Hàn Mặc Tử

 và

 Chúa

Lê văn Lân

 

Hàn Mặc Tử: một kiếp khổ đau!

    Cách đây 65 năm, vào buổi trưa ngày 11 tháng 11 năm 1940, một người nằm xuống sau nhiều năm tháng đau đớn, nứt nở thi.t da. Ông ta là bệnh nhân của trại cùi Qui Ḥa mang số hiệu 1314. Trên cây Thánh giá trồng trên mộ phần của ông, ghi hàng chữ Phêrô Phanxico Nguyễn Trọng Trí. Đây chính là nhà thơ Hàn Mặc Tử.

    Ông vừa giống lại vừa khác thế nhân chúng ta. Giống ở chỗ cùng mang kiếp nhân sinh, với thịt xương và một cấu trúc thần kinh cao đẳng, biết ăn, biết ngủ, biết cảm xúc, biết tư duy. Nhưng khác ở chỗ: Thế nhân chết đi th́ rơi vào quên lăng, tĩnh mịch c̣n Hàn Mặc Tử chết rồi nhưng tiếng thơ c̣n măi! Chúng ta chết rồi, linh hồn có thể c̣n khắc khoải chưa biết về đâu v́  không trang bị .một niềm tin tưởng siêu linh, c̣n Hàn Mặc Tử thuở sanh tiền đă đối đầu và tôi luyện trong niềm đau khổ cực điểm nên linh hồn đă được thăng hoa trong một niềm tin vào Chúa!

Hàn Mặc Tử: Một linh hồn vượt hẳn cơi nhân gian!

    Nh́n lại phong trào thơ mới ở Việt Nam khoảng 1932-1945, sự xuất hiện của tiếng thơ dồi dào và sâu đậm nhất trong khuynh hướng nói về cơi Chết, về siêu h́nh, nhất là về Chúa th́ độc nhất có Hàn Mặc Tử .

    Tập Thơ Điên của HMT khiến người đọc bỗng hoàn toàn rời khỏi cái thế giới thực tại của thế nhân đến nỗi Hoài Thanh trong cuốn Thi nhân Việt Nam phải thảng thốt viết rằng:

    Một tác phẩm như thế, ta không thể nói hay hay dở, nó đă ra ngoài ṿng nhân gian, nhân gian không có quyền phê phán. Ta chỉ biết trong văn thơ cổ kim không có ǵ kinh dị hơn...Ta chỉ biết ta đương đứng trước một người sượng sần v́ bệnh hoạn, điên cuồng v́ đă quá đau khổ trong t́nh yêu...

    Ông Hoài Thanh thú nhận rằng ông phải bỏ ra ṛng ră “ngót một tháng trời “để đọc toàn bộ thơ của HMT và ông “đă mệt lả” (sic) (tr.205) . Kể ra thật đúng khi ta t́m gập rất nhiều câu thơ như sau:

Hồn của HMT không những chỉ vơ vưởng trong cơi vô h́nh mà nhiều lúc đă:

Cười như điên sặc sụa cả mùi trăng....

Gào thét một hồi cho rởn óc

Cả thiên đàng, trần gian và địa ngục

(Hồn là ai?)

Hồn có lúc lạc vào nơi

thiên sầu, địa thảm giới Lâm bô,

có lúc lại bay ra Ngoài vũ trụ để:

Tắm gội trong nguồn ánh sáng,

Ca những điệu ngọc vàng cao sang sảng.

Hoặc có lúc tinh khiết, nhẹ nhàng ngoài mức ngôn ngữ phàm tục :

Thượng thanh khí tiết ra nguồn tinh khí

Xa xôi đồi trăng mọc nước Huyền vi

Đây miên trường, đây vĩnh cửu, tề phi

(Đừng cho ḷng bay xa)

Hàn Mặc Tử: một viên kim cương trong gịng thơ Kytô giáo ở Việt Nam!

     Hàn Mặc Tử đă sống đạo, chết đạo và sáng tác thơ Đạo một cách tha thiết khiến nhiều người cho Tử là một “nhà thơ tôn giáo”, nhưng thực sự Tử đă vượt hẳn lên cái mục đích “truyền bá đức tin” của những thừa sai và giáo đồ trong giai đoạn tiên khởi ở Việt Nam. Thơ của HMT là một sự cảm nghiệm độc đáo! Đọc thơ Tử, người ta bèn thấy nguồn đạo trong thơ Tử không hạn hẹp với ư nghĩa một tôn giáo mà là một cái ǵ thuộc về hoàn vũ (universel).

Hoài Thanh trong cuốn Thi Nhân Việt Nam (1941) nhận định rất đúng rằng:

   “Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên, cả hai đều chịu rất nặng ảnh hưởng Baudelaire và qua Baudelaire, ảnh hưởng nhà văn Mỹ Edgar Poe, tác giả tập Chuyện lạ. Có khác chăng là Chế Lan Viên đă đi từ Baudelaire, Edgar Poe đến thơ Đường, mà Hàn Mặc Tử đă đi ngược lại từ thơ Đường đến Baudelaire, Edgar Poe và đi thêm một đoạn nữa cho gặp Thánh Kinh của đạo Thiên Chúa.

    Chính nhờ Thánh kinh và tinh thần Tin Mến Cậy sốt sắng vào Thiên Chúa. thơ Hàn Mặc tử đưa người đọc gần Chúa vô cùng!

   HMT vướng vào bệnh cùi lúc tuổi c̣n trẻ đang lúc yêu đời. Bệnh này như một đi.nh mệnh đă đọa đầy Hàn Mặc Tử trong một vũng đau thương tuyệt vọng:

Tôi vẫn c̣n đây hay ở đâu?

Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?

(Những giọt lệ)

…Thân tàn ma dại đi rồi

Rầu rầu nước mắt bồi hồi ruột gan

(Muôn năm sầu thảm)

Hàn Mặc Tử trong bài "Hồn là ai" đă tự mô tả cái hành hạ thể xác bằng giọng thống thiết sau:

…Áo tôi là một thứ ngợp hơn vàng

Hồn đă cấu, đă cào, nhai ngấu nghiến

Thịt da tôi sượng sần và tê điếng

Tôi đau v́ rùng rợn đến vô biên…

Dựa vào sự phát triển của bệnh cùi trong đời ông, ta thấy ba giai đoạn tương ứng trong thi nghiệp của ông:

1) Giai đoạn tiền bệnh: trước năm 1936 (nghĩa là trước lúc vô bệnh viện Qui Ḥa (1937) ,đánh dấu bằng những tập " Đường luật" và "Gái Quê"với một giọng trong sáng, nồng thắm, yêu đời cuồng nhiệt, một khí lực phương cương dồi dào tính dục trong lứa tuổi đôi mươi.

2) Giai đoạn bệnh phát lộ đánh dấu bằng tập thơ "Đau Thương", "Thơ Điên" nên tiếng thơ thống thiết, cực kỳ bi thảm như một con chim biết rằng ḿnh sắp chết. Thiên kiến của người đời xa lánh ḿnh cọng vào đó sự đau khổ v́ t́nh duyên trắc trở đă làm HMT càng đau khổ:

Ḷng ta sầu thảm hơn mùa lạnh

Hơn hết u buồn của nước mây

Của những t́nh duyên thường lở dở

Của lời rên xiết gió heo may

3) Giai đoạn cuối cùng của Hàn Mặc Tử được định mốc bằng tập thơ "Xuân Như Ư". Khi ư thức rằng ḿnh không c̣n hy vọng sống lâu HMT càng t́m nguồn giải thoát cho linh hồn khắc khoải qua tôn giáo và những khải thị siêu phàm. Giọng thơ không c̣n rên rĩ, mà thanh thoát, thăng hoa.

    Vào bệnh viện Qui Ḥa, thi nhân đă tập được đức tính an vui trong nguồn đau khổ. Trong một lá thơ gửi cho ông bạn thân là Trần Thanh Địch, Tử kể lại rằng mỗi ngày đều đều ông liên lỉ ít nhất năm sáu lần vừa đọc kinh vừa ngâm thơ.

   Nhưng ba tháng sau, cơ thể quá suy kiệt và thêm bị chứng kiết lỵ nên vài ngày th́ tạ thế (ngày 11 tháng 11 năm 1940 hưởng dương 29 tuổi).

   Trên giường bịnh, biết ḿnh sắp chết, tâm hồn thi nhân vẫn vô cùng sáng suốt và giữ một thái độ b́nh thản như sốt sắng viết một bản kinh nguyện bằng tiếng Pháp là La Pureté de l’âme. (Sự thanh khiết của linh hồn) để dọn ḿnh về với Chúa.

Nhà văn TRẦN THANH ĐỊCH

 bạn chí thân của Hàn Mặc Tử và người viết Lê văn Lân

 

Lư tưởng Thiên Chúa giáo trong thơ Hàn Mặc Tử

     Trên chủ trương sáng tác thi văn của ông, Hàn Mặc tử đă khẳng dịnh lư tưởng Thiên Chuá giáo của ḿnh:

    “ Đức Chúa trời tạo ra trăng, hoa, nhạc, hương là để cho người đời hưởng thụ, nhưng người đời u mê phần nhiều không biết tận hưởng một cách say sưa, và nhân đấy chiêm nghiệm lẽ mầu nhiệm, phép tắc của Đấng Chí tôn. V́ thế, trừ hai loài trọng vọng là “ thiên thần” và “ loài người”, Đức Chúa Trời phải cho ra đời một loài thứ ba nữa: “ loài thi sĩ”! Loài này là những bông hoa rất quí và rất hiếm, sinh ra đời với một sứ mạng rất thiêng liêng: Phải biết tận hưởng những công tŕnh châu báu của Đức Chúa Trời đă gây nên, ca ngợi quyền phép của Người, và trút vào linh hồn người ta những nguồn khoái lạc đê mê, nhưng rất thơm tho tinh sạch. (Thư gửi cho Trọng Miên: Quan niệm về Thơ).

    Đọc thơ của HMT, người ta đă t́m thấy Thánh Kinh, cho nên lời thư viết trên này chỉ là phu diễn cái ư cốt tủy cho rằng thế gian này tạo ra do ḷng yêu và vinh quang của Thiên Chúa.”Chính cái ch́a khóa t́nh yêu đă mở tay Thiên Chúa tạo dựng các loài”( thánh Thomas d’Aquin). Sự sáng tạo là điều Chúa muốn như là một sự ân tứ dành cho con người, như là một tài sản chuyển đạt và giao phó cho con người thụ hưởng (Car la création est voulue par Dieu come un don adressé à l’homme, comme un héritage qui lui est destiné et confié.–Catéchisme de l’Église Catholique 1997).

    Nhưng theo Tử, th́ con người phàm tục thế gian ít khi hiểu đưôc và mang ơn “loài thi sĩ” nếu không nói là vô t́nh bạc đăi khinh khi.

    Qua biểu tượng Máu và Hồn, Tử đă vô t́nh dự phóng bản ngă của ḿnh trênh́nh ảnh của Chúa Giêsu trong gương cứu chuộc trong buổi Tiệc Ly với lời nói cuối cùng với các môn đệ trên bánh thánh và rượu nho:

“Này đây là Ḿnh ta, hăy cất lấy mà ăn. Này đây là chén Máu ta, hăy cất lấy mà uống”.

Hàn Mặc tử, khi viết tựa cho tập Tinh Huyết của Bích Khê đă viết rằng:

   “Sáng tạo là điều kiện cần nhất, tối yếu của thơ, mà muốn t́m nguồn cảm xúc mới lạ, không chi bằng đọc sách về tôn giáo cho nhiều. Như thế, thơ văn mới trở nên trọng vọng, cao quí, có một ư nghĩa thần bí.

     Đọc nhiều thơ của HMT, người ta thấy tràn ngập nào là ánh sáng, nào là hương, nào là hoa, nào là châu báu, nào là tiếng nhạc, nào là lời kinh... ít ai ngờ đó là khung cảnh trang hoàng để phụng vụ trong những giáo đường Công giáo trong thực tế mà trí tưởng tượng phong phú của thi nhân đă chuyển hóa ra thành những lời thơ trọng vọng... Ngay cả những lời thơ trùng trùng điệp điệp về sự văi máu, nôn khạc huyết ra từ cổ họng của HMT, biết đâu chẳng đă được gợi hứng từ h́nh ảnh con chim bồ nông mổ ngực để máu vọt ra cho đàn chim con xúm lại mà uống; h́nh này thường được chạm trên cánh cửa của Nhà Tạm đựng Ḿnh Thánh Chúa trên bàn thờ của giáo đường (Chim bồ nông – pélican là loài thủy điểu, khi bắt được mồi thường nuốt tạm và chứa trong cái b́u da ở cổ họng để đem về cho bày con mổ vào họng ḿnh ra mà ăn. Do đó, có truyền thuyết là chim bồ nông tự mổ ngực ḿnh ra để lấy máu nuôi con.

     Thánh Thomas d’Aquin trong Vần thơ Thánh vịnh (Rhythmus Sancti) đă dùng h́nh ảnh chim này mà ca vịnh Thánh thể như h́nh Chúa Giêsu đổ huyết ra v́ nhân loại. C̣n Alfred de Musset, nhà thơ Pháp (1810-1857) đă thi vị hóa h́nh ảnh bồ nông như thân kiếp của thi nhân làm thơ bằng máu lệ của ḿnh trong một bài thơ danh tiếng.

    HMT lấy hứng về thi liệu từ Kinh thánh và những bài kinh nguyện của tín đồ Công giáo để xây dựng tứ thơ của ḿnh.

   Bài Thánh Nữ Đồng trinh trứ danh của HMT đă diễn đạt lại ư tứ của kinh Kinh Mừng quen thuộc của người Công giáo với một giọng vô cùng thành khẩn:

…Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn,

Giầu nhân đức , giầu muôn hộc từ bi,

Cho tôi dâng lời cảm tạ pḥ nguy

Cơn lậm lụy vừa trải qua dưới thế

Tôi cảm động rưng hai hàng lệ

…Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước,

Cho t́nh tôi nguyên vẹn tựa trăng rằm  

   Theo Linh mục Phan Phát Hườn, bài AVE MARIA của Hàn Mặc Tử mà trong đó có các đoạn thơ trên đây đă gây một xúc cảm sâu xa trong tâm hồn người đọc, công giáo hay không công giáo. Đọc bài thơ này người ta liên tưởng tới bài LA VIERGE À MIDI của Paul Claudel, hai bài thơ đều nói về Trinh nữ Maria nhưng hai giọng văn khác hẳn. Đọc lên bài thơ của Claudel ta chia sẻ những tâm t́nh của một người vô thần sau khi đă quay về với Chúa, tỏ t́nh rất mực đơn sơ với Trinh Nữ. Đọc lên bài Ave Maria của Hàn Mặc Tử, ta cảm được, ta sờ được, ta thấy được sự cao sang của Trinh Nữ.

Trong thi ca của HMT, người ta c̣n bắt gặp một ư thơ khác lấy từ Kinh Tin Kính như :

Ngày tận thế là ngày tán loạn

Xác của Hồn, Hồn của Xác y nguyên.

    HMT lại mang cái thị kiến của thánh Yoan trong sách Khải huyền về thành thánh Yêrusalem: “ánh quang của thành tỏa ra tựa hồ minh châu cực quí, như ngọc thạch bóng lộn ánh lưu ly...vào bài Xuân Đầu tiên của ḿnh qua câu:

… Trái cây bằng ngọc vỏ bằng gấm

C̣n mặt trời kia tợ khối vàng

… Trên chín tầng diêu động cả trân châu

Dường sống lại muôn ngàn hoa phẩm tiết.

Niềm khổ đau cứu độ

    Khảo sát về thơ Hàn Mặc Tử, chúng ta nh́n thấy một thiên tài. Bệnh hoạn và nghi.ch cảnh chỉ là những tác nhân duyên khởi đă bức bách thiên tài này sáng tác ra nhiều bài thơ kỳ lạ như những hạt cát khiến những con trai dưới biển sanh ra những hạt trân châu.

    Với Hàn Mặc Tử, sự đau đớn về thể xác, niềm tủi cực về tinh thần cũng gây ra một phản ứng điên đảo khiến ông cười, nói, gào, thét lung tung để giải thoát tâm tư. Nhưng ông không hề loạn trí, nghĩa là điên thực sự mà nói năng không mạch lạc theo luận lư. Tập “Thơ Điên” là sự chuyển hoá sự đau khổ qua một “hiện tượng thoái hồi" như là một phản ứng chống đỡ tự nhiên để giữ quân b́nh lành mạnh cho trí óc.

   Hàn Mặc Tử , cũng như bao thi nhân vĩ đại có điểm độc đáo phi thường là đau khổ không d́m sâu họ xuống bùn đen mà đưa họ lên cao lên cao gần Thượng Đế

    Ở Hàn Mặc Tử, thể xác đau đớn ê chề nhưng linh hồn th́ thăng hoa trong sáng nhờ đôi cánh của tôn giáo được chắp vào trí tưởng của thi nhân.

    Hàn Mặc Tử trong tận cùng đau khổ của thế gian đă tự ví ḿnh: khi xưa ta là chim phượng hoàng, Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất"; ư tứ ḿnh "cao cường hơn ngọn núi"; hồn ḿnh "chơi vơi trong khí hậu chín tầng mây"

   Trong bài viết Mùa Chay: Suy nghĩ về Đau Khổ trong Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu giúp số 223, tháng 03- 2005, tác giả Thế Hùng đă viết:

   “Chuá Giêsu là gương mẫu sống động cho những người đau khổ” Chúa Giê su không cho chúng ta một câu trả lời trừu tượng về vấn nạn đau khổ.Hơn thế, Ngài cho chúng ta một câu trả lời sống động và một gương mẩu để đi theo. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă chỉ ra điều này một cách rơ nét trong Tông Thư năm 1984 “Salvicifi Doloris” (Ư nghĩa về Đau khổ con người theo Kitô giáo). Ngài viết rằng khi có ai hỏi Chuá Kitô tại sao con người phải đau khổ, người đó “không thể không chú ư đến Người đặt câu hỏi v́ chính Người đó cũng đau khổ và ao ước trả lời câu hỏi đó từ chính thập giá, từ con tim đau khổ của Người… Chuá Kitô không giải thích một cách trừu tượng lư do v́ sao có đau khổ, nhưng trước hết, Ngài nói:

    Hăy theo Ta! Qua cuộc đau khổ của con, con hăy dự phần vào công cuộc cứu rôĩ thế giới. Dần dần khi cá nhân đo vác lấy thập giá ḿnh, trong tinh thần liên kế với thập giá Chuá Kitô, ư nghĩa cứu độ của đau khổ sẽ hiện ra trước mắt người đó”

    Hàn Mặc Tử lại dự phóng sự đau khổ của ḿnh như h́nh ảnh cứu chuộc của Chúa GiêSu: qua một hiện tượng “tự đồng hoá”( identification ) với Chuá Kitô về tuẫn đạo (Martydom). HMT đă tự gán cho ḿnh vai tṛ làm Thi Nhân đă đổ hết bao nhiêu nguồn máu lệ, đă từng uống mật đắng cay trong khi miệng vẫn tươi cười sốt sắng. (Thay lời Tựa – Xuân Như Ư). Trong bài Nguồn Thơm, HMT đă nhiệt t́nh tôn vinh những người đă vác Thập gía theo chân Chuá Giêsu:

_ Đây, thi sĩ của đạo quân Thánh giá

Nửa đêm nay vùng dậy để tung hô

Để sớt cho cả xuân, xuân thiên hạ

Hương mến yêu là lộc của lời thơ

    Hàn Mặc Tử lại c̣n tha hóa t́nh cảm của ḿnh khi mơ đến một "mùa Xuân Thái Ḥa" của” năm muôn năm, trời muôn trời" cho cả và thiên hạ.

    Linh hồn của con người đau khổ thường hay lên gần Chúa. Đó là tâm trạng của Hàn Mặc Tử trong những ngày cuối cùng bệnh hoạn, khổ đau trong trại cùi Qui Ḥa. Hàn Mặc Tử đă thị kiến đến một mùa Xuân Như Ư:

“Vinh quang Chúa cả trên trời, b́nh an dưới thế cho người thiện tâm”.Câu thánh vịnh về mùa Giáng Sinh này đă khơi nguồn cho Hàn Mặc Tử khi viết như sau:

Tứ thời xuân! Tứ thời xuân non nước!

Phút thiêng liêng nhuần gội áng thiều quang

Thiên hạ b́nh, và trời tuôn ơn phước

Như triều thiên vờn lượn khắp không gian

(Nguồn thơm)

   Ư thơ của Hàn Mặc Tử trong tập Xuân Như Ư khai triển một cách kỳ diệu vô cùng. Tử cho rằng ḿnh giống Khổng Tử khi chép kinh Xuân Thu với một cảm hứng dào dạt:

Ngời phép lạ của đức tin kiều diễm

Câu tàn tạ không khen long cả phiếm

Bút Xuân Thu mùa nhạc đến vừa khi

(Đêm xuân cầu nguyện)

   Sự thăng hoa của Hàn Mặc Tử được kết tinh bằng h́nh ảnh của một thiên đường đầy vẻ đẹp tuyệt vời mà con người không c̣n than khóc, đau khổ nữa, một thiên đường đầy: "Nhạc thơm, hương ấm, mộng ngọc, hoa trinh bạch, đàn ly tao, tranh tuyệt phẩm".

Câu nói của thi sĩ Pháp Alfred de Vigny: "Những khúc hát tuyệt vọng nhất là những khúc hát đẹp vô vàn."phải chăng rất đúng khi áp dụng vào trường hợp của nhà thơ vô cùng khổ đau Hàn Mặc Tử.

  Như là một lời kết, chúng ta hăy nghe Linh mục Phan Phát Hườn nhận định rằng :

    Hàn Mặc Tử bằng thi thơ của ḿnh muốn nói lên điều mà ông TIN, điều mà các nhà thần học đă tốn biết bao nhiêu mực, bao nhi u giấy từ hế kỷ này qua thế kỷ khác nói về sự kiện lịch sử Chúa xuống thế làm người, về mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể trong cung ḷng của Trinh Nữ Maria. ( Đức Tin trong thơ Hàn Mặc Tử – Tựa cho cuốn Hàn Mặc Tử: Đau Khổ và Thơ của Lê văn Lân)

   Với tâm t́nh của người yêu thơ Hàn Mặc Tử, bài viết này xin được xem như một nén tâm hương cho một thi hào đă dùng những đau khổ và máu lệ của ḿnh mà nhào nặn ra biết bao lời thơ đẹp và sâu săc tuyệt vời như những hạt kim cương.

LÊ VĂN LÂN

Mùa Phục Sinh  2005