Hội nhập văn hóa?

 

An Vân

NNL

 


 

 

LNĐ: Ngày 11, 12 và 13 tháng 12, ṭa Tổng Giám Mục Sàig̣n đă tổ chức một cuộc hội thảo mừng kỷ niệm 40 năm Công Đồng Vatican II với thành phần thuyết tŕnh viên và tham dự viên chọn lọc. Chúng tôi xin phổ biến bài viết sau đây của tác giả kư tên là An Vân, v́ một lư do nào đó không hiện diện và đă được G.S. Uông Đại Bằng đọc thay. Trong một tương lai gần chúng tôi hy vọng sẽ công bố danh tính tác giả bài này và toàn thể các bài tham luận rất có giá trị trong ba ngày hội thảo kể trên. Tưởng cũng cần ghi thêm một sự kiện là nhân dịp kỷ niệm 40 năm Công Đồng Vatican II, ông Vũ Sinh Hiên có in lại Luận văn Tốt nghiệp Cao Học Chính Trị Xă Hội (1973-1974) của ông, có nhan đề “Quan Điểm Chính Trị của Công Đồng Vatrican II” nhưng đă bị nhà cầm quyền Việt Nam tịch thu.

 

 

“Lời  đă thành xác phàm và lưu trú giữa chúng ta” (Ga 1,14).  Kitô-giáo là đạo Con Thiên Chúa làm người.  Nhưng Thiên Chúa không chỉ làm người như chúng ta mà c̣n làm người với chúng ta và giữa chúng ta.

 

I.                  Ngôi Lời nhập thể hội nhập mà vượt qua

 

Nhập thể cũng là hội nhập

 

Người ta có thể h́nh dung một cách làm người khác có vẻ “xứng đáng” hơn : Con Thiên Chúa tự tạo cho ḿnh xác phàm của ḿnh, với tuổi tác, vóc dáng trưởng thành trên một đỉnh núi cao nào đó rồi xuống núi, đến với loài người. Như  một “người hùng”.  Hay c̣n hơn nữa, như một siêu nhân.  Nhưng mầu nhiệm nhập thể đă không diễn ra như thế.  Con Thiên Chúa làm người nhưng không muốn làm người hùng, cũng chẳng muốn làm siêu nhân.  Nhập thể cũng là nhập cuộc “hết ḿnh”.  Nhập thể là “sinh bởi ḷng trinh nữ Maria”.  Cũng thành thai, cũng chín tháng thành h́nh dần dần trong dạ mẹ rồi sinh ra bé bỏng, chỉ sống được trong ṿng tay mẹï và với sữa mẹ.  Không được cả như chú gà con, mổ vỏ trứng ra ngoài là có thể tung tăng, vẫn cứ kiếm sống được nếu không có gà mẹ. Ngài “trở thành giống hẳn người ta” (Pl 2,7) kể cả “thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta” (Rm 8,2) thậm chí chịu liên đới với loài người mà trở thành “sự tội” (2Cr 5,21), tuy chính ngài “vô tội, vô tỳ” (Dt 7.26; 4,15) và “không hề biết tội là ǵ” (2Cr 5,21; Ga 8,46; 1Ga 3,5). 

”Sinh bởi ḷng trinh nữ Maria” cũng không chỉ là chấp nhận làm con cháu nguyên tổ Ađam như mọi người, mà c̣n gia nhập một dân tộc, một ḍng dơi như mọi người.  Ngài “sinh tự ḍng giống Đavit” (Rm 1,3, 2Tm 2,8), “là chồi lộc, là ḍng giống Đavít”,  “con Đavít, con Abraham” (Mt 1,1), “miêu duệ của Abraham” (Gl 3,16  “thuộc về họ các tổ phụ” (Rm 9,5). Nghĩa là cũng chấp nhận cả những khuôn mặt không tốt lành ǵ trong ḍng dơi tổ tiên của ḿnh.  Khỏi cần điểm mặt làm ǵ các ông có tên trong gia phả theo Luca và gia phả theo Matthêu.  Riêng gia phả ở đầu Tin Mừng theo Matthêu nhắc tới vỏn vẹn 4 bà th́ đến 3 bà chẳng quư hóa ǵ : “Yuda sinh Pharêvà Zara bởi Thamar”, một bà góa đă giả làm gái điếm trong một vụ loạn luân nhiều t́nh tiết ly kỳ mà sách Sáng thế 38,6-30 kể lại khá rơ.  “Salmôn sinh Booz bởi Rahab”, bà này là gái điếm chính hiệu ở Yêrikhô lại c̣n làm nội gián cho địch (Gs 2,1-21; 6,22-25).  “Booz sinh Yôbed bởûi bà Rut”.  Bà này tạm kể được là “người đàn bà đức hạnh” (R 3,11) duy nhất trong bốn bà, chỉ có cái tội nghèo mạt rệp phải nhờ mẹ bày mưu tính kế cho mới kiếm được một tấm chồng.  C̣n “Đavít sinh Salomôn bởi vợ của Uria”, th́ Bethsabê này lại chỉ quá nổi tiếng v́ một vụ ngọai t́nh – sát nhân đă khiến cho Đavít về sau phải khóc nửa đời chưa hết nước mắt ăn năn (2Sm 11,1-12, 25).

 

Hội nhập mà Vượt qua

 

“Do đó, trong mọi sự, Ngài đă nên giống anh em Ngài” (Dt 2,17).  Nhưng Mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người không chỉ là Mầu nhiệm Nhập thể mà c̣n là Mầu Nhiệm Vượt qua. Làm người là để rồi chết-sống lại và đưa con người vượt qua, chết đi trong thân phận tội lỗi, sống lại trong đời sống mới.  Trước khi “Giờ” ấy đến th́ cuộc đời Chúa Yêsu cũng đă vứa là hội nhập, vừa là vượt qua. 

“Sắp đến buổi lâm bồn” nhưng v́ có lệnh kiểm tra của Hoàng đế Augustinô, khi “mọi người đều đi đăng tên sổ bộ, ai về thành nấy,” Maria đă phải theo “Yuse  thuộc xứ Galilê cũng từ Nazarét lên xứ Yuđê, tới thành của Đavit, gọi là Bêlem v́ ông thuộc về nhà và ḍng họ Đavít để đăng tên sổ bộ.” Có thể nói là từ trong dạ mẹ, Chúa Yêsu đă “hội nhập”.  Nhưng “đang khi ông bà ở đó, th́ đă măn những ngày thai nghén, đến buổi lâm bồn, và bà đă sinh con đầu ḷng, lấy tă vấn con, và đặt nằm trong máng cỏ, bởi v́ không có chỗ cho ông bà trong quán trọ.” Không có chỗ trong quán trọ phải chăng là dấu hiệu cho cả cuộc đời sau này của “Con Người không chỗ ngả đầu, tuy chồn có hang, chim trời có tổ” (Mt 8,20).  Hội nhập nhưng không thể lập căn cứ địa hay đóng đô ở trần gian này. 

30 năm ẩn dật ở Nazarét cũng là thời gian hội nhập hẳn hiên và lâu dài nhất đến nỗi sau đó người ta chỉ biết Ngài như  là “con bác thợ mộc” (Mt 13,55).  Nhưng ngay giữa thời gian ấy, vẫn đă có ‘sự cố” năm lên 12 tuổi, theo cha mẹ đi Yêrusalem đự lễ Vượt qua, Ngài ở lại trong Đền thờ khiến cha mẹ phải hốt hoảng đi t́m.  Cuối năm 1965, khi trên đường về Việt Nam tôi ghé Montréal mấy tuần th́ đă được gia đ́nh người bạn đưa tới dự một buổi lễ “thành nhân” trong một hội đường Do thái giáo.  Một thiếu niên cỡ tuổi 12, 13 đứng truớc hội đồng các giáo sĩ để chịu sát hạch giáo lư cả tiếng đồng hồ.  Qua được cuộc sát hạch này, cậu thiếu niên mới được kể là trưởng thành.  !2 tuổi, Chúa Yêsu ở lại Yêrusalem hẳn là v́ một buổi “khảo bổn” như thế.  Cho nên khi t́m được Ngài, Maria và Yuse mới “đă gặp được Ngài trong Đền thờ, ngồi giữa các tiến sĩ mà nghe và hỏi họ.”  Không phải tự dưng mà các ông tiến sĩ lại cho một cậu bé ngồi giữa họ như vậy được.  Và chắc là cậu bé 12 tuổi đă không chỉ có những câu trả lời “thuộc ḷng” và rập khuôn cho nên “mọi kẻ nghe Ngài đều sửng sốt về trí thông minh và các lời Ngài đối đáp”.  Đến lượt cha mẹ Ngài cũng không hiểu nổi cách Ngài trả lời :”Th́ tại sao t́m con?  Lại c̣n không biết là con phải ở nơi nhà Cha con sao” (Lc 2,41-50).  “Phải ở lại nơi nhà Cha” vừa v́ có buổi khảo hạch theo tục lệ, vừa v́ là Con Thiên Chúa, Ngài hội nhập nhưng không chỉ hội nhập.

 

Càng Vượt qua trong 3 năm rao giảng Tin Mừng

 

3 năm rao giảng Tin Mừng, Chúa Yêsu vẫn hội nhập nhưng đồng thời lại phải vượt quahơn bao giờ hết.  Hội nhập, Ngài không tạo ra những điều kiện, phương tiện ǵ đặc biệt cho ḿnh để rao giảng. Ngài làm phép lạ để cứu người nhưng không nói nhiều thứ tiếng, không “nói tiếng lạ”. Ngài không làm phép lạ cho riêng ḿnh được nhờ.  Trên đường lên Yêrusalem, thầy tṛ định ghé vào một làng người Samari nghỉ chân, không được họ đón tiếp nhưng Ngài không “khiến lửa tự trời giáng xuống mà tiêu diệt họ” như Yacôbê và Yoan yêu cầu (Lc 9,51-56).  Ngài không hóa phép để có máy khuếch âm hay để có gi tương tự.  Như khi Ngài “lên tiếng giảng dạy ở ven biển.  Dân chúng tụ lại bên Ngài rất đông”.  Đứng giữa đám đông như thế khó mà nói cho mọi người nghe được.  Ngài chỉ làm như ai cũng có thể làm được là “xuống đ̣ mà ngồi ngoài biển, c̣n dân chúng tất cả th́ ở trên đất, ven bờ biển” (Mc 4,1; Mt 13,1).  Có khoảng cách để dễ nghe được hơn và không chừng c̣n có thể nhờ được cả gió biển đưa tiếng nói vào bờ.  Ngài không đi lại nhanh hơn người đồng thời vv.  Tuy phải rao giảng Tin Mừng hết chỗ nọ đến chỗ kia.  Tại Galilê rồi tại Yêrusalem.  Chỉ toàn đi bộ.  Đi ngựa cũng không.  Chỉ trừ hôm vào thành Yêrusalem trên lưng một con lừa (Mt 21,7).  Sau này vớiù những cuộc hành tŕnh bằng tàu, thuyền nhiều lần dọc theo bờ biển Điạ Trung Hải, hẳn  Thánh Phaolô đă đi nhiều dặm đường gấp mười lần Chú Yêsu.  Nói chi đến Đức Yoan Phaolô với những chuyến bay đến khắp cùng thế giới kể được là bằng vài lân đi về Mặt trăng.  Nhưng thời gian tất cả các cuộc hành tŕnh của Thánh Phaolô hay của các chuyến bay của Đức Yoan-Phaolô II cộng lại chưa hẳn đă bằng thời gian rong ruổi đưởng dài của Chúa Yêsu.  Và rong ruổi đường dài với những lúc như khi “đến một thành Samari, gọi là Sikhar, cạnh bên thưa đất Yacob đă cho Yuse con ông.  Ở đó có giếng Yacob.  Mỏi mệt v́ đường sá, nên Đức Yesu ngồi phệt xuống bên giếng.” (Ga 4,5-6).

Hội nhập đến như thế nhưng Chúa Yêsu vẫn không ngại vượt qua tất cả v́ Tin Mừng và để cho ai thấy Ngài là “đă thấy Cha”  (Ga 14,9).  Ngài không thể hội nhập vào giới Biệt phái, “những kẻ tin rằng ḿnh là công chính và khinh miệt người khác”.  Trái lại, Ngài đề cao mẫu người thu thuế “đứng lẻn đàng xa, không dám ngước mắt lên trời, nhưng đấm ngực mà rằng :”Lạy Thiên Chúa, xin khấng thương tôi là đứa tội lỗi!” (Lc 16.9-13) .  Ngài không ngại cùng với các môn đồ bị họ chê trách là”ăn uốâng với quân thu thuế và tội lỗi”.  Không oan v́ trước đó Ngài đă để cho “một người thu thuế tên là Lêvi (…) làm tiệc ớn đăi Ngài tại nhà ông; đồng bàn với Ngài có đám đông những người thu thuế và nhiều người khác” (Lc 5,29-32).  Sau đó Ngài lại đă từng gọi Ông thuế vụ Zakkhê từ ttên cây sung xuống để về nhà tiêp đón Ngài (Lc 19,1-9).  Cho nên giới Biệt phái coi Ngài là kẻ thù không đội trới chung và chỉ t́m cách triệt hạ Ngài.

 

Nộp thuế hay không nộp thuế 

 

Nhưng chuyện nộp thuế hay không nộp thuế cho Hoàng đế mà họ bày ra lại thành cơ hội để Ngài tỏ rơ hơn bao giờ hết thái độ hội nhập-mà-vượt qua của Ngài.

Nhóm Biệt phái bày “mưu để làm Ngài lỡ lời mắc bẫy. Họ sai đến với Ngài môn đồ của họ cùng với phe cánh Hêrôđê”, những kẻ pḥ tá quyền hành và v́ vậy cũng ủng hộ người Rô-ma tuy chính họ th́ vẫn coi ách thống trị Rô-ma như một h́nh phạt Thiên Chúa giáng xuống trên dân Do Thái.  Những kẻ đối nghịch với nhau về chính trị như thế lại sẵn sàng đứng chung một chiến tuyến để t́m cách triệt hạ Đức Yêsu.

“Các người ấy nói :”Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay thật, và Thầy dạy đường lối  Thiên Chúa một cách chân thành; Thầy không bận tâm v́ người này người nọ, v́ Thầy không có thói coi mặt đặt tên.” Coi Ngài như một chú nai con, tán tỉnh chán rồi họ mới giương bẫy, hỏi Ngài : ”Vậy xin nói cho chúng tôi hay : Thầy nghĩ thế nào? Được phép nộp thuế cho Hoàng đế hay không?”

Cái bẫy là ở chỗ họ tưởng trả lời thế nào cũng tai hại cho Ngài.  Trả lời là hăy nộp thuế th́ những người Biệt phái vẫn chống lại ách đô hộ sẽ sẵn sàng chụp mũ ‘tay sai đế quốc’ để xô đổ uy tín của Ngài đối với dân chúng.  C̣n trả lời là đừng nộp thuế th́ lại sẵn ‘phe cánh Hêrôđê’ đại diện cho tầng lớp thống trị dựa hơi Đế quốc Rôma đứng đó để chụp cổ một kẻ xúi dân làm loạn “đem nộp cho nhà chức trách có thẩm quyền là tổng trấn” (Lc 20,20).

Nhưng “thấu suốt ḷng hiểm ác của họ, Đức Yêsu nói :”Tại sao lại đánh bẫy Ta? Đồ giả h́nh! Đưa Ta coi đồng tiền thuế!” Họ đem đến cho Ngài một đồng quan.  Và Ngài nói với họ : “Của ai đây, h́nh này và chữ khắc đây?” Họ nói :”Của Hoàng đế”.  Bấy giờ Ngài bảo họ :”Vậy th́ hăy trả của Hoàng đế cho Hoàng đế; và của Thiên Chúa cho Thiên Chúa.” Nghe thế, họ kinh ngạc, rồi bỏ Ngài lại, họ đi ra” (Mt 22, 15-22).

Cái gút của chuyện thường được coi là ở nửa câu hỏi ‘phản công’ : “Của ai đây, h́nh này?”  Đúc Yêsu đă chỉ khéo lợi dụng cái thực tế là đồng quan mang sẵn h́nh Hoàng đế, để bằng lối trả lời ấm ớ, tránh né được cạm bẫy và giải vây cho ḿnh?  Nhưng nếu chỉ có vậy th́ phần câu “Hăy trả của Thiên Chúa cho Thiên Chúa” trở thành không cần thiết, thừa thăi, lạc đề.  Hay ít ra phải nói đó là một lời giảng “ăn theo”, gỡ gạc.  Và sẽ khó hiểu được phản ứng cuối cùng của bọn người đă hùa nhau đến gài bẫy Ngài.  Nếu chỉ là một câu trả lời khôn khéo th́ bọn họ chỉ phải ngẩn người ra, cụt hứng hay bực bội. Tại sao lại phải kinh ngạc, hay “rất đỗi kinh ngạc về Ngài”

Tin Mừng theo Thánh Marcô không hề phải ghi nhận một sự kinh ngạc như thế trong những hoàn cảnh tương tự.  Như khi Đức Yêsu đă phá một cái bẫy khác : “Họ ŕnh xem ngày Hưu  lễ Ngài có chữa người  (có tay bại) không” (Mc 3,1-6).  Hoặc trước chuyện nộp hay không nộp thuế này cho Hoàng đế, khi họ chất vấn Ngài :”Quyền đâu mà ông làm các điều ấy?” (Mc 11,27-33)Hoặc sau đó, khi những người thuộc bè Sađóc đến hỏi móc họng về vấn đề kẻ chết  sống lại (Mc 12,18-27).                                                             

Ở đây lại phải xem trên đồng quan, ngoài h́nh “của Hoàng đế”, c̣n có chữ khắc và những biểu tượng ǵ nữa?  Một mặt của đồng quan lúc bấy giờ đúc h́nh Tibêriô, với nhành nguyệt quế trên đầu, tượng trưng cho thần tính.  Mặt sau là h́nh Livia, Hoàng thái hậu, ngồi trên ngai thần, tay cầm thần trượng.  C̣n chữ khắc, nếu tiền đưa ra cho Đức Yêsu xem ghi tiếng la-tinh th́ như sau : “Tiberius Caesar, divi Augusti Filius Augustus Pontifex Maximus”, Xêda (=Hoàng đế) Tibêriô, Con và Thượng tế Uy linh của Augustô Thần thánh (1)C̣n nếu là tiền ghi tiếng hy-lạp th́ c̣n rơ hơn : Hoàng đế Tibêriô, Con đáng tôn thờ của Thượng đế đáng tôn thờ.

Như vậy thực tế của đồng quan không phải chỉ là h́nh Hoàng đế mà c̣n là tất cả sự thần thánh hóa Xêda, đương kim Hoàng đế, Tiên đế, Hoàng thái hậu, mũ măo, gậy ngai, tất cả.  Hoàng đế không chỉ là Hoàng đế, nhưng Hoàng đế c̣n tiếm đoạt luôn cả cương vị Thượng đế.  Đồng tiền Rô-ma mang theo sự ngạo nghễ của Đế quốc thống trị  đă đành, mà c̣n là cả một sự khiêu khích đối với tinh thần tôn giáo thâm sâu và chính đáng của dân Do Thái.

Nh́n rơ cái thực tế của đồng quan Rô-ma như thế mới thấy :  Đức Yêsu không phải biểu diễn một ngón vơ tránh đ̣n cho dẫu là tinh vi, ngoạn mục.  Ngài không tránh đ̣n cho bằng lấy thế vững chắc và cương quyết hơn bao giờ hết trên chân đứng của Ngài để gạt bỏ sự đồng hoá Hoàng đế với Thượng đế.

Vượt lên trên những mưu tính thiển cận của bọn người thù ghét Ngài, và giữ đúng cương vị tôn giáo của Ngài, Đức Yêsu khơi dậy tinh thần tôn giáo cốt thiết mà dân chúng Do Thái vẫn có và đáng lư ra bọn họ cũng phải có, nhất là những người Biệt phái vẫn ỷ ḿnh trung thành với Thiên Chúa hơn số đông.  Ngài đặt lại vấn đề cho họ, vấn đề thái độ tôn giáo.  Không phải việc của Ngài là lựa chọn một thái độ chính trị giùm cho họ, thay cho họ (theo hay chống Đế quốc Rô-ma). Chính họ vốn quen sử dụng đồng quan của Hoàng đế tức là đă mặc nhiên chấp nhận uy quyền của Rô-ma th́ họ “hăy trả của Hoàng đế cho Hoàng đế” đừng bày tṛ ỡm ờ hỏi lui hỏi tới nữa.  Nhưng v́ đă nhân danh Thiên Chúa mà đến, Ngài lại tự cho ḿnh đủ thẩm quyền để nhắc nhở và xác định với họ : “Hăy trả của Thiên Chúa cho Thiên Chúa”.

Nhắc nhở và xác định như thế chẳng qua chỉ là đặt họ lại trước Giới luật thứ nhất trong Thập Điều.  Đức Yêsu cho trả lại đồng quan của Đế quốc Rô-ma, không ngăn cản người ta nộp thuế v́ không phải việc của Ngài là ngăn cản hay không ngăn cản.  Và nộp thuế cũng là sự hội nhập cần thiết. Nhưng hội nhập không phải là tất cả. Nói cho ngay, Ngài đă chỉ cho phép nộp trả một nửa, một phần đồng quan kia thôi. Ngài khuyến cáo đồng bào của Ngài không được nộp thuế với trọn cả đồng quan.  Ngài dứt khoát phủ  nhận tất  cả những biểu tượng, kư hiệu thần thánh trên đồng quan, đ̣i lại những ǵ thánh thiêng cho Thiên Chúa.  Hoàng đế hăy cứ làm Hoàng đế nhưng phải thôi đ̣i làm Thượng đế. 

Trong bối cảnh cụ thể như vậy phần câu “Hăy trả cuả Thiên Chúa cho Thiên Chúa” lại là quả quyết chính yếu và đầy đủ thẩm quyền nhất của Đức Yêsu, chứ không phải là phần trước.  Và như thế câu trả lời của Đức Yêsu hoàn toàn không phải là một thứ chân lư lẩn thẩn, và càng không phải là một lời giảng ‘ăn theo’, gỡ gạc. Đây là cả một thái độ phản kháng quyết liệt và bất ngờ trước mắt bọn người đă kéo nhau tới mưu hại Ngài.  Quả có ǵ thật đáng khiến họ phải “rất đỗi kinh ngạc”.  Vấn đề họ nêu lên cho Ngài trở thành thứ yếu.  Họ giăng bẫy hại Ngài nhưng Ngài không chỉ t́m cách thoát thân.  Ngài giữ thế thượng phong và chủ động chỉ cho họ thấy chính họ đang sa lầy trong sự nhập nhằng giữa đ̣i hỏi tuyệt đối tôn thờ Thiên Chúa duy nhất và những chọn lựa, những nghĩa vụ chính trị dẫu sao vẫn chỉ là tương đối và Ngài không có sứ mệnh chỉ đạo. Hội nhập, Ngài dạy cứ  nộp thuế cho Hoàng đế, “Hăy trả của Hoàng đế cho Hoàng đế”, nhưng vẫn phải vượt qua những sai trái thế gian : “Hăy trả của Thiên Chúa cho Thiên Chúa”,

 

Ngày nay vẫn chỉ có một người như thế

 

Hội nhập vào dân tộc của Ngài, nhưng Chúa Yêsu lại dứt khoát và triệt để vượt qua cái phi nhân trong văn hóa của dân tộc, cho dẫu là văn hóa truyền thống.  Chuyện thời sự gần đây khiến phải nhớ đến một cuộc đối đầu giữa Ngài với giới Biêt phái c̣n tiêu biểu hơn nữa.

Ngày 26.3.2002, các quan chức Nigiêria cho biết ṭa án tối cao đă trả tự do cho bà Safiya Hussaini sau khi tuyên bố bà được trắng án v́ cho rằng bà đă bị cưỡng hiếp chứ không phải ngoại t́nh.  Đây là lần đầu tiên tại Nigiêria, án tử h́nh đối với tội ngoại t́nh do ṭa sơ thẩm tuyên bị đảo ngược ở ṭa án cấp cao hơn.

Thế nhưng cùng ngày 26.3.2002, một phụ nữ khác, bà Amina Lawal Kurami dù đang mang thai vẫn bị ṭa án sơ thẩm kết án tử h́nh v́ tội ngoại t́nh.  Bà Kurami có 30 ngày để kháng án.  Tuy nhiên, việc thi hành án sẽ được hoăn lại 8 tháng sau khi bà sinh con.

Cũng theo luật Hồi giáo Sharia, người đàn bà ngoại t́nh bị xử tử bằng cách bị ném đá cho đến chết. (SGGP 27.3.2002, t.8).

Người ta tha mạng cho bà Hussaini chẳng qua chỉ v́ áp lực của dư luận quốc tế.  Hằng trăm ngàn hay hằng triệu người đă kư thư yêu cầu Chính phủ Nigeria… khoan hồng.  Nhưng người ta vẫn cứ làm nô lệ cho Luật lệ bất nhân, đặc biệt là đối với phụ nữ.   Phụ nữ không phải là con người, chỉ là vật sở hữu của cha mẹ rồi của chồng.  Đàn ông ngoại t́nh đâu có bị xử như thế.  Để chiều theo dư luận quốc tế mà buông tha một phụ nữ ngoại t́nh, người ta phải bày ra chuyện “bị cưỡng hiếp chứ không phải ngoại t́nh”   Nhưng anh đàn ông cưỡng hiếp hay ngoại t́nh vẫn không bị Luật lệ và Toà án đụng tới.

Vẫn cứ làm nô lệ cho Luật lệ cho nên người ta vừa phải bày cớ để buông tha người phụ nữ này lại vừa kết án tử h́nh một người phụ nữ ngoại t́nh khác.  Tháo c̣ng sắt cho người phụ nữ kia mà không tháo được c̣ng Luật lệ bất nhân cho bà, cho chính họ hay cho ai cả. Một ṿng luẩn quẩn mà người ta không thoát ra được,  Tuy nhân loại gọi là văn minh, tiến bộ đă bước qua thế kỷ 21.

Chuyện thời sự trên càng làm nổi bật ưù nghĩa và tầm vóc phi thường của một chuyện đă xảy ra 2000 năm trước như được kể lại trong Tin Mừng theo Thánh Yoan 8,1-11. 

“Kư lục và Biệt phái dẫn đến một phụ nữ ngoại t́nh bị bắt quả tang và bắt đứng giữa đám.  Họ nói với Ngài :”Thưa Thầy, phụ nữ ngoại t́nh này bị bắt tại trận.  Trong Lề luật, Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà như thế.  Vậy thầy dạy sao?” 

Cả đám ấy đă là cái ṿng lẩn quẩn vừa vây quanh người đàn bà ngoại t́nh vừa muốn đem Luật lệ bủa vây chính Đức Yêsu.  Họ đinh ninh là Ngài không thể nào thoát được ṿng vây ấy.  Nói chi người phụ nữ.  Họ chỉ không biết hay làm như không biết là chính họ mới bị ṿng vây Luật lệ vây kín hơn ai hết.

“C̣n Đức Yêsu th́ Ngài cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất.  Bởi họ cố riết hỏi Ngài, th́ Ngài ngẩng lên và bảo họ : “Trong các ông, ai vô tội th́ hăy ném đá trước hết người này đi!”  Rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất. Họ nghe thế rồi, th́ kẻ trước người sau họ rút lui hết, các kẻ cao niên dẫn đầu, mà để lại một ḿnh Ngài, và phụ nữ kia đứng ở giữa. Ngẩng đầu lên Đức Yêsu nói với người ấy : “Bà kia, họ đâu rồi?  Không ai xử tội ngươi sao?”  Người ấy đáp : “Thưa Ngài, không ai cả!”  Đức Yêsu lại nói : “Ta cũng không xử tội ngươi đâu!  Đi đi!  Vàù từ nay đừng phạm tội nữa!”.

Không phải hàng trăm ngàn người mà cũng không có được một người nào đă lên tiếng can thiệp cho người đàn bà ngoại t́nh hoặc  xin Đức Yêsu can thiệp.  Kể cả trong đám đông dân chúng đang nghe Ngài giảng dạy.  Ngài lại không cần gỡ tội cho người đàn bà bằng cách bảo là bà ta chỉ bị cuỡng hiếp chẳng hạn.  Ngài trực diện với tội ngoại t́nh của bà ta, trực diện với Lề luật, trực diện với đám Kư lục và Biệt phái đang đem Lề luật tới bắt bí Ngài.  Trực diện tuy “cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất”.  Đố ai biết Ngài viết ǵ mặc dù đây là lần duy nhất bốn Tin Mừng nói tới chuyện viết lách của Đức Yêsu.  Hay đúng hơn viết mà không lách, không để lách.  Bởi khi họ “cố riết hỏi Ngài, th́ Ngài ngẩng lên và bảo họ : “Trong các ông, ai vô tội th́ hăy ném đá trước hết người này đi!”  Cả trăm ngàn người trên thế giới đă bênh đỡ  bà Hussaini nhưng không một ai dă dám đưa ra một câu thách thức như thế.  Giả sử có người dám làm như thế th́ ở nước Nigiêria kia vẫn không thiếu người cứ ngang nhiên ném đá bà ta.  Ai chứng minh được là họ không vô tội?  Và cho dù có ai chứng minh được là họ có tội đi nữa, Luật lệ vừa không đ̣i phải trừng phạt họ vừa không cấm cản họ trừng phạt người phụ nữ ngoại t́nh.  Ngay ở đầu thế kỷ 21 này.

Uy lực nào nơi Đức Yêsu đă khiến đám Kư lục và Biệt phái kia “nghe thế rồi, th́ kẻ trước người sau họ rút lui hết, các kẻ cao niên dẫn đầu, mà để lại một ḿnh Ngài, và phụ nữ kia đứng ở giữa”?”  Uy lực nào nơi Đức Yêsu đă không cho phép họ mặc dù không vô tội cứ được ném đá người đàn bà ngoại t́nh v́ Luật lệ vẫn cho phép? Trước và sau lời thách thức kia, Đức Yêsu vẫn “cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất”.  Nhưng lời thách thức kia đă như một ḥn đá vô h́nh được ném ra trúng thẳng cả vào tim đen bọn người chỉ chực ném đá lẫn vào Luật lệ cho phép họ ném đá.

”Ngẩng đầu lên Đức Yêsu nói với người ấy : “Bà kia, họ đâu rồi?  Không ai xử tội ngươi sao?”  Người ấy đáp : “Thưa Ngài, không ai cả!”  “Họ đâu rồi?” mà cũng là “Luật lệ đâu rồi?”.  “Không ai cả” mà cả Luật lệ của họ cũng đă phải rút lui với họ. 

Rồi sẽ có một ngày khi “Đức Yêsu biết rằng đă đến giờ Ngài qua khỏi thế gian này để đến cùng Cha” (Ga 13,1), Ngài sẽ để cho họ tha hồ lớn tiếng đ̣i đóng đinh Ngài trên thập giá. “Chúng tôi có Luật, và chiếu theo Luật ấy th́ nó phải chết, v́ nó đă cho ḿnh là Con Thiên Chúa” (Ga 19,7). Vẫn cứ là Luật lệ khi Ngài tư ïnguyện làm nạn nhân hơn ai hết của Luật lệ.  Nhưng từ hôm nay cho đến ngày ấy họ sẽ không c̣n dám đưa một người đàn bà ngoại t́nh nào khác tới mà đ̣i nhân danh Luật lệ ném đá trước mặt Ngài.  Không có một bà Kurami trước mặt Ngài.

C̣n bà Hussaini 2000 năm trước th́ Đức Yêsu lại nói với bà ấy : “Ta cũng không xử tội ngươi đâu!”.  Không xử tội chứ không phải không thấy ra tội nữa.  Vẫn trực diện với người-đàn-bà-ngoại-t́nh-là-người-đàn-bà-ngoại-t́nh mới có được lời mời gọi “Đi đi!  Và từ nay đừng phạm tội nữa!”.  Sau khi cả đám Kư lục và Biệt phái đă phải cúi gầm mặt xuống mà rút lui hết th́ người phụ nữ ngoại t́nh là con nguời duy nhất hôm đó đă không phải lủi thủi ra về.  Ra về là một con người mới. Bà đă được Đức Yêsu cho sống lại.  C̣n hơn Lazarô.

Thường th́ không ai xem là có phép lạ trong câu chuyện Ga 8,1-11 như trên.  Nhưng thật ra đây lại đáng kể là phép lạ lớn lao nhất.  Các phép lạ khác th́ những người như các Kư lục và Biệt phái vẫn cứ có thể không tin hoặc bán tín bán nghi mà giải thích này nọ.  Ảo thuật hay thậm chí tà thuật :”Ông ấy có trừ quỷ được chẳng qua là nhờ Bêelzêbul đầu mục các quỷ!” (Mt 12,24).  C̣n bây giờ?  Khi chính họ phải khuất phục trước uy lực kia của Đức Yêsu.  Khi họ cảm nhận rằng cái nh́n của Ngài bao quát quá khứ của họ, thấu suốt tâm can họ. Khi Ngài trừ được cả quỷ là Luật lệ bất nhân mà họ sùng bái.  Khi Ngài đă làm được điều mà 20 thế kỷ sau cả một chính phủ Nigiêria không làm được.

Măi đến đầu tháng 11.2002 ngườí ta mới thấy “Ngoại trưởng Nigiêria Dubem Onyia tuyên bố Chính phủ nước này sẽ ngăn cản ṭa án Hồi giáo thực hiện luật ném đá đến chết những phụ nữ có quan hệ ngoài hôn nhân, theo luật Hồi giáo Shariat.  Ông nói chính phủ sẽ không làm ngơ khi quyền công dân bị chà đạp và sẽ không c̣n một phụ nữ nào bị ném đá đến chết v́ tội này nữa.”  Chỉ tiếc là chính phủ Nigiêria cuối cùng “không làm ngơ’ được nữa không hẳn v́ “quyền công dân bị chà đạp” mà chỉ v́ quyền… tổ chức cuộc thi hoa hậu thế giới bị đe dọa!  Sắp đến ngày tổ chức cuộc thi (6.12) “mà đă có đến hoa hậu 9 nước tẩy chay nếu như ṭa án Hồi giáo nước này thực hiện bản án ném đá đến chết một phu ïnữ 31 tuổi có con nhưng không công bố tên cha đứa bé.  Người phụ ïnữ này đang lẩn trốn để chờ ṭa phúc thẩm tuyên án theo lời thỉnh cầu của cô”.  C̣n đáng tiếc hơn nữa : Tổng thống Nigiêria được bầu từ 1999, ông Obasanjo “chưa bao giờ can thiệp vào luật Hồi giáo đang được áp dụng tại 12 bang của quốc gia này, một phần v́ ông là người theo đạo Thiên Chúa, một phần v́ lo ngại mất phiếu từ các cử tri theo đạo Hồi (chiếm gần nửa dân số của một quốc gia 120 triệu dân này).” (SGGP 11.11.2001, t. 8).  V́ “tế nhị”  hay v́ ngại mất phiếu th́ vẫn là chỉ hội tụ văn hóa như một kẻ nô lệ chứ không phải như một con người tự do để c̣n biết và dám vượt qua.  

 

Khi vuợt qua mà phải chấp nhận cả sự chia rẽ     

                                                                                       

Cũng v́ không chỉ hội nhập mà c̣n phải vượt qua,  Chúa Yêsu đăkhông ngại có những lời dạy “chướng tai quá, ai mà nghe cho nổi”ù (Ga 6,60).  Như khi Ngài quả quyết : ““Anh em nghĩ : Ta xuất hiện để ban b́nh an trên mặt đất ư ? Không đâu ! Ta bảo anh em, không ǵ khác ngoài sự chia rẽ !”

Nhưng quả là Đức Yêsu chỉ biết loan báo, rao giảng Tin Mừng.

Chúa Yêsu rao giảng Tin Mừng là đọc lên Tín thư của Cha ngay từ thế giới, xă hội, cuộc sống xung quanh ḿnh. “Hăy coi chim trời... Hăy ngắm hoa huệ ngoài đồng xem... Huống chi là anh em... Vậy anh em chớ lo...  Cha anh em, Đấng ở trên trời, biết rơ anh em cần đến các điều ấy.  Hăy t́m kiếm Nước Trời trước đă...” (Mt 6,25-34).  Nước mắt người phụ nữ tội lỗi trong châu thành là ḷng cảm mến nhiều nhất đáp lại ơn tha thứ  nhiều hơn cả (Lc 7,36-50).  Hai trinh của bà góa nghèo cũng lại là tiền cúng quư hơn cả (Lc 21,1-4).

Chúa Yêsu đă mở mắt trước cuộc sống, Ngài loan báo Tin Mừng với và qua những ǵ Ngài thấy hàng ngày.  Ngài thường “lấy ví dụ mà dạy dỗ nhiều điều”, nhưng ví dụ không phải là chuyện trên mây, không dính dấp ǵ tới cuộc sống.  Gieo giống, t́m con chiên lạc hay đồng tiền rơi mất, phân chia chiên khỏi dê, lựa cá, muối lạt đi, cỏ lùng lẫn với lúa tốt đều đă là chuyện đời thường.

Các ví dụ c̣n chứng tỏ Chúa Yêsu rất gần gũi, quen thuộc thực tại xung quanh Ngài, thời Ngài.  Người nông dân Việt Nam có thể cho là việc gieo giống mà giống có thể rơi dọc đường , rơi vào đất đá, vào gai góc (Mc 4,1-9) là chuyện ... tưởng tượng : gieo trên ruộng đă được cày sâu cuốc bẫm th́ làm ǵ c̣n có những rủi ro như thế được.  Nhưng người nông dân đồng bào của Chúa Yêsu, thời Ngài, lại quen gieo trước, cày sau!  T́m ra con chiên lạc tại sao phải “quàng nó trên vai” mà về (Lc 15,4-6)? Đây lại là một nét đời thường trong vùng : con chiên lạc bầy đă chạy cùng khắp cho đến khi kiệt sức nằm dài, gặp lại chủ nó cũng không c̣n hơi sức để ḅ dậy và tự đi theo chủ được nữa.  Nhất là con chiên lạc trong mạch văn Mt Lc bé nhỏ, ốm yếu chứ không như trong Tin mừng của Tôma được’thổi’ lên thành con chiên to béo và quư nhất đàn!  Đồng bạc đánh mất đáng phải t́m cho bằng được (Lc 15,8-10) v́ thuộc về của hồi môn người đàn bà Do Thái đem theo về nhà chồng và đeo cả chuỗi đồng bạc, đồng vàng (nếu là nhà giàu) như nữ trang trên... trán. Và phải chong đèn mà t́m v́ nhà thường chỉ có một cửa nhỏ, thấp ban ngày cũng chẳng có bao nhiêu ánh sáng lọt vào.  “Như người chăn chiên tách chiên ra khỏi dê (Mt 25,32)?  Khi đưa bầy thú đi ăn th́ người ta chăn chung chiên với dê, nhưng chiều đến, người ta lại phải tách chúng riêng ra v́ chiên có thể ngủ ngoài trời lạnh được c̣n dê th́ không.  Tại sao nhặt cỏ lùng mà phải lo “lại nhổ lúa cả rễ luôn” (Mt 13,29)?  Thứ cỏ lùng độc này (lolium temulentum) về mặt thực vật học rất gần loại lúa ḿ nhiều tóc và bắt đầu mọc lên trông rất giống cây luá ḿ non.  Kéo lưới lên băi, tại sao c̣n có việc”ngồi đó, lựa thứ tốt th́ bỏ giỏ, mà thứ dở th́ quăng ra bên ngoài” (Mt 13,48)?  Dân chài nào lại thừa hơi dư của để làm như vậy? Nhưng người Do Thái cứ có thứ dở phải lựa ra mà bỏ đi v́ “phàm vật nào không vây, không vẩy, ở biển hay ở sông,... là vật kỵ” theo sách Lêvi (11,9-12).  Vật dưới nước mà không vẩy, trông giống như rắn chẳng hạn th́ khỏi được ăn (Mt 7,10 : “Ai có con xin cá mà lại cho nó rắn ư?”). Ngoài ra người Do Thái thời đó không biết ăn một số loài vật sống dưới nước như cua c̣ng.  Lựa thứ dở bỏ đi là công việc b́nh thường.

Nhiều ví dụ khác có tính cách truyện kể th́ hẳn đă liên quan tới những biến cố thời sự : Người quản lư bất lương (Lc 16,1tt), gia chủ để nhà bị đào ngạch (Mt 24,43), người phú hộ ngốc nghếch (Lc 12,13-21), người Samari nhân hậu (Lc 10,30-36), người cha nhân hậu và đứa con đi hoang (Lc 15,11tt), mười người trinh nữ vv... Không kể khi Chúa Yêsu trực tiếp đối diện với một biến cố thời sự mà kêu gọi người ta thay đổi cách nh́n và lối sống, hối cải.  Như khi “có ít người đến báo tin cho Ngài về những người Galilê bị Philatô giết, máu đổ ḥa với lễ tế của họ” (Lc 13,1tt). 

Nhập thể cũng là nhập thế.  Chúa Yêsu không rao giảng Tin Mừng từ bên ngoài cuộc sống, bên lề Lịch sử.  Tin Mừng là Tin Mừng hội nhập.  Tuy vậy Ngài lại vẫn “không thuộc về thế gian” (Ga 17,14) và Lời Ngài lại không hề buông xuôi hay buông trôi theo ḍng Lịch sử. “Anh em đă nghe bảo rằng... C̣n Ta, Ta bảo anh em...”(Mt 5,21.27.31.33.38.43). Bản thân Ngài là Tin Mừng và Lời Ngài vẫn là Tin Mừng. Hội nhập nhưng tự bản chất Tin Mừng vẫn là Tin mừng Vượt qua.

Loan báo Tin Mừng th́ không phải là quảng cáo, chào hàng hay “tiếp thị”. Loan báo Tin Mừng không phải là thuyết khách hay tuyên truyền. Tin Mừng đích thực là Tin Mừng cũng v́ không phải để “nghe rồi bỏ”. Tin Mừng bật rễ con người, xáo trộn cuộc đời. Chí ít th́ cũng như Tin Mừng mời đi dự tiệc, đ̣i hỏi phải dẹp qua một bên việc đi thăm ruộng mới tậu, đi thử năm cặp ḅ mới mua và cả việc yên ổn ở nhà với vợ mới cưới (Lc 14,16-24).

Chúa Yêsu xuất hiện không phải để thêm một anh gác cổng bảo vệ sự yên ổn, ổn định giả tạo hay dối trá của con người. Ngài đến là không để ai yên. Thậm chí Ngài đem lại “sự chia rẽ”. V́ Tin Mừng là “hăy t́m kiếm Nước Trời trước đă và sự công chính của Thiên Chúa” (Mt 6,33). Cho nên phải lựa chọn. Lựa chọn dứt khoát và triệt để. Lựa chọn th́ không thể chỉ có việc hội nhập, không thể tránh được sự từ bỏ, “sự chia rẽ”.

“Từ nay trong nhà có năm người, họ sẽ chia rẽ với nhau : cha với con, con với cha, mẹ với con gái, con gái với mẹ, mẹ chồng với con dâu, con dâu với mẹ chồng”. Chia rẽ vẫn là v́ phải chọn lựa, có khi phải chọn lựa : “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta ắt không xứng với Ta. Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta, ắt không xứng với Ta” (Mt 10,37). Trong Lc, theo ngôn ngữ Cựu ước, c̣n là : “Kẻ nào đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ, con cái, anh em ḿnh và cả mạng sống ḿnh nữa, ắt không thể làm môn đồ của Ta” (Lc 14,26).

Và cả mạng sống ḿnh nữa. “Chia rẽ” theo Tin Mừng thật ra đâu phải bắt đầu với người thân mà với chính bản thân ḿnh. Theo Chúa Yêsu là phải “chia rẽ” với Mammon vẫn sẵn chỗ thường trú trong ḷng người : “Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mt 6,24). Cho nên “phàm ai trong anh em không từ bỏ của cải ḿnh đi hết thảy th́ không thể làm môn đồ của Ta” (Lc 15,33). Zakkhê đă hiểu điều đó (Lc 19,1-10). Theo Chúa Yêsu là sẵn sàng “chia rẽ” với tai mắt, mũi họng, tay chân của ḿnh : “Nếu tay anh làm anh vấp phạm th́ hăy chặt nó đi, thà cụt tay mà vào sự sống, c̣n hơn... Nếu chân anh làm anh vấp phạm, th́ hăy chặt nó đi, thà anh què chân mà vào sự sống... Nếu mắt anh làm anh vấp phạm, th́ hăy móc nó đi, thà anh chột mắt mà vào Nước Thiên Chúa th́ hơn...” (Mc 9, 43-47). Và không phải chỉ “chia rẽ” với tay chân, tai mắt mũi họng, mà c̣n cả với mạng sống ḿnh nữa, “chối bỏ chính ḿnh”. Vẫn cứ v́ phải chọn lựa : “Kẻ cố t́m sự sống ḿnh th́ sẽ mất, c̣n kẻ đành mất sự sống ḿnh v́ Ta th́ sẽ gặp lại” (Mt 10,39).

Chúa Yêsu đă chấp nhận những chọn lựa như thế, “sự chia rẽ” như thế cho chính Ngài. Lên đường rao giảng Tin Mừng, Đức Yêsu chấp nhận “sự chia rẽ” với bà con thân thích của Ngài. Lúc th́ “những kẻ thân thuộc của Ngài ra đi để bắt Ngài v́ họ bảo : Ông ấy đă mất trí !” (Mc 3,21). Lúc th́ họ hoang mang, ngờ vực “bị vấp phạm v́ Ngài” (Mc 6,3). Và Đức Yêsu phải bảo họ : “Tiên tri mà có bị khinh khi th́ chỉ ở nơi quê quán, bà con, nơi nhà ḿnh thôi !” (Mc 6,4). C̣n khi họ tháp tùng thân mẫu Ngài đến t́m Ngài th́ Ngài lại xác quyết ưu tiên phải dành cho công việc Nước Trời và quan hệ trong Nước Trời mới đáng kể hơn quan hệ giữa trần thế : “Ai là mẹ Ta và ai là anh em Ta?”, “Rồi nh́n quanh ḿnh các người ngồi ṿng quanh Ngài... “ (Mc 3,31-35).

Để không lấp liếm Tin Mừng, Đức Yêsu đă chấp nhận cả sự chia rẽ giữa và với các môn đồ của Ngài. Ba lần báo trước Thương khó đều đă chỉ gây lộn xộn : Phêrô phản ứng bậy bạ (Mc 8, 31-33), các môn đồ lạc lơng “không hiểu” (Mc 9, 30-32), hay c̣n sinh chuyện tranh giành, gây gổ nhau (Mc 10, 32-41). Rao giảng về “bánh bởi Trời” th́ “trong các môn đồ của Ngài có nhiều người nói : “Lời chi mà sống sượng thế! Ai nào có thể nghe nổi” “từ đó nhiều môn đồ của Ngài đă rút lui, không c̣n đi theo Ngài nữa”.

“Loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó” (Mt 11,5), “tiếp đón quân tội lỗi và cùng ăn với chúng” (Lc 15,3), Ngài không hội nhập nổi với giới ăn trên ngồi trốc về mặt quyền lực như Vua Hê-rô-đê, “con cáo đó” (Lc 13,31-32) và “những kẻ có y phục sang quư, sống trong kiều dưỡng ở hoàng cung” (Lc 7,22), về mặt tôn giáo như “các thượng tế, kỳ mục và kinh sư” (Mc 14,53) và về mặt đạo đức như các ông Biệt phái, “những kẻ tự tin rằng ḿnh là người công chính mà khinh miệt kẻ khác” (Lc 18,9).  Đức Yêsu càng “hiền lành và khiêm nhường trong ḷng” (Mt 11,30) bao nhiêu đối với những kẻ bé mọn th́ lại càng nghiêm khắc, “nẩy lửa” bấy nhiêu khi Ngài hạch tội giới ăn trên ngồi trốc kia : “Khốn cho các ngươi, Kư lục và Biệt phái giả h́nh... Khốn cho các ngươi, bọn dẫn đàng mù quáng... Khốn cho các ngươi, Kư lục và Biệt phái giả h́nh...” (Mt 23,13-32), Chúa chiên lành biết gọi tên từng con chiên của ḿnh (Ga 10,3) th́ cũng biết vạch mặt chỉ tên những kẻ “là trộm là cướp”, là “sói” (Ga 10,3-12, xem tt. 217-224 ), rồi hết “con cáo đó” lại đến “đồ măng xà, ṇi rắn độc” (Mt 23,33).

Như thế, Chúa Yêsu đă không nói quá đáng chút nào : “Ta xuất hiện để ban b́nh an trên mặt đất ư ? không đâu ...” Và cuối cùng là sự chọn lựa tột cùng : Ngài “đành mất sự sống ḿnh”. Một chọn lựa không ngọt ngào ǵ mà là trong “kinh hoàng và âu sầu” (Mc 14,33) nếu không phải là cả với “mồ hôi như máu nặng giọt rỏ xuống đất” (Lc 22,44). Một thanh dọc và một thanh ngang. Thập giá cũng có thể được coi là biểu tượng của “sự chia rẽ” cần thiết.

Nhưng “đành mất sự sống ḿnh để mà gặp lại”.  “Chia rẽ” với sinh mệnh của ḿnh đến đổ máu trên thập giá để “triệt hạ tường ngăn thành chắn (...) đem lại b́nh an và giảng ḥa hai dân - trong một Thân ḿnh - với Thiên Chúa, nhờ Thập giá, giết chết hằn thù - nơi ḿnh Ngài. Và Ngài đến loan báo Tin Mừng b́nh an cho anh em, những kẻ ở xa và ban b́nh an cho những kẻ ở gần” (Ep 2,14-18). Từ lời chào, lời chúc của Đấng Sống lại : “B́nh an cho anh em” (Ga 20,19 và 21).

Giảng ḥa giữa người với người bây giờ mới là giảng ḥa đích thực v́ và nhờ c̣n là giảng ḥa giữa người người “với Thiên Chúa” (Ep 2, 16). “Trong một thân ḿnh”, Thân ḿnh của Đức Kitô. Thanh dọc và thanh ngang, Thập giá dấu hiệu chia rẽ triệt để với Kẻ Ác, với tội lỗi lại trở thành Giao điểm tuyệt đối và vĩnh hằng cho người người nên một với Đức Kitô.

“B́nh an cho anh em” cũng là “b́nh an nhờ Bửu huyết đổ ra nơi Thập giá của Ngài” (Cl 1,20) và là “hoa quả của Thần khí” (Gl 5,22). Chúa Yêsu để lại, ban b́nh an của Ngài cho chúng ta, nhưng “không phải như thế gian ban cho thế nào th́ Ngài cũng ban cho đâu” (Ga 14,27). B́nh an khác hẳn. Kẻ tin “được b́nh an trong Ngài” mặc dù vẫn “phải khốn quẫn trong thế gian” (Ga 16, 33). Sự b́nh an cũng như nỗi vui mừng “không ai giật mất được” (Ga 16, 22).

Như thế, Chúa Yêsu và Tin Mừng của Ngài đă hội nhập mà vuợt qua, nhưng vuợt qua, chấp nhận cả những chia rẽ xé ḷng, hại đến cả sinh mệnh của ḿnh, th́ cuối cùng là để đưa tới Hội nhập trọn vẹn, toàn diện trong “ân sủng Chúa Kitô, t́nh thương của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần”.  Hội nhập mà Vượt qua để trở thành Hiệp thông.

 

 

II. Hội Thánh hội nhập mà vượt qua

 

Hội Thánh từ thuở sơ khai đă không có đường hướng nào khác, cũng hội nhập mà vượt qua.

Bao lâu kitô hữu là người do thái trở lại th́ chưa có vấn đề hội nhập. Loan báo Tin mừng trong ngày Hiện Xuống cho “những người Do Thái đạo đức từ mọi dân thiên hạ về”, Phêrô công bố Tin Mừng là lời các ngôn sứ đă được ứng nghiệm trong Đức Kitô một cách vượt quá cả sự mong đợi của chính các ngôn sứ (Cv 2,14-36).  Ngay cả trong  trường hợp riêng lẻ Philip gặp và rao giảng cho “một người nước Á, viên hoạn quan quyền thế của Kanđakê nữ hoàng dân Á” th́ cũng đă “bắt đầu từ lời Kinh Thánh ấy (Ys 53,7-8) mà giảng cho ông Tin mừng về Đức Yêsu.” (Cv 8, 26-35).

Nhưng khi Phaolô,  “hipri sinh bởi hipri” và Do thái nhiệt thành c̣n hơn Do thái, trở lại th́ đă mở đầu cho Hội Thánh một t́nh thế mới.  Lệnh truyền của Thầy khi chia tay lần cuối với các môn đệ, “Hăy đi khắp cả thiên hạ rao giảng Tin mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15) đă phải đợi vị tông đồ giờ thứ 25 mới được thực hiện đến nơi đến chốn. 

Trước đó, người ta đă từng thấy Phêrô lúng túng, ngại ngùng măi khi Cornêliô, không phải là người Do thái xin trở lại chỉ v́ ông “dư biết : Cấm chỉ người Do thái không được làm thân hay đi gặp người biệt chủng”.  Ông đă phải được thị kiến cho “biết không được gọi ai là tục hay nhơ” và c̣n được chứng kiến “Thánh Thần đă đổ xuống trên cả dân ngoại” mới cho “thanh tẩy họ nhân danh Đức Yêsu Kitô” (Cv ch. 10).  Rồi khi “các tông đồ và anh em ở xứ Yuđê nghe tin là cả dân ngọai cũng đă đón nhận lời Thiên Chúa” và Phêrô lên Yêrusalem, th́ c̣n phải tự biện hộ, thanh minh v́ bị “các người thuộc giới cắt b́ hạch sách ông. Họ nói : “Ông đă đi lại với người không chịu căt b́ và đă cùng ăn với họ” (Cv 11,1tt).

 

Phaolô được “mặc khải” để “giảng Tin mừng về Ngài nơi các dân ngoại

 

Phaolô th́ trái lại, được “mặc khải (về) Con của Người” chính là để “giảng Tin mừng về Ngài nơi các dân ngoại” (Gal 1,16).  Ngài đă theo Barnaba đến  Antiokia, nơi sẵn có một cộng đoàn dân ngoại đầu tiên  đă trở lại (Cv 11,19-26). Rồi là 3 hành tŕnh truyền giáo.  Hành tŕnh truyền giáo (4 năm : 45-49) : Antiokia xứ Syri – 280km - Salamin (Kyprô) – 180km – Paphô (Kyprô) – 270km – Attalia Tiểu Á) – 18km - Perghê – 160km – Antiokia xứ Pisiđia – 130km – Ikonion – 38km – Lystra – 37km – Đerbê.  1113km chưa kể ṿng về. Hành tŕnh truyền giáo II (3 năm : 49-52) : Antiokia xứ Syri –  210km – Tarsô – 280km – (băng qua dăy núi Taurus) Đerbê –  37km – Lystra – 38km – Ikinion – 130km – Antiokia xứ Pisidia – 160km – xứ Galat – 500km – Trôa – 231 km – Nêapoli – 12km – Philip – 48km – Amphipolio – 47km - Apollonia – 57 – Thessalônikê – 75 km - Bêrê – 370km- Athêna –  65km – Corinthô. 2260km.  Hành tŕnh truyền giáo III (5 năm : 53-58) không dài hơn nhưng lâu hơn với nhiều gian truân, trắc trở : Antiokia, Ephêsô, Galat, Corinthô, Trôa, Makêdonia, Illyria, Corintho, Makêđonia (Philip), Trôa, Milêtô, Yêrusalem, bị bắt ở đây năm 58, bị giải xuống Caisaria 2 năm rồi bị giải đi Rôma.

Lúc đầu Phaolô giảng trong các hội đường Do thái.  Nhưng v́ sự khích bác của phần lớn người Do Thái, ở Antiôkia xứ Pisiđia, Phaolô và Barnabê nói thẳng với họ :”Bắt buộc chúng tôi phải nói lời Thiên Chúa cho các người trước.  Nhưng bởi các người khước từ lời ấy, và tự lên án là các người bất xứng với sự sống đời đời, th́ này chúng tôi quay sang người ngoại.  V́ Chúa đă truyền dạy chúng tôi như vậy : Ta đă đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi nên nguồn cứu độ cho đến cùng mặt đất” (Cv 13,44-47). Một khi đă có nhiều cộng đoàn dân ngoại ở khắp nơi trở lại và Tin Mừng đă đến với những nền văn hóa khác nhau, vấn đề hội nhập không sao tránh khỏi nhưng lại vấp phải năo trạng độc tôn của cả những kitô hữu Do thái. “Một cuộc tranh luận kịch liệt diễn ra” v́ “có những người Biệt phái đă tin, đứng dậy tuyên bố phải bắt người ngoại chịu cắt b́ và truyền cho họ giữ luật Môsê. Các tông đồ và hàng niên trưởng đă hội lại để cứu xét vấn đề.”  Trong cuộc tranh luận ở Yêrusalem này, Phêrô và Yacôbê lần lượt lên tiếng bác bỏ yêu sách ấy. V́ theo Phêrô, “Thiên Chúa đă đă ban Thánh Thần cho họ cũng như cho chúng ta.  Và Người đă không đặt một chút phân biệt nào giữa ta và họ.”  C̣n Yacôbê xét là “không được phiền nhiễu người ngoại quay đầu về với Thiên Chúa.”  Với một chút nhân nhượng : “dạy họ kỵ hẳn đồ nhơ uế bởi tà thần, dâm bôn, thị ngột và máu huyết” (Cv 15,5-35).  Các khoản này được áp dụng trong Hội thánh chẳng qua là để giữ sự ḥa hảo sống chung trong những cộng đoàn gồm có Do thái và người ngoại đă trở lại (Nguyễn Thế Thuấn).  Tin Mừng có thể hội nhập vào các văn hóa khác, không cứ ǵ chỉ hội nhập vào văn hóa Do thái mà thôi. “Công đồng Yêrusalem” này c̣n chính thức nhận Phaolô là Tông đồ dân ngoại (Cv 15,22.25), “việc rao giảng Tin Mừng cho giới không cắt b́ đă được kư thác” cho ông (Gl   2,7)

 

Trên đồi Arê : một kinh nghiệm để đời về hội nhập văn hóa

 

Cuối cuộc Hành tŕnh truyền giáo II, khi đến Athêna, “Phaolô ḷng trí những uất lên bởi thấy thành nhan nhản những tượng thần” (Cv 17,16).  Nhưng cũng chính tại đây, Phaolô đă có một  thử nghiệm hội nhập văn hóa tiêu biểu.  Những triết gia phái Êpicurô và phái Khắc kỷ mời ông lên đồi Arê để tŕnh bày đạo lư của ông cho ho xem ra sao.  Phaolô lấy khởi điểm từ điều ông thấy ở họ : “Xét về mọi mặt, tôi nhận thấy các ngài rất mực sùng tín.  V́ ngang qua, tôi ngước mắt nh́n các đồ thơ của các ngài, tôi đă gặp cả một tế đàn trên có khắc : KÍNH THẦN VÔ DANH.  Vậy Đấng các ngài không biêt nhưng có thờ kính, th́ này tôi xin loan báo về Người cho các ngài.” Nhưng Phaolô nói về Thiên Chúa tạo thành th́ họ c̣n chịu nghe, c̣n nói tới điều chính yếu của Tin Mừng là Thiên Chúa “đă cho Đấng ấy sống lại từ cơi chết” th́ họ cười nhạo, hết chịu nghe nữa, ngoại trừ một vài người hiếm hoi.  Một kinh nghiệm để đời cho Phaolô và cho cả Hội Thánh về sau : Hội nhập văn hóa, nhưng Tin Mừng vẫn là Tin Mừng, nghĩa là như  sau này  Phaolô xác quyết với tin hữu Corinthô : “Trong khi người Do thái đ̣i có dấu lạ, và Hilạp t́m sự khôn ngoan, th́ chúng tôi lại rao giảng một vị Kitô đă bị đóng đinh thập giá, cớ vấp phạm cho Do thái, sự điên rồ đối với dân ngoại” (1Cr 1,22-23).  Như  thế hội nhập văn hóa có khi là điều kiện cần nhưng không bao giờ là điều kiện đủ để Tin Mừng được đón nhận.  Và nếu chỉ có khi là điều kiện cần để Tin Mừng được đón nhận th́ hội nhập văn hóa thường hơn lại là một hậu quả khi đă đón nhận  Tin Mừng. Khi đă có nhiều cộng đoàn kitô giáo ở xứ nọ xứ kia như ở Corinthô, Galat, Êphêso, Philip, Colossê, Thessalonica, Hiêrapoli, Trôa, Smyrna vv… th́ mỗi cộng đoàn ấy đương nhiên sống Tin Mừng trong và với văn hóa sẵn có của ḿnh, chỉ phải gạt bỏ đi những yếu tố trái ngược với Tin Mừng thôi.  Cũng như người Do thái khi trở lại.  Chính v́ vậy mà những kitô hữu Do thái sẵn năo trạng độc tôn mới đ̣i “bắt người ngoại chịu cắt b́ và truyền cho họ giữ luật Môsê”.

Trong cuộc Hành tŕnh truyền giáo III, khi đến Êphêsô, chính v́ Phaolô rao giảng Tin Mừng mà  không thể hội nhập vào văn hóa đa thần ở đây nên mới “xảy đếân cho Đạo một trận kinh động hẳn không phải là nhỏ”.  Anh thợ kim hoàn chuyên tạc tượng bạc điện thờ Artêmi mới sách động dân chúng kéo nhau đi t́m Phaolô hỏi tội đă dám “nói :  Thần đâu lại do tay người làm ra” (Cv 19,23-40).

Tuy nhiên, Phaolô không phải là người cố chấp.  Không chấp nhận đ̣i hỏi người ngoại trở lại phải phải do thái hoá, nhưng bản thân ông vẫn chấp nhận “dơi theo các lệ truyền” khi có lư do chính đáng.  Như  khi đến Yêrusalem lần cuối cùng mà Yacôbê và hàng niên trưởng khuyên ông :”Này tôn huynh, tôn huynh thấy có từng mấy vạn người Do thái đă tin, và hết thảy họ lại nhiệt thành đối với Lềluật.  Họ đă nghe phong thnah về tôn huynh, là tôn huynh đă dạy mọi người Do thái sống giữa dân ngọai từ rẫy Môsê, bảo họ đừng cắt b́ cho con cái, đừng dơi theo các lệ truyền.  Thế nào họ cũng sẽ nghe biết là tôn huynh đă đến.  Vậy tôn huynh hăy làm điều chúng tôi đề nghị với tôn huynh đây,  Chúng tôi có bốn người đang mang lời khấn trên ḿnh.  Tôn huynh hăy đem họ theo mà thánh tẩy ḿnh làm một với họ, và đài thọ cho họ có thể cạo đầu được…”  Phaolô đă làm theo lời khuyên ấy.  Nhưng mỉa mai thay là chính khi làm như thế gần xong th́ lại bị người Do thái “túm lấy, lôi ông ra khỏi Đền thờ” để rồi b́nh lính Rôma phải bắt giữ ông để tránh bạo loạn (Cv 21,17-35).  Lại một kinh nghiệm chua xót nữa về hội nhập văn hóa! Tin Mừng vẫn cứ là “cớ vấp phạm cho Do thái” trong Đền thờ Yêrusalem như đă là “sự điên rồ đối với dân ngoại” trên đồi Arê ở Athêna.

 

Không dựa vào sư khôn ngoan nhưng vẫn là tất cả cho mọi người

 

Với kinh nghiệm và xác tín như thế, Phaolô dứt khoát không dựa vào sự khôn ngoan, khôn khéo, hội nhập văn hóa này nọ để rao giảng Tin Mừng : “Khi đến với anh em, tôi đă không đến với uy thế của ngôn ngữ, hay khoa khôn ngoan để rao truyền cho anh em mầu nhiệm của Thiên Chúa. (…) Và lời tôi nói, việc tôi rao giảng đă không cốt ở nơi lời lẽ có sức thuyết phục của khoa khôn ngoan” (1Cr 2, 1-4). “Không phải thần khí của thế gian mà ta đă chịu lấy, mà thần khí do tự Thiên Chúa, ngơ hầu ta nhận biết các điều Thiên Chúa đă thi ân xuống cho ta.  Các điều ấy, chúng tôi nói lên không phải bằng những lời lẽ học đ̣i nơi sự khôn ngoan của loài người, nhưng là bằng những lời lẽ Thiên Chúa dạy cho…” (1Cr 2,12-13). 

Ngài cũng xác tín rằng “phàm ai đă được thanh tầy trong Đức Kitô, th́ đă được mặc lấy Đức Kitô : Không c̣n Do thái hay Hy lạp, không c̣n nô lệ hay tự do, không c̣n nam hay nữ, v́ htết thảy anh em là một trong Đức Kitô Yêsu” (Gl 3,27-28). Nhưng đồng thời tấm ḷng tông đồ của Phaolô lại khiến ngài sẵn sàng tự làm nô lệ mọi người, là Do thái với người Do thái, là Hy lạp với người Hy lạp, trở nên mọi sự cho mọi người, không từ nan bất kỳ một cố gắng ḥa đồng, hội nhập văn hóa nào : “V́ tự do đối với mọi người, tôi đă tự làm nô lệ mọi người, để lợi được nhiều người hơn.  Với Do thái, tôi đă nên như Do thái, để lợi được người Do thái.  Với những ai ở dưới Lề luật, (tôi đă nên như người) ở dưới Lề luật, - dẫu không c̣n phải ở dưới Lề luật – để lợi được những ai ở dưới Lề luật.  Với những ai ở ngoài Lề luật, (tôi đă nên) như người ở ngoài Lề luật – hẳn tôi không ở ngoài Luật Thiên Chúa, song là trong Luật của Đức Kitô – để lợi được những người ở ngoài Lề luật.  Với những người yếu, tôi đă nên người yếu, để lợi được những người yếu.  Với mọi người, tôi đă nên mọi sự, để dù sao cũng cứu được ít người.  Mọi sự tôi làm đều là v́ Tin Mững, ngơ hầu được thông chia phần phúc Tin Mừng.” (1Cr 9,19-23).

Phaolô bị giữ ở Caisaria2 năm(58-60), bị dẫn độ về Rôma giam tù 2 năm (61-63), không biết vụ án kết thúc ra sao mà lại đi đây đi đó : Krêta, Êphêso, Colossê, Hiêrapoli, Laodikêa, Milêtô.  Năm 1967 Phaolô mới bị bắt giữ lại và bị trảm quyết.

 

Giáo hội tiếp nối đường hướng Thánh Phaolô

 

Sau Thánh Phaolô, Giáo hội vẫn tiếp tục đường hướng “làm nô lệ cho mọi người, để lợi được nhiều người hơn”. 

Thời gian trước Công đồng Vatican II, Hồng y Celso Constantini (1877-1958) đă  là một trong những người để dấu ấn sâu đậm nhất trong lịch sử hiên đại của Giáo hội, nhất là về mặt truyền giáo.  Là Sứ thần Ṭa Thánh tại Trung Hoa 11 năm (1922-1933) rồi đứng đầu Thánh bộ Truyền giáo suốt 12 năm sau đó, từ 1935 đến 1953, Hồng y Celso Costantini đă hết sức quan tâm đến việc canh tân đường lối truyền giáo và nhất là đến vấn đề hội nhập văn hóa.  Như Ngài từng quả quyết : “Ba sự kiện tiêu biểu cho một bật dậy mới và việc canh tân truyền giáo là : 1/ các xứ truyền giáo được giải tỏa khỏi vướng víu với sự bảo vệ hoặc bảo hộ thế quyền; 2/ công cuộc truyền giáo từ nước ngoài  được ăn rễ  vào các Giáo hội  địa phương  được thành lập với  các hàng giáo phẩm  bản xứ;    3/ Tinh thần và truyền thống của mỗi dân tộc được tôn trọng bằng việc đón nhận tất cả những ǵ tốt sẵn trong di sản văn hóa và đạo đức của nước này nước nọ, bằng việc kitô hoá tất cả những ǵ có thể được kitô hóa.” (Va e annunzia il Regno di Dio. vol. 2, p. 25). Do đó, Hồng y Costantini cố t́m và nhắc lại những tiền lệ về sự hội nhập văn hóa từ thuở sơ khai trong Giáo hội.  Hồng y viết :

“ Thánh Phaolô, gương mẫu vô song cho tất cả các nhà truyền giáo, đă đến Athêna vào năm 51 hay 52.  Ngài thấy một bàn thờ dâng kính “Thần vô danh”.  Lên tiếng giảng giữa đồi A-rê, ngài đă lấy bàn thờ ấy làm trọng tâm cho người nghe chú ư.  Vốn tinh tường văn chương hy lạp, ngài trưng dẫn một câu thơ của thi sĩ hy-lạp Aratos.  Mọi người chăm chú nghe, v́ ngài nói cùng một ngôn ngữ với giới tri thức hay lui tới đồi A-rê và ngài có cùng một tŕnh độ văn hóa với họ.  Có những người chế nhạo ngài nhưng có những người khác th́ trở lại theo ngài; và tất cả mọi người vẫn c̣n muốn tiếp tục được nghe ngài nói.

“C̣n hơn thế nữa.  Vào cuối thế kỷ thứ nhất, thánh sử Yoan đă viết Tin Mừng với mục đích đặc biệt là để chứng minh thiên tính Đức Kitô.  “Hồi đó đă có những quan niệm triết học sai lầm ở Tiểu Á và Thánh Yoan, để chống lại những quan niệm ấy, đă thu nhận chữ Logos đang phổ biến trong thế giới hy-lạp, nhưng cho chữ này một ư nghĩa kitô-giáo rơ rệt  để loại trừ mọi quan niệm sai trái tương tự…  Cho nên từ những câu đầu  của Đoạn mở đầu, người ta có thể luận ra Lời của thánh Yoan khác xa Lời của Platon chỉ là một ư niệm hoàn toàn trừu tượng; khác xa Lời của Philon chỉ là một nguyên lư trung gian ở dưới Thiên Chúa và không hẳn là vị; khác xa Lời của thuyết ngộ đạo là tinh thần được tạo dựng và sinh ra trong thời gian.”

“Đương nhiên thánh Yoan đă nhớ tới Cựu ước trong đó Sự Khôn ngoan (Kn 7,22-27) đă được nhân cách hóa để tiêu biểu cho “việc chuẩn bị để mặc khải kitô giáo lần lượt phát triển” (Vangelo secondo S. Giovanni, traduzione et commento del P. Istituto Biblica, Salani, p. 291)

“Theo cha Batiffol,  ”các nhà minh giáo như thánh Justinô đă nại tới triết học hy-lạp để niềm tin kitô-giáo sáng giá hơn trước dư luận ngoại đạo.  Clê-men-tê ở Alexandria và O-ri-gê-nê đă chấp nhận và làm cho các giáo đoàn tuy không phải không có chống cưỡng cũng chấp nhận rằng một nhập môn bằng triết học có thể đi trước và chuẩn bị đức tin, và đức tin mặc khải có thể triển nở thành một minh triết của Giáo hội.  Khoa minh giáo theo lư trí và khoa thần học suy luận đă nhập cuộc là như thế, cũng như sau này triết học Aristote vào thời Thánh Tô-ma A-qui-nô.” (P, Batiffol, Le catholicisme des origines à saint Léon, Paris, Lecoffre, 1909. q. I, t. 493.)

“Harnack ghi nhận :”Khi mà  đất nước Do-thái từ chối không nh́n nhận Tin Mừng và Tin Mừng được giải thoát khỏi mọi quan hệ với đất nước ấy, th́ cũng đă thấy được là Tin Mừng sẽ lấy ở đâu chất liệu cần thiết để gầy dựng một cơ sở mới mà trở thành một Giáo hội và một  thần học.  Giáo hội và thần học này không thể mang tính cách dân tộc và riêng biệt theo nghĩa thông thuờng; về phương diện này, nội dung củaTin Mừng quá phong phú; nhưng một khi đă tách biệt khỏi Do-thái giáo và ngay cả khi chưa tách biệt được trọn vẹn, kitô giáo đă tiếp cận với thế giới la-mă và với một nền văn hóa đă và đang bao trùm thế giới, tức là văn hóa hy-lạp.  Giáo hội và giáo lư đạo kitô phát triển trong thế giới la-mă và trong văn hóa hy-lạp đối nghịch với Do-thái giáo.” (A. Harnack, Storia del Dogma, Mandrisio, q. I, t. 58).

“Ngay cả danh từ  “giáo hội” (hội họp) là do tiếng hy-lạp mà có.  Theo Batiffol “”Danh từ ấy đă may mắn thuộc về ngôn ngữ hy-lạp cổ điển nhất, trong ngôn ngữ này nó chỉ cuộc họp bàn luận của toàn thể các công dân của một thành quốc” (sđd, t. 87).

“Mùa xuân kỳ diệu của Kitô giáo đă ra hoa từ tk II đến tk IV nhờ công lao các nhà minh giáo và các Giáo phụ là cả một phép lạ nhất là về mặt tư tưởng.  Không do dự các Giáo phụ đă đem sự hiểu biết văn hóa hy-la sâu rộng của họ ra phục vụ chân lư và Tin Mừng, dùng những chất liệu đạo tà thần vào việc xây dựng một ṭa nhà mới.  Bị bắt buộc phải diễn dịch tư tưởng của ḿnh trong cuộc sống đời thường, họ đă kitô hóa những danh xưng cũ và những tục lệ xưa vốn không có tính cách kitô.  Tôi chỉ xin nhắc lại ở đây vài sự kiện ư nghĩa nhất.

“Thánh Grêgoriô hay làm phép lạ (khoảng 213-270) đă làm cho các đám đông trở lại bằng cách biến đổi những lễ lạc ngoại đạo thành những lễ lạc kitô giáo.  Thánh Basiliô (329-379) th́ dạy giới trẻ thời ngài như sau : “Các ông thợ nhuộm trước tiên chuẩn bị bằng cách này cách nọ thứ cần nhuộm, rồi họ mới nhuộm tía hay các màu khác. Như thế, chính chúng ta, để được đón nhận măi măi một vinh quang bất biến, chúng ta được làm quen với văn hóa ngoại đạo trước khi được đưa dần vào mầu nhiệm kitô giáo.  Mắt chúng ta làm quen với những phản ánh mặt trời trước khi ngắm nh́n chính ánh sáng… Cây là để đến thời sinh trái; tuy nhiên những ngọn lá lung lay đầu cành vẫn thêm phần dễ chịu.  Cũng vậy trí tuệ là để gặp chân lư, nhưng như lá cây nối kết với trái cây để cho bóng mát êm dịu th́ chân lư cũng kết hợp hài ḥa với minh triết ngoại đạo.” (Ad adolescentes, 2).

“Ngôi đền thờ tráng lệ mà giám mục Théodore d’Aquilée đă cho xây dựng để mừng Giáo hội được an b́nh năm 313 cũng mang trong nó cả một bài học.  Ở trung tâm bức tranh ghép mảnh bao trùm mặt đất hiện lên Nữ thần Chiến thắng là Thánh lễ được diễn tả theo quân  cách.  Bên cạnh Nữ thần Chiến thắng là một chum rượu và một rổ bánh.  Xung quanh là h́nh ảnh những lễ vật để dâng tế.  Như vậy vị giám mục đă không ngại dùng biểu tượng cổ xưa của Chiến thắng (tuy đă được tôn kính  như một nữ thần) mà kitô hóa nó và dùng nó để biểu trưng một cách sống dộng cho lời thánh Yoan : “Đây là chiến thắng đă thắng được thế gian : đức tin của ta!” (1Ga 5,4)

”Kinh litania major (kinh cầu trưởng, sau này gọi là kinh cầu mùa) được gọi như thế ngay từ thời thánh Grêgôriô Cả (để phân biệt với những kinh cầu khác không cổ kính hay không quan trọng bằng) có gốc gác đặc biệt la-mă và thuộc về những cuộc rước ngoại đạo, ambarvalia, được diễn ra vào mùa xuân ở thôn quê để cầu khấn các thần linh cho đất được ph́ nhiêu.  Ambarvalia quan trọng nhất là cuộc rước ngày 25 tháng Tư.  Đám rước đi theo đường Flamminia và sau khi đă trải qua 5 dặm đường th́ đến một khu rừng thiêng gần Cầu Milvius.  Ở đây, người ta tế hiến thần Robigus bộ ḷng một con chó và bộ ḷng một con cừu.  Giáo hoàng Liber (352-366) – ít nữa là như Jean Beleth quả quyết – để dẹp bỏ nghi lễ ngoại đạo ấy đă bám rễ dai dẳng trong ḷng dân chúng, th́ đă nghĩ tới việc biến đổi nó thành một nghi lễ kitô giáo.  Ngài vẫn cho đám rước đi theo hành tŕnh truyền thống, nhưng thay thế nghi thức tế hiến ngoại đạo bằng chặng kết thúc long trọng taị Đền thờ Thánh Phêrô (Mario Righetti, Storia Liturgica, Milano, Ancera, Q. II, tt. 227-8).

“Thánh Ambrôsiô th́ dạy là có thể bắt đầu từ huyền thoại Iphigenia mà nói về Chúa Kitô đă hy sinh mạng sống ḿnh.  (Exp. Ev. Secundum Lucam, 6).

“Trong lưu vực sông Menderès, ở Tiểu Á, Aphrodisias là thành quốc mang tên nữ thần sắc đẹp của Hy-lạp mà người La-mă đồng hóa với nữ thần Venus của họ.  Khi dân thành quốc này trở lại theo đạo Kitô, họ biến đền nữ thần Venus ở đây thành thánh đường và đổi tên thành quốc là Stauropolis, thành quốc thập tự giá.  Đó là một trong nhiều ví dụ về cách kitô hóa những yếu tố ngoại đạo. 

“Thánh Hiêrônimô th́ dùng một điển tích kinh thánh để chỉ ra căn bản cho việc hoà giải giữa hai trào lưu văn chương : trào lưu văn chương kitô giáo t́m cách tận dụng trào lưu văn chương ngoại đạo th́ giống như dân Israel đă rời Ai Cập mà c̣n đem theo các b́nh bằng vàng đă được dùng trong việc cúng tế tà thần rồi sau đó họ lại dùng vào việc tôn thờ Thiên Chúa Thật…

“Thánh Augustinô không phải đă không có lư do khi quan tâm nhiều đến việc tiếp thu văn hóa la-mă :”Từng là một nhà hùng biện thành công vượt trội trong văn chương ngoại đạo, ngài đă gặp được kitô giáo ở cuối một cuộc khủng hoảng lâu dài và thâm sâu khi phải đấu tranh dữ dội với chính ḿnh : ngài đă cảm nhận một cách xót xa nhất sự tương phản giữa hai trào lưu và càng lo lắng t́m một con đường ḥa giải.  Trong các chuyên luận triết học được viết trong thời gian lui về ở Cassiciacum, ngài tuyên dương giá trị của văn hóa ngoại đạo; ngài đi từ  ư nghĩ là không một hiểu biết nào của con người đáng coi thường cả và ngài nhận xét rằng ḷng mến mộ chân lư mà được việc học hỏi thắp sáng lên là cả một bước thắng lớn cho trí tuệ.  Trên con đường ấy và với sự hướng dẫn ấy, trí tuệ có thể dễ dàng tới gần chân lư trọn vẹn hơn.  Ngài có ư định kiên tŕ mến mộ minh triết của người xưa, v́ xác tín là t́m được trong đó nhiều điểm chung với minh triết kitô giáo.  Ngài như muốn tin rằng một đồ đệ của Plato không cách biệt lắm một môn đệ Đức Kitô và có thể, về mặt các châm ngôn đạo đức, trở thành kitô hữu paucis mutatis verbis atque sententiis (chỉ thay đổi một it câu, chữ).” (Sisto Colombo, la poesia cristiana antica, Roma, Ferrari, parte I, p. 48-49)

“Quả thế Augustinô kể lại trong Xưng thú (Ch. II, Q. VIII) là Vitorius, nhà hùng biện la-mă nổi tiếng, đă đến với đức tin sau khi nghiên cứu các triết gia trường phái Plato bởi v́ “nơi họ ít nữa tất cả đều gợi ư về Thiên Chúa và Ngôi Lời’.

“Ai cũng biết ảnh hưởng rộng lớn mà bảng chữ cái xy-rin  đă có giữa các dân tộc sla-vơ từ khi hai thánh Xy-rin và Mê-thô-đô đem tới cho họ vào thời Trung Cổ.  Nhưng người ta ít biết hơn là cũng nhờ hai vị thánh ấy mà nhiều tục lệ xla-vơ, sau khi được thanh lọc, đă được đón nhận rộng răi trong đời sống giáo đoàn ấy.

“Tại Ar-mê-ni-a, lễ nữ thần A-na-bid được cử hành thật tưng bừng.  Được xem như  “Mẹ của khiết tịnh”, “Vinh quang và cứu tinh của đất nước Ar-mê-ni-a”, “Nguồn mọi khôn ngoan, mọi sức mạnh và mọi sự sống”, nữ thần được dâng cúng những ṿng hoa hồng rực rỡ.

“Khi Kitô giáo đến đó, rơ ràng là không thể nào dẹp bỏ triệt để một lễ hội đă ăn rễ sâu  trong tâm tư t́nh cảm dân chúng như thế.  Nên người ta đă t́m cách cho nó một nội dung thiêng liêng khác, theo chỉ thị của một vị thánh.  Do đó lễ nọ đă đă được nối kết với lễ Chúa Biến h́nh thường được mừng trong nghi lễ ar-mê-ni-a vào tuần sau lễ Hiện Xuống và được giải thích như thế này : Đức Kitô, khi tỏ ḿnh trên núi Thabor, đă cho thấy tất cả vẻ đẹp huy hoàng của Ngài và cũng như một hoa hồng rực rỡ, những năm sống ẩn dật trước cuộc Biến h́nh đă giữ  thiên tính Đức Kitô như hoa c̣n trong nụ và giấu khỏi tầm mắt mọi người.

“Và có ǵ rơ rệt là tà giáo hơn việc đốt hương trước các tượng thần? Tuy nhiên việc đốt hương đă sớm được  đưa vào phụng vụ của Giáo hội, chỉ như dấu chứng tỏ ḷng tôn kính người c̣n sống và kẻ đă qua đời.” (Cardinal Costantini, Réforme des Missions au XXe siècle, ch. “De Confucius au Christ, - Stratégie culturelle de l’Eglise primitive”, Casterman 1960, pp. 225-230).

Không phải vô t́nh mà Hồng y Costantini t́m vê “chiến lược văn hóa của Giáo hội sơ khai” trong chương có tựa là “Từ Đức Khổng Phu Tử tới Đức Kitô”.  Sau nhiều năm sống ở Trung quốc ngài không khỏi chú ư đặc biệt đến Nho giáo và tự thâm tâm ngài mơ ước có ai đó trong Giáo hội ngày nay làm được với Khổng Tử  như  từ thánh Augustino tới Thánh Tôma Aquinô đă làm được với Platon và Aristote.  Nhưng cho đến bây giờ vẫn chưa có ai làm được công việc đó và tôi không nghĩ là việc đó có thể làm được.  Platon và Aristote chủ yếu là hữu thể học.  C̣n Khổng Tử chủ yếu là luân lư, đạo đức học, mà luân lư, đạo đức học này hẳn cũng như luân lư, đạo đức học Do thái dễ gặp phải lời lẽ của Đức Yêsu “Anh em đă nghe bảo người xưa…., c̣n Ta, Ta bảo anh em…” (Mt 5, 20-48). Ngay cả thánh Augustinô không hẳn đă nhận định đúng đắn như Hồng y Costantini nghĩ khi cho rằng “một đồ đệ của Plato không cách biệt lắm một môn đệ Đức Kitô và có thể, về mặt các châm ngôn đạo đức, trở thành kitô hữu” mà chỉ cần “thay đổi một it câu, chữ”.

 

Hội nhập văn hóa Việt Nam

 

Hồng y Costantini đă thấy các nỗ lực hội nhập văn hóa như thế suốt quá tŕnh truyền giáo của Giáo hội. C̣n riêng trong quá tŕnh truyền giáo ở Việt Nam th́ sao?

Ở đây chỉ xin trích dẫn Giáo sư Trần Văn Toàn từ bài ông viết để giới thiệu cuốn Tam giáo chư vọng, sách viết tay, khổ 10x15cm, dày 205 trang, được tàng trữ trong Văn khố Hội Thừa sai nước ngoài tại Paris (Archives MEP) :

“Tôi c̣n nhớ trước đây chừng nửa thế kỷ, đúng vào thời kỳ mà, sau Thế chiến thứ hai, phong trào tranh đấu chống đế quốc chủ nghĩa được lan tràn khắp nơi, có một người Ấn-độ là ông K.M. Panikkar, trong cuốn sách nói về Á châu và nền thống trị của Tây phương (Asia and Western Dominance, London 1969) đă tung ra một cái nh́n tổng quát độc đáo về cuộc gặp gỡ Đông Tây.  Theo như ông quan niệm th́ Á châu đă bị Âu châu tấn công và đàn áp cả về hai mặt : mặt vật chất th́ do sức mạnh của vũ khí và kỹ thuật,  về mặt tinh thần th́ do đạo Thiên Chúa.  Như thế có nghĩa là việc truyền bá tôn giáo, nếu kẻ này cho là chia sẻ niềm tin, th́ người khác lại cho là hành động thù địch.  Nói thế khác, với cái chủ trương “vơ đũa cả nắm”, ông cố ư gắn liền quân đội viễn chinh với các giáo sĩ đạo Thiên Chúa từ Âu châu sang, coi như là hai mặt trái phải của một cuộc tấn công duy nhất, nhằm tiêu diệt văn hóa người Á châu, làm cho họ thành ra vong bản, mất gốc. (..) Quan niệm đó đă được thành h́nh trong lúc người Ấn độ, cũng như nhiều dân tộc khác, đang trah đấu dành độc lập.  Bản dịch Pháp văn đă được người Việt ở Pháp đọc. Cũng vào thời đó có một số trí thức Việt Nam đưa ra ư kiến tương tự, cho rằng các giáo sĩ Âu châu sang Việt Nam đă dọn đường cho quân đội viễn chinh Pháp, và nếu họ đă dùng mẫu tự la-tinh để viết tiếng Việt, th́ là v́ có thâm ư làm cho người Việt mất gốc… chữ Hán, để dễ bề truyền giáo.

“Ngày nay, sau một nửa thế kỷ, những lập luận như thế đă được xét lại, căn cứ vào những sử liệu mà trước đây không mấy ai chịu khó t́m đọc. Cho nên không c̣n có thể quan niệm một cách quá đơn sơ như trước.

“Riêng về quan niệm của Panikkar, thiết tưởng có hai chỗ giải thích thiếu nguyên tắc :

Thứ nhất là, vô t́nh hay hữu ư, ông đă lẫn lộn thái độ của người theo Hồi giáo trên đất Ấn độ của ông, với thái độ của người Tây phương đứng trước châu Á nói chung.  V́ lẽ rằng : một đàng th́ người Hồi giáo không phân biệt chính trị với tôn giáo, cho nên khi xâm chiếm được nước nào th́ thường dùng các phương tiện thế tục để làm cho dân nước đó phải theo tôn giáo và văn minh Hồi giáo.  Chính v́ thế mà sau nhiều thế kỷ đô hộ đă có tới mấy trăm triệu người Ấn độ bỏ Ấn giáo và truyền thống văn hóa Ấn độ, mà theo Hồi giáo và văn hóa Hồi giáo. (Đó cũng là điều nhận xét của nhà văn V. S. Naipaul, sinh năm 1932, gốc Ấn độ, mới được giải thưởng Nobel.  Sau khi đi thăm viếng các nước Hồi giáo, từ Iran đến Nam Dương quần đảo, ông nhận xét rằng những dân tộc theo Hồi giáo ở các miền đó đều đoạn tuyệt với văn hóa của tổ tiên, và lấy A-rập làm quê hương đem lại cho họ tôn giáo và văn hóa (xem trong hai cuốn sách mới viết gần đây : Hoàng hôn rơi xuống Hồi giáo, Crépuscule sur l’Islam Tin cho đến cùng, Jusqu’au bout de la foi).  Cũng v́ thế mà khi Ấn độ dành được độc lập, th́ đă có nội chiến v́ lư do tôn giáo, hàng chục triệu người bị cưỡng bách di cư hay là bị sát hại, để rồi thành lập ra hai quốc gia thù địch nhau từ hơn nửa thế kỷ, là Ấn độ và Pakistan (và Bangladesh).  Đó là vết thương sâu đậm trong ḷng dân tộc, mà những người ái quốc như ông Panikkar không sao quên được.  Từ đó ông quan niệm rằng người Tây phương cũng như thế cả.  Nhưng thế là lầm.  V́ đàng khác th́ đạo Thiên Chúa ở Âu châu đă đặt ra nguyên tắc biệt lập tôn giáo với chính trị.  Cho nên nếu vua chúa lấy tiền nhà nước, đem quân đội đi xâm chiếm các thuộc địa, th́ các thương gia đi buôn bán bằng vốn riêng của ḿnh, và các giáo sĩ  đi truyền đạo th́ lấy tiến đóng góp của giáo dân mà tiêu dùng (về điểm này th́ các tập san của các hội truyền giáo thế kỷ XIX đều kê số tiền đóng góp rất cẩn thận).  Dĩ nhiên là trong thực tế th́ các giáo sĩ phải đi nhờ các thương thuyền hay thỉnh thoảng nhờ tầu của quân đội cho đi, cho nên co thể có đôi chút liên quan với nhau, nhưng ba hạng người đó có mục đích khác nhau và hoạt động theo nguyên tắc riêng của ḿnh.

Thứ hai là ông không phân biệt cho rơ thái độ của các giáo sĩ Tây phương trong nhừng thế kỷ trước và sau khi các cướng quốc Âu châu sang Á châu mở thuộc địa.  V́ lẽ rằng người đi mở thuộc địa thường có thái độ trịch thượng đối với dân bản xứ, c̣n người đi giảng đạo để chia sẻ niềm tin th́ thường có thiện cảm với họ.  Hơn nữa, cho dù thái độ trước sau đôi khi có khác nhau, nhưng không thể gán cho họ cái ác ư là tiêu diệt văn hóa người bản xứ.  Sự thực có lẽ tế nhị hơn.  Trong cuốn sách mới xuất bản gần đây về Chiến lược truyền giáo của giáo sĩ người Pháp ḍng Tên ở Pháp Mới và ở Trung Quốc vào thế kỷ XVII (Shenwen Li, Stratégies missionnaires des jésuites français en Nouvelle France et en Chine au XVIIe siècle, Eùd. L’Hartmattan, Les Presses de l’Université Laval (Québec, Canada), 2001, 379 pp), nhà nghiên cứu Lư Thạch Vân đă nêu ra hai thái độ của nhà truyền giáo đối với văn hóa người bản xứ.  Đối với những dân tộc bán khai không có chữ viết, như ở Bắùc Mỹ th́ trong khi giảng đạo, họ giúp vào việc khai hóa, dạy cho biết cách viết chữ và một ít kỹ thuật.  C̣n đối với những dân tộc đă có nền văn minh khá cao, th́ họ ra công học cho biết ngôn tự, biết văn hóa, để tŕnh bày niềm tin của họ cho dễ hiểu.  Chúng ta biết vào thế kỷ XVIII, các giáo sĩ đă cho người Tây phương biết khá nhiều về văn hóa Trung Quốc, cho đến nỗi có nhũng nhà văn, như Voltaire, tuy chưa bao giờ sang Á châu, cũng hào hứng đem người Tàu ra làm mẫu mực về tư tưởng duy lư.  Ở Việt Nam cũng thế.

Vào thế kỷ XVII, các gíáo sĩ Tây phương đến Đàng Trong và Đàng Ngoài giảng đạo, đă nhận thấy rằng Việt Nam là một dân tộc có văn hiến, có pháp luật, có tổ chức hành chính.  Cho nên họ học tiếng Việt và t́m hiểu phong tục người nước ta.  Ngay từ thời đó họ dă biết rằng người Việt, tuy c̣n dùng chữ Hán rất nhiều, nhưng đă lập ra chữ viết riêng, tức làchữ nôm.  Vào đầu thế kỷ, giáo sĩ người Ư, Girolamo Majorica, đă soạn bằng chữ nôm chừng bốn mươi cuốn sách đạo (nay chỉ c̣n độ một phần tư).  Trong khi đó th́ sách vở của tam giáo, Nho. Đạo. Thích, đều là chữ Hán cả, chứ không dịch ra tiếng ta.  Vào koảng giữa thế kỷ th́ sách Phép giảng tám ngày bằng tiếng La-tinh có chữ quốc ngữ đối chiếu (1651).  Có mầy vị khác, như Borri, Marini, Tissanier, đă viết sách lịch sử và phong tục Việt Nam cho người Âu châu đọc.  Những công tŕnh như thế c̣n tiếp tục cho đến thế kỷ XX với những học già như  giáo sĩ Léopold Cadière.

“Có một điều chứng tỏ rằng các giáo sĩ ngoại quốc đă để ư đến vốn liếng văn hóa nước ta đó là việc soạn tự vị.  Thực tế, trong khi người Tàu đă ra công soạn ra tự vị Khang hi, th́ ở Việt Nam, từ nhà vua cho đến các bậc sĩ phu, chưa thấy ai làm tự vị Việt Nam cả.  Ấy thế mà cuối thế kỷ XVII, giám mục Pierre Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) đă cùng với một số tu sĩ người Việt biên soạn ra tự vị Việt Nam (cả chữ nôm lẫn chữ quốc ngữ) và La-tinh.  Coi tiếng Việt, chữ Việt là quan trọng, là quốc hồn, quốc túy, như thế cũng là khá táo bạo, nhất là trong khi sĩ phu nước ta coi thường nó (nôm na là cha mách qué), không dùng nó để viết những điều quan trọng.

“C̣n các sách đạo, như sách giáo lư, sách kinh, v.v. th́ các giáo sĩ, tuy đă có đem vào Việt Nam mấy cuốn sách bằng chữ Hán, nhưng vẫn soạn và in bằng chữ quốc ngữ, và bằng chữ nôm cho đến đầu thế kỷ XX.  V́ thế cho nên người theo đạo Thiên Chúa không đến nỗi mất gốc, như đă có người hiểu ngầm hay hiểu lầm như thế.  C̣n về phong tục th́ chỉ bỏ đi một số ít, v́ cho rằng đó là mê tín.  Như thế cũng là chuyện thường, v́ có nhiều phong tục trong dân gian cũng bị nhà Nho và triều đ́nh coi là mê tín.  Cho nên người theo đạo Thiên Chúa đại khái vẫn giữ thuần phong mỹ tục như người đồng bào bên lương.”

Trong một bài khác, “Tự vị Taberd và di sản văn hóa Việt Nam”, Gs Trần Văn Toàn c̣n lư u ư về việc các tự vị Việt Nam đầu tiên đều đă được viết bằng tiếng la-tinh : “Cũng nên biết rằng vào mươi thế kỷ trước đây, tiếng latinh dùng trong giáo hội công giáo, đồng thời cũng là ngôn ngữ của giới học giả Âu châu. (…)  Các giáo sĩ, cũng như các học giả thời đó, ngoài tiếng nói nước ḿnh c̣n biết tiếng latinh nữa. Cho nên khi viết sách và tự vị bằng tiếng la-tinh, không phải là chỉ để cho người công giáo mà c̣n là để cho giới học giả Âu châu học biết ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam nữa.  Có một điều mà  có lẽ chưa ai để ư. Là những người như A. de Rhodes, P. Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) hay Taberd, là những người nói tiếng Pháp, đều đă soạn tự vị Việt – La-tinh, chứ không soạn tự vị Việt – Pháp.  Lư do thật là đơn giản : họ là người đi giảng đạo Thiên Chúa, đi chia sẻ niềm tin công giáo, chứ không phải là người đi truyền bá văn hóa, chính trị và học thuật nước Pháp.  Về sau này, khi người Pháp can thiệp vào Việt Nam và đặt nền thống trị của họ trên đất nước ta, th́ lúc đó mới thấy xuất hiện nhiều tự vị Việt – Pháp và Pháp – Việt.”

Nói về sự hội nhập văn hoá của các giáo sĩ đến tữ nước ngoài, Gs Trần Văn Toàn chỉ mới kể đến Đức cha Bá Đa Lộc, cha Cadière.  Ông chưa nói đến những Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Kư mà ngày nay trừ vài tiếng nói cố chấp và lạc điệu, ai cũng phải nh́n nhận công lao đóng góp cho văn hóa Việt Nam.  Như  trong buổi tọa đàm về Trương Vĩnh Kư đă được tổ chức tại Tp HCM. 18 bài tham luận về Trương Vĩnh Kư đă được tŕnh bày trong buổi tọa đàm rồi được xuất bản trong cuốn Từ thế kỷ 21 nh́n về Trương Vĩnh Kư th́ đều đánh giá TVK một cách rất tích cực, chỉ trừ có mỗi một bài (của Nguyễn Đắc Xuân) hằn học bôi bác Trương Vĩnh Kư. Như thế Lịch sử vẫn c̣n đó và đă trả lại lẽ công b́nh cho Trương Vĩnh Kư.

Hằn học xét cho cùng vẫn là hằn học đối với người công giáo VN.  Cái năo trạng cố chấp như của các ông văn thân đă khiến cụ Phan Bội Châu phải than về “thời đại chưa khai hóa”.

…..

 

Vỉệc các nhà truyền giáo ngay từ đầu đă giảng dạy bằng tiếng Việt, cho giáo dân đọc kinh tiếng Việt, ghi lại tất cả bằng chữ nôm rồi bằng chữ quốc ngữ c̣n làm chứng là Giáo hội đă thành h́nh ở Việt Nam một cách hoàn toàn phù hợp với Tin Mừng vốn phải được ưu tiên rao giảng cho người nghèo kho.ù Như Jean Raoul Clémentin trong bài “Le Comportement des institutions catholiques auViêtnam” đăng trên Les Temps modernes năm 1953, đă từng nhận xét : “Các thừa sai lại đi với một thứ quần chúng nhất định mà ngày nay chúng ta sẽ kể là “từng lớp vô sản mạt hạng”.  Giới sĩ phu cũng như đa số lớn lao người dân nội tịch tức là thành phần có của ở các làng xă, đều không theo đạo công giáo, nhưng những người bỏ làng bỏ xứ, những người làm thuê trong nông nghiệp vẫn sinh sống trong một t́nh trạng gần như nô lệ, những người ấy ham đến nghe các nhà truyền giáo.  Bởi v́ ngoài chuyện ông này thường sẵn quà phân phát cho họ, ông truyền giảng cho những kẻ trắng tay ấy một chủ nghĩa b́nh đẳng mang chất cách mạng đối với Đông Á châu thế kỷ XVII và XVIII như đă có thể mang chất cách mạng dưới thời Diocletianus.  Người ta hiểu được những phản ứng của triều đ́nh, của giới sĩ phu, từng lớp cốt cán đó của quốc gia và phản ứng của các giai cấp có của.”  Khinh miệt và diệt trừ.

Các nhà truyền giáo đă hội nhập vào từng lớp vôsản mạt hạng ấy mà không ngại “nôm na mách qué’ như họ.  Cũng nhờ vậy mà từ trước tới nay, h́nh như người công giáo ở Việt nam kinh đọc th́ nhiều nhưng duy nhất chỉ có một kinh bằng tiếng Hán gọi là “Kinh cầu chữ”.  Kinh cầu chữ chẳng ai hiểu mà cũng chẳng mấy khi được đọc trong nhà thờ và từ lâu rồi đă biến hẳn khỏi các sách kinh.

                                                                                                                                  

An Vân