh Hoàng Hậu chải
tóc rẽ, vấn khăn và nh́n nghiêng bên trái, không nh́n thẳng. Những bức
ảnh mặc đầm, hay những bức ảnh mặc triều phục, hoặc ngay cả ngày cưới
coi cũng được được vậy thôi. Theo cách nh́n của tôi, có nhẽ cô Agnès
không lấy ǵ làm xinh xắn lắm, gương mặt xương xương, thiếu đầy đặn.
Nhất là thiếu cái nét đoan trang, dịu hiền như cô Lan. Tôi cứ nghĩ,
phải cám ơn ông cái ông Tây nào đó đă chụp những bức h́nh mà Nam
Phương Hoàng Hậu đẹp như thế, lột được cả cái hồn, cái phần sâu thẳm
của đời sống bên trong. Phần cô Agnès, có vẻ Tây hơn. Cô đă lấy chồng
sớm, học hành chẳng hiểu đến lớp nào. Ông chồng là bá tước Didelot,
làm công chức cho Tây. Cả quăng đời tuổi thanh xuân này, gần như
không có một ai có thể hé lộ cho biết đời sống hai tiểu thư ra sao.
Nhưng dựa vào một vài sự kiện mà suy đoán thôi. Chẳng hạn, trong một
bài viết của ông Nguyễn Tiến Lăng, con rể cụ Phạm Quỳnh sau này đăng
trên tờ Indochine có kể rằng, trước ngày đám cưới th́ hai chị em đến
ở một căn nhà của gia đ́nh ở đường Nguyễn Du bây giờ, tức quá không
nhớ số, trước ngày ra Huế. Điều đó cho thấy, các cô ở Sài G̣n để đi
học chứ không ở G̣ Công. Thời đó, Sài G̣n chỉ rộng như cái bàn tay.
(2) Nhỏ lắm. Bé lắm. Qua khỏi bến Nhà Rồng, sang Khánh Hội là lau sậy.
Qua khỏi Nancy, chợ Quán là đồng không mông quạnh. Chưa tới cầu
Trương Minh Giảng đă là băi śnh rồi. Các tiểu thư ở đường Nguyễn
Du, mỗi sáng đi nhà thờ th́ băng qua đường Lê Văn Duyệt, tới đường
Bùi Thị Xuân chừng nửa cây số là tới nhà thờ Huyện Sĩ. Nhà thờ này
theo thói quen lấy tên ông Huyện Sĩ hay Lê Phát Dạt v́ chắc là ông
đă công hiến nhiều để xây dựng nhà thờ. Ông Huyện Sĩ lại là bác ruột
các tiểu thư.
Nếp nhà như vậy, vừa giầu có, vừa có ăn học, vừa theo nếp sống Tây
phương với tư tưởng tự do phóng khoáng đă hẳn khác với các "công tử
Bạc Liêu" về lối sống, lối nghĩ, lối giải trí. Lớn lên, cô chị đă
yên một bề chồng con, phần Hoàng Hậu tương lai được cha mẹ gửi sang
Pháp học trường Couvent des Oiseaux.
Có dư luận lẫn lộn Couvent des Oiseaux bên Pháp với bên này, nhân tiện
xin làm sáng tỏ thêm vấn đề này. (3)
Nói thêm chút nữa để chứng tỏ ḿnh có chút uyên bác. Hồi Bà học
Couvent bên Pháp nhà trường hẳn nằm ở phố Ponthieu và Verneuil.
Nhưng hỏi Ponthieu ở đâu th́ quả t́nh mù tịt không biết.
Có sách ghi cô đỗ tú tài Tây rồi mới về, điều này cũng không khẳng định
rơ được. Bảo Đại chỉ ghi: "Elle vient de terminer ses études au
Couvent des Oiseaux, en France". Tất cả thời gian này, không một ai
biết cuộc sống người thiếu nữ Tây học, duyên dáng, hiền thục ra sao.
Chỉ biết, cô đă về nước năm 18 tuổi.
2. CUỘC HÔN NHÂN CỦA CÔ NGUYỄN HỮU THỊ LAN
Cuộc gặp gỡ lần đầu.
Có một câu hỏi được đặt ra là cô Nguyễn Hữu Thị Lan đă quen và gặp Bảo
Đại trong trường hợp nào và ở đâu. Có một số tác giả cho rằng họ
quen nhau trên cùng một chuyến tầu thủy của hăng Messagerie Maritime
về nước như một cuộc t́nh duyên kỳ ngộ, lăng mạn. Một hoàng tử gặp
giai nhân trên một chuyến tầu, yêu nhau rồi quyết định chuyện hôn
nhân. Trên tờ Indochine, có một vài bài viết của ông Nguyễn Tiến
Lăng, một người thân cận của Hoàng Hậu, nhưng tôi cũng không thấy đoạn
nào nói rơ về vấn đề này. Cho dù có đi cùng chuyến tầu không chắc ǵ
đă có thể gặp nhau. Nếu có chuyện đó th́ vua Bảo Đại hà cớ ǵ lại
không nhắc đến trong hồi kư trích dẫn sau đây. Cái tật của người Việt
Nam là hễ có một người viết trật là kéo theo cả lô người khác xuống
hố theo. Dù sao, tôi cũng chẳng dám cả quyết ǵ về điều này.
Nhưng một điều không cần bàn căi nữa là căn cứ vào tập hồi kư "Le
Dragon d'Annam" của vua Bảo Đại là đúng nhất. Vua Bảo Đại cho biết
ông đă gặp Nam Phương Hoàng Hậu ở Đà Lạt, chứ không phải ở trên tầu,
ông đă gặp vào cuối năm 1932. Xin trích dẫn ư của vua sau đây:
"C'est alors qu'à la fin de l'année, m'étant rendu pour quelques
jours à Đà Lạt où séjournait également le gouverneur général
Pasquier, celui-ci, à l'occasion d'une rencontre dans les salons du
Langbian Palace, me présente une jeune fille qui était en compagnie
de Mme Charles, Marie-Thérèse Nguyễn Hữu Hào, appartient à une
famille de riches propriétaires terrien de Cochinchine. Catholique,
comme ses parents elle vient de terminer ses études au Couvent des
Oiseaux, en France. Elle a dix huit ans. (Sách đă dẫn trang 63) Đọc
đọan văn trên, thấy có ǵ là lạ. Chẳng hiểu tại sao cả đám người tai
to mặt lớn lại không hẹn mà gặp nhau ở Đà Lạt. Có bà Charles, người
đỡ đầu cho Bảo Đại đi cùng với cô Lan, bà lại là bạn của gia đ́nh
Nguyễn Hữu Hào. Có bài viết nói ông Lê Phát Đạt dẫn cháu gái đến ra
mắt Bảo Đại. Cô cháu gái lại ỉ ôi năn nỉ chán mới chịu đi, ăn mặc sơ
sài thôi. Tôi thiết nghĩ, ông Đạt không đủ tư cách để đường đột dẫn
cháu gái ra mắt Hoàng Thượng, nếu không có một sắp xếp trước. Cùng lắm
ông chỉ là người thừa hành thôi. Đích thị là có sắp xếp trước, có
toan tính trước giữa bộ ba toàn quyền Pasquier, ông bà Hào và chủ chốt
là bà Charles. Cho dù trước đó có gặp nhau trên tầu trên bè ǵ cũng
không quan trọng. Sau buổi gặp gỡ ở Đà Lạt, kể như định mệnh đă được
an bài rồi. Sự sắp xếp này cũng rất b́nh thuờng và tự nhiên ở cương
vị của Bảo Đại. Vấn đề chính là họ đă yêu nhau và quyết định đi đến
hôn nhân: "Après quelques entretiens, un tendre sentiment nait entre
nous. Nous nous promettons de nous revoir".
Những trở ngại của cuộc hôn nhân.
Theo vua Bảo Đại, từ ngày hồi hương, rất nhiều những tin đồn chung
quanh việc chọn một người vợ cho Ông. Bà Từ Cung đă đành, các vị
quan lớn trong triều, mỗi người đều có người của ḿnh để đề cử. Vua
đă hẳn biết được điều đó và Ông đă nhiều lần cho biết ông quyết định
không chấp nhận chế độ đa thê vẫn thường thấy ở Việt Nam, về những tệ
trạng tranh dành ngôi thứ giữa anh em hoặc anh em cùng cha khác mẹ đến
chỗ đâm chém nhau. Vua Minh Mạng có đến 170 người con và để tránh cảnh
tranh giành ngôi thứ, vua Minh Mạng đă đặt ra tên gọi theo thứ tự đến
20 đời kế tiếp nhau để những ḍng họ theo đó theo thứ tự mà kế vị.
Hai mươi đời đó được khắc vào tờ giấy bằng vàng và tên gọi một người
như thế được coi n giấy Hộ tịch của ḿnh.. Hai mươi chữ đó nằm trong
bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt mà câu dầu gồm những chữ :
Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh
Bảo Quí Định Long Trường
Hiền Năng Kham Kế Thuật
Thể Thoại Quốc Gia Xương
Nhưng mới tới chữ thứ năm trong bài thơ th́ triều đ́nh nhà Nguyễn đă
không c̣n nữa, mặc dầu tên của vua Bảo Đại được lót bằng chữ Vĩnh có
nghĩa là muôn đời. Những ư nghĩa đó c̣n được t́m thấy trong những chữ
tỉnh Thừa Thiên, Vạn Thọ, Long Sàng, chỗ ở của Bửu Long được gọi là
Tứ Phương Vô Sự.
Đă hẳn, hai ông bà Charles, bố mẹ đỡ đầu của vua không thể không bận
rộn trong việc kiếm t́m một người vợ cho vua. Cái khó là ở chỗ đó.
Quá nhiều người, quá nhiều đề cử, nếu không nói là những âm mưu gây
ảnh hưởng nên dễ gây bất đồng ghen tỵ, nói ra nói vô.
Nhưng trở ngại lớn nhất là cô Nguyễn Hữu Thị Lan là người theo đạo
Ky tô giáo. Theo vua Bảo Đại, khi trở về Huế, ông đă bầy tỏ ư định lấy
vợ người theo đạo Kitô giáo và là người đă được đào tạo ở Tây phương.
Nghe tin đó, hẳn nhiên là Bà Từ Cung không đồng ư v́ bà mong muốn một
cô dâu theo truyền thống Á Đông. Quan lại cũng ngấm ngầm chống đối.
Tứ phía chống đối dựa trên quyền lợi cá nhân cũng có, phe phái, miền
cũng có, nại cớ nguyên tắc truyền thống cũng có. Cô dâu "Mới Quá".
Chữ "Mới" có vang vọng muốn đồng nghĩa với thiếu văn hoá đạo đức cổ
truyền. Người ta e ngại cũng phải. Cứ nói tiếng Tây líu la líu lo
cũng đủ ngại rồi. Sự nghi kỵ, thành kiến tranh chấp, hiểu lầm c̣n đầy
dẫy trong dân gian, nhất là trong đầu mỗi người. Đặt ḿnh vào địa vị
vua và hoàng hậu tương lai mới hiểu được sự cam go không thể vượt
qua được của cuộc hôn nhân này. Rồi vấn đề giáo dục con cái theo đạo
Ky tô giáo nữa. Sẽ giải quyết ra sao khi hoàng tử kế nghiệp vua phải
cử hành lễ Tế Nam Giao hoặc thờ cúng tổ tiên. Lấy ai là người ǵn giữ
nếp sống, văn hóa cổ truyền, cúng giỗ tổ tiên của cha ông để lại.
Có một số tác giả đă viết không đúng về vấn đề này. Nhất là giới
Công giáo. Chẳng hạn cho rằng vua Bảo Đại là người đă theo đạo Ki tô
giáo. Thật ra đối với vấn đề tôn giáo, ông Bảo Đại rất thoáng, minh
bạch và rất trung lập. Ông không theo đạo nào cả. Như ông viết: "Au
palais, il n'y avait qu'un Dieu: L'empereur, fils du ciel". Vậy
không hề có chuyện đó. Ngay cả các Hoàng tử, Công Chúa chưa chắc ǵ
đă rửa tội, theo đạo Ki tô giáo. Một điều nữa, dư luận vẫn cho rằng
Hoàng Hậu Nam Phương phải xin phép Vatican rồi mới được lấy chồng.
Nhưng theo hồi kư của Vua Bảo Đại, chỉ sau khi làm đám cưới xong,
ông mới gửi thư cho Giáo Hoàng Piô 11 một lá thư qua trung gian người
Pháp, v́ thời đó ta chưa có liên lạc ngoại giao với Vatican. Nếu
Hoàng Hậu muốn xin phép th́ phải gửi thư qua các cha cố, theo hệ thống
nhà đạo. Cho đến nay, chả có bằng cớ ǵ, chả có văn bản nào cho thấy
có phép chuẩn cả. Có thể chỉ là đồn đại. Vua Bảo Đại gửi thư cho toà
thánh không phải để xin phép, xin tắc ǵ cả mà bầy tỏ lập trường và
quan điểm của vua Bảo Đại. Hăy xem ông viết: "Cette lettre avait
moins pour but de régler la question personnelle de mon mariage et
de l'éducation envisagée pour mes enfants que d'apporter et de
provoquer des éléments de réponse à un conflit ouvert depuis des
siècles et, plus encore, de faciliter la rencontrre entre deux
mondes: l'Occidental et l'Oriental, à travers notre pays d'Annam,
'terre de rencontres', et à travers ma personne qui, pour la
première, et vraisemblablement pour la dernière, par l'éducaion
recue, réunissait les conditions d'une véritable confrontation entre
deux civilisations". Đoạn văn trên của vua Bảo Đại giúp dẹp hết những
bàn tán bên lề, những chuyện tủn mủn thổi phồng về chuyện đám cưới của
ông với cô Nguyễn Hữu Thị Lan.
Những trở ngại mà cô dâu tương lai gặp và phải đương đầu.
Đặt ḿnh vào địa vị Hoàng Hậu Nam Phương mới thấy thấm thía được những
trở ngại, những khó khăn mà Bà phải chịu đựng. Thật quả không dễ ǵ
lấy được một ông vua và cũng không dễ ǵ làm Hoàng Hậu. (4) Nhưng lịch
sử cũng cho thấy không thiếu trường hợp trước đây xứ Nam Kỳ mà có lần
vua Bảo Đại đă gọi là miền đất hứa đă cống hiến cho triều Nguyễn những
người con gái tài ba và sắc đẹp:
- Bà Từ Dũ, tức cô Phạm Thị Hằng là vợ vua Thiệu Trị và là mẹ vua Tự
Dức. Bà là tiêu biểu cho một lớp người phụ nữ đức hạnh, có học vấn,
làm gương sáng cho mọi người trong triều đ́nh.
- Sau
đó đến bà Hồ Thị Hoa, vợ vua Minh Mạng
- và
cuối cùng là Cô Nguyễn Hữu Thị Lan.
Tên của bà là Nam Phương Hoàng Hậu mang ư nghĩa đó, chỉ thị đó là
Hương thơm của miền Nam. Tên đó biểu thị cả nết lẫn người đem lại
vinh dự cho người dân xứ Nam Kỳ. (LTS: tác giả ghi chữ đậm)
Nhưng cái khó lớn lao nhất Bà phải đương đầu v́ Bà là người Công
giáo. Những chỉ dụ cấm đạo hồi nào mới chỉ vừa ráo mực. Ḷng người
chưa ổn. Điều đó cũng chứng tỏ Bà là người có cá tính, can đảm và
trung thành với đạo giáo của Bà. Giả dụ một người đàn bà khác th́
sao? Sẽ bỏ tất cả, sẽ làm tất cả và bằng bất cứ giá nào để được làm
Hoàng Hậu. Hiểu đến cội nguồn mới hiểu được nhân cách của Bà, cái
cao quư của một nhân phẩm và cái trong sáng, ngay thẳng của một người
đàn bà có giáo dục. Chỉ về một điểm này thôi, Bà là người đáng nể trọng.
Qua những người phục vụ chung quanh vua và Hoàng Hậu sau này, mọi
người không kể bất cứ ai đều bầy tỏ ḷng kính trọng và quư mến cái
nhân cách của Bà.
3. NGÀY ĐÁM CƯỚI

Mọi chuyện đă xong. Dư luận cũng tạm ngưng tiếng nói. Những đám mây
mù đă tan. Phần lớn nhờ vào sự cương quyết đến cứng rắn của vua Bảo
Đại. Huế chờ đón một biến cố có một không hai trong lịch sử triều
Nguyễn, một mẫu nghi thiên hạ đến từ miền Nam với những sắc thái mới
đến làm xôn xang mọi người. Một cô gái xinh đẹp nhất miền Nam, Tây học,
con nhà danh gia vọng tộc cộng thêm là một người Ki tô giáo. Bấy
nhiêu thứ đụng vào những sắc thái truyền thống, cổ truyền đă gắn bó
với Huế từ cả mấy trăm năm nay. Huế cổ kính, Huế lăng mạn, Huế trầm
mặc, Huế khép kín, Huế đẹp, Huế thơ. Huế có tất cả, trừ một làn gió
mới. Chuyện đó đă xảy ra.
Vào ngày 20 tháng 3 năm 1934, người con gái đến từ phương Nam mang
theo cả cái hương thơm miền Nam đă quyết định bước qua ngưỡng cửa
hoàng cung, vào Cấm Thành. Và do t́nh yêu gắn liền với định mệnh, một
định mệnh không khỏi có trớ trêu, vào buổi sáng mùa xuân đó, cả một
cuộc đời mới đă mở ra. Bỗng chốc cô trở thành Hoàng Hậu của cả nước.
Từ nay, không c̣n ai nhắc đến cái tên Marie-Thérèse Nguyễn Hữu Thị
Lan nữa. Cô là Nam Phương Hoàng Hậu.
Ḷng chắc đầy cảm xúc suốt hành tŕnh từ trong Nam ra Huế, chen lẫn
lo âu và sung sướng, trong niềm hân hoan không ǵ tả xiết, mỉm cười
chấp nhận những ǵ sắp tới xảy ra cho ḿnh, trong cảm thức ḿnh là
người độc nhất có cái vinh dự làm Hoàng Hậu cả nước. Và trong phẩm
phục áo mầu vàng, một ân huệ đặc biệt mà vua đă dành cho nàng, đầu
nàng đội mũ có kết trân châu bảo ngọc, đi hia mũi nhọn, tay cầm hốt
ngà tiến vào hoàng cung.
Từ bên ngoài nhà khách trú của hoàng cung, cô đă bước lên xe hơi để
đi vào Cấm Thành, qua cửa Hiển Nhơn mà hai bên có những người lính hầu,
chân quấn xà cạp, đứng nghiêm chỉnh như những tượng gỗ.
Buổi lễ đă được diễn ra từ điện Cần Chánh. Hăy nghe Hoàng Thượng kể
lại: "J'ai en effet, décidé d'élever ma femme à la dignité d'impériatrice
dès notre mariage, alors que jusque-là ce titre n'était attribué
qu'à la reine-mère, après le décès de l'empereur. Revêtue de la
longue et ample robe de Cour, chaussée de costumes à la pointe
retounée, coiffée d!une sorte de bonnet enrichi de pierreries, pour
la première fois dans l'histoire de l'Annam, une femme s'avance
seule, saluée par toute la Cour. Toujours seule, elle pénètre dans
la grande salle ̣u je l'attends, assis sur un trône bas" (trang 64).
Vâng, bây giờ, chung quanh đầy bá quan văn vơ, Bà vẫn "seule" và cả
đời bà sau này cũng "toujours seule". Trong suốt hơn 10 năm sống ở
Huế, Bà vẫn seule như thế giữa đám thị nữ, quan thần, ḍng tộc, giữa
những sắc thái dị biệt miền, tiếng nói, tôn giáo, nếp sống văn hoá,
học vấn. Chỉ những sự khác biệt đó thôi cũng đẩy Bà vào tư thế một
ḿnh Và đă theo đuổi suốt cuộc đời c̣n lại của Bà. Ôi nhận xét của Bảo
Dại trong ngày đám cưới không ngờ có tính cách định mệnh oan trái của
đời Bà.
Sau buổi lễ, vua đă đưa Hoàng Hậu về điện Kiến Trung mà trước đó
Ngài đă cho sửa chữa lại thành một cung điện có những tiện nghi mới
theo những tiện nghi bên Âu châu, trong đó có pḥng ăn, pḥng ngủ,
pḥng tiếp khách, pḥng làm việc. Và nhất là pḥng tắm và vệ sinh. Hồi
c̣n trẻ, có dịp ra Huế khá nhiều lần, ở lâu đến một tháng hơn tháng
là thường. Tôi chỉ có một thắc mắc: Chẳng biết vua chúa, cung phi đi
cầu và tắm rửa ở đâu. Cả ngàn người như thế, không thấy một cái cầu
tiêu nhà tắm nào. Đó là nét lạ của Huế. Ai hiểu Huế hơn th́ xin chỉ
cho. Hiểu ra rồi th́ không khỏi buồn cười một ḿnh. Từ nay, Bà ra
vào điện Kiến Trung mà trọng trách của Bà là cùng với vua cai trị thần
dân, đặc trách lo về những vấn đề xă hội theo lời yêu cầu của chính
vua Bảo Đại.
Để kết thúc phần này, xin dẫn lời kể của vua Bảo Đại cho thấy vai
tṛ quan trọng của ông bà Charles trong cuộc hôn nhân này: "Le soir
du mariage, nous invitons M. et Mme Charles à diner. Estimant leur
mission accomplie ils vont repartir pour la France". (trang 64)
Phải nh́n nhận ở đây, lần đầu tiên, vai tṛ người phụ nữ đă thay tên
đổi họ và đă hẳn, cách này cách khác đă ảnh hưởng trực tiếp trên xă
hội người phụ nữ Việt.
4. ĐỜI SỐNG GIA Đ̀NH CỦA HOÀNG GIA
Hoàng Hậu là phụ nữ đầu tiên có tân học, ảnh hưởng nếp sống, nếp
nghĩ Phương Tây, trọng tinh thần dân chủ, trọng ư thức xă hội. Bà
không phải là người chỉ quanh ra quẩn vào chờ cái đèn lồng tối hôm
đó thắp sáng lên, rồi tíu ta tíu tít chuẩn bị son phấn, đón tiếp như
một thứ đồ giải trí cho vua. Bà tham dự vào tất cả. Họp với các quan
bộ lễ, bàn và nghị sự tổ chức các buỗi lễ tế Nam Giao hay lễ Vạn Thọ.
Chẳng hạn, lễ Vạn Thọ khánh tiết mừng sinh nhật vua thường được diễn
ra trong điện Thái Ḥa. Tổ chức lễ Bái Khanh cho mọi người có dịp bầy
tỏ ḷng trung thành đồng thời chúc thọ nhà vua trăm tuổi. Ngoài đường,
các học sinh đi diễn hành, tay cầm cờ Long Tinh, hát bài đăng đàn diễn
hành qua cửa Ngọ Môn. Bên trong hoàng thành th́ tổ chức các màn múa
hát do các nữ học sinh trung học tŕnh diễn và màn dâng hoa cho
Hoàng Thượng và Hoàng Hậu. Nên nhớ là không có những màn hát hoặc tuồng
tích cổ nữa. Cũng nên nhớ là con trai chỉ được đi diễn hành ngoài đường,
ở ngoài hoàng thành mà thôi. Chỉ nhớ lại các buổi lễ chúc thọ vua với
lề lối tổ chức, cho nữ sinh vào ca hát, dâng hoa, người ta hiểu những
quyết định đổi mới đến từ đâu rồi.
Bà cũng là người phụ nữ đầu tiên ở nước ta cùng vua tiếp khách ngoại
quốc như Thống chế Tưởng Giới Thạch, Quốc trưởng Shianouk. Cái mà
bây giờ người ta gọi là vai tṛ đệ nhất phu nhân.
Bà cũng là Hoàng Hậu đầu tiên xuất cung, tham gia các sinh hoạt xă hội
như đă đi thăm các cô nhi viện, trường nữ Trung học Đồng Khánh Huế,
Hànội, các cô nhi viện hoac cơ sở Xă hội v.v..
Ngày chủ nhật, Bà đi lễ nhà thờ Phủ Cam như mọi người dân b́nh thường.
Cũng là chuyện lạ. Đó là người phụ nữ theo Kitô giáo đầu tiên trong
ngôi vị Hoàng Hậu, ngôi vị mà ngày nay nghĩ lại cũng khó mà tưởng ra
là có thực. Sáng sớm tinh mơ, Bà ra khỏi Hoàng Cung, không ngồi kiệu
với màn che phủ kín làm bà khó chịu như ngồi trong cũi. Nội điều đó
thôi cũng có thể gây ra những xầm ś to nhỏ. Lần đầu tiên, trong
Hoàng cung, triều d́nh nhà Nguyễn, vóc dáng một người phụ nữ uy nghi,
đoan trang đem lại những nét đổi mới trong sinh hoạt cung đ́nh : giản
dị hoá lễ nghi, giản dị trong những tương quan giao tiếp giữa bầy
tôi và chủ, tư tưỏng phóng khoáng, ngay thẳng, ghét những xun xoe xu
nịnh, những lời xàm tấu. Lần đầu tiên, một người phụ nữ Việt Nam củng
vua tiếp đón các nguyên thủ quốc gia khác trong vai tṛ đệ nhất phu
nhân như bây giờ. Toàn quyền Decoux đă hết lời khen ngợi bà là người
đức hạnh, nề nếo, một sự tổng hợp hai nền văn hoá đạo đức Dông Tây.
Về phía quốc tế, Hoàng Hậu đă nhận được những bằng khen của Hàn Lâm
Viện Y khoa Pháp và của Hội Hồng Thập Tự Quốc tế.
Chắc chắn và không thể chối căi được sự có mặt trong Hoàng Cung của
Bà đă thay đổi bộ mặt Hoàng Cung. Nhưng điều quan trọng hơn cả, Bà
trở thành biểu tượng, mẫu h́nh lư tưởng cho tất cả giới phụ nữ Việt
Nam noi theo.. Nhất định giới phụ nữ Việt Nam nhờ vào Bà đă trở
thành tấm gương để mọi phụ nữ noi theo. H́nh ảnh người phụ nữ nhờ đó
được cải thiện, nâng cao và đổi mới.
Bà có năm người con lần lượt là Bảo Long, Phương Mai, Phương Liên,
Phương Dung và Bảo Thắng. Ngày thái tử Bảo Long ra đời, mồng 4
tháng 01, năm 1936 đă thi hành đúng như trong sách Hội Điển, người
ta đă bắn 7 phát súng thần công để loan báo tin mừng. Phải bắn 7
phát, v́ theo tục lệ, đàn bà 9 vía c̣n đàn ông 7 vía.
Gia đ́nh Hoàng gia theo lối sống mới ra bên ngoài như vua thường lái
xe đi nghỉ hè ở Nha Trang, Đà Lạt... (5) Hoặc đi trên du thuyền Phi
Long, đi câu cá ở biển Nha Trang để tránh nóng oi bức ở Huế. Cũng tại
Đà Lạt, gia đ́nh Hoàng gia có dịp đoàn tụ với ông bà bá tước và các
con của gia đ́nh này. Đôi khi Hoàng Hậu cũng theo vua đi câu hoặc đi
săn thú rừng ở Ban Mê Thuột hay Đà Lạt.
Đây là những ngày tháng tương đối êm đềm và hạnh phúc của đời Bà.
5. NHỮNG NGÀY THÁNG ĐEN TỐI
Có được hơn mười năm êm ấm hạnh phúc. Những tháng ngày c̣n lại báo
hiệu những đám mây mù phủ kín tâm tư. Tháng 9 năm 1945, vua Bảo Đại
do sự thúc ép của Việt Minh buộc phải từ chức, thoái vị và nhận chức
cố vấn bù nh́n cho Hồ Chí Minh. Cuộc tiễn đưa cựu Hoàng ra Hà Nội đầy
bất trắc rủi ro. Rủi ro về chính trị đă đành. Vậy mà rủi ro đến hạnh
phúc gia đ́nh lại là điều có thực. Những tin đồn về những cô gái Hà
Nội và cả những mệnh phụ đă không thư từ mà vẫn tới Huế. Lư Lệ Hà là
một trong số những người đó. Trong hồi kư của Trần Văn Đôn, ông đă
nói trắng ra một mệnh phụ phu nhân, bà TVC nữa. Sự đời sao có thể éo
le thế.
Trong dịp Phan Khắc Ḥe về Huế, người đă bán đứng Bảo Đại, Hoàng Hậu
đă hỏi thẳng Hoè về Lư Lệ Hoa. Hoè xác nhận là có thực c̣n nói thêm
đó là một cô gái đẹp. Hoàng Hậu bị xúc phạm nặng nề, nhưng vẫn giữ sự
im lặng vốn có của Bà, vẫn nhờ Ḥe cầm một số tiền gửi ra cho Bảo Đại
chi dùng. Chẳng hiểu Phạm Khắc Hoè và Việt Minh có dính dáng ǵ đến
việc hủ hoá của Bảo Đại hay không. Nào ai biết được. Những người như
ông Mai Văn Hàm đă tài trợ cho Bảo Đại ăn ở Hà Nội lẽ nào hại Bảo Đại
đến thế. Nhưng hoàng thân anh em họ với Bảo Đại không lẽ cũng có cổ
phần vốn phá hoại gia đ́nh ông Bảo Đại chăng? Chuyện đời khó biết được.
Danh sách những người đẹp lăng nhăng với Hoàng thượng thêm dài, một
cô gái Tầu Hồng Kông, Phi Anh và nhất là Mộng Điệp.
Không thiếu những mệnh phụ tỉ tê, xàm tấu với Bà. Bà nghe đă nhiều,
thường giữ thái độ im lặng, có thể phần không muốn nghe, phần đă quá
rơ, phần tự ái không muốn ai nhắc tới. Có thể c̣n muốn bảo vệ uy tín
hoàng tộc và cho cả con cái Bà. Cứ thế, Bà ẩn nhẫn chịu đ̣n một ḿnh
theo cái cách của người được ăn học, ngưới có nhân cách.
Bà đă tự chọn con đường của ḿnh phải đi, từ giă vinh hoa, phú quư
và nhất là chấp nhận sự quên lăng của Hoàng thượng.
V́ vậy, kể từ năm 1950, ḍng họ Nguyễn với Bảo Đại kể như không c̣n
ở trong mắt Bà nữa.
Năm 1950, con gái út mới 8 tuổi, ai có thể chia xẻ nỗi đau của Bà.
Bà có thể làm ǵ được để gánh nổi cái gia tài Bảo Đại đă để lại. Bà
quyết định mang các con sang Pháp, phần lo chuyện học hành của chúng
là chính, phần tránh xa những nhớp nhúa của dư luận. Bạn bè cũ nay
c̣n ai. Gần không c̣n ai.
Bà ra đi, Bảo Đại càng đi xuống. Nay th́ có những tôi thần như Bảy
Viễn, Phan Văn Giáo cung cấp cho ông tất cả những ǵ cần thiết ở đời:
tiền bạc và gái đẹp.
Phải chăng, ông chán ngán thế sự để buông rơi vào chỗ bê tha. Phải
chăng ông chán ngán t́nh đời đi t́m quên đời bằng thân xác người phụ
nữ. Lấy cái ǵ để bào chữa cho ông trong việc phẩy tay chuyện đất nước.
Viết về ông thấy cả đời ông chẳng làm đuợc tích sự ǵ, ông chỉ làm
được một điều tốt là cả đởi làm chính trị ông chẳng làm hại ai bao
giờ, dù là những người đă bỏ ông như Ngô Đ́nh Diệm và nhất là Hồ Chí
Minh. Cả cuốn sách ông viết, chẳng bao giờ thấy ông hạch tội hay nặng
nhẹ với những người như ông Ngô Đ́nh Diệm. Vậy mà tôi vẫn oán giận
ông, chắc là tôi không cần nói ra, ông vẫn khắc hiểu hơn ai hết.
Nhưng dù sao, mọi chuyện cũng đă quá muộn rồi. Nói ǵ nữa bây giờ
cũng vô ích.
Riêng Hoàng Hậu, tháng ngày c̣n lại ở bên Pháp đă từng bước, bước đến
chỗ để về. Mỗi ngày, mỗi năm tháng cứ héo ṃn đi như cái cây không
có nước, cứ ủ rũ cho đến lúc tàn lụi. Ngày một, ngày hai, mỗi ngày vẫn
phải chạm chán với cuộc sống thực bên ngoài và nỗi cô đơn bên trong.
Nổi cô đơn từ mọi phía, nỗi cô đơn că đời. Đến như tôi có thể dám thốt
ra lời này : Chỉ nh́n con mắt, cảm nghiệm được đời bà là một niềm
cô đơn. Dừng ai hạch hỏi tôi tại sao nói thế.
Lại thêm vật chất không dư giả như trước nữa, sức khỏe suy yếu v́ bệnh
suyễn và tim. Tháng ngày vẫn trôi qua, dần dần những trông đợi thù
đáp nơi người, niềm hy vọng có ngày trở lại bị xói ṃn sẽ dấy lên những
câu hỏi về cuộc đời, về cớ sự đa đoan, về t́nh người và cuối cùng về
t́nh vợ chồng.
Bà sống cô đơn thế nào th́ mất im lặng như thế ngày 14-9-1963 tại
làng Chabrignac. Bên cạnh chỉ có hai hoàng tử và ba công chúa sau mới
về. Thực sự chỉ có hai người giúp việc bên cạnh lúc Bà mất.
Phần đời Bà, c̣n rất nhiều điều chưa được sáng tỏ c̣n nằm trú ẩn
trong vùng bóng tối của đời Bà. Nhưng phải chăng chính cái phần bóng
tối này lại là nơi trú ẩn an toàn nhất mà Bà muốn giữ lại đem về bên
kia thế giới.
Và nếu thực sự như thế th́ chúng ta chỉ c̣n biết tôn trọng ư nguyện
của Bà và phải chăng Bà đă ra đi và không c̣n ǵ để nhắn gửi và nói
lại nữa. Một ngôi sao đă đổi ngôi. Số phận Bà có ǵ trùng hợp với phận
người phụ nữ nói chung. Có lẽ cần suy nghĩ thêm vẫn chưa muộn.
Nguyễn văn Lục
------------------------------------
Chú thích
(1) Trong cuốn Thuyền ai đợi bến Vân Lâu của Nguyễn
Lư Tưởng có đặt vấn đề vua Bảo Đại là con ai? Xét ra cũng là một đề
tài lư thú để bàn. Do sự quan hệ với một vài liên hệ với hoàng tộc,
tài liệu cho biết, Bảo Đại là con vua Khải Định, nhưng mẹ là bà
Hoàng Thị Cúc vốn chỉ là người hầu trong cung. Khải Định h́nh như
không có con, nhưng khi bà Hoàng Thị Cúc có mang th́ Thái Hậu, Đức
Chánh Cung tra khảo đánh đập, hoàng tử Bửu Đảo, tức Khải Định đă đứng
ra xin như sau: "Thưa A, thai nhi trong bụng Hoàng Thị Cúc chính là
con của hài nhi. V́ ḍng dơi của ḿnh (vua Đồng Khánh) hiếm muộn,
nên ả tha cho Hoàng Thị Cúc và cho phép hài nhi được cười nàng làm
thiếp. Ấy là theo lời kể lại của bà Nguyễn Thị Vy, cháu nội ông Nguyễn
Hữu Độ (Phụ chính đại thần vua Đồng Khánh). Một dẫn chứng khác qua lời
nói lại của ông Bửu Uyển th́ trước 75, bà Từ Cung (mẹ vua Bảo Đại),
lúc đó đă ngoài 80, đă kể lại cho con cháu nghe, trong đó ông Bửu Uyển
cũng có mặt. Theo đó, Đức Từ Cung cho biết, lúc làm gái hầu cho Ngọc
Lâm Công Chúa, con vua Đồng Khánh. Công Chúa thường sai bà mang thư
cho Bửu Đảo, (hai nguời trao đổi thơ xướng họa với nhau). Hai người
ăn nằm với nhau, sau đó bà có thai và sinh ra Vĩnh Thụy, tức vua Bảo
Đại sau này. Cả hai nguồn tin đều xác nhận Bửu Đảo ăn ở với Hoàng Thị
Cúc, rồi có con. Chính sử không có, đành tin vào những nhân chứng sống.
Điều chính là bà Hoàng Thị Cúc, sau này là Đức Từ Cung là mẹ vua Bảo
Đại. Chừng đó đủ rồi. (Xem Thuyền Ai Đợi Bến Vân Lâu, trang 395-401,
của Nguyễn Lư Tưởng)
(2) Theo Hoeffel, trích trong Indochine "Bài La région Saigon,
Cholon". Sài G̣n, Chợ Lớn lúc bấy giờ chỉ rộng có 5000 mẫu Tây, chiều
dài từ Đông sang Tây là 15 kilô mét và chiều rộng có vỏn vẹn 6 kilô
mét.
(3) "La naissance de Dalat", của ông A.Baudrit viết: Đà Lạt được
khám phá ra vào năm 1893. Sau đó măi đến năm 1898, người ta mới khai
thác được một vùng để làm một cái vườn với mục đích cung cấp rau cho
đoàn nguời lên công tác. V́ thế, vườn rau đặt tên là "Ferme de
Dankin". Sau đó, tác giả tự đặt câu hỏi "Est-ce alors que commenca
la création de Dalat". Hỏi rồi tự ḿnh trả lời: "Pas encore". Nhưng
điều sau đây mới thực sự quan trọng và có ư nghĩa. Trong một bài báo
khác giấy nhiều chỗ đă mủn và rách, vừa đọc, vừa đoán ṃ không rơ
tên tác giả có ghi chép: vào năm 1934, Giáo Hoàng Pio 11 mới yêu cầu
mẹ bề trên Cả của ḍng đưa các sơ ra hải ngoại. Cái duyên là họ đă
quyết định sang truyền giáo ở bên Việt Nam. V́ thế, họ đă thiết lập
hai trường: một ở Đà Lạt, một ở Hà Nội, khu Ngọc Hà. Nhưng măi đến
năm 1937, trường sở mới được xây dựng xong. Trong khi đó Cô Nguyễn Hữu
Thị Lan đă làm đám cưới với vua Bảo Đại từ năm 1934. Như thế cả hai
chị em quả thực không thể nào học Couvent des Oiseaux được. Chỉ có
sau này, khi đă lên ngôi Hoàng Hậu, bà có ghé thăm trường mà thôi.
(4) Năm 1927, có bài viết "Le mariage d'une princesse d'Annamite"
trên báo Thần Kinh. Tờ Nam Phong , năm 1923, số 69 cũng có bài viết
tương tự. Năm 1934, trên Bulletin des Amis du vieus Hue ( BAVH ),
trang 145-168 , trong một bài viết có nhan đề "Cérémoniale
d'autrefois pour le mariage des princesses d'Annam" của L. Sogny.
Khi các công chúa được 16 tuổi th́ bắt đầu phải để ư đến chuyện gả
chồng cho các cô rồi. Thoạt đầu, người ta chọn ra một danh sách các
con, cháu, ngay cả đến chắt các công thần nộp lên vua. Vua chấm dấu
đỏ vào tên anh nào, anh đó có may mắn được làm pḥ mă. Sự cố xảy ra
sau đây thêm phiền phức vô kể. Lúc Thiệu Trị mất theo tục lệ, mọi
chuyện cưới hỏi phải ngưng để tang vua cha. Đến Tự Dức thứ tư, nghĩa
là năm 1854, số các công chúa chưa chồng trong 3 năm lên đến 30 cô,
tất cả gồm các con của Minh Mạng, Thiệu Trị gom lại. Lúc đó, nhiều
công chúa đă quá tuổi 16 thuộc loại già cỗi (Abricot murissant),
chưa có ai rước đi. Trong số các công chúa, nhiều cô xấu xí lại càng
khó kiếm chồng hơn. Dư luận thời đó đồn thổi có nhiều con trai các
công thần sợ phải lấy mấy công chúa hoặc v́ quá lớn tuổi, hoặc xấu
không hợp nhăn đành đánh bài ba chân bốn cẳng chốn mất dạng. Triều
đ́nh không biết làm thế nào đành phá lệ tuyển bổ xuống hàng quan lại
thường. Nào đă xong, c̣n xem tuổi tác công chúa có hợp không đă. Rồi
cho tên tất cả những ứng viên đó vào trong hộp sắt, lắc đều, công
chúa bắt trúng tên ai th́ nguời đó đuợc làm pḥ mă. Công chúa chỉ biết
mặt lúc đám cưới nên cũng t́m đủ cách để xem mặt pḥ mă tương lai là
ai. Cũng nhiều cảnh cuời ra nước mắt.
Thủ tục cưới hỏi cũng nhiêu khê phiền toái lắm, vất vả lắm. Từ lễ nạp
thai đến vấn danh, rồi nạp trưng, nạp cát, sau đến lễ thân nghinh và
hiệp cẩn, công chúa và pḥ mă ăn chung một miếng thịt một con vật, rồi
uống rượu.
Mọi chuyện xong th́ mỗi pḥ mă được thưởng 3 ngh́n lạng bạc để mua
nhà ở, gọi là phủ, cộng với 3 vạn lạng để sắm sửa quần áo, đồ dùng
và đồ trang sức v.v.. Ngoài ra, pḥ mă c̣n có 50 người hầu, có một đội
trưởng do triều đ́nh ứng trả chi phí lương bổng.
Ôi trùng trùng điệp hết lễ này đến lễ kia. Cưới xong cũng trầy da,
chóc vẩy. Cũng nên nhớ, chỉ có vua là có cung phi cung nữ, bao nhiêu
cũng được. C̣n pḥ mă th́ không được quyền có vợ hai, chỉ trừ khi
công chúa không có con.
(5) Nhân đây, có đọc được một bài báo khá lư thú, đề cập đến đến
chuyện du xuân đặc biệt của vua Đồng Khánh. Bài báo c̣n lư thú hơn nữa
là tác giả Phan Thuận An, tự nhận là "nhà nghiên cứu Huế". Gọi là
nghiên cứu chứ thật ra ông đă dịch và chép nguyên con một bài của
Cosserat, trong BAVH, Huế từ trang 301 đến trang 306, có nhan đề là
"Les Fêtes du Tết en 1886 à Hue. Promenade du roi". Trong đó,
Cosserat chép lại bài tường thuật của phóng viên báo Figaro, lúc đó
cũng có mặt ở Huế. Thật ra chả nên làm thế để làm ǵ. Nội dung bài
báo lại tỏ ra không nắm vững cho lắm. Từ lúc thay thế vua Hàm Nghi,
Đồng Khánh chỉ là thứ bù nh́n dễ sai bảo của người Pháp. V́ thế tướng
Prudhomme, lúc đó đang ở Huế đă yêu cầu nhà vua phải xuất hiện ngoài
hoàng cung để cho dân chúng biết là vua không bị quản thúc. Mục đích
của Prudhomme chỉ có vậy.
Và đơn giản chỉ có vậy.
|