Nam Phương Hoàng Hậu

 


Nguyễn văn Lục

 

 

Câu chuyện một con tem

 

 

 

 

 

Cách đây hơn nửa thế kỷ, đúng ra là vào khoảng những năm 1943-1946 ǵ đó, tôi đang chỉ là một chú bé nhà quê. Thế giới chung quanh tôi chỉ có mẹ và mấy chị. Nhưng không nhớ bằng cách nào, tôi được nh́n thấy h́nh Hoàng Hậu Nam Phương trên mấy con tem . Chỉ bằng mấy con tem đủ ấp ủ h́nh ảnh người phụ nữ hiền lành, phúc hậu đến cả đời. H́nh ảnh con tem đó cứ như thế giữ măi trong ḷng, trong kư ức chả quên được. Con tem nhỏ xíu h́nh một người phụ nữ, chít khăn vàng, áo dài. Quá nhỏ để nhận ra chân dung người đó, cũng quá nhỏ để biết được con người. Vậy mà h́nh ảnh đó có sức thu hút, đeo đuổi măi cho đến bây giờ. Kư văng sự việc th́ có thể quên. Nhưng dấu ấn t́nh cảm, niềm kính trọng người phụ nữ đó th́ không. H́nh ảnh qua con tem nhỏ bé toả ra sự uy nghiêm, trang trọng, quư phái, nhưng dung dị hiền từ. Dôi mắt có vẻ buồn, Sốn mũi cao. Đẹp không chê vào đâu được. Vẻ đẹp kín đáo, nhưng có sức thu hút khó quên được. Hỏi nhiều người cỡ tuổi tôi cũng đều nhận như thế. Nhưng nó lại không có cái nét kiêu kỳ hănh tiến như những người sang trọng giầu có. Nhất là con mắt có cái nh́n thẳng thắn, đầy độ lượng. Nhiều người sau này nh́n ảnh Hoàng Hậu sau cũng phải nhận một điều: Hoàng Hậu có nét uy nghi, đoan trang và phúc hậu. Chỉ tội buồn.


Sao Hoàng Hậu lại buồn thế..


Xin dẫn một chứng từ của một cô nữ sinh thời 1937-1941 nhắc lại kỷ niệm gặp gỡ Hoàng Hậu Nam Phương, viết trong tập san Dồng Khánh : Hànội, mái trường thân yêu. Dược sĩ Nguyễn thị Huyền, vửa mất năm ngoái đă viết lại cảm tuởng của ḿnh như sau :* Ngày Bà Nam Phương đến thăm lớp, cô Thục Viên, giáo sư Pháp Văn vẫn đứng trên bục giảng ch́a tay đứng bắt tay Hoàng Hậu và từ tốn trả lời các câu hỏi của Hoàng Hậu, không hề mất chủ động. Trong khi đó Nguyễn tiến Lăng, người đi cùng Hoàng Hậu muốn tâu gửi ǵ với Hoàng Hậu đều quỳ xuống đất. Cô xin phép tiếp tục giảng. Hoàng Hậu dự giảng và sau đó cho gọi học sinh giỏi Văn lớp là chị Nguyễn thị Thứ lên thưởng cho một bức ảnh do Hoàng Hậu kư tên. Thái độ đường hoàng của cô đă gây cho chúng tôi một niềm tự hào chính đáng, trong lúc ấy chúng tôi cũng thích vẻ đẹp dịu dàng Dông Phương và thái độ b́nh tĩnh không có vẻ ǵ hách dịch của Nam Phương Hoàng Hậu*. Một trong những học tṛ có mặt bữa hôm ấy là cô Ngô thị Ngà, nguyên giáo sư Trưng Vương đă cho biết cảm tưởng : Mê cái vẻ đẹp dịu dàng của Hoàng Hậu và v́ thế sau này cô đặt tên cho một cô con gái là Thu Phương, tức Hương mùa thu nhắc nhớ đến tên Hoàng Hậu Nam Phương, hương miền Nam.


Hôm nay ngồi viết lại một chút cuộc đời Bà mà h́nh như Bà đang ngồi trước bàn máy. Sự biết về Bà quá ít, mầy ṃ sách vở đủ loại, lục lọi chỗ này chỗ kia cũng chỉ là những mảnh vụn rời rạc, cũng không thấy bóng dáng Bà đâu cả. Cũng chả thu thập được nhiều nhọm ǵ. Người đời coi ra vô t́nh với Bà đă đành, sách vở sử học cũng vậy.


Ngay trong hồi kư của vua Bảo Đại, "Le Dragon d'Annnam", (1) tôi đă lật đi lật lại nhiều lần, chỉ thấy loáng thoáng từ trang 62 đến 68 nói về cuộc hôn nhân của nhà vua hơn là nói về Hoàng Hậu. Tôi đành ḷng với một ít tài liệu trong báo Indochine vào những năm 1942-43-44 với vài bài của Nguyễn Tiến Lăng và một vài người bạn Pháp của gia đ́nh. Bài viết về Bàø của Cù huy Cận không có trong tay. Cuốn sách quan trọng của Phạm khắc Hoè : từ Triều đ́nh Huế đến chiến khu Việt Bắc và Kể chuyện vua quan nhà Nguyễn chỉ được đọc những đọan trích dẫn mà nội dung quả thực khiếm nhă và tuyên truyền nhiều hơn là sự thực. Một số bài báo trên các báo chí Hải ngoại thường viết thiếu dữ kiện khả tín, viết cho có mà thôi.


V́ thế, cũng chả thu tập được bao nhiêu. Thật là bất công với Bà quá và cũng vô t́nh quá. Chỉ xin lấy tấm ḷng đáp lại được phần nào hay phần ấy.



1.- THỜI CON GÁI



Cô Nguyễn Hữu thị Lan Marie Thérèse là con một nhà điền chủ, đất G̣ Công. Bố được Tây cho đi học ở Pháp về, rồi mở đồn điền trà và cà phê ở cao nguyên Trung phần. Các điền chủ khác thường ít chữ nên chỉ loay hoay với ruộng, vườn tược, sống nhờ bổng lộc từ đó mà ra. Nhưng ông bà Nguyễn Hữu Hào có vốn Tây học, có đầu óc nên mới nghĩ đến khai thác đồn điền. Vào thời kỳ đó, khoảng những năm 1920-30, báo Nam Kỳ địa phận ra hàng tuần đă khuyến khích người Annam khai thác đồn điền, mở mang kinh doanh, kỹ nghệ để cạnh tranh với người Tây và cả với người Tầu như trong lời mở đầu của tờ báo: "Tờ báo có ư khai đàng văn minh cho nhân dân đặng tấn phát cho bề đạo việc đời đều thông thuộc. V́ thế trong nhựt báo 'sẽ biện luận về những điều đạo lư, phong hóa, bá nghệ, bác học và văn tin... nên sự ǵ tốt và hữu ích th́ đem đặng vô hết'". (trích lại trong bài Chữ Quốc Ngữ, giai đoạn sơ khởi của chính tác giả).


Nhà chỉ có hai chị em, chị là Agnès Nguyễn Hữu Hào đă hẳn có nếp sống văn minh thành thị của lớp dân giầu có. Cuộc sống hai chị em cứ khách quan mà nói là sung sướng, đầy đủ, được cưng chiều. Họ đă sống tuổi thanh xuân êm đềm và mơ mộng. Và có lẽ đó là giai đoạn hạnh phúc nhất đời của người thiếu nữ sau này làm Hoàng Hậu. Theo những bức h́nh chụp trong tờ Indochine th́ cả hai chị em đều cao lớn hơn hẳn những người phụ nữ Việt Nam b́nh thường. Tôi mê bức ảnh Hoàng Hậu chải tóc rẽ, vấn khăn và nh́n nghiêng bên trái, không nh́n thẳng. Những bức ảnh mặc đầm, hay những bức ảnh mặc triều phục, hoặc ngay cả ngày cưới coi cũng được được vậy thôi. Theo cách nh́n của tôi, có nhẽ cô Agnès không lấy ǵ làm xinh xắn lắm, gương mặt xương xương, thiếu đầy đặn. Nhất là thiếu cái nét đoan trang, dịu hiền như cô Lan. Tôi cứ nghĩ, phải cám ơn ông cái ông Tây nào đó đă chụp những bức h́nh mà Nam Phương Hoàng Hậu đẹp như thế, lột được cả cái hồn, cái phần sâu thẳm của đời sống bên trong. Phần cô Agnès, có vẻ Tây hơn. Cô đă lấy chồng sớm, học hành chẳng hiểu đến lớp nào. Ông chồng là bá tước Didelot, làm công chức cho Tây. Cả quăng đời tuổi thanh xuân này, gần như không có một ai có thể hé lộ cho biết đời sống hai tiểu thư ra sao.
Nhưng dựa vào một vài sự kiện mà suy đoán thôi. Chẳng hạn, trong một bài viết của ông Nguyễn Tiến Lăng, con rể cụ Phạm Quỳnh sau này đăng trên tờ Indochine có kể rằng, trước ngày đám cưới th́ hai chị em đến ở một căn nhà của gia đ́nh ở đường Nguyễn Du bây giờ, tức quá không nhớ số, trước ngày ra Huế. Điều đó cho thấy, các cô ở Sài G̣n để đi học chứ không ở G̣ Công. Thời đó, Sài G̣n chỉ rộng như cái bàn tay. (2) Nhỏ lắm. Bé lắm. Qua khỏi bến Nhà Rồng, sang Khánh Hội là lau sậy. Qua khỏi Nancy, chợ Quán là đồng không mông quạnh. Chưa tới cầu Trương Minh Giảng đă là băi śnh rồi. Các tiểu thư ở đường Nguyễn Du, mỗi sáng đi nhà thờ th́ băng qua đường Lê Văn Duyệt, tới đường Bùi Thị Xuân chừng nửa cây số là tới nhà thờ Huyện Sĩ. Nhà thờ này theo thói quen lấy tên ông Huyện Sĩ hay Lê Phát Dạt v́ chắc là ông đă công hiến nhiều để xây dựng nhà thờ. Ông Huyện Sĩ lại là bác ruột các tiểu thư.


Nếp nhà như vậy, vừa giầu có, vừa có ăn học, vừa theo nếp sống Tây phương với tư tưởng tự do phóng khoáng đă hẳn khác với các "công tử Bạc Liêu" về lối sống, lối nghĩ, lối giải trí. Lớn lên, cô chị đă yên một bề chồng con, phần Hoàng Hậu tương lai được cha mẹ gửi sang Pháp học trường Couvent des Oiseaux.


Có dư luận lẫn lộn Couvent des Oiseaux bên Pháp với bên này, nhân tiện xin làm sáng tỏ thêm vấn đề này. (3)


Nói thêm chút nữa để chứng tỏ ḿnh có chút uyên bác. Hồi Bà học Couvent bên Pháp nhà trường hẳn nằm ở phố Ponthieu và Verneuil. Nhưng hỏi Ponthieu ở đâu th́ quả t́nh mù tịt không biết.


Có sách ghi cô đỗ tú tài Tây rồi mới về, điều này cũng không khẳng định rơ được. Bảo Đại chỉ ghi: "Elle vient de terminer ses études au Couvent des Oiseaux, en France". Tất cả thời gian này, không một ai biết cuộc sống người thiếu nữ Tây học, duyên dáng, hiền thục ra sao. Chỉ biết, cô đă về nước năm 18 tuổi.


2. CUỘC HÔN NHÂN CỦA CÔ NGUYỄN HỮU THỊ LAN

Cuộc gặp gỡ lần đầu.


Có một câu hỏi được đặt ra là cô Nguyễn Hữu Thị Lan đă quen và gặp Bảo Đại trong trường hợp nào và ở đâu. Có một số tác giả cho rằng họ quen nhau trên cùng một chuyến tầu thủy của hăng Messagerie Maritime về nước như một cuộc t́nh duyên kỳ ngộ, lăng mạn. Một hoàng tử gặp giai nhân trên một chuyến tầu, yêu nhau rồi quyết định chuyện hôn nhân. Trên tờ Indochine, có một vài bài viết của ông Nguyễn Tiến Lăng, một người thân cận của Hoàng Hậu, nhưng tôi cũng không thấy đoạn nào nói rơ về vấn đề này. Cho dù có đi cùng chuyến tầu không chắc ǵ đă có thể gặp nhau. Nếu có chuyện đó th́ vua Bảo Đại hà cớ ǵ lại không nhắc đến trong hồi kư trích dẫn sau đây. Cái tật của người Việt Nam là hễ có một người viết trật là kéo theo cả lô người khác xuống hố theo. Dù sao, tôi cũng chẳng dám cả quyết ǵ về điều này.


Nhưng một điều không cần bàn căi nữa là căn cứ vào tập hồi kư "Le Dragon d'Annam" của vua Bảo Đại là đúng nhất. Vua Bảo Đại cho biết ông đă gặp Nam Phương Hoàng Hậu ở Đà Lạt, chứ không phải ở trên tầu, ông đă gặp vào cuối năm 1932. Xin trích dẫn ư của vua sau đây: "C'est alors qu'à la fin de l'année, m'étant rendu pour quelques jours à Đà Lạt où séjournait également le gouverneur général Pasquier, celui-ci, à l'occasion d'une rencontre dans les salons du Langbian Palace, me présente une jeune fille qui était en compagnie de Mme Charles, Marie-Thérèse Nguyễn Hữu Hào, appartient à une famille de riches propriétaires terrien de Cochinchine. Catholique, comme ses parents elle vient de terminer ses études au Couvent des Oiseaux, en France. Elle a dix huit ans. (Sách đă dẫn trang 63) Đọc đọan văn trên, thấy có ǵ là lạ. Chẳng hiểu tại sao cả đám người tai to mặt lớn lại không hẹn mà gặp nhau ở Đà Lạt. Có bà Charles, người đỡ đầu cho Bảo Đại đi cùng với cô Lan, bà lại là bạn của gia đ́nh Nguyễn Hữu Hào. Có bài viết nói ông Lê Phát Đạt dẫn cháu gái đến ra mắt Bảo Đại. Cô cháu gái lại ỉ ôi năn nỉ chán mới chịu đi, ăn mặc sơ sài thôi. Tôi thiết nghĩ, ông Đạt không đủ tư cách để đường đột dẫn cháu gái ra mắt Hoàng Thượng, nếu không có một sắp xếp trước. Cùng lắm ông chỉ là người thừa hành thôi. Đích thị là có sắp xếp trước, có toan tính trước giữa bộ ba toàn quyền Pasquier, ông bà Hào và chủ chốt là bà Charles. Cho dù trước đó có gặp nhau trên tầu trên bè ǵ cũng không quan trọng. Sau buổi gặp gỡ ở Đà Lạt, kể như định mệnh đă được an bài rồi. Sự sắp xếp này cũng rất b́nh thuờng và tự nhiên ở cương vị của Bảo Đại. Vấn đề chính là họ đă yêu nhau và quyết định đi đến hôn nhân: "Après quelques entretiens, un tendre sentiment nait entre nous. Nous nous promettons de nous revoir".


Những trở ngại của cuộc hôn nhân.


Theo vua Bảo Đại, từ ngày hồi hương, rất nhiều những tin đồn chung quanh việc chọn một người vợ cho Ông. Bà Từ Cung đă đành, các vị quan lớn trong triều, mỗi người đều có người của ḿnh để đề cử. Vua đă hẳn biết được điều đó và Ông đă nhiều lần cho biết ông quyết định không chấp nhận chế độ đa thê vẫn thường thấy ở Việt Nam, về những tệ trạng tranh dành ngôi thứ giữa anh em hoặc anh em cùng cha khác mẹ đến chỗ đâm chém nhau. Vua Minh Mạng có đến 170 người con và để tránh cảnh tranh giành ngôi thứ, vua Minh Mạng đă đặt ra tên gọi theo thứ tự đến 20 đời kế tiếp nhau để những ḍng họ theo đó theo thứ tự mà kế vị. Hai mươi đời đó được khắc vào tờ giấy bằng vàng và tên gọi một người như thế được coi n giấy Hộ tịch của ḿnh.. Hai mươi chữ đó nằm trong bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt mà câu dầu gồm những chữ :


 

Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh


Bảo Quí Định Long Trường


Hiền Năng Kham Kế Thuật


Thể Thoại Quốc Gia Xương


 

Nhưng mới tới chữ thứ năm trong bài thơ th́ triều đ́nh nhà Nguyễn đă không c̣n nữa, mặc dầu tên của vua Bảo Đại được lót bằng chữ Vĩnh có nghĩa là muôn đời. Những ư nghĩa đó c̣n được t́m thấy trong những chữ tỉnh Thừa Thiên, Vạn Thọ, Long Sàng, chỗ ở của Bửu Long được gọi là Tứ Phương Vô Sự.


Đă hẳn, hai ông bà Charles, bố mẹ đỡ đầu của vua không thể không bận rộn trong việc kiếm t́m một người vợ cho vua. Cái khó là ở chỗ đó. Quá nhiều người, quá nhiều đề cử, nếu không nói là những âm mưu gây ảnh hưởng nên dễ gây bất đồng ghen tỵ, nói ra nói vô.


Nhưng trở ngại lớn nhất là cô Nguyễn Hữu Thị Lan là người theo đạo Ky tô giáo. Theo vua Bảo Đại, khi trở về Huế, ông đă bầy tỏ ư định lấy vợ người theo đạo Kitô giáo và là người đă được đào tạo ở Tây phương. Nghe tin đó, hẳn nhiên là Bà Từ Cung không đồng ư v́ bà mong muốn một cô dâu theo truyền thống Á Đông. Quan lại cũng ngấm ngầm chống đối. Tứ phía chống đối dựa trên quyền lợi cá nhân cũng có, phe phái, miền cũng có, nại cớ nguyên tắc truyền thống cũng có. Cô dâu "Mới Quá". Chữ "Mới" có vang vọng muốn đồng nghĩa với thiếu văn hoá đạo đức cổ truyền. Người ta e ngại cũng phải. Cứ nói tiếng Tây líu la líu lo cũng đủ ngại rồi. Sự nghi kỵ, thành kiến tranh chấp, hiểu lầm c̣n đầy dẫy trong dân gian, nhất là trong đầu mỗi người. Đặt ḿnh vào địa vị vua và hoàng hậu tương lai mới hiểu được sự cam go không thể vượt qua được của cuộc hôn nhân này. Rồi vấn đề giáo dục con cái theo đạo Ky tô giáo nữa. Sẽ giải quyết ra sao khi hoàng tử kế nghiệp vua phải cử hành lễ Tế Nam Giao hoặc thờ cúng tổ tiên. Lấy ai là người ǵn giữ nếp sống, văn hóa cổ truyền, cúng giỗ tổ tiên của cha ông để lại.


Có một số tác giả đă viết không đúng về vấn đề này. Nhất là giới Công giáo. Chẳng hạn cho rằng vua Bảo Đại là người đă theo đạo Ki tô giáo. Thật ra đối với vấn đề tôn giáo, ông Bảo Đại rất thoáng, minh bạch và rất trung lập. Ông không theo đạo nào cả. Như ông viết: "Au palais, il n'y avait qu'un Dieu: L'empereur, fils du ciel". Vậy không hề có chuyện đó. Ngay cả các Hoàng tử, Công Chúa chưa chắc ǵ đă rửa tội, theo đạo Ki tô giáo. Một điều nữa, dư luận vẫn cho rằng Hoàng Hậu Nam Phương phải xin phép Vatican rồi mới được lấy chồng. Nhưng theo hồi kư của Vua Bảo Đại, chỉ sau khi làm đám cưới xong, ông mới gửi thư cho Giáo Hoàng Piô 11 một lá thư qua trung gian người Pháp, v́ thời đó ta chưa có liên lạc ngoại giao với Vatican. Nếu Hoàng Hậu muốn xin phép th́ phải gửi thư qua các cha cố, theo hệ thống nhà đạo. Cho đến nay, chả có bằng cớ ǵ, chả có văn bản nào cho thấy có phép chuẩn cả. Có thể chỉ là đồn đại. Vua Bảo Đại gửi thư cho toà thánh không phải để xin phép, xin tắc ǵ cả mà bầy tỏ lập trường và quan điểm của vua Bảo Đại. Hăy xem ông viết: "Cette lettre avait moins pour but de régler la question personnelle de mon mariage et de l'éducation envisagée pour mes enfants que d'apporter et de provoquer des éléments de réponse à un conflit ouvert depuis des siècles et, plus encore, de faciliter la rencontrre entre deux mondes: l'Occidental et l'Oriental, à travers notre pays d'Annam, 'terre de rencontres', et à travers ma personne qui, pour la première, et vraisemblablement pour la dernière, par l'éducaion recue, réunissait les conditions d'une véritable confrontation entre deux civilisations". Đoạn văn trên của vua Bảo Đại giúp dẹp hết những bàn tán bên lề, những chuyện tủn mủn thổi phồng về chuyện đám cưới của ông với cô Nguyễn Hữu Thị Lan.


Những trở ngại mà cô dâu tương lai gặp và phải đương đầu.


Đặt ḿnh vào địa vị Hoàng Hậu Nam Phương mới thấy thấm thía được những trở ngại, những khó khăn mà Bà phải chịu đựng. Thật quả không dễ ǵ lấy được một ông vua và cũng không dễ ǵ làm Hoàng Hậu. (4) Nhưng lịch sử cũng cho thấy không thiếu trường hợp trước đây xứ Nam Kỳ mà có lần vua Bảo Đại đă gọi là miền đất hứa đă cống hiến cho triều Nguyễn những người con gái tài ba và sắc đẹp:


- Bà Từ Dũ, tức cô Phạm Thị Hằng là vợ vua Thiệu Trị và là mẹ vua Tự Dức. Bà là tiêu biểu cho một lớp người phụ nữ đức hạnh, có học vấn, làm gương sáng cho mọi người trong triều đ́nh.


 

-     Sau đó đến bà Hồ Thị Hoa, vợ vua Minh Mạng

-     và cuối cùng là Cô Nguyễn Hữu Thị Lan.


Tên của bà là Nam Phương Hoàng Hậu mang ư nghĩa đó, chỉ thị đó là Hương thơm của miền Nam. Tên đó biểu thị cả nết lẫn người đem lại vinh dự cho người dân xứ Nam Kỳ. (LTS: tác giả ghi chữ đậm)


Nhưng cái khó lớn lao nhất Bà phải đương đầu v́ Bà là người Công giáo. Những chỉ dụ cấm đạo hồi nào mới chỉ vừa ráo mực. Ḷng người chưa ổn. Điều đó cũng chứng tỏ Bà là người có cá tính, can đảm và trung thành với đạo giáo của Bà. Giả dụ một người đàn bà khác th́ sao? Sẽ bỏ tất cả, sẽ làm tất cả và bằng bất cứ giá nào để được làm Hoàng Hậu. Hiểu đến cội nguồn mới hiểu được nhân cách của Bà, cái cao quư của một nhân phẩm và cái trong sáng, ngay thẳng của một người đàn bà có giáo dục. Chỉ về một điểm này thôi, Bà là người đáng nể trọng. Qua những người phục vụ chung quanh vua và Hoàng Hậu sau này, mọi người không kể bất cứ ai đều bầy tỏ ḷng kính trọng và quư mến cái nhân cách của Bà.

 

 

3. NGÀY ĐÁM CƯỚI


 

 

 

Mọi chuyện đă xong. Dư luận cũng tạm ngưng tiếng nói. Những đám mây mù đă tan. Phần lớn nhờ vào sự cương quyết đến cứng rắn của vua Bảo Đại. Huế chờ đón một biến cố có một không hai trong lịch sử triều Nguyễn, một mẫu nghi thiên hạ đến từ miền Nam với những sắc thái mới đến làm xôn xang mọi người. Một cô gái xinh đẹp nhất miền Nam, Tây học, con nhà danh gia vọng tộc cộng thêm là một người Ki tô giáo. Bấy nhiêu thứ đụng vào những sắc thái truyền thống, cổ truyền đă gắn bó với Huế từ cả mấy trăm năm nay. Huế cổ kính, Huế lăng mạn, Huế trầm mặc, Huế khép kín, Huế đẹp, Huế thơ. Huế có tất cả, trừ một làn gió mới. Chuyện đó đă xảy ra.
Vào ngày 20 tháng 3 năm 1934, người con gái đến từ phương Nam mang theo cả cái hương thơm miền Nam đă quyết định bước qua ngưỡng cửa hoàng cung, vào Cấm Thành. Và do t́nh yêu gắn liền với định mệnh, một định mệnh không khỏi có trớ trêu, vào buổi sáng mùa xuân đó, cả một cuộc đời mới đă mở ra. Bỗng chốc cô trở thành Hoàng Hậu của cả nước. Từ nay, không c̣n ai nhắc đến cái tên Marie-Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan nữa. Cô là Nam Phương Hoàng Hậu.


Ḷng chắc đầy cảm xúc suốt hành tŕnh từ trong Nam ra Huế, chen lẫn lo âu và sung sướng, trong niềm hân hoan không ǵ tả xiết, mỉm cười chấp nhận những ǵ sắp tới xảy ra cho ḿnh, trong cảm thức ḿnh là người độc nhất có cái vinh dự làm Hoàng Hậu cả nước. Và trong phẩm phục áo mầu vàng, một ân huệ đặc biệt mà vua đă dành cho nàng, đầu nàng đội mũ có kết trân châu bảo ngọc, đi hia mũi nhọn, tay cầm hốt ngà tiến vào hoàng cung.


Từ bên ngoài nhà khách trú của hoàng cung, cô đă bước lên xe hơi để đi vào Cấm Thành, qua cửa Hiển Nhơn mà hai bên có những người lính hầu, chân quấn xà cạp, đứng nghiêm chỉnh như những tượng gỗ.


Buổi lễ đă được diễn ra từ điện Cần Chánh. Hăy nghe Hoàng Thượng kể lại: "J'ai en effet, décidé d'élever ma femme à la dignité d'impériatrice dès notre mariage, alors que jusque-là ce titre n'était attribué qu'à la reine-mère, après le décès de l'empereur. Revêtue de la longue et ample robe de Cour, chaussée de costumes à la pointe retounée, coiffée d!une sorte de bonnet enrichi de pierreries, pour la première fois dans l'histoire de l'Annam, une femme s'avance seule, saluée par toute la Cour. Toujours seule, elle pénètre dans la grande salle ̣u je l'attends, assis sur un trône bas" (trang 64). Vâng, bây giờ, chung quanh đầy bá quan văn vơ, Bà vẫn "seule" và cả đời bà sau này cũng "toujours seule". Trong suốt hơn 10 năm sống ở Huế, Bà vẫn seule như thế giữa đám thị nữ, quan thần, ḍng tộc, giữa những sắc thái dị biệt miền, tiếng nói, tôn giáo, nếp sống văn hoá, học vấn. Chỉ những sự khác biệt đó thôi cũng đẩy Bà vào tư thế một ḿnh Và đă theo đuổi suốt cuộc đời c̣n lại của Bà. Ôi nhận xét của Bảo Dại trong ngày đám cưới không ngờ có tính cách định mệnh oan trái của đời Bà.


Sau buổi lễ, vua đă đưa Hoàng Hậu về điện Kiến Trung mà trước đó Ngài đă cho sửa chữa lại thành một cung điện có những tiện nghi mới theo những tiện nghi bên Âu châu, trong đó có pḥng ăn, pḥng ngủ, pḥng tiếp khách, pḥng làm việc. Và nhất là pḥng tắm và vệ sinh. Hồi c̣n trẻ, có dịp ra Huế khá nhiều lần, ở lâu đến một tháng hơn tháng là thường. Tôi chỉ có một thắc mắc: Chẳng biết vua chúa, cung phi đi cầu và tắm rửa ở đâu. Cả ngàn người như thế, không thấy một cái cầu tiêu nhà tắm nào. Đó là nét lạ của Huế. Ai hiểu Huế hơn th́ xin chỉ cho. Hiểu ra rồi th́ không khỏi buồn cười một ḿnh. Từ nay, Bà ra vào điện Kiến Trung mà trọng trách của Bà là cùng với vua cai trị thần dân, đặc trách lo về những vấn đề xă hội theo lời yêu cầu của chính vua Bảo Đại.


Để kết thúc phần này, xin dẫn lời kể của vua Bảo Đại cho thấy vai tṛ quan trọng của ông bà Charles trong cuộc hôn nhân này: "Le soir du mariage, nous invitons M. et Mme Charles à diner. Estimant leur mission accomplie ils vont repartir pour la France". (trang 64)


Phải nh́n nhận ở đây, lần đầu tiên, vai tṛ người phụ nữ đă thay tên đổi họ và đă hẳn, cách này cách khác đă ảnh hưởng trực tiếp trên xă hội người phụ nữ Việt.

4. ĐỜI SỐNG GIA Đ̀NH CỦA HOÀNG GIA


Hoàng Hậu là phụ nữ đầu tiên có tân học, ảnh hưởng nếp sống, nếp nghĩ Phương Tây, trọng tinh thần dân chủ, trọng ư thức xă hội. Bà không phải là người chỉ quanh ra quẩn vào chờ cái đèn lồng tối hôm đó thắp sáng lên, rồi tíu ta tíu tít chuẩn bị son phấn, đón tiếp như một thứ đồ giải trí cho vua. Bà tham dự vào tất cả. Họp với các quan bộ lễ, bàn và nghị sự tổ chức các buỗi lễ tế Nam Giao hay lễ Vạn Thọ. Chẳng hạn, lễ Vạn Thọ khánh tiết mừng sinh nhật vua thường được diễn ra trong điện Thái Ḥa. Tổ chức lễ Bái Khanh cho mọi người có dịp bầy tỏ ḷng trung thành đồng thời chúc thọ nhà vua trăm tuổi. Ngoài đường, các học sinh đi diễn hành, tay cầm cờ Long Tinh, hát bài đăng đàn diễn hành qua cửa Ngọ Môn. Bên trong hoàng thành th́ tổ chức các màn múa hát do các nữ học sinh trung học tŕnh diễn và màn dâng hoa cho Hoàng Thượng và Hoàng Hậu. Nên nhớ là không có những màn hát hoặc tuồng tích cổ nữa. Cũng nên nhớ là con trai chỉ được đi diễn hành ngoài đường, ở ngoài hoàng thành mà thôi. Chỉ nhớ lại các buổi lễ chúc thọ vua với lề lối tổ chức, cho nữ sinh vào ca hát, dâng hoa, người ta hiểu những quyết định đổi mới đến từ đâu rồi.


Bà cũng là người phụ nữ đầu tiên ở nước ta cùng vua tiếp khách ngoại quốc như Thống chế Tưởng Giới Thạch, Quốc trưởng Shianouk. Cái mà bây giờ người ta gọi là vai tṛ đệ nhất phu nhân.


Bà cũng là Hoàng Hậu đầu tiên xuất cung, tham gia các sinh hoạt xă hội như đă đi thăm các cô nhi viện, trường nữ Trung học Đồng Khánh Huế, Hànội, các cô nhi viện hoac cơ sở Xă hội v.v..


Ngày chủ nhật, Bà đi lễ nhà thờ Phủ Cam như mọi người dân b́nh thường. Cũng là chuyện lạ. Đó là người phụ nữ theo Kitô giáo đầu tiên trong ngôi vị Hoàng Hậu, ngôi vị mà ngày nay nghĩ lại cũng khó mà tưởng ra là có thực. Sáng sớm tinh mơ, Bà ra khỏi Hoàng Cung, không ngồi kiệu với màn che phủ kín làm bà khó chịu như ngồi trong cũi. Nội điều đó thôi cũng có thể gây ra những xầm ś to nhỏ. Lần đầu tiên, trong Hoàng cung, triều d́nh nhà Nguyễn, vóc dáng một người phụ nữ uy nghi, đoan trang đem lại những nét đổi mới trong sinh hoạt cung đ́nh : giản dị hoá lễ nghi, giản dị trong những tương quan giao tiếp giữa bầy tôi và chủ, tư tưỏng phóng khoáng, ngay thẳng, ghét những xun xoe xu nịnh, những lời xàm tấu. Lần đầu tiên, một người phụ nữ Việt Nam củng vua tiếp đón các nguyên thủ quốc gia khác trong vai tṛ đệ nhất phu nhân như bây giờ. Toàn quyền Decoux đă hết lời khen ngợi bà là người đức hạnh, nề nếo, một sự tổng hợp hai nền văn hoá đạo đức Dông Tây. Về phía quốc tế, Hoàng Hậu đă nhận được những bằng khen của Hàn Lâm Viện Y khoa Pháp và của Hội Hồng Thập Tự Quốc tế.


Chắc chắn và không thể chối căi được sự có mặt trong Hoàng Cung của Bà đă thay đổi bộ mặt Hoàng Cung. Nhưng điều quan trọng hơn cả, Bà trở thành biểu tượng, mẫu h́nh lư tưởng cho tất cả giới phụ nữ Việt Nam noi theo.. Nhất định giới phụ nữ Việt Nam nhờ vào Bà đă trở thành tấm gương để mọi phụ nữ noi theo. H́nh ảnh người phụ nữ nhờ đó được cải thiện, nâng cao và đổi mới.


Bà có năm người con lần lượt là Bảo Long, Phương Mai, Phương Liên, Phương Dung và Bảo Thắng. Ngày thái tử Bảo Long ra đời, mồng 4 tháng 01, năm 1936 đă thi hành đúng như trong sách Hội Điển, người ta đă bắn 7 phát súng thần công để loan báo tin mừng. Phải bắn 7 phát, v́ theo tục lệ, đàn bà 9 vía c̣n đàn ông 7 vía.


Gia đ́nh Hoàng gia theo lối sống mới ra bên ngoài như vua thường lái xe đi nghỉ hè ở Nha Trang, Đà Lạt... (5) Hoặc đi trên du thuyền Phi Long, đi câu cá ở biển Nha Trang để tránh nóng oi bức ở Huế. Cũng tại Đà Lạt, gia đ́nh Hoàng gia có dịp đoàn tụ với ông bà bá tước và các con của gia đ́nh này. Đôi khi Hoàng Hậu cũng theo vua đi câu hoặc đi săn thú rừng ở Ban Mê Thuột hay Đà Lạt.


Đây là những ngày tháng tương đối êm đềm và hạnh phúc của đời Bà.

5. NHỮNG NGÀY THÁNG ĐEN TỐI


Có được hơn mười năm êm ấm hạnh phúc. Những tháng ngày c̣n lại báo hiệu những đám mây mù phủ kín tâm tư. Tháng 9 năm 1945, vua Bảo Đại do sự thúc ép của Việt Minh buộc phải từ chức, thoái vị và nhận chức cố vấn bù nh́n cho Hồ Chí Minh. Cuộc tiễn đưa cựu Hoàng ra Hà Nội đầy bất trắc rủi ro. Rủi ro về chính trị đă đành. Vậy mà rủi ro đến hạnh phúc gia đ́nh lại là điều có thực. Những tin đồn về những cô gái Hà Nội và cả những mệnh phụ đă không thư từ mà vẫn tới Huế. Lư Lệ Hà là một trong số những người đó. Trong hồi kư của Trần Văn Đôn, ông đă nói trắng ra một mệnh phụ phu nhân, bà TVC nữa. Sự đời sao có thể éo le thế.


Trong dịp Phan Khắc Ḥe về Huế, người đă bán đứng Bảo Đại, Hoàng Hậu đă hỏi thẳng Hoè về Lư Lệ Hoa. Hoè xác nhận là có thực c̣n nói thêm đó là một cô gái đẹp. Hoàng Hậu bị xúc phạm nặng nề, nhưng vẫn giữ sự im lặng vốn có của Bà, vẫn nhờ Ḥe cầm một số tiền gửi ra cho Bảo Đại chi dùng. Chẳng hiểu Phạm Khắc Hoè và Việt Minh có dính dáng ǵ đến việc hủ hoá của Bảo Đại hay không. Nào ai biết được. Những người như ông Mai Văn Hàm đă tài trợ cho Bảo Đại ăn ở Hà Nội lẽ nào hại Bảo Đại đến thế. Nhưng hoàng thân anh em họ với Bảo Đại không lẽ cũng có cổ phần vốn phá hoại gia đ́nh ông Bảo Đại chăng? Chuyện đời khó biết được.


Danh sách những người đẹp lăng nhăng với Hoàng thượng thêm dài, một cô gái Tầu Hồng Kông, Phi Anh và nhất là Mộng Điệp.


Không thiếu những mệnh phụ tỉ tê, xàm tấu với Bà. Bà nghe đă nhiều, thường giữ thái độ im lặng, có thể phần không muốn nghe, phần đă quá rơ, phần tự ái không muốn ai nhắc tới. Có thể c̣n muốn bảo vệ uy tín hoàng tộc và cho cả con cái Bà. Cứ thế, Bà ẩn nhẫn chịu đ̣n một ḿnh theo cái cách của người được ăn học, ngưới có nhân cách.


Bà đă tự chọn con đường của ḿnh phải đi, từ giă vinh hoa, phú quư và nhất là chấp nhận sự quên lăng của Hoàng thượng.
V́ vậy, kể từ năm 1950, ḍng họ Nguyễn với Bảo Đại kể như không c̣n ở trong mắt Bà nữa.


Năm 1950, con gái út mới 8 tuổi, ai có thể chia xẻ nỗi đau của Bà. Bà có thể làm ǵ được để gánh nổi cái gia tài Bảo Đại đă để lại. Bà quyết định mang các con sang Pháp, phần lo chuyện học hành của chúng là chính, phần tránh xa những nhớp nhúa của dư luận. Bạn bè cũ nay c̣n ai. Gần không c̣n ai.


Bà ra đi, Bảo Đại càng đi xuống. Nay th́ có những tôi thần như Bảy Viễn, Phan Văn Giáo cung cấp cho ông tất cả những ǵ cần thiết ở đời: tiền bạc và gái đẹp.


Phải chăng, ông chán ngán thế sự để buông rơi vào chỗ bê tha. Phải chăng ông chán ngán t́nh đời đi t́m quên đời bằng thân xác người phụ nữ. Lấy cái ǵ để bào chữa cho ông trong việc phẩy tay chuyện đất nước. Viết về ông thấy cả đời ông chẳng làm đuợc tích sự ǵ, ông chỉ làm được một điều tốt là cả đởi làm chính trị ông chẳng làm hại ai bao giờ, dù là những người đă bỏ ông như Ngô Đ́nh Diệm và nhất là Hồ Chí Minh. Cả cuốn sách ông viết, chẳng bao giờ thấy ông hạch tội hay nặng nhẹ với những người như ông Ngô Đ́nh Diệm. Vậy mà tôi vẫn oán giận ông, chắc là tôi không cần nói ra, ông vẫn khắc hiểu hơn ai hết. Nhưng dù sao, mọi chuyện cũng đă quá muộn rồi. Nói ǵ nữa bây giờ cũng vô ích.


Riêng Hoàng Hậu, tháng ngày c̣n lại ở bên Pháp đă từng bước, bước đến chỗ để về. Mỗi ngày, mỗi năm tháng cứ héo ṃn đi như cái cây không có nước, cứ ủ rũ cho đến lúc tàn lụi. Ngày một, ngày hai, mỗi ngày vẫn phải chạm chán với cuộc sống thực bên ngoài và nỗi cô đơn bên trong. Nổi cô đơn từ mọi phía, nỗi cô đơn că đời. Đến như tôi có thể dám thốt ra lời này : Chỉ nh́n con mắt, cảm nghiệm được đời bà là một niềm cô đơn. Dừng ai hạch hỏi tôi tại sao nói thế.


Lại thêm vật chất không dư giả như trước nữa, sức khỏe suy yếu v́ bệnh suyễn và tim. Tháng ngày vẫn trôi qua, dần dần những trông đợi thù đáp nơi người, niềm hy vọng có ngày trở lại bị xói ṃn sẽ dấy lên những câu hỏi về cuộc đời, về cớ sự đa đoan, về t́nh người và cuối cùng về t́nh vợ chồng.


Bà sống cô đơn thế nào th́ mất im lặng như thế ngày 14-9-1963 tại làng Chabrignac. Bên cạnh chỉ có hai hoàng tử và ba công chúa sau mới về. Thực sự chỉ có hai người giúp việc bên cạnh lúc Bà mất.


Phần đời Bà, c̣n rất nhiều điều chưa được sáng tỏ c̣n nằm trú ẩn trong vùng bóng tối của đời Bà. Nhưng phải chăng chính cái phần bóng tối này lại là nơi trú ẩn an toàn nhất mà Bà muốn giữ lại đem về bên kia thế giới.


Và nếu thực sự như thế th́ chúng ta chỉ c̣n biết tôn trọng ư nguyện của Bà và phải chăng Bà đă ra đi và không c̣n ǵ để nhắn gửi và nói lại nữa. Một ngôi sao đă đổi ngôi. Số phận Bà có ǵ trùng hợp với phận người phụ nữ nói chung. Có lẽ cần suy nghĩ thêm vẫn chưa muộn.


Nguyễn văn Lục

------------------------------------
Chú thích

 
(1) Trong cuốn Thuyền ai đợi bến Vân Lâu của Nguyễn Lư Tưởng có đặt vấn đề vua Bảo Đại là con ai? Xét ra cũng là một đề tài lư thú để bàn. Do sự quan hệ với một vài liên hệ với hoàng tộc, tài liệu cho biết, Bảo Đại là con vua Khải Định, nhưng mẹ là bà Hoàng Thị Cúc vốn chỉ là người hầu trong cung. Khải Định h́nh như không có con, nhưng khi bà Hoàng Thị Cúc có mang th́ Thái Hậu, Đức Chánh Cung tra khảo đánh đập, hoàng tử Bửu Đảo, tức Khải Định đă đứng ra xin như sau: "Thưa A, thai nhi trong bụng Hoàng Thị Cúc chính là con của hài nhi. V́ ḍng dơi của ḿnh (vua Đồng Khánh) hiếm muộn, nên ả tha cho Hoàng Thị Cúc và cho phép hài nhi được cười nàng làm thiếp. Ấy là theo lời kể lại của bà Nguyễn Thị Vy, cháu nội ông Nguyễn Hữu Độ (Phụ chính đại thần vua Đồng Khánh). Một dẫn chứng khác qua lời nói lại của ông Bửu Uyển th́ trước 75, bà Từ Cung (mẹ vua Bảo Đại), lúc đó đă ngoài 80, đă kể lại cho con cháu nghe, trong đó ông Bửu Uyển cũng có mặt. Theo đó, Đức Từ Cung cho biết, lúc làm gái hầu cho Ngọc Lâm Công Chúa, con vua Đồng Khánh. Công Chúa thường sai bà mang thư cho Bửu Đảo, (hai nguời trao đổi thơ xướng họa với nhau). Hai người ăn nằm với nhau, sau đó bà có thai và sinh ra Vĩnh Thụy, tức vua Bảo Đại sau này. Cả hai nguồn tin đều xác nhận Bửu Đảo ăn ở với Hoàng Thị Cúc, rồi có con. Chính sử không có, đành tin vào những nhân chứng sống. Điều chính là bà Hoàng Thị Cúc, sau này là Đức Từ Cung là mẹ vua Bảo Đại. Chừng đó đủ rồi. (Xem Thuyền Ai Đợi Bến Vân Lâu, trang 395-401, của Nguyễn Lư Tưởng)


(2) Theo Hoeffel, trích trong Indochine "Bài La région Saigon, Cholon". Sài G̣n, Chợ Lớn lúc bấy giờ chỉ rộng có 5000 mẫu Tây, chiều dài từ Đông sang Tây là 15 kilô mét và chiều rộng có vỏn vẹn 6 kilô mét.


(3) "La naissance de Dalat", của ông A.Baudrit viết: Đà Lạt được khám phá ra vào năm 1893. Sau đó măi đến năm 1898, người ta mới khai thác được một vùng để làm một cái vườn với mục đích cung cấp rau cho đoàn nguời lên công tác. V́ thế, vườn rau đặt tên là "Ferme de Dankin". Sau đó, tác giả tự đặt câu hỏi "Est-ce alors que commenca la création de Dalat". Hỏi rồi tự ḿnh trả lời: "Pas encore". Nhưng điều sau đây mới thực sự quan trọng và có ư nghĩa. Trong một bài báo khác giấy nhiều chỗ đă mủn và rách, vừa đọc, vừa đoán ṃ không rơ tên tác giả có ghi chép: vào năm 1934, Giáo Hoàng Pio 11 mới yêu cầu mẹ bề trên Cả của ḍng đưa các sơ ra hải ngoại. Cái duyên là họ đă quyết định sang truyền giáo ở bên Việt Nam. V́ thế, họ đă thiết lập hai trường: một ở Đà Lạt, một ở Hà Nội, khu Ngọc Hà. Nhưng măi đến năm 1937, trường sở mới được xây dựng xong. Trong khi đó Cô Nguyễn Hữu Thị Lan đă làm đám cưới với vua Bảo Đại từ năm 1934. Như thế cả hai chị em quả thực không thể nào học Couvent des Oiseaux được. Chỉ có sau này, khi đă lên ngôi Hoàng Hậu, bà có ghé thăm trường mà thôi.


(4) Năm 1927, có bài viết "Le mariage d'une princesse d'Annamite" trên báo Thần Kinh. Tờ Nam Phong , năm 1923, số 69 cũng có bài viết tương tự. Năm 1934, trên Bulletin des Amis du vieus Hue ( BAVH ), trang 145-168 , trong một bài viết có nhan đề "Cérémoniale d'autrefois pour le mariage des princesses d'Annam" của L. Sogny. Khi các công chúa được 16 tuổi th́ bắt đầu phải để ư đến chuyện gả chồng cho các cô rồi. Thoạt đầu, người ta chọn ra một danh sách các con, cháu, ngay cả đến chắt các công thần nộp lên vua. Vua chấm dấu đỏ vào tên anh nào, anh đó có may mắn được làm pḥ mă. Sự cố xảy ra sau đây thêm phiền phức vô kể. Lúc Thiệu Trị mất theo tục lệ, mọi chuyện cưới hỏi phải ngưng để tang vua cha. Đến Tự Dức thứ tư, nghĩa là năm 1854, số các công chúa chưa chồng trong 3 năm lên đến 30 cô, tất cả gồm các con của Minh Mạng, Thiệu Trị gom lại. Lúc đó, nhiều công chúa đă quá tuổi 16 thuộc loại già cỗi (Abricot murissant), chưa có ai rước đi. Trong số các công chúa, nhiều cô xấu xí lại càng khó kiếm chồng hơn. Dư luận thời đó đồn thổi có nhiều con trai các công thần sợ phải lấy mấy công chúa hoặc v́ quá lớn tuổi, hoặc xấu không hợp nhăn đành đánh bài ba chân bốn cẳng chốn mất dạng. Triều đ́nh không biết làm thế nào đành phá lệ tuyển bổ xuống hàng quan lại thường. Nào đă xong, c̣n xem tuổi tác công chúa có hợp không đă. Rồi cho tên tất cả những ứng viên đó vào trong hộp sắt, lắc đều, công chúa bắt trúng tên ai th́ nguời đó đuợc làm pḥ mă. Công chúa chỉ biết mặt lúc đám cưới nên cũng t́m đủ cách để xem mặt pḥ mă tương lai là ai. Cũng nhiều cảnh cuời ra nước mắt.


Thủ tục cưới hỏi cũng nhiêu khê phiền toái lắm, vất vả lắm. Từ lễ nạp thai đến vấn danh, rồi nạp trưng, nạp cát, sau đến lễ thân nghinh và hiệp cẩn, công chúa và pḥ mă ăn chung một miếng thịt một con vật, rồi uống rượu.


Mọi chuyện xong th́ mỗi pḥ mă được thưởng 3 ngh́n lạng bạc để mua nhà ở, gọi là phủ, cộng với 3 vạn lạng để sắm sửa quần áo, đồ dùng và đồ trang sức v.v.. Ngoài ra, pḥ mă c̣n có 50 người hầu, có một đội trưởng do triều đ́nh ứng trả chi phí lương bổng.

 
Ôi trùng trùng điệp hết lễ này đến lễ kia. Cưới xong cũng trầy da, chóc vẩy. Cũng nên nhớ, chỉ có vua là có cung phi cung nữ, bao nhiêu cũng được. C̣n pḥ mă th́ không được quyền có vợ hai, chỉ trừ khi công chúa không có con.


(5) Nhân đây, có đọc được một bài báo khá lư thú, đề cập đến đến chuyện du xuân đặc biệt của vua Đồng Khánh. Bài báo c̣n lư thú hơn nữa là tác giả Phan Thuận An, tự nhận là "nhà nghiên cứu Huế". Gọi là nghiên cứu chứ thật ra ông đă dịch và chép nguyên con một bài của Cosserat, trong BAVH, Huế từ trang 301 đến trang 306, có nhan đề là "Les Fêtes du Tết en 1886 à Hue. Promenade du roi". Trong đó, Cosserat chép lại bài tường thuật của phóng viên báo Figaro, lúc đó cũng có mặt ở Huế. Thật ra chả nên làm thế để làm ǵ. Nội dung bài báo lại tỏ ra không nắm vững cho lắm. Từ lúc thay thế vua Hàm Nghi, Đồng Khánh chỉ là thứ bù nh́n dễ sai bảo của người Pháp. V́ thế tướng Prudhomme, lúc đó đang ở Huế đă yêu cầu nhà vua phải xuất hiện ngoài hoàng cung để cho dân chúng biết là vua không bị quản thúc. Mục đích của Prudhomme chỉ có vậy.

 Và đơn giản chỉ có vậy.