Toàn bộ Truyện Kiều

của Nguyễn Du

do Quách Vĩnh Thiện phổ nhạc

 

 một công tŕnh vĩ đại

một sáng tác chưa từng có

 

 

 Gs Lê Mộng Nguyên

 

Bussy Saint Georges, ngày chủ nhật 12 th.04-2009

 

              

 

Kính thưa quí vị,

Các bạn thân mến,

Chính nhờ sự sao chuyển sang bản tự mẫu la mă của tiếng An Nam viết theo kiểu chữ Nho (Tàu) – trong việc này Cha Alexandre de Rhodes đă giữ một vai tṛ quan trọng – mà những truyện thuật ra mắt trong thế kỷ 14 gọi là « truyện nôm » (viết theo ngữ âm Trung Hoa) được truyền bá rộng răi trong thế kỷ thứ 18 và 19 nhờ sự cải hóa tiếng nôm sang tiếng nước nhà (từ nay dựa trên bản tự mẫu Âu Tây). Rất nhiều tiểu thuyết viết bằng « quốc ngữ » trong thời ấy như : Nhị Độ Mai, Phượng Hoa, Thạch Sanh vân vân, nhưng chỉ có Truyện Kiều hay  KVK hay  Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du  nổi bật trong bầu trời văn nghệ lúc bấy giờ bởi v́ nó không những là một kiệt tác trong loại văn, tiểu thuyết, mà c̣n là một công tŕnh văn chương lớn lao của Việt Nam. Truyện Kiều thoát khỏi những văn sáo của phần đông nhà văn lúc bấy giờ vẫn c̣n nô lệ luân lư Khổng giáo (nhập cảng vào VN bởi 1000 năm đô hộ của Tàu từ 111 trước Thiên Chúa đến năm 931  Dương Lịch) muốn trong một Truyện hay Kịch phải có một bên : các nhân vật tốt, đức hạnh, trung trực đối với vương quyền, một bên : các nhân vật tàn ác chỉ lo nịnh hót vuốt ve những khuynh hướng xấu xa của kẻ cầm quyền để kiếm cớ phản bội sau này. Kết cấu lúc nào cũng đưa đến sự thắng của đạo đức, làm cho độc giả thích thú.

 

    Nhờ một sáng tác đặc sắc phi thường, tác giả KVK, nhà đại thi hào Nguyễn Du đă thành công một mặt, là  làm giảm bớt sự đối địch bắt buộc của những tánh t́nh để đặt những nhân vật linh động, một mặt là cải tổ những h́nh ảnh cũ bằng cách cho vào tất cả trong một ngôn ngữ trong sáng và điều ḥa. Bằng sự thật trong những kư hiệu tâm lư, sắc nhận trong quan sát xă hội, những ḥa hợp tế nhị giữa cảnh vật và tâm trạng con người, những vần thơ rất lai láng được sáng tác theo một h́nh thể ḥa hợp lần lượt với một cách dễ dàng bi caanh hùng ca, thơ tự cảnh và thơ kư thuật, tả thực  và tâm t́nh, Nguyễn Du đă sáng tạo một  tuyệt tác đi sâu vào con người, xứng đáng được so sánh với những kiệt tác của văn chương Âu Tây (x. Bùi Xuân Bào, Naissance et évolution du roman vietnamien moderne 1925-1945, Đường Mới, Paris 1985).

 

Đoạn mở đầu như thế là để trả lời câu hỏi : tại sao KVK của Nguyễn Du được UNESCO xếp vào hạng những di sản của nhân loại ?  Đó cũng là để trả lời một câu hỏi khác : tại sao đầu đề bài thuyết tŕnh của tôi chiều hôm nay tại Bussy Saint Georges, trong pḥng Hát Lớn của Viện Âm Nhạc Jean-Sébastien BACH, là : Truyện Kiều (3254 câu thơ) của Nguyễn Du do Quách Vĩnh Thiện phổ nhạc toàn bộ : một công tŕnh vĩ đại, một sáng tác chưa từng có (Le poème Kim Văn Kiều – 3254 vers – de Nguyễn Du mis en musique par le compositeur Quách Vĩnh Thiện : un travail grandiose, une œuvre sans précédent).

 

BỞI V̀ chúng ta biết trước đó, với Kiều Ca (Le roman de Kiều en chansons), Thu Hà và nhóm nghệ sĩ trong đoàn ca nhạc của nàng, đă làm 2 CD dài gần 2 tiếng đồng hồ, gồm một phần Ngâm và một phần bằng lời Ca (do Hải Hà phổ nhạc). Phần ngâm theo điệu cổ truyền gọi là Kiều Lẫy, nghĩa là lượm lặt những câu thơ trong Truyện Kiều từ nhiều đoạn khác nhau để thu ghép lại với nhau theo vần điệu, như mấy cụ nhà nho, nhà chùa ngâm Kiều ngày xưa… Khác hẳn với nữ Nghệ sĩ Bích Thuận trong CD « Kim Vân Kiều » của Bà, đă ngâm hoàn toàn theo kiểu Tao Đàn mà Đinh Hùng đă phát khởi từ thập niên 60 để ngâm thơ mới. Nhạc sĩ Phạm Duy cũng đă làm thử Minh Họa Kiều… Nhưng chưa ai, từ trước đến nay, đă có can đảm và nhiệt chí để phổ nhạc vào thơ Nguyễn Du từ câu 1 cho đến câu 3254 nghĩa là câu cuối « Mua vui cũng được một vài trống canh » ! Công tŕnh sáng tác của QVT đối với những người đă đi trước, thật là đặc biệt, chưa từng có, thật đáng khâm phục.

 

Việc ấn loát gồm hai giai đoạn : 1) Từ tháng Giêng – 2007 đến th.07 2008, NS QVT đă cho Ra Mắt 4 CD : KVK 1, 2, 3, và 4, nghĩa là anh đă làm nhạc để phổ thơ Đoạn Trường Tân Thanh từ câu 1 đến câu 1780 ; 2) Từ tháng 10- 2008 cho đến tháng 02-2009 : CD KVK 5 « Cá Chậu Chim Lồng » (từ câu 1781 đến câu 2264) xuất bản trong tháng 08-2008, KVK 6 « Hại Nhân Nhân Hại » (từ câu 2265 đến câu 2778) làm  xong tháng Giêng-2009 và KVK 7 « Chữ Tài Chữ Mệnh » (từ câu 2779 đến câu 3254) được hoàn tất trong tháng 02-2009. Công tŕnh vĩ đại này – tôi xin nhấn mạnh một lần nữa - sở dĩ được thực hiện, là nhờ can đảm và ư chí không sờn của tác giả Quách Vĩnh Thiện đă muốn lấy hết sức lực và tài năng của ḿnh với mục đích b́nh dân hóa Truyện Kiều của nhà đại thi hào Nguyễn Du, đặng phụng sự một cách thuần túy văn hóa và đất nước Việt nam, như cụ Phạm Quỳnh đă nói trong ngày giỗ của Tố Như Tiên Sinh, năm 1924 tại Hà Nội : « Truyện Kiều c̣n, tiếng ta c̣n ; tiếng ta c̣n, nước ta c̣n, c̣n non c̣n nước c̣n dài, chúng tôi là kẻ hậu sinh xin dầu ḷng dốc chí, cố gia công trau chuốt lấy tiếng quốc âm nhà, cho quốc hoa ngày một rực rỡ, quốc hồn ngày một tỉnh táo, quốc vận ngày một vẻ vang, ngơ hầu khỏi phụ cái chí hoài băo của tiên sinh, ngậm cười chín suối vẫn c̣n thơm lây » (Tạp chí Nam Phong, tháng 08-1924). Nhà phê b́nh Vũ Đ́nh Long cũng đă ca tụng trong Nam Phong 1924, rằng : « Truyện Kiều thực là một cây đàn tuyệt quí không phím không dây. Tác giả lấy đầu lưỡi mà nẩy lên tiếng, mỗi đoạn văn là một cung, mỗi câu văn là một điệu, mỗi chữ là một tay nỉ non thánh thót, réo rắt tiêu tao, đêm khuya canh tỉnh mà nghe người tốt giọng ngâm Kiều th́ c̣n đàn nào hay bằng nữa… Cụ Nguyễn Du không phải là nhà thi sĩ, cụ chính là THẦN THƠ vậy ! »

 

Trong Chiều Văn Hóa ngày 27 th.01-2008 tại Quán Đào Viên (Paris, Quận 13), tác giả QVT tŕnh bày CD KVK 1 « Trăm Năm Trong Cơi Người Ta » và CD KVK 2 « Bên T́nh Bên Hiếu », tâm t́nh với cử tọa : « Truyện Kiều không chỉ là tiếng kêu thương đau cho thân phận một người con gái tài sắc, c̣n là lời tố cáo đanh thép những bất công tàn ác của một xă hội rối ren và mục nát vào thế kỷ 18 và 19. Nguyễn Du khóc cho thân phận Thúy Kiều là phản ảnh của tâm trạng ḿnh. Truyện Kiều là một tác phẩm phong phú, độc đáo của dân tộc Việt Nam ». Trên Đài Việt Nam Tự Do – New Orleans ngày thứ tư 12 th.03-2008, tôi có mời thính giả thưởng thức bài « Mộng Triệu Mạch Tương »  (từ câu 235 đến câu 270), trích CD KVK 1 do  nam ca sĩ Thùy Long tŕnh bày (với giọng hát truyền cảm), có đoạn tả cảnh tả t́nh rất đẹp như sau :

 

Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người

Nhớ nơi kỳ ngộ vội rời chân đi

Một vùng cỏ mọc xanh ŕ

Nước ngâm trong vắt thấy ǵ nữa đâu

Gió chiều như gợi cơn sầu

Vi Lô hiu hắt như màu khơi trêu

………………………………………….

 

Và 2 câu cuối của bài ca :

Lơ thơ tơ liễu buông mành

Con oanh học nói trên cành mỉa mai

 

Nhất Linh Nguyễn Tường Tam không ngớt lời khen ngợi, trong Tạp Chí Nam Phong năm 1924 : « Cái làn sóng thơ Kiều h́nh như lai láng khắp cơi Nam. Trừ những câu ca dao ra, thật không có quyển truyện nào phổ thông trong đám dân gian bằng Truyện Kiều. V́ văn Kiều hay quá, nên những người nhà quê không có học thức cũng thích xem và thích ngâm nga. Nhưng nói đến cái hay của văn Kiều th́ chưa biết thế nào mà kể được… ». Nhất Linh nhận định trong câu Lơ thơ tơ liễu buông mành, rằng ba chữ lơ thơ tơ « … nghe rất êm tai, hay về phần tưởng tượng ít mà hay về phần âm điệu êm ái nhiều hơn. » Nhạc của QVT về mặt này đă diễn tả, rất lăng mạn, những nét đẹp của vạn vật và con người, như ước vọng của tác giả ĐTTT.

 

Cũng trên Đài VNTD – New Orleans, ngày thứ tư 23 th.07 – 2008, tôi có giới thiệu CD KVK 3 « Quyến Gió Rủ Mây » (từ câu 891 đến 1312) gồm 11 bài : tôi chọn bài CHƯƠNG ĐÀI (từ câu 1233 đến 1274) để cống hiến quí thính giả một giọng ca trầm ấm và mến cảm của nữ ca sĩ nổi tiếng HƯƠNG GIANG với cây đàn guitare lăo luyện của QVT, đă làm nổi bật cái buồn sâu đậm của nàng Kiều bị đày đọa chốn thanh lâu (ở đây, người và cảnh ḥa hợp, ta cảm tưởng vạn vật cũng có linh hồn, rất Lamartine : Objets inanimés, avez-vous donc une âme / Qui s’attache  à notre âme et la force d’aimer ? Ôi vật vô sinh, người có chăng một linh hồn, Quyến luyến linh hồn ta và sức mạnh yêu đương ? trích bài thơ « Milly ou la terre natale (III, 2) » của Lamartine (1790 – 1869) :

 

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

Đ̣i phen nét vẽ câu thơ

Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa

Vui là vui gượng kẻo mà

Ai tri âm đó mặn mà với ai ?

……………………………………………

Khi về hỏi liễu Chương Đài

Cành xuân đă bẻ cho người chuyên tay

…………………………………………….

Song sa ṿ vơ phương trời

Nay hoàng hôn đă lại mai hôn hoàng

 

Trích từ KVK 3, có bài « Buồn Trông » đượm buồn man mác qua giọng ca của nữ ca sĩ Quỳnh Lan, cùng nhạc đệm do tác giả QVT độc tấu Tây Ban Cầm rất quyến rủ :

 

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

………………………………………..

 

GS Phạm Thị Nhung phân tích : « Từ lầu Ngưng Bích, với tâm hồn nặng trĩu ưu tư, Kiều đưa mắt ngắm nh́n phong cảnh chiều hôm, nơi cửa bể. Lúc này ngoài cửa bể mặt trời đă lặn, ánh nắng yếu ớt phai dần, bóng tối đă bắt đầu bảng lảng. Cảnh vật trở nên mờ nhạt hơn, khó nh́n hơn. Bóng tối đến c̣n gây thêm ảnh hưởng vào bóng tối u sầu trong tâm hồn Kiều. Nh́n ra bể khơi, Kiều thấy xa xa ẩn hiện một cánh buồm. Con thuyền hiện ra đó, chính là h́nh ảnh tượng trưng cho tự do mà từ bấy lâu nay nàng hằng ao ước, khát khao. Nhưng hy vọng tự do nào vừa dấy lên trong ḷng Kiều th́ rồi cũng lại tắt ngấm, khác nào cánh buồm kia vừa thoáng hiện ra đó lại đă biến đi. Kiều cay đắng nhận ra rằng tự do c̣n quá xa tầm tay với, của nàng, biết bao giờ, ôi biết đến bao giờ Kiều mới thoát cảnh sống bị giam hăm nơi này ? Phải chăng Nguyễn Du ở đây là một nhà thơ ấn tượng (poète impressionniste) và Quách Vĩnh Thiện cũng là một nhạc sĩ ấn tượng (compositeur impressionniste) ?» : Trong đoạn trích từ Bài số 6 của  CD KVK 4 tên là TRĂNG HOA 1515-1554, do Quỳnh Lan hát, tác giả KVK  tả t́nh và tả cảnh một cuộc  chia ly qua vài nét nhẹ nhàng, đă hiến cho ta một bức tranh tuyệt vời :

 

Dặm hồng bụi cuốn chinh an

Trông người đă khuất mấy ngàn dâu xanh

Người về chiếc bóng năm canh

Kẻ đi muôn dặm một ḿnh xa xôi

Vầng trăng ai xẻ làm đôi

Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường

 

Trong bài tựa của René Crayssac cho bản dịch « Truyện Kiều » sang Pháp ngữ của ông, có câu : « Những đoạn tả cảnh thiên nhiên mà có cái vẻ phong thú đặc biệt, như thế tác giả có chịu ảnh hưởng của Lăo học thuần túy nhiều »… Truyện Kiều c̣n làm nổi bật một lư tưởng đặc biệt, mà René Crayssac gọi là « luật quân b́nh » định nghĩa như sau : « Trong trời đất và thứ nhất là trong xă hội loài người, có một cái thế quân b́nh bao giờ cũng phải giữ cho đúng. Nếu mà thiên lệch về bên nào th́ thế nào cũng đạt lại cho bằng mới được. Thiên về bên nọ là có nợ với bên kia, nợ ấy thế nào cũng phải trả. Nợ ấy mà chưa trả th́ sai mất cái thế quân b́nh mà thành ra thiên ỷ, khi ấy th́ đấng cầm quyền, hoặc là quyền thượng đế ở trên trời hay quyền chính trị ở dưới hạ giới, phải thừa trừ thế nào cho cân, cho phục lại được cái thế quân b́nh như trước. Cái lư tưởng ấy vừa thuộc về đời này, về thuộc về việc lai sinh ». LAI SINH có nghĩa là kiếp sau, mà cũng là tên bài số 1 của CD KVK 7 « Chữ Tài Chữ Mệnh »,  2779 – 2820, do MỸ DUNG ca (giọng trầm ấm, thương cảm, luyến lưu…) để diễn tả nỗi ḷng của Kim Trọng lúc tái hợp, năn nỉ người yêu xưa trở lại với chàng, mặc dầu lúc Kiều ra đi bán ḿnh chuộc cha : « … Cực trăm ngh́n nỗi, dặn ba bốn lần / Trót lời nặng với lang quân / Mượn con em nó Thúy Vân thay lời.. » :

 

Gọi là trả chút nghĩa người

Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên

Kiếp này duyên đă phụ duyên

Dạ đài c̣n biết sẽ đền lai sinh

 

CD KVK 6 « Hại nhân Nhân Nhân Hại » có Bài số 3 (cùng tên : từ câu 2367 đến câu 2404) do HƯƠNG GIANG ca, với đoạn sau :

Nàng rằng lồng lộng trời cao

Hại nhân nhân hại sự nào tại ta

Trước là Bạc Hạnh Bạc Bà

Bên là Ưng Khuyển bên là Sở Khanh

Tú Bà cùng Mă Giám Sinh

Các tên tội ấy đáng t́nh c̣n sao ?

Lệnh quân truyền xuống nội đao

Thề sao th́ lại cứ sao gia h́nh

Máu rơi thịt nát tan tành

Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời

Cho hay muôn sự tại trời

Phụ người chẳng bơ khi nguời phụ ta

Mấy người bạc ác tinh ma

Ḿnh làm ḿnh chịu kêu mà ai thương

……………………………………………

Mục đích của Hoàng Việt Luật dưới Đời Gia Long phải chăng là « trừng trị lần này để lần sau khỏi phải trừng trị, bắt tội lần này để lần sau khỏi phải bắt tội ». Trừng trị có tính cách để làm gương, trừng trị có tính cách bồi thường, để tái lập thế quân b́nh trong xă  hội.

     Về mặt tả h́nh dáng và diện mạo, trong lúc Mă Giám Sinh là một anh lái buôn người chỉ được Nguyễn Du cho vài nét chấm phá như một nhà hội họa ấn tượng bằng hai câu :

 

Quá niên trạc ngoại tứ tuần

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao

 

Từ Hải trái lại là một tướng giặc trong thời loạn lạc, xiêu ḷng v́ Thúy Kiều lúc bước vào thanh lâu, được tác giả cảm t́nh, khâm phục :

 

Râu hùm hàm én mày ngài

Vai năm tất rộng thân mười thước cao

Đường đường một đấng anh hào

Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài

Đội trời đạp đất ở đời

Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông

Giang hồ quen thú vẫy vùng

Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo

Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều

Tấm ḷng nhi nữ cũng xiêu anh hùng

Thiếp danh đưa đến lầu hồng

Hai bên cùng liếc hai ḷng cùng ưa

 

NS QVT đă khéo léo giao cho một giọng nam trầm là XUÂN PHÚ hát Bài số 8 « Râu Hùm Hàm Én » của CD KVK 5 « Cá Chậu Chim Lồng »… KVK 4 « Tài Tử Giai Nhân » cũng như mấy CD khác, gồm 11 bài với những giọng ca Tố Hà, Thùy Long, Ngọc Ánh, Mai Thảo, Quỳnh Lan, Mỹ Dung, Hương Giang…, có bài thứ 5 « Yếm Thắm Trôn Kim » với giọng ca Mai Thảo, Thúy Kiều khuyên người t́nh nhân của ḿnh là Thúc Sinh nên về nhà thăm Hoạn Thư, người vợ chính của chàng :

Nàng rằng non nước xa khơi

Sao cho trong ấm th́ ngoài mới êm

Dễ ḷa yếm thắm trôn kim

Làm chi bưng mắt bắt chim khó ḷng

Đôi ta chút nghĩa đèo ḅng

Đến nhà trước liệu nói ṣng cho minh

Dù khi sóng gió bất b́nh

Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi

Hơn điều giấu ngược giấu xuôi

Lại mang những việc tày trời đến sau

 

Người nữ ca sĩ ở đây đă diễn tả một cách tự nhiên cái triết lư Phật giáo như lời kết thúc Đoạn Trường Tân Thanh của tác giả Nguyễn Du :

Thiện căn ở tại ḷng ta

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài

 

Tố Như Tiên Sinh muốn chúng ta, như học giả Trần Trọng Kim đă viết : « … hăy giữ lấy tấm ḷng trong sạch, dẫu có phải phong trần, cũng không đổi ḷng, thay dạ, ấy là cái thiện căn ở sẵn đó rồi. Lời kết luận ấy rất có ư nghĩa, khiến cho ai đọc cũng phải đem ḷng ngẫm nghĩ ».

Xin cảm ơn quí vị.