Ḷng dũng cảm của Đức Tổng Giám Mục

Philipphê Nguyễn Kim Điền

 

 Lm. Augustinô Hồ Văn Quư

   Nguyên bí thư ṭa TGM Huế (1969-1972) và giám đốc Đại chủng viện Huế (1975-1977)

 

   Năm 1981, trong chuyến viếng thăm “Ad limina” của các Giám mục Việt Nam, khi tiếp kiến các Giám mục, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đă gọi Đức Cha Nguyễn Kim Điền là “vị Tổng Giám mục dũng cảm” (le vaillant Archevêque). Danh hiệu này đă làm chính quyền cộng sản Việt Nam càng quyết tâm triệt hạ cho kỳ được Đức Tổng Nguyễn Kim Điền.

   Nhưng những người biết rơ Đức Tổng đều không lạ ǵ: tự bản chất ngài không có ǵ là “dũng cảm”; ngài luôn tránh đối đầu, bao giờ cũng chờ chực những dấu hiệu thiện chí nhỏ nhặt nhất của nhà cầm quyền để tỏ thái độ nhân nhượng. Đặc biệt ngài bị ám ảnh bởi nỗi sợ bị cô lập và lo không được ai ủng hộ lập trường của ḿnh. V́ vậy tính “dũng cảm” của ngài chỉ có thể giải thích được nhờ hai sự kiện, mà chúng tôi sẽ triển khai trong bài viết này.

   · Thứ nhất là Đức Tổng Điền đă được dư luận hàng giáo sĩ Huế ủng hộ đến cùng. Chính Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, bằng những nhận xét có vẻ t́nh cờ, đă làm cho ngài tin tưởng rằng ḿnh đi đúng đường lối. Một lần, ngài nghe kể về Đức Hồng y Wojtyla (sau là Giáo hoàng Gioan-Phaolô II) trả lời Đức Cha Nguyễn Văn Thuận vào khoảng năm 1974 về thái độ phải có với chính quyền cộng sản: “Cộng tác và đề kháng” (collaborer et résister). Đức Tổng Điền mừng rỡ kể lại cho mấy linh mục câu nói của Đức Thánh Cha. Chuyện tới tai công an, thế là trong buổi nói chuyện của Mặt trận Tổ quốc B́nh Trị Thiên tại kỳ tĩnh tâm (2 tháng/lần) của linh mục Huế (1), ông Hoàn ủy viên Mặt trận tuyên bố thẳng thừng: “Làm ǵ có chuyện nghịch lư như vậy: collaborer et résister!” Chừng đó cũng đủ để Đức Tổng Điền nao núng lo sợ ḿnh đă bị hố. Ngài nôn nóng chờ dịp gặp Đức Thánh Cha. Khi gặp được ngài hỏi ngay: có phải Đức Thánh Cha đă nói câu “collaborer et résister” đó không ? Đức Gioan-Phaolô II trả lời, dùng một kiểu nói mạnh hơn gấp bội: “Collaborer en résistant” (2).

   Ngay từ những ngày đầu sau “Giải phóng 1975”, Đức Tổng Điền đă cố gắng bằng nhiều cách bày tỏ ư muốn nhân nhượng đó. Trong Thư chung đầu tiên cho đoàn chiên đang hồi hương sau cuộc sơ tán, ngài đă dùng câu khẩu hiệu “Tiến lên xă hội chủ nghĩa”, làm cho nhiều linh mục ở tận bên châu Âu lấy làm ngán ngẩm lo sợ cho tương lai Giáo hội Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Riêng tại Huế, khi có người thắc mắc, ngài đă trả lời cách thoải mái: đó là “politique de la main tendue” - chính sách bắt tay (với cộng sản), được đề xướng thời Đức Thánh Cha Phaolô VI với Quốc vụ khanh Villot rồi Casaroli, và cũng có tên là “chính sách với Đông Âu” (Ostpolitik) (3).

   Hai hành động của Đức Tổng Điền hỗ trợ cho những ngôn từ kể trên. Một lần ngài triệu tập các linh mục cư trú trong thành phố Huế và thuyết cho các vị 10 phút về nghĩa vụ “bác ái” đối với cán bộ từ miền Bắc vào không có nhà ở. Ngài kết luận: phải nhượng cơ sở cho chính quyền, yêu cầu các cha bỏ phiếu góp ư. Kết quả: đa số cho ư kiến phủ quyết (một vị lớn tuổi c̣n ghi thêm vào phiếu: “không nhượng chi hết!”) Lư do quá dễ hiểu, nhiều vị đă nói toạc ra: nếu muốn “bác ái”, th́ những người phải được quan tâm trước tiên là vợ con của “ngụy quân ngụy quyền” đă bị tước đoạt tài sản gia cư!...

   Lần khác là vào năm 1977: cha quản xứ Xuân Long được chính quyền yêu cầu cho mượn khuôn viên (gồm nhà và đất) ngôi trường giáo xứ (4). Cơ sở giáo xứ thuộc quyền Giám mục, cha quản xứ bèn tŕnh Đức Cha, thầm mong ngài không cho; nhưng cũng phải tŕnh bày hết sự thật: họ muốn dùng ngôi trường đó làm xưởng dệt chiếu, xây dựng kinh tế và tạo công ăn việc làm cho dân chúng xă nhà. Đức Cha quá mừng mà chấp thuận: không thể t́m được lư do nhân đạo hơn thế! Để trấn an lương tâm, ngài dặn cha xứ phải ghi trong văn bản một điều kiện: khi tuyển chọn công nhân xưởng dệt chiếu, phải dành ưu tiên cho dân Công giáo trong vùng. Điều kiện đó được dễ dàng chấp nhận, bởi lẽ nuốt lời hứa đâu phải là chuyện khó; hơn nữa những người lănh đạo chính quyền xă để kư văn bản đó biết sẽ c̣n tại chức cho đến khi nào? Kết quả: ngày nay, sau 30 năm “giải phóng” cả nước và thành phố Huế, ban lănh đạo chính quyền xă đă thay đổi đến năm lần bảy lượt, mà xưởng dệt vẫn chưa sản xuất được một cọng chiếu nào!... Lại c̣n thừa thắng xông lên, chiếm luôn đám đất trồng cỏ tranh giữa ngôi trường và nhà thờ, vốn là nguồn thu nhập chủ yếu của giáo xứ!... làm nhà ở cho cán bộ (có cả cán bộ cao cấp ngành công an).

   · Lối hành xử lừa đảo lật lọng đó của chính quyền cộng sản chính là sự kiện thứ hai đưa đẩy Đức Cha Philipphê đến tính cách “dũng cảm” mà thực sự không có trong bản chất bẩm sinh của ngài.

   Càng ngày ngài càng thấy rơ điều này: thật là ảo tưởng khi nghĩ rằng những cử chỉ hiền từ nhân ái có thể hoán cải được một số cá nhân cán bộ đảng viên. Cá thể chỉ là số không trước tập thể, tức cái gọi là “giai cấp vô sản”. Khi có chỉ thị của lănh đạo đảng và nhà nước, không được từ một thủ đoạn tàn độc nào đối với những người của các tôn giáo mà trong riêng tư ḿnh có thể có cảm t́nh hoặc khâm phục.

   Một thời gian ngắn sau “Giải phóng 1975”, nhà nước cộng sản cho nổ “vụ Vinh Sơn” (12-02-1976 tại Sài g̣n): “bọn đội lốt thầy tu” dùng nhà thờ Vinh Sơn làm ổ phản động, in bạc giả v.v... Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn B́nh được đưa đi xem xét pḥng thánh nhà thờ Vinh Sơn: trong tủ đồ lễ có cả đồ lót của phụ nữ! Lúc ấy nhiều người hay chuyện - trong số có Đức Tổng Điền - đă thấy ngay màn dàn cảnh lố bịch đến buồn cười: những “cha cố” hủ hóa đó không kiếm được nơi nào khác ngoài tủ đồ lễ để cất áo xống đời thường hay sao?

   Bài học đó đă giúp ích rất nhiều cho Đức Cha Philipphê. Hơn một năm sau (4-1977), nổ ra vụ “Hai bài phát biểu” của Đức Tổng. Đầu đuôi là thế này: Ủy ban Mặt trận thành phố Huế mời họp một số chức sắc Phật giáo và Công giáo; mục đích là phổ biến tin tức và h́nh ảnh về một vụ xấu xa của Phật giáo. Một ni cô Phật giáo đă tự thiêu để phản đối chính quyền; khi đem giảo nghiệm tử thi đă cháy đen th́ phát hiện ra tu sĩ đó đang có thai: rơ ràng là để phi tang một vụ bê bối giữa giới ni sư, các thầy đă một công hai việc thiêu sát ni cô để xách động chống cộng! Đức Tổng Điền đứng lên phát biểu trước tiên. Ngài bắt đầu bằng câu: “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”, ám chỉ đến vụ Vinh Sơn: mặc dầu không có kiến thức sâu rộng về động vật học, Đức Cha cũng đủ sáng suốt để biết rằng những h́nh ảnh như vậy có thể lấy được dễ dàng nơi các pḥng hộ sinh và dịch vụ phá thai (có thưởng: kế hoạch hóa gia đ́nh!) (5).

   Vụ Vinh Sơn đă giúp ngài tránh được những lời phát biểu hàm hồ. Sau đó, một phái đoàn sư săi đến xin yết kiến ngài tại ṭa Giám mục: để tỏ ḷng biết ơn và khâm phục sâu sắc, các vị đă quỳ mọp khấu đầu lạy ngài!

   Tư thế của ngài đối với chính quyền cộng sản đă xấu hẳn đi từ đây. Nhưng ngài vẫn không từ bỏ ước mơ cải thiện tư thế đó bằng những cử chỉ thân thiện đến mềm yếu. Cơ hội đến với ngài (1985) khi chính quyền tỉnh tổ chức một chuyến tham quan thủ đô Hà Nội (chương tŕnh dĩ nhiên bao gồm mục “vào lăng viếng Bác”) cho các thầy và các cha; họ yêu cầu ngài chỉ định một danh sách sáu linh mục tham gia đoàn (con số “sáu” không chút ngẫu nhiên: có 6 giáo hạt, tức 6 cha hạt trưởng). Ngài đă tỏ ra tích cực trong việc chỉ định, đến nỗi nhiều linh mục trong giáo phận đă coi đây là lệnh của Đấng Bản quyền mà theo giáo luật phải tuân phục.

   Các linh mục được chỉ định đứng trước một sự lựa chọn khó khăn đến nhức nhối: nếu chấp hành lệnh Bề trên, th́ sẽ mắc bẫy cộng sản, v́ chắc chắn kịch bản “tham quan” đó giấu ẩn nhiều chiêu thức ma quái khó lường; nhưng nếu làm theo xác tín của ḿnh (= đây không phải là trường hợp Giám mục có quyền ra lệnh) th́ sẽ làm cho Đức Cha lo âu phiền muộn v́ lập trường ngài đă chọn là: bằng mọi giá không trái ư chính quyền... như chính ngài đă nói khi được mách có khả năng các cha không chấp hành: “Như vậy là căng rồi đó, khổ quá!”

   Ơn trên soi sáng, sáu vị linh mục sau khi hội ư với nhau đă nghĩ ra được một tuyệt chiêu: cùng kư tên vào một lá thư ngắn gởi Mặt trận. Đại ư: chúng tôi được biết Đức Tổng Giám mục năm nay cũng như nhiều năm qua đă không được phép tham dự cuộc họp thường niên của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Đó là sinh hoạt hệ trọng bậc nhất của Giáo hội Việt Nam, thế mà chúng tôi lại đi tham quan giải trí đó đây: thật là chuyện mâu thuẫn và vô lư. V́ vậy chúng tôi xin trả lời: chúng tôi xin kiếu!

   Đức Cha nhẹ nhơm hả hê: các cha nhận trách nhiệm trong việc từ chối này, không phải để đối lập với Đức Cha, mà trái lại để ủng hộ Đức Cha! Ngài vội vă nhắn với những cha đang lo sợ đă làm Đức Cha giận: “Cám ơn lắm, không giận đâu!” (nguyên văn).

   Từ nay Đức Tổng Nguyễn Kim Điền chỉ c̣n một hướng đi: dũng cảm thực sự và cụ thể.

   Trong thời gian “120 ngày làm việc với công an (từ 5-4 đến 15-10-1984), ngài thường thổ lộ với người thân tín sau một ngày làm việc: tạ ơn Chúa đă cho qua một ngày vững vàng, cầu mong Chúa cho ngày mai cũng được như vậy. Thật là khiêm nhượng: không dám nói trước là ḿnh sẽ vững vàng măi măi bao lâu c̣n phải ngồi trước cán bộ công an (6).

   Khi ra đi mỗi sáng, ngài ôm sẵn một gói hành lư nhỏ vừa bằng chiếc mũ đựng những đồ dùng cá nhân cần thiết: biết đâu ngày hôm đó ngài sẽ bị bắt đem đi luôn ! Ngài chờ đón và chấp nhận t́nh huống này. Tâm trạng này thật là dũng cảm, v́ những lư do mà ít người biết đến:

   1) Ngài mang trong cơ thể cả trăm thứ bệnh đ̣i hỏi thuốc men đặc biệt và chế độ ăn uống riêng. Thử hỏi: vào tù làm ǵ kiếm được thuốc thang và thức ăn đặc biệt đó? Nhưng ngài đă chấp nhận ngay cả cái chết, v́ Thiên Chúa, v́ Giáo hội.

   2) Ngài tin như đinh đóng cột vào huyền thoại “Cộng sản toàn năng”, có đủ thủ đoạn để khiến người ta khai thú bất cứ điều ǵ họ muốn. Có lần ngài cho biết về thuốc sự thật (sérum de vérité): “Tôi được biết, khi bị chích thuốc đó vào rồi, đương sự nằng nặc đ̣i khai báo, thậm chí van lạy để người ta nghe khai!”.

   Thật ra kẻ cho ngài thông tin này đă đọc câu chuyện “khoa học giả tưởng” đó trong tập truyện tranh Tin tin & Milou mang tên “Vol 714 pour Sydney”. Nhưng Đức Cha đâu có biết đó là chuyện giả tưởng: đấy chính là công lớn của ngài, ngài thật xứng với danh hiệu “Tổng Giám mục dũng cảm”.

  

 

   Chú thích:

(1) Nhiều linh mục Huế không ưa các buổi nói chuyện này, coi đó là dịp để công an ghi sổ về thái độ của từng cá nhân...

(2) Những ai từng làm thầy dạy môn Pháp văn đều biết kiểu nói như vậy có thể dịch được ba cách: “cộng tác trong khi đề kháng”, “vừa cộng tác vừa đề kháng”, và “cộng tác bằng cách đề kháng”. Kể cả cách hiểu thứ ba cũng có thể vận dụng được ở đây (có vẻ nghịch lư đó, nhưng phân tích kỹ, sẽ thấy hợp lư hoàn toàn!).

(3) Đức Hồng y Wyszynski đă có lần phê b́nh chính sách đó như sau: “Tối thiểu là yêu cầu đừng có đè nặng lên thập giá của chúng tôi!” Về vai tṛ của Đức Hồng y Wyszynski trong giai đoạn này, Đức Hồng y Wojtyla đă nói với Đức Cha Thuận trong lần gặp gỡ kể trên: “Đó là con người của Chúa quan pḥng” (C’est l’homme providentiel).

(4) Xưa gọi là trường Sohier, ghi công Đức Cha Sohier (tên Việt là B́nh, 1862-1876), người đă đặt ṭa Giám mục tại Xuân Long (c̣n gọi là Kim Long). Nền của ṭa Giám mục vẫn c̣n thấy được ở đó ngày nay.   

(5) Bào thai các động vật có xương sống trong những tuần lễ đầu khó phân biệt nhau, trừ phi dưới con mắt chuyên gia: đây là một bằng chứng hỗ trợ cho thuyết tiến hóa. Thành ra nếu không có h́nh ảnh phôi thai người, cộng sản vẫn có thể dùng h́nh ảnh phôi thai chó, heo, ḅ... thuộc những tuần lễ đầu tiên mà đánh lừa được.

(6) Ngày xưa: Khôn ngoan ra trước cửa quan mới biết! Ngày nay: Có gan ra trước công an mới biết!

 

**********************************************************