1- NGUYỄN THÔNG TRÊN MẢNH ĐẤT TỤ NGHĨA B̀NH THUẬN
Tháng 2 năm 1859, quân Pháp chiếm được thành Gia Đinh, nhưng Trương
Công Định đă đem dân quân, từ đồn điền Gia Thuận (G̣ Công), lên Thuận
Kiều cứu viện. Ngày 25-2-1861, đồn Chí Ḥa bị quân Pháp chọc thủng,
quân triều đ́nh phải rút về Biên Ḥa. Riêng Trương Định cũng lui quân
về lập chiến khu chống giặc tại Tân Ḥa, G̣ Công. Đây là một căn cứ
kháng chiến mạnh nhất thời bấy giờ tại Nam Kỳ, dù không có được vị thế
hiểm trở như các chiến khu Đồng Tháp của Vơ Duy Dương hay các nơi khác
tại Trung và Bắc Việt. Do tấm ḷng yêu nước nồng nàn, Trương Định đă
chống lại lệnh của Triều đ́nh Huế băi binh và tới An Giang làm lănh
binh. Oâng ở lại củng cố và biến Tân Ḥa thành một mồ chôn xác giặc.
Chiến khu bao gồm một vùng đất rộng, phiá tây lên đến Gịng Ôâng Huê,
phiá bắc có chiến lũy Đông Sơn, nằm dọc theo Rạch Lá, Sông Tra. Về
phía đông nam, tới tận cửa Tiễu và bờ biển. Đại bản doanh đóng tại
Gịng Sơn Quy có chiến lũy đắp bằng đất cao hơn 1m bao quanh, tiếp nối
với tiền đồn Dung Giang, chạy ṿng theo rạch G̣ Công, bảo vệ Sơn Quy.
Tướng Palanca, chỉ huy liên quân Pháp-Tây Ban Nha, nhận xét rằng,
chiến lũy G̣ Công có hai vị trí kiên cố và hiểm trở, đó là Dung Giang
và Đông Sơn, đă gây rất nhiều thiệt hại cho quân viễn chinh. C̣n một
sĩ quan người Nga trong đơn vị Lê Dương Pháp cũng viết: "G̣ Công là
một đồn trại lớn, được xây doing kiên cố, trong căn cứ có 40 doanh
trại và nhiều hầm tránh.".
Riêng Nguyễn Thông, trong Độn Am văn tập, có viết Lănh Binh Trương
Định truyện. Đây là một tài liệu lịch sử rất giá trị, v́ Nguyễn Thông,
chính là người đương thời, viết về các nhân vật yêu nước lúc đó, đang
kháng chiến chống Pháp như Trương Định, Hồ Huân Nghiệp. Oâng viết:
"tại các nơi hiểm yếu, đều có quân pḥng giữ, c̣n Trương Định lănh đại
quân, đóng tại G̣ Công.Những ngă đường dẫn vào chiến khu, đều có đồn
bót canh giữ cản giặc Pháp. Trong đồn có súng đại bác. Tóm lại qua tài
trí của Trương Lănh binh, quân dân đă chiến đấu với giặc Pháp thật
dũng mănh, tạo nhiều chiến công hiển hách làm quân địch khiếp sợ. Cuối
cùng thực dân phải dồn hết lực lượng viễn chinh mới hạ được pḥng
tuyến. Ngày 20-8-1864 Trương Định đền xong nợ nước, lúc vừa mới 44
tuổi. Danh tiếng và nghĩa khí của ông lưu danh thiên cổ.
Trong Nam tên họ, nổi như cồn
Mấy trận G̣ Công để tiếng đồn
Dấu đạn làm rêm tàu Bạch quỹ
Hơi gươm thêm rạng thẻ hoàng môn..
Sau
khi ḥa ước Nhâm Tuất (1862) nhượng ba tỉnh miền đông cho thực dân
Pháp, làm cho dân chúng cả nước và nhất là tại NamKỳ rất phẫn hận
trước cảnh quốc phá gia vong. Mọi người kết tội Triều đ́nh Huế nhu
nhược và Phan Thanh Giản là người đă chủ ḥa dâng đất cho giặc, nên đă
có câu vè truyền tụng khắp dân gian:
"Phan-Lâm măi quốc
Triều đ́nh khi dân"'
Tháng 8-1867, toàn bộ 6 tỉnh Nam Kỳ rơi vào tay giặc Pháp, Phan Thanh
Giản uống thuốc độc tử xử, để tạ tội với quốc dân v́ sự lầm lẫn của
ḿnh. Lịch sử sau này có phê phán nặng về ông nhưng không hề xếp Phan
Thanh Giản vào chung với bọn phản tặc thời đó như Tôn Thọ Tường, Đổ
Hữu Phương, Trần Bá Lộc, Nguyễn Thân, Lê Hoan, Hoàng Cao Khải, v́ ông
không hề có ư định phản bội đất nước, mà chỉ v́ quá khiếp nhược trước
sức mạnh cơ khí của giặc, nên đi theo con đường ḥa nghị. Rốt cục giặc
vẫn hung hăng cưỡng chiếm hết Nam Kỳ bằng vơ lực. Mới đây tại kho lưu
trữ hồ sơ mật của Pháp ở Paris, các nhà nghiên cứu VN t́m được ba bức
thư, mang kư hiệu Fonds Berryer - 223AP.17.d.2, đề ngày 19-9-1863,
28-9-1863 và 10-10-1863, từ Nam Kỳ gởi cho Nghị sĩ Berryer, vốn là một
luật sư, phát ngôn viên chính thức của Hạ Viện Pháp. Đại ư cả ba bức
thư, yêu cầu Hoàng đế Pháp đừng triệu hồi quân viễn chinh Pháp đang
trên đà chiến thắng về nước. Đừng cho Phái bộ Phan Thanh Giản chuộc
lại ba tỉnh đă mất. Đưa ra những nguồn lợi và tài nguyên của Nam Kỳ và
kết luận phải chiếm toàn bộ 6 tỉnh miền Nam, nêu không các nước khác
sẽ đến tranh phần. Nói tóm lại, thái độ chủ ḥa của triều đ́nh Huế lúc
đó chỉ là một hành động dư thừa và nhẹ dạ trước một nước đại thực dân
như Pháp. Trước cảnh quốc phá gia vong, một số lớn sĩ phu Nam triều
tại 6 tỉnh đă mất, không chịu quy hàng và hợp tác với Pháp, nên đă ra
B́nh Thuận tị địa, tiếp tục cuộc kháng Pháp. Tiêu biểu trong số này có
Nguyễn Thông, Trương Gia Hội, Trần Thiện Chánh, Trà Quư B́nh. Nguyễn
Thông bắt đầu làm quan từ năm 1849 cho tới khi măn phần tại Phan Thiết
năm 1884. Nói chung sự nghiệp của ông hầu như gắn liền với nỗi trầm
luân điêu đứng của đất nước, suốt thời kỳ vua Tự Đức trị v́ trong suốt
thế kỷ thứ XIX. Về sự nghiệp một đời c̣n lưu lại cho hậu thế, ngoài
tài văn hay chữ tốt, ông c̣n làm được nhiều chuyện lớn lao, có ích lợi
cho dân nước như xin vua tuyển chọn nhân tài vào các chức quan văn vơ,
khai khẩn đất hoang vùng tây nam tỉnh B́nh Thuận (nay thuộc hai quận
Tánh Linh và Vơ Đắc-B́nh Tuy) và quan trọng hơn hết là cùng với Phan
Thanh, bí mật chỉ huy cục t́nh báo phương nam của triều đ́nh Huế,
chống lại giặc Pháp. Tiếc thay các tài liệu quư giá có liên quan tới
các tầng lớp sĩ phu yêu nước thời đó, đặc biệt là tại B́nh Thuận, phần
lớn đều bị thực dân tiêu hủy hay bọn văn nô cọng sản lấn láp bịa
chuyện thay đời. Tệ hơn là các chương tŕnh giáo dục của chính phủ
quốc gia, với chủ trương lừng khừng không độc lập, c̣n lệ thuộc quá
nhiều vào tầng lớp phong kiến, quan liêu và sợ mích ḷng, nên những
danh nhân chí sĩ yêu nước làm rạng danh người B́nh Thuận như Nguyễn
Thông, Nguyễn Xuân Oân, Ưng Chiếm, Bùi Hành, Cao Hàng, Phan Chánh, Lê
Công Chánh, Tống Hưng Nho, Nguyễn Đăng Giai không hề có tên đường,
trái lại Đồng Khánh, Khải Định, Thái Lập Thành lại có tên đường, thật
là một chuyện khôi hài. Do t́nh trạng trên, ngày nay chúng ta chỉ biết
một cách đại khái mơ hồ về các bậc tiền bối trên. Tuy nhiên không ai
không ngậm ngùi cho số phận của những anh hùng liệt nữ, một đời dấn
thân, rốt cục chỉ âm ba trong tiếng trống vọng tang điền,
"Băi sông mưa tạnh, chim về
Tù và ai rúc, bóng che nữa lầu
Lửa thiêng thành quách nào đâu?
Bạn xưa gặp nạn, dăi dầu long đong
Đổ Lăng xa nước khóc ṛng."
Nh́n lại lịch sữ, ta biết năm 1832, Tả quân Lê Văn Duyệt, Tổng trấn
Gia Định thành mất. Vua Minh Mạng v́ cái hận lập đông cung thái tử
ngày trước, nên nhân dịp Tổng trấn mới là Nguyễn văn Quế, Bạch Xuân
Nguyên vu cáo. Triều đ́nh đă tru di họ Lê, đào mả Tả quân, v́ thế Lê
văn Khôi mới phản loạn tại Nam Kỳ vào năm 1833. Ngoài Bắc thành, loạn
lạc nổi lên khắp nơi như giặc Phan Bá Vành, Lê Duy Lương khiến quân
triều đ́nh phải đánh dẹp thật vất vă. Năm 1858 Pháp nổ súng tấn công
thành An Hải, trên bán đảo Sơn Chà (Đà Nẳng), gây thong vong cho nhiều
thường dân vô tội nhưng bị phản ứng dữ dội, nên đă bỏ đi. Mùng chín
tháng giêng năm Kỹ Mùi (1859), liên quân Tây Ban Nha-Pháp, cưỡng chiếm
Sài G̣n và mở màn tấn bi kịch cướp nước VN, mà bước đầu là đất Nam Kỳ.
Năm 1861, Pháp đánh Cần Giuộc, Tân An và G̣ Công, sau khi hạ thành Kỳ
Ḥa. Lúc này Nguyễn Thông đang làm Tham mưu phó cho Tán tương quân vụ
Tôn Thất Hiệp. Cuộc chiến đấu trở nên ác liệt, giữa Pháp và quân Triều
đ́nh với sự hợp tác của quân dân tại các đồn điền, dưới sự chỉ huy của
Trịnh Quang Nghi, Trương công Định, Phan văn Đạt, Nguyễn Tri Phương và
Nguyễn Duy. Để truy điệu quân dân, đă bỏ ḿnh v́ nước, Đồ Chiểu đă
viết 'Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc'. Đây là một trong những áng văn bất
hủ trong ḍng thơ ái quốc của dân tộc.
Năm 1862, Triều đ́nh kư hiệp ước nhường đứt ba tỉnh miền đông Nam Kỳ
cho giặc, đồng thời ngăn cản quân dân tiếp tục chống quân thù. Hành
động trên đă gây nhiều căm phẫn trong nước nên các sĩ phu đă bất tuân
lệnh và do đó cuộc kháng Pháp đă tiếp diễn thật dữ dội, trong số này
Lănh Binh Trương công Định là tiêu biểu nhất. Giai đoạn này, Nguyễn
Thông đang giữ chức Đốc học Vĩnh Long. Ngày 19-8-1864, Trương Định bị
tên việt gian phản tặc Huỳnh Công Tấn sát hại. Thi hài Oâng được chôn
tại G̣ Công nhưng lại bị Pháp san bằng mồ mă, cho tới năm 1956 Chính
phủ VNCH mới trùng tu lại và chiếu theo sắc phong của vua Bảo Đại
trước năm 1945 là 'Đại Nam,Thần Dũng Đại Tướng Quân'. Trong dịp này,
nhiều sĩ phu trong nước cũng như cụ Đồ Chiểu, có viết nhiều thi văn
phúng điếu người anh hùng bất khuất. Năm 1867 Pháp lại tấn chiếm ba
tỉnh miền tây c̣n lại là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Uất hận v́ bị
Pháp lừa gạt và dân chúng cả nước nguyền rủa v́ thái độ chủ ḥa khiếp
nhược, Phan Thanh Giản uống thuộc độc tự tử. Tuy Nam Kỳ đă mất về tay
Pháp nhưng cuộc kháng Pháp vẫn tiếp diễn khắp nơi, duới sự lănh đạo
của hai con Phan Thanh Giản là Phan Tôn và Phan Liêm, cùng Nguyễn Xuân
Phụng, Vơ Duy Dương, Thủ Khoa Huân, Nguyễn trung Trực..với nhiều chiến
công rực rỡ, nay vẫn c̣n lưu dấu :
'Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạc Kiên Giang, khấp quỹ thần.'
Như tằm ăn dâu, Pháp biết VN lúc đó rất suy yếu về quân sự cũng như ư
chí, nên lại tấn công Bắc Kỳ. Thành Hà Nội thất thủ lần thứ I (1873),
Nguyễn Tri Phương và con là pḥ mă Lâm tử trận. Phần lớn các tỉnh lân
cận đều lần lượt lọt vào tay Pháp. Ngày 15-3-1874, triều đ́nh Huế lại
kư với Pháp ḥa ước Giáp Tuất, liên quan tới Bắc thành, nhưng cuối
cùng Pháp lại thất hứa và đánh chiếm Hà Nội lần thứ 2 (1882), tổng đốc
Hoàng Diệu tuẫn tiết theo gương Nguyễn Tri Phương. Giữa lúc nước nhà
đang nguy ngập và rối ren bi thiết, th́ vua Tự Đức lại băng hà ngày
16-6-1883 (Quư Mùi), khiến triều đ́nh Huế trở thành vô chủ, mặc cho
Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường tự chuyên phế lập các vị vua Dực
Đức, Hiệp Ḥa, Kiến Phúc và Hàm Nghi.
Năm 1884, cục t́nh báo phương Nam, kết thúc theo cái chết của vua Tự
Đức, các ông Phan Chánh và Nguyễn Thông cũng chết trong âm thầm vào
năm 1884. Riêng về năm chết của Nguyễn Thông, hiện nay vẫn c̣n có sự
sai biệt và đầy nghi vấn. Theo các tài liệu cũ trong Đại Nam Chính
Biên liệt truyện, thành ngữ điển tích của Trịnh văn Thành, Tự điển văn
học và bài viết của Bùi văn Tụng, dựa theo tư liệu gia tộc, do cháu
nội Nguyễn Thông là bác sĩ Nguyễn Quư Phầu, đăng trong Tập San Sử Địa
năm 1966, th́ ông sinh năm 1827 và mất tại Phan Thiết năm 1894, thọ 64
tuổi. Nhưng hầu hết các tài liệu của VC sau năm 1975 viết rằng Nguyễn
Thông sinh năm 1827 và mất năm 1884. Sự khác biệt này đến nay vẫn chưa
được kiểm chứng. Theo sử liệu, Nguyễn Thông sinh tại đất Gia Định, nay
là Tân Thạnh, Kỳ Sơn, Tân An tỉnh Long An. Oâng sinh năm 1827, là con
của Nguyễn Hạnh và Trịnh thị A Mầu, thuộc ḍng nho gia. Năm 18 tuổi ra
Huế dự thi và đổ cử nhân khoá 1849 (Kỹ Dậu), thời vua Tự Đức. V́ gia
cảnh bần hàn, nên ông không tiếp tục con đường thi cử, mà ra làm quan
Huấn Đạo tại Phú Phong (An Giang). Nguyễn Thông tự là Hy Phần, hiệu Kỳ
Xuyên, biệt hiệu là Độn Am. Oâng kết hôn với Ngô thị Thuư A, vốn là
tằng tôn của Ngô Nhân Tịnh, được hai người con trai là Nguyễn Trọng
Lội và Nguyễn Quư Anh, cùng ba người con gái Nguyễn A San, Nguyễn A
Chuyên và Nguyễn A Lỗ. Riêng với bà kế thất cũng có 1 trai, 1 gái. Con
lớn ông là Nguyễn trọng Lội rất có công trong việc thành lập công ty
sản xuất nước mắm Liên Thành. Ngoài ra cũng là người có liên hệ tới
ngôi trường huyền thoại Dục Thanh, mà sau năm 1975, VC đă vin vào anh
thanh niên Nguyễn Tất Thành dạy học ở đây, chẳng những cướp đọat toàn
bộ sản nghiệp của ḍng họ Nguyễn Thông ở Phan Thiết, mà c̣n báo hại cả
hằng trăm gia đ́nh kế cận ngôi trường MA này, trong chu vi bến Trưng
Nhị, Ḷ Gốm, đường Vơ Tánh, trong khu vực Cồn Cỏ, Đức Nghĩa, cũng bị
cướp nhà, giựt đất, hăm dọa đủ điều, phải dọn đi nơi khác. Quả thật là
một tội danh thiên cổ tại B́nh Thuận. Theo cháu bốn đời của cụ Nguyễn
Thông, là giáo sư Nguyễn Minh Đức hiện đang sống tại Hoa Kỳ, cho rằng
cũng v́ chuyện Dục Thanh, có liên hệ tới Nguyễn Tất Thành, mà chính
quyền B́nh Thuận trước năm 1975, đă không suyễn dương tuổi tên cũng
như đặt tên đường Nguyễn Thông tại thị xă Phan Thiết. Ngoài ra ở địa
phương, trước năm 1975 cũng có nhiều nhà biên khảo nổi tiếng như Lê
Hương, Lê Quang Nghiêm, Lê Hửu Lể, Thu Nhi, Nguyễn Ngu Ư, Châu Hăi
Kỳ.. Thậm chí nhiều người sống đối mặt với khu vực này như Phạm Đ́nh
Thừa, Trần Duy Chánh.. cũng không hề nhắc tới trường Dục Thanh hay mồ
mả Nguyễn Thông trên khu vực Lầu Oâng Hoàng? Trái lại những đia phương
khác như Vĩnh Long, Sài G̣n đều có đường Nguyễn Thông. Tại Vĩnh Long
hiện nay c̣n di tích cổ thành do trấn thủ Nguyễn Văn Thoại, xây từ
thời vua Gia Long, sau đó được tổng đốc Vĩnh Long là Trương văn Uyển
trùng tu cuối đời Tự Đức, trước khi lọt vào giặc Pháp. Đó là 'Miếu Bảy
Bà' hay Cây Đa cửa hữu, nằm trên một g̣ đất cao, dưới gốc cổ thụ, giữa
hai trường tư thục Long Hồ và Cao tiểu Vĩnh Long hay là trường Trung
Học Nguyễn Thông. Ở đây c̣n có Văn Thánh Miếu do Phan Thanh Giản hoàn
thành năm 1867, nằm trên đường liên tỉnh Vĩnh Long-Trà Vinh, cách thị
xă chừng 2 km, có tên Đốc học Nguyễn Thông, được khắc trên một bia đá.
Trong hoạn lộ quan trường, Nguyễn Thông cũng không khác ǵ Nguyễn Công
Trứ, bảy nổi ba ch́m v́ tính t́nh trung trực và liêm chính, khác biệt
với bọn quan lại xôi thịt đương thời. Năm 1855, ông được triệu về kinh
tham dự nội các, soạn bộ 'Nhân Sự Kim Giám'. Năm 1859, Pháp xâm chiếm
Nam Kỳ, ông xin ṭng quân và làm tham mưu cho Tôn Thất Hiệp. Năm 1862
về Vĩnh Long giữ chức Đốc học, dưới quyền Phan Thanh Giản. Trong thời
gian này, ông chấn chỉnh lại đạo lư thánh hiền, xây dựng lại văn miếu
và đồng thời liên lạc chặt chẽ với các tổ chức chống Pháp khắp ba tỉnh
miền đông Nam Kỳ trong đó có Trương Công Định. Dịp này ông đă khởi
xướng và được Đồ Chiểu ưng thuận, thực hiện cải táng mộ phần của sư
phụ Vơ Trường Toản, từ Chí Ḥa về Ba Tri (Bến Tre), v́ không muốn để
cho thực dân làm ô uế. Năm 1867 ba tỉnh miền tây mất, ông cùng với
nhiều sĩ phu Nam Kỳ không chịu hợp tác với giặc, nên chạy ra tị địa
tại B́nh Thuận. Những kỷ niệm quê hương mà ông mang theo khi chạy
giặc, nay vẫn c̣n nhắc nhớ, đó là những chiếc rương to lớn, mà người
miền Nam gọi là RƯƠNG XE và tên một con sông ở Vĩnh Long, mà khi làm
Bố Chính B́nh Thuận, đă đặt cho nơi ông sinh sống, kế bên ḍng sông Cà
Ty hiền ḥa thơ mộng, là làng Thiềng Đức, nay c̣n lưu lại cái tên động
Làng Thiềng. Sau tháng 5-1975, đoạt toàn bộ tài sản của ḍng họ Nguyễn
Thông, bọn Việt Gian-Việt Cộng B́nh Thuận, đă bố thí cho cháu Nguyễn
Thông là Nguyễn thị Bích, một căn nhà rách tịch thu của người vượt
biển bỏ lại, trên đường Phan Bội Châu, Phan Thiết. Bà này là con gái
của Nguyễn Quư Thai, là một liệt sĩ đă hy sinh tại Hốc Môn, Gia Định,
khi ông tham dự mặt trận Việt Minh chống thực dân Pháp từ 1946-1954.
Về việc Nguyễn Thông tị địa, Phan Bội Châu b́nh phẩm là 'Thất thân
thi nữ, hà dĩ chi trinh'để đánh giá hành vi của các sĩ phu lúc ấy, đă
không chịu chết theo thành mà bỏ chạy, Thật ra tất cả thế thời th́
thời phải thế, giống như chính ông sau này, bị Pháp bắt và giam lỏng
gần 15 năm tại Bến Ngự Huế, cũng v́ thời thế, mà cam chịu thân cá chậu
chim lồng, chứ đâu có gan tự chết. Cho nên chê biếm người khác th́ quá
dễ, đến khi ḿnh lâm vào hoàn cảnh đó, th́ cũng thế thôi. Phương chi
các ông Nguyễn Thông, Trà Quư B́nh, Trần Thiện Chánh, Trương Gia
Hội..tới B́nh Thuận, đă không chán đời đi ở ẩn, mà vẫn lại tiếp tục
bổn phận, lập căn cứ, đồn điền, phát triển nông vụ, khai hoang lập ấp,
để tính chuyện chiến đấu lâu dài với giặc. Năm 1867, Nguyễn Thông
đuợc cử làm Aùn Sát Khánh Ḥa rồi Quảng Ngăi. Dịp này ông dâng sớ lên
triều đ́nh, để biện bạch cho ḷng trung quân ái quốc của Phan Thanh
Giản, đồng thời dâng bốn bản điều trần, trong đó xin vua Tự Đức chọn
tuyển nhân tài, trừ quan lại tham ô, cải tiến binh bị và xét lại thuế
má để thu phục ḷng dân. Tất cả đều không được nhà vua chấp nhận v́ sự
gièm pha của đám quan lại cao cấp trong triều. Năm 1870 đổi về h́nh bộ
và thăng Bố Chính Quảng Ngăi. Tại đây ông tích cực thi hành chính sách
cải tiến dân sinh, bài trừ tệ nạn tham ô, hà hiếp dân chúng của bọn
cường hào ác bá địa phương. Việc làm trên đă đụng chạm tới bọn sâu dân
mọt nước, nên chúng kết bè, xuí tên Lê Doăn vào kinh vu cáo. Kết quả
ông bị cách chức, tống giam và xử trượng, sau nhờ dân chúng kêu oan
tới tai vua, mới được giải tội. Chán ngán cho thói đời, ông về ở ẩn
dưỡng bệnh tại Sơn Trung B́nh Thuận, kết bạn cùng các thân hào trí
thức địa phương, ngày ngày cùng nhau ngâm thơ vịnh nguyệt từ 1873-1874
nhưng vẫn không quên chuyện khẩn hoang. Năm 1876, ông lại được triệu
về kinh, giữ chức Tu Nghiệp Quốc Tử Giám. Thời gian này, ông cùng với
các quan trong triều như Bùi Ước, Hoàng Duy Tân khảo duyệt Bộ Khâm
Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục. Năm 1877, triều đ́nh chấp thuận kế
hoạch khai hoang vùng La Ngư, Ba Dầu (B́nh Tuy) ngày nay, nên cử ông
về làm Doanh Điền Sứ B́nh Thuận. Lúc này sức khoẻ ông đă suy yếu, lại
thêm bị bệnh thổ huyết v́ lần phạt trượng. Thêm vào đó là sự phản
kháng của thực dân Pháp, làm cho ông gần kiệt lực. Năm 1880, ông cùng
bạn bè, đồng chí lập Đồng Châu Xă, khuyến khích dân địa phương phát
triển nghề nông và ra sức giáo dục lớp tuổi trẻ. Oâng mất năm 1884 hay
1894? tại Ngọa Du Sào, là một căn nhà nhỏ bên ḍng sông Mường Mán,
trên vách có vẽ nhiều tranh cảnh, tiêu biểu cho lư tưởng của ông lúc
sinh thời. Hiện mộ phần của ông vẫn c̣n trên đồi Ngọc Lâm, sát chân
núi Ngọc Sơn, đối diện với Tháp Chàm, Lầu ông Hoàng và Bửu Sơn Tự
thuộc xă Phú Hài, trên đường liên tỉnh Phan Thiết-Mũi Né. Gần cuối
thập niên 90, VC tại B́nh Thuận mở cửa và phát triển kỹ nghệ du lich,
đă cho vá víu lại phần mộ của riêng Nguyễn Thông để dụ khách tham quan
kiếm tiền. Riêng áo măo của Nguyễn Thông lúc sinh tiền, theo Nguyễn
Minh Đức, những ngày trước năm 1975, được lưu giữ tại Bảo Tàng Viện
Sài G̣n. Nguyễn Thông là người được giới sĩ phu trí thức tại kinh đô
Huế ưa thích, khen tặng là bậc văn nhân tài tử. Oâng đă lưu lại nhiều
tác phẩm giá trị, đa số đều viết bằng chữ Hán như Ngọa Du Sào thi văn
tập, Việt sử cương giám sử lược, Nhân sự khai giám, Dương Chính lục.
Phần lớn các tác phẩm của ông đều bị thất lạc v́ chiến tranh, chỉ c̣n
lại hai bộ Độn Am thi văn tập và Kư Xuyên Văn Sao mà thôi. Các tiểu
truyện như Phan văn Đạt, Hồ Huân Nghiệp và Trương Định đều trích trong
hai tác phẩm trên. Làm quan tại kinh đô Huế lâu năm, cũng như nhiều
lần ra chấm thi, nhờ tư cách và tài hoa, nên ông đă được kết bạn với
nhiều giai nhân tài tử đất thần kinh đương thời như Tùng Thiện Vương
Miên Thẩm, Trúc Đường Phạm Phú Thứ, Tùng Trai Đổ Đăng Đệ, Mai Am Công
Chúa (em gái Miên Thẩm) và đặc biệt với Vân Lộc Nguyễn Tư Giản. Cả hai
ông đều là đại quan của triều đ́nh, lại là hàng văn nhân tài tử, có
nhiều tác phẩm được truyền tụng, nên t́nh bạn thật khắng khít keo sơn,
nhất là trong lănh vực xướng họa. Thi ca của hai người, ngoài những
bài vịnh nguyệt thưởng hoa, đa số đều hướng về dân nước, chống thực
dân Pháp. Vốn mang nặng t́nh tự quê hương, thơ Nguyễn Tư Giản luôn
nhắc tới Núi Nùng Sông Nhị c̣n Nguyễn Thông th́ hướng về Vĩnh Long,
Sài G̣n:
'Sông Nhị không có hèn tướng,
Núi Nùng rất nhiều vĩ nhân.'
hay
'Hàng năm diều hâu bay lùi xa xuống nước,
Dạt về phía Nam lông cánh bị xác xơ
Thánh hiền xưa cũng nhớ quê
Gió tây mấy độ, thổi ùa tóc thưa.'
Theo phê b́nh của các nhà văn học sử hiện đại, th́ Nguyễn Thông ngoài
là một đại quan có tài kinh tế, thơ văn, ông c̣n đuợc đánh giá là một
nhà chính trị thức thời, khi dâng lên vua Tự Đức, bản điều trần gồm 4
điểm, mục đích xin vua mau canh tân đất nước, để kịp thời ngăn chống
giặc ngoại xâm. Tờ sớ viết vào năm Mậu Thân 1868, đến nay đă gần một
thế kỷ rưởi nhưng các nhà phê b́nh vẫn cho đó là một vấn đề nóng hổi,
v́ xưa nay muốn tiến vào con đường hoạn lộ, ngoài các ngơ ngách tham
nhũng hối lộ, con đường tiến thân chính vẫn là thi cử. Nhưng thời nào
cũng vậy, kể cả Hoa Kỳ là quốc gia dân chủ tiến bộ nhất hoàn vũ hiện
nay, cũng không thoát khỏi ngoại lệ, có tiền có quyền, mua tiên cũng
được. Bởi vậy trong trào ngoài quận, nhan nhản bọn ruồi bu bất tài, vô
loại, cậy thế, cậy quyền, được bổ làm quan lại, được giữ những chức vụ
quan trọng, thật là tai hại cho dân nước. Trong tờ sớ, ngoài việc đưa
ra những bất công, Nguyễn Thông c̣n vạch thêm sự bê bối khi đề bạt
chức vụ, thăng thưởng và bổ dụng. Tóm lại, ông đưa ra những nguyên tắc
mới để bổ dụng nhân tài, từ dưới lên trên, ấn định trách nhiệm từng
bộ, bang, ngành để không lẫn lộn đạp chân nhau khi thi hành chức vụ
như từ trước tới nay. Dĩ nhiên bản điều trần sẽ chẳng bao giờ được
chấp nhận, v́ đụng chạm tới quyền lợi và phe nhóm của bọn quan lại
đương thời.
* NGUYỄN THÔNG THÁM HIỂM MIỀN TÂY B̀NH THUẬN
Măi tới
đầu thế kỷ XX, B́nh Thuận là một trong những tỉnh lớn trong nước, bao
gồm cả B́nh Tuy, Ninh Thuận, Lâm Đồng, Quảng Đức, Tuyên Đức và một phần
tỉnh Darlac ngày nay. Theo các tài liệu của Dương văn An trong Ô Châu
Cận Lục (thế kỷ XVI) và Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quư Đôn (thế kỷ XVIII),
th́ người Việt đă có mặt tại vùng cao, các sơn động man động, từ đầu
thế kỷ thứ XVI, và được người thiểu số cao nguyên gọi là Yuan Kinh.
Vào năm 1834, Phan Huy Chú đă vẽ bản đồ nước Đại Nam, trong đó có
nhiều núi non ở phía tây tỉnh B́nh Thuận.
Vùng
này ngày nay chính là Lâm Đồng, Tuyên Đức hay là lưu vực sông La Ngà ở
phía tây B́nh Tuy, trong hai quận Tánh Linh và Hoài Đức? Tuy nhiên có
sự xác thực, mà sử liệu đă công nhận, là Nguyễn Thông đă đặt chân tới
miền tây tỉnh B́nh Thuận, trước các phái đoàn thám hiểm của Pháp, kể
cả bác sĩ Alexandre Yersin. Mục đích của cuộc thám hiểm sơn quốc, h́nh
thức là khẩn hoang lập đồn điền, tạo thêm đất đai để người dân canh
tác nhưng mặt thật là mở rộng pḥng tuyến để bắt tay với nghĩa quân
vẫn c̣n đang chiến đấu tại Nam Kỳ, dù đất đă bị giặc Pháp cưởng chiếm.
Theo các nhà nghiên cứu sử, th́ chỉ có Trung và Bắc Kỳ, mới nồng nhiệt
hưởng ứng phong trào cần vương do vua Hàm Nghi ban hịch từ năm 1885.
Chính Nguyễn Thông là người đă bắt một đầu cầu chiến lược, khi mượn cớ
thám hiểm, để sau này các thủ lănh Cần Vương B́nh Thuận là Tống Hưng
Nho và Nguyễn Đăng Giai tiếp hành. Thật sự ngay từ năm 1885, Phó tổng
đốc thành Hà Nội là Lê Công Chánh, trong lúc về B́nh Định tham gia
phong trào chống Pháp với Mai Xuân Thưởng, ông đă được vua Hàm Nghi
tín cẩn, ban mật chiếu vào Nam Kỳ phát động phong trào Cần Vương chống
Pháp. Lê Công Chánh đă lập căn cứ tại Thất Sơn-An Giang nhưng bị Pháp
bắt và đầy ra Phú Quốc.Năm 1889, Lê Công Chất vượt ngục và về tái lập
căn cứ Thất Sơn, đồng thời mở rộng địa bàn hoạt động tới tận Mỹ Tho,
G̣ Vấp, Sài G̣n. Tháng 8 năm 1893, Lê Công Chất ra B́nh Thuận tiếp xúc
với các thủ lănh cần vương tại đây là Tống Hưng Nho và Nguyễn Đăng
Giai, để thiết lập mối quan hệ hoạt động giữa hai vùng Nam-Trung Kỳ
cho cuộc chiến đấu được thống nhất và chặt chẽ hơn. Cuối tháng 9-1893,
cả ba ông vào nhà Nguyễn văn Lễ tại G̣ Vấp, tổ chức cuộc họp bí mật,
để bầu lănh tụ cuộc kháng Pháp tại B́nh Thuận-Nam Kỳ. Kết quả Nguyễn
Đăng Giai làm Chưởng Lănh Lưỡng Kỳ, Nguyễn văn Lễ làm Nam Kỳ tổng
chưởng, Lê Công Chánh làm Nam Kỳ chỉ huy Quân Vụ. Sau đó Tống Hưng Nho
và Nguyễn Đăng Giai về B́nh Thuận, chuẩn bị lương mễ, ấn triệu và tiền
bạc cho ngày tổng khởi nghĩa, trong lúc Lê Công Chánh đă phát động
được nhiều cơ sở kháng chiến khắp Nam Kỳ. Nhưng mọi công tác đang tiến
hành tốt đẹp, th́ bị bọn Việt gian ở Mỹ Tho phát hiện, nên hầu hết các
yếu nhân như Lê Công Chánh, Nguyễn Văn Lễ, Trần Xuân Sanh đều bị bắt,
kể luôn các cơ sở nghĩa quân tại B́nh Thuận của Tông Hưng Nho và
Nguyễn Đăng Giai. Trong cuộc thám hiểm Sơn quốc, tức là vùng cao ở
phía tây B́nh Thuận, hành tŕnh được Nguyễn Thông ghi lại như sau:
'Ngạ hổ giáp bộ hành,
Ai nhao hầu lâm đoạn
( hổ đói ở khắp nơi, nơi góc đường khỉ kêu réo).
Theo sử liệu, th́ lộ tŕnh thám hiểm phát xuất tù hai lối. Đầu tiên
khởi hành theo hướng Nam, đi dọc theo ḍng sông Đồng Nai về hướng
thượng nguồn (Ngă Bối nam lai giă). Lần khác, từ Phan Thiết tới Phan
Rí và Phan Rang, rồi đi ngược về hướng tây (tam Phan tây khứ, tiếp
cùng hoang). Trong lúc thám hiểm, ông đă gặp được nhiều bộ lạc người
Thượng sinh sống trong vùng La Như Thượng, đầu nguồn sông Đồng Nai ở
Lâm Đồng, nên đă ghi 'Quần cư giai Chiêm Man', ư nói người Chàm và
người Thượng sống lẫn lộn. Trong tờ tŕnh xin phép khẩn hoang dâng vua
Tự Đức, có đoạn nhắc tới vùng Di Linh (Lâm Đồng) rất rơ ràng, cùng với
nhiều địa danh khác, đều trùng hợp với các vị trí địa dư hiện tại. Tóm
lại Nguyễn Thông đă đặt chân tới vùng đất Vơ Đắc, Tánh Linh, Sùng
Nhơn, Madegui, giáp ranh với Định Quán, Long Khánh, theo dọc con sông
La Ngà, từ cao nguyên Di Linh chảy qua B́nh Thuận, rồi lại ngược lên
tới Định Quán, nhập vào sông Đồng Nai. Đó là địa bàn mà Nguyễn Thông
đă ghi trong tài liệu là Manmepu, sông Tô Sa, sông Đa Ḍng, Sách Côn
Hiên. Lúc đầu vua Tự Đức đă chuẩn tấu cho phép Nguyễn Thông thực hiện
công cuộc khai hoang, nhưng bọn thực dân Pháp tại Nam Kỳ đă hiểu thấu
mục đích bên trong của ông, nên đă phản đối dữ dội, khiến triều đ́nh
Huế phải băi bỏ công tŕnh trên .
*
NGUYỄN THÔNG VÀ CỤC T̀NH BÁO PHƯƠNG NAM
Sau
cuộc kháng Pháp của B́nh Tây Đại Nguyên Soái Trương Định bị thất bại
vào năm 1864, Phó soái Trần Tuấn tức Phan Cự Chánh, hay Phan Chánh tự
Tử Đan, hiệu Bút Phong, sinh tại An Phước, tỉnh B́nh Thuận, được triều
đ́nh Huế, cử giữ chức Điền Nông Sứ Khánh Ḥa, c̣n Phó sứ là Nguyễn
Thông. H́nh thức, th́ đây là một cơ quan phụ trách về nông nghiệp
nhưng thực tế nó lại đóng một vai tṛ và trách nhiệm của cục t́nh báo
phương nam, do vua Tự Đức bí mật lập ra, đă hoạt động liên tục từ năm
1866 tới năm 1884 mới tan ră. V́ là một tổ chức vô cùng bí mật, nên
sau khi ngưng hoạt động, chính Phan Trung và Nguyễn Thông đă hủy hết
dấu vết, tài liệu, tang chứng, để thực dân không thể vin vào đó bắt
chẹt được triều đ́nh. V́ thế nên hôm nay, ít người hiểu rơ về lư lịch
của tổ chức này. Sự việc Nguyễn Thông được âm thầm cung cấp nhân vật
lực để thám hiểm một vùng rừng núi trùng trùng, mà lúc đó hầu như
không có vết chân người, đă là một chứng cớ xác thực về nhiệm vụ bí
mật của ông và Phan Chánh.
Theo tài liệu ghi trong Đại Nam Chính Biên liệt truyện, th́ Nguyễn
Thông kết bạn thân thiết với Trần Thiện Chánh và Phan Trung. Trần
Thiện Chánh và Nguyễn Thông đều là những sĩ phu cầm đầu nghĩa quân
kháng Pháp từ năm 1859 tới năm 1866, cho nên cả hai đă viết nhiều tác
phẩm có đề cập tới B́nh Tây Phó Soái Phan Chánh.
* TRẦN THIỆN CHÁNH : Sinh năm 1822, tự là Tử Mẫn, hiệu Trừng
Giang, người thôn Tân Thới, huyện B́nh Long, tỉnh Gia Định, nay thuộc
Hốc Môn. Oâng mất năm 1874, thọ 53 tuổi. Sinh thời, Trần Thiện Chánh
từng được Phạm Phú Thứ khen là 'Mộ sĩ vạn kim' hay Tùng Thiện Vương
Miên Thẩm th́ viết 'Phá gia mộ sĩ Lục Ngư Hồ', để ca tụng nghĩa khí
của một phú gia đất Gia Định, thời đó đă dám đem ngàn vàng, để mộ hơn
5000 quân tại Hóc Môn, kéo lên Sài G̣n, ngăn giặc Pháp khi chúng đánh
bại quân triều đ́nh tại thành Gia Định. Oâng đậu cử nhân tại Gia Định
năm 1842 thời Thiệu Trị. Bắt đầu làm quan Hậu Bổ Khánh Ḥa, rồi Huấn
Đạo và tri phủ Long Xuyên. Năm 1864 làm Phó Quản Đạo Phú Yên, thăng
Kinh kỳ Thủy Sư Hiệp Lư. Tháng 6-1867, Tri Phủ Hàm Thuận, tỉnh B́nh
Thuận. Lúc này, Nguyễn Thông đang giữ chức Doanh Điền Sứ B́nh Thuận,
nên hai ông đứng ra lập ra Đồng Châu Xă. Tóm lại trên đường hoạn lộ,
Trần Thiện Chánh cũng lao đao lận đận như Nguyễn Thông nhưng nhờ tài
kiêm văn vơ, tạo được nhiều chiến công hiển hách khi chống Pháp. Ngày
9-7-1874, khi đang là Thị Lang, kiêm Tuần Phủ Ninh B́nh, th́ qua đời
v́ bạo bệnh. Oâng đă lưu lại hậu thế nhiều tác phẩm giá trị như Trừng
Giang thi văn tập, Nam Hành thi tập, Bắc Chinh thi thảo. Con trai ông
là Trần Thiện Cốc làm tri huyện Tuy Phong, tỉnh B́nh Thuận.
Tóm lại, như Nguyễn Thông, ḍng họ Trần Thiện Chánh khi đến tị địa tại
B́nh Thuận, đă chọn nơi này làm quê hương bao đời. Con cháu nhiều
người thành danh, trong đó có nhà thơ Trần Thiện Bang trong Liên Thành
thi xă, Trần Thiện Hải là một kịch tác gia cũng như nghệ sĩ nổi tiếng
của Phan Thiết, ông đă chết thảm trong trại tù cọng sản vào năm 1977
tại Lâm Đồng. Nhưng nổi bậc hơn hết là nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, tức
ca sĩ Nhật Trường (con Trần Thiện Hải) và nhạc sĩ Trần Thiện Khải (con
Trần Thiện Bang). Trần Thiện Khải chết tại Nam Lào năm 1987 khi theo
kháng chiến HCM, c̣n Nhật Trường, mới qua đời tháng 6-2005 tại Nam CA
v́ bạo bệnh. Từ đầu năm 1866, Phan Trung và Nguyễn Thông, chính thức
nhận trọng trách tại Ty Điền Nông Khánh Ḥa, mang ấn khảm phái quan
pḥng. Theo phẩm hàm của Nhà Nguyễn từ vua Gia Long (1802) tới vua Tự
Đức (1883), trong ngành nông nghiệp chỉ có các hàm Điền hàn ty, Điền
thứ ty, Điền hiện, Điền nghị, mà không hề có Điền nông sứ. Hơn nữa lại
có điều khoản đặc biệt, là tất cả công văn của cơ quan này, không qua
hệ thống địa phương, mà trực tiếp tŕnh thẳng lên Cơ Mật Viện lại do
chính vua Tự Đức duyệt phê và ban huấn lệnh. Tuy ngày nay phần lớn tài
liệu của nước nhà, bị thực dân hay chiến tranh hủy hoại, nhất là các
sử liệu có liên quan đến chính sự, quốc pḥng nhưng dựa vào những ǵ
c̣n sót lại, qua các văn bản báo cáo, dưới h́nh thức tờ tấu, mật thư,
cung lục, mật lục mà điển h́nh là tờ tŕnh ngày 9-7 năm Tự Đức thứ 34
(4-8-1882), báo mật về đoàn thám hiểm của Pháp do bác sĩ Paul Néis, từ
Định Quán ra tới Phú Khánh, hay tờ tấu ngày 8-2-1877, báo cáo về sự
khó khăn của quân Pháp tại Nam Kỳ, ảnh hưởng từ Hoàng đế Nă Phá Luân
đệ tam, cùng 100.000 quân Pháp, bị Đức bắt làm tù binh, trong trận
chiến Pháp-Phổ (1870-1871). Ngoài ra, trong các văn khố tại Huế, Sài
G̣n, Đà Lạt hiện nay c̣n lưu trữ nhiều báo cáo của Ty Điền Nông Sứ, về
phong trào kháng Pháp tại Nam kỳ, do Nguyễn Trung Trực, Hồ Huấn
Nghiệp, Vơ Duy Dương, Thủ Khoa Huân lănh đạo. Chính Trương Gia Mô
(1867-1929), con Trương Gia Hội cũng là một sĩ phu đă cùng Nguyễn
Thông, Trần Thiện Chánh tị địa tại B́nh Thuận, đă dựa vào tài liệu của
Ty Điền Nông Sứ (Phan Trung-Nguyễn Thông), để viết Gia Định Tam Tiên
liệt truyện, kể lại giờ phút cuối cùng của ba vị anh hùng dân tộc là
Hồ Huấn Nghiệp, Thủ Khoa Huân và Nguyễn Trung Trực. Do sự tuyệt mật
trong cơ cấu tổ chức, nên ngoài Phan Trung và Nguyễn Thông, không mấy
ai biết tới những thám báo, cộng sự viên, liên lạc, gián điệp đă góp
phần mạng sống và máu xương bảo vệ đất nước ḿnh. Nhưng rơ ràng Cục đă
mở rộng tầm hoạt động khắp Nam Kỳ tới Hạ Châu (Singapore), cũng như
ngay trong đầu năo Pháp, tại các văn pḥng thuộc phủ Thống Đốc thời
bấy giờ (Jules Dupré-Charles Le Myre). Tiếc rằng vua Tự Đức lúc đó quá
nhu nhược, lại gặp phải bọn triều thần phần lớn là lũ xôi thịt, bất
tài, nên cuộc kháng chiến chống giặc Pháp của toàn dân phải thất bại
một cách nhục nhă, căm hờn, uổng phí sự hy sinh cao quư của Cục T́nh
Báo Phương Nam trong nhiều năm. Cuối năm 1883, vua Tự Đức băng hà
trong tuổi 55, giữa lúc đất nước đang bốn bề thọ địch. Mọi hy vọng đều
tan nát v́ xă tắc đă không thể t́m đâu được minh quân, lèo lái con
thuyền quốc gia trong cơn băo táp, khiến cho toàn cơi VN phải nhầy
nhụa ngoi ngóp trong vũng bùn ô nhục hơn 80 năm nô lệ giặc Pháp, sau
hiệp ước Patenôtre 1884. Biến cố trên cũng đă kết thúc cuộc đời của
hai vị anh hùng dân tộc Phan Trung và Nguyễn Thông, cùng tố chức Điền
Nông Sứ. Bao nhiêu năm qua rồi, với nhiều cuộc đồi đời bi thảm, nay
ngồi đây lần về quá khứ, sau lớp rêu phong và tro bụi của thời gian,
chợt cảm xúc bồi hồi, khi nhớ về Nguyễn Thông, một nhà thơ tài hoa
uyên bác, một kinh tế gia lỗi lạc phi thường và hơn hết là một anh
hùng. Tiếc thay chữ Tài liền với chữ Tai một vần, số mệnh chào thua
định mệnh. Bởi vậy ông không có dịp đem tài trí và sở học ra để kinh
bang tế thế, thỏa măn chí trai hồ hải tang bồng. Đă vậy c̣n phải bị
nhục h́nh trong bước hoạn lộ. Cảm khái trước khí phách người xưa,
quyết tâm lần về nương đất cũ, để mong gặp lại trong khoảnh khắc mơ
hồ, h́nh bóng của cố nhân, nhưng than ôi;
'Sông kia rày đă nên đồng
chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
vẳng nghe tiếng ếch bên tai
giật ḿnh lại tưởng tiếng ai gọi đ̣.'
(Tú Xương)
Tiếng gọi đ̣ không có hồi âm, h́nh bóng cũ tan biến theo Ngọa Du Sào,
cũng như bến Trưng Nhị bên hữu ngạn sông Mường Mán, nay chỉ c̣n là ảnh
h́nh nhạt nhoà, trong cơn gió thoảng, giữa bóng trăng suông lạnh lùng,
sau mộ cuộc bể dâu trầm thống
Liên quan tới Nguyễn Thông, c̣n có Văn Xương Các ở Vĩnh Long, trước
khi ông ra B́nh Thuận tị địa sau năm 1867. Buôåi đó, Chiêu Anh Các ở
Hà Tiên, B́nh Dương thi xă ở Gia Định, Bạch Mai thi xă ở Chợ Lớn và
Văn Xương Các tại Vĩnh Long, là những thi đàn nổi tiếng khắp nước. Vào
năm 1864, khi ba tỉnh miền đông rơi vào tay giặc Pháp. Các sĩ phu yêu
nước tại Biên Ḥa, Gia Định và Định Từng không chịu đầu hàng và hợp
tác với kẻ thù, nên kéo hết về Vĩnh Long tị địa. Từ đó mọi người xây
dựng Văn Thánh Miếu, đồng thời thành lập Văn Xương Các ở làng Long Hồ,
thuộc tỉnh Vĩnh Long, hầu thay thế Văn Miếu Gia Định. Công tŕnh này
do Phan Thanh Giản và Nguyễn Thông khởi công năm Giáp Tư 1864 và hoàn
thành năm Bính Dần 1866.
Văn Thánh Miếu và Văn Xương Các nằm chung trên một địa điểm, sau cổng
tam quan, phía trái là Miếu , bên phải là Văn Xương Các c̣n được gọi
là Tuư Văn Lầu hay Thơ Lầu, là nơi khách tao nhân tụ hội b́nh thơ,
xướng họa và dạy học. Thơ lầu lúc đầu làm bằng gỗ, về sau xây gạch,
nóc lợp ngói ống, có lầu nhỏ làm bằng gỗ quư, thờ các vị tiên hiền
trong Khổng học. Tầng dưới là nơi hội họp của các sĩ phu miền tây Nam
Kỳ. Trong Văn Xương Các c̣n là nơi thờ cúng Vơ Trường Toản, là vị thầy
đầu tiên của Đàng Trong thời chúa Nguyễn Aùnh tẩu quốc. Oâng đă đào
tạo nhiều môn sinh sau này trở thành đại quan của nhà Nguyễn như Trịnh
Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định..Bởi vậy khi mất ba tỉnh miền
đông Nam Kỳ, Phan Thanh Giản và Nguyễn Thông đă bốc mộ Vơ Trường Toản,
về chôn tại Ba Tri, Bến Tre, đồng thời đem bài vị cụ vào thờ trong Văn
Xương Các-Vĩnh Long. Sau này, các vị Phan Thanh Giản, Nguyễn Thông,
Phan văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt..cũng được phụng thờ tại đây. Hiện trong
Các c̣n lưu lại nhiều câu đối từ thời Vua Gia Long ban khen cho Vơ
Trường Toản như ' Hoàng phong xử sỉ phong cao lăo-Tự hiệu thơ sanh
tiết liệt thần'. Năm 1933, vua Bảo Đại phục hồi nguyên chức và danh dự
cho Phan Thanh Giản, đồng thời c̣n truy phong là ' Đoan túc dực bảo
trung hưng tôn thần'. Lúc sinh thời, Phan Thanh Giản và Nguyễn Thông
thường tới Thơ Lầu, để cùng các tao nhân mặc khách khắp sáu tỉnh Nam
Kỳ, ngâm vịnh xướng họa và luận bàn chính sự. Trong số này nổi bật hơn
hết có Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Đ́nh Chiểu, Phan Văn Trị..
Năm 1867, Pháp chiếm luôn ba tỉnh miền tây c̣n lại là Vĩnh Long, An
Giang và Hà Tiên. Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử để tạ tội với
quốc dân, c̣n Nguyễn Thông cùng Trà Quư B́nh, Trương Gia Hội, Trầm
Thiện Chánh chạy ra B́nh Thuận tị địa. Văn đàn Vĩnh Long tan ră nhưng
tinh thần văn học yêu nước vẫn được nuôi dưỡng và phát triển thành một
phong trào to lớn khắp dân gian. Nhờ vậy ngày nay chúng ta mới có được
những tác phẩm Lục văn Tiên, Dương Từ Hà Mâu, Văn Tế Nghĩa sĩ Cần
Giuộc của Đồ Chiểu cũng như những bài thơ khí sắc hào hùng chống giặc
của Cử Trị, Thủ Khoa Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt.. Trải qua hơn 135 năm. Văn
Xương Các cùng chịu chung số phận thăng trầm của vận nước nhưng chắc
chắn ngàn đời sau vẫn không xóa nḥa nổi những tên tuổi sáng lập như
Phan Thanh Giản, Nguyễn Thông và nhiều thế hệ nối tiếp làm rạng danh
sĩ phu Nam Kỳ mà ai cũng biết tới như Nhiêu Tâm, Trần Ngọc Lầu, Nguyễn
Hữu Đức, Thượng Tân Thị, Nhập Vương Thị, Tống Hữu Định, Trương Duy
Toản..
Ngày nay có có dịp về Phan Thiết, ngang qua đường Trưng Nhị, nơi chốn
một thời cụ Nguyễn Thông xem hoa thưởng nguyệt, nay chỉ c̣n lại những
công tŕnh phàm tục mà VC mới tái tạo sau 30-4-1975, khiến cho ai cũng
ngao ngán cho cuộc đổi đời /-
Xóm Cồn
tháng 7-2005
MG
|