|
Đại Học Đà Lạt Trong Sương Mù Kỷ Niệm
|
Phạm Văn Lưu
|
Mỗi lần tháng Tư về, kư ức về Viện Đại Học Đà Lạt hiện ra trong tâm trí tôi thật rơ nét, như một dấu ấn không thể phai mờ được. Có lẽ những kỷ niệm về nơi tôi đă theo học, làm việc và giảng dậy, sẽ c̣n là một ám ảnh suốt trong những ngày c̣n lại của đời tôi. Hồi ức này là những ǵ hết sức riêng tư, cá biệt và thầm kín liên quan đến những tâm t́nh của những người lănh đạo, phương cách làm việc và chương tŕnh phát triển cùng những ngày cuối cùng đầy khó khăn của Viện mà ít người biết đến. Nhiều lần tôi muốn giấu kín và không muốn ghi lại, sợ làm phật ư những người trong cuộc. Nhưng rồi nghĩ đây cũng là một thứ gia sản tinh thần của Viện, không biết gọi như vậy có đúng không? Tôi có bổn phận phải viết lại để những thành viên trong đại gia đ́nh Thụ Nhân biết rơ hơn về gia phả của ngôi trường đă đào tạo họ nên người. Những ư nghĩ đó đă thôi thúc tôicầm bút ghi lại những sự việc này. Tôi sợ mai này sẽ xóa nḥa tất cả, nó sẽ vượt thoát khỏi trí nhớ ngày càng già nua của tôi. Bài này không được viết như một tài liệu nghiên cứu, nhưng được ghi lại như những thoáng kỷ niệm ở nơi trường cũ, bất chợt hiện về trong tâm trí tôi, lan man như làn sương mù phủ dầy trên núi đồi Đà Lạt. Không thứ tự, không lớp lang, không bố cục, nhưng đó lại là những ǵ rất thật, mà người viết từng chứng kiến hay trực tiếp tham dự vào, với tất cả sự hăng say nồng nhiệt của tuổi trẻ, nhưng đôi khi cũng trộn lẫn với những giọt nước mắt chua xót, u hoài. Do đó tôi xin cáo lỗi trước về h́nh thức tŕnh bày luộm thuộm cũng như nội dung của bài viết có thể gây nên những ngộ nhận hay bất như ư cho một vài người nào đó. Từ ư nghĩ này, rất mong được sự thông cảm của quí bạn đọc.
Danh Chính Ngôn Thuận
Có một sự nhầm lẫn tôi thấy cần phải minh xác trước khi bắt đầu bài viết này. Thông thường, một số không ít người cứ cho rằng ai dạy ở đại học cũng là giáo sư. Nhưng thực tế không phải như vậy. Có người dạy ở đại học suốt đời cũng không bao giờ lên được chức giáo sư. Trong giới đại học, không ai có thể chấp nhận sự sai lầm về danh xưng như vậy. Do đó trong bài viết này, tôi chỉ gọi là giáo sư những ai đúng theo qui chế và chức vụ mà viện đại học chính thức phong cho họ, c̣n các nhân viên giảng huấn khác, tôi chỉ gọi họ bằng Ông mà thôi. Tôi thiển nghĩ, đây là những đ̣i hỏi trí thức tối thiểu của những người viết về vấn đề đại học
Cuộc Cách Mạnh Dở Dang
Tôi c̣n nhớ vào năm 1973 :
*LM. GS. Nguyễn Văn Đời làm Khoa Trưởng và LM GS. Nguyễn Hữu Toản làm Phó Khoa Trưởng Đại Học Khoa Học; *Bên Sư Phạm, LM. GS. Vũ Minh Thái là Khoa Trưởng và LM. GS. Mai Văn Hùng là Phó Khoa Trưởng; *Bên Đại Học Văn Khoa, GS. Nguyễn Khắc Dương và GS. Nguyễn Hồng Giáp đảm nhận chức vụ Khoa Trưởng và Phó Khoa Trưởng.
Những vị này, dưới sự lănh đạo của cha Vũ Minh Thái, với sự hỗ trợ của Đức Giám Mục Nguyễn Ngọc Quang, Địa Phận Cần Thơ và Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, Địa Phận Nha Trang, toan tính làm một cuộc cách mạng để thay đổi oàn bộ cơ cấu của Viện.
Để thực hiện cuộc cải tổ này, từ cuối năm 1973, cha Thái đă đi Hoa Kỳ, Âu Châu, và một số quốc gia Á Châu như Phi Luật Tân, Đài Loan, Nam Hàn trong hơn 6 tháng. Tại Hoa Kỳ, cha Thái đă vận động được hơn 100 giáo phận và các đại học Công giáo, đặc biệt là đại học Công giáo Georgetown ở Hoa Thịnh Đốn và Fordham ở Nữu Ước, là nơi cha Thái từng theo học ở đấy, xin họ cấp học bổng cho sinh viên và giúp đỡ về tài chánh để cải tổ Viện Đại Học Đà Lạt. Trong khi đó tại Âu châu, Đức Tổng Giám Mục Ngô Đ́nh Thục cũng đă vận động được một số các đại học Công giáo hỗ trợ cho công tŕnh cải tiến chương tŕnh giảng dậy và nâng cấp cơ sở vật chất của Viện. Toàn bộ chương tŕnh cải cách này dự trù lên đến hơn 6 tỷ bạc tiền Việt Nam thời giá lúc đó. Để thực hiện kế hoạch cải tổ đó, cha Thái đă nhờ Cơ Quan Viện Trợ Văn Hóa Á Châu (Asia Foundation), nghiên cứu và hoạch định rất chi tiết về chương tŕnh giảng dạy tại các phân khoa và công tŕnh tái xây cất các cơ sở vật chất của Viện. Và cũng theo sự giới thiệu của cơ quan này, sau khi rời Hoa Kỳ, cha Thái đă ghé Hán Thành, để gặp hai kiến trúc sư ở đó, yêu cầu họ giúp thực hiện sơ đồ về toàn bộ cơ sở vật chất cũ và mới của Viện. Sơ đồ này sau đó đă được đắp thành mô h́nh và được trưng bày ở tầng trệt, gần cầu thang bên phải của Ṭa Nhà Văn Pḥng Viện Trưởng, cơ sở Đà Lạt. Thực sự, người viết được cha Viện Trưởng Nguyễn Văn Lập cho biết, không phải đợi đến năm 1974, khi cha Thái yêu cầu, Cơ Quan Văn Hóa Á Châu mới thực hiện dự án nghiên cứu này. Trong thực tế, chương tŕnh này đă được Cơ Quan Văn Hóa Á Châu đề nghị với cha Lập từ năm 1968. Trước hết, họ xin phép được khảo sát và nghiên cứu về phương cách điều hành cũng như chương tŕnh giảng dạy của Viện. Sau đó họ đề nghị và hoạch định chương tŕnh cải cách về phương diện quản trị, điều hợp tổ chức và sau hết là cải tiến chương tŕnh giảng dạy cho sinh viên. Nhưng những đề nghị này đă không đươc cha Lập chấp nhận.
Ví dụ:
* Về phương diện tổ chức, việc mời các giáo sư thỉnh giảng từ Sài G̣n lên Đà Lạt giảng day, mỗi tháng Viện phải trả 3, 5 triệu đồng. Họ đề nghị sẽ biếu không cho Viện một chiếc phi cơ Cessna nhỏ, dể chuyên chở giáo sư từ Sài G̣n lên Đà Lạt và ngược lại, với điều kiện cho họ được đặt một ban cố vấn bên cạnh ngài. Cha Lập trả lời :
“Tôi nghĩ khi những vị thượng cấp của tôi đề cử cá nhân tôi vào chức vụ này, các ngài đă tin rằng tôi có đủ kiến thức và năng lực để hoàn thành trách nhiệm đó, mà không cần phải có một ban cố vấn bên cạnh. V́ vậy, tôi rất tiếc phải nói rằng, để khỏi phụ ḷng tin của thượng cấp của tôi, tôi xin được từ chối đề nghị này.”
* Về việc ấn hành các bài vở để phát cho sinh viên học tập như SIVIDA lúc đó, Cơ Quan Văn Hóa Á Châu đề nghị, để giải quyết việc này cũng như giúp việc xuất bản các sách giáo khoa cũng như một tạp chí nghiên cứu chính thức của Viện, họ sẽ trang bị cho Viện một nhà máy in tối tân nhất, mà ngay cả những cơ sở in ấn lớn nhất ở Sài G̣n bấy giờ cũng chưa có. ChaViện Trưởng Lập cũng từ chối v́ cho rằng, việc ấn hành các giảng khóa cho các sinh viên không nhiều lắm, C̣n xuất bản sách, báo cũng vậy, Viện không có nhu cầu cao. Do đó mỗi lần xuất bản, đưa về Sài G̣n, thuê in c̣n rẻ hơn. V́ chi phí bảo tŕ nhà máy, trả lương cho nhân viên quản lư và các công nhân kỹ thuật hằng năm sẽ vượt xa số tiền thuê in.
*Sau hết là chương tŕnh giảng dạy, Cơ Quan Văn Hóa Á Châu đề nghị Viện nên hủy bỏ những chứng chỉ nào có ít hơn 10 sinh viên theo học, để tránh t́nh trạng lỗ lă cho Viện. Cha Lập sau khi xem xét lại các chứng chỉ theo tiêu chuẩn này, thấy rằng tất cả những chứng chỉ này đều là những chứng chỉ Pháp Văn. V́ thế cha Lập cũng từ chối với lư do Viện Đại Học là một cơ sở giáo dục và phát triển văn hóa, chứ không phải thuần túy là một cơ sở kinh doanh, nên không thể để khía cạnh tài chánh quyết định mọi mục tiêu của Viện.
Đó là những điểm chính trong bản phúc tŕnh vào năm 1968 do Cơ Quan Văn Hóa Á Châu thực hiện. Nhưng đến năm 1974, bản phúc tŕnh này đă được sửa đổi gần như toàn diện, không những về chương tŕnh giảng huấn mà c̣n cả về phương diện thiết kế, tân trang, và kiến trúc các cơ sở vật chất cũ cũng như mới, cho một cuộc cải cách toàn diện và hết sức qui mô của Viện Đại Học Đà lạt.
Dự Án Xây Cất
Nhân dịp Đức Cha Nguyễn Ngọc Quang, Chưởng Ấn của Viện Đại Học Đà Lạt từ Cần Thơ lên Đà Lạt, dự lễ phát bằng cho sinh viên vào ngày 31/12/1974, nhóm cải cách do cha Thái lănh đạo, đă họp kín với Đức Cha Quang. Điều đang ghi nhận là cha Viện Trưởng Lê Văn Lư không hiện diện trong buổi họp này, có lẽ cha Lư nghĩ cha sẽ chấm dứt nhiệm kỳ vào cuối năm 1975, nên cha có ư để cho cha Thái hoàn toàn tự do điều động công cuộc cải tổ. Theo quyết định của phiên họp, vào khoảng tháng 6/1975, cha Thái sẽ hướng dẫn một phái đoàn đi hoa Kỳ và các quốc gia Âu Châu, để nhận những ngân khoản viện trợ mà các cơ quan, các viện đại học và các giáo phận đă hứa hiến tặng trước đây, để bắt đầu các dự án xây cất và cải tổ chương tŕnh giáo dục. Thật vậy, về cơ cấu tổ chức, Viện sẽ không phát triển thêm về số lượng, nhưng cải tiến về phẩm chất, nghĩa là Viện sẽ duy tŕ sĩ số sinh viên tối đa là khoảng 10.000 (mười ngàn) người, như mô h́nh tổ chức của đại học Harvard thời đó. Với sự hỗ trợ của một số đại học Hoa Kỳ và Âu Châu, Viện sẽ tiếp nhận một số các giáo sư ngoại quốc từ các nơi này đến giảng dạy. Đồng thời Viện sẽ tuyển thêm một số nhân viên giảng huấn và gởi họ đi tu nghiệp tại các đại học đó, để sau này Viện có một ban giảng huấn có đầy đủ khả năng và có uy tín nhằm hoạch định một chương tŕnh giảng day thích nghi với đà tiến của khoa học kỹ thuật hiện đại. Về cơ sở Viện sẽ xây lại toàn bộ cơ sở. Trước hết là xây một thư viện mới, trong đó có thể chứa đến 2.000 sinh viên tham khảo cùng một lúc và trên lầu sẽ có một pḥng để sinh viên cao học và tiến sĩ đệ tŕnh các luận án, có một bục cao dành cho ban giáo khảo, bên dưới có chỗ cho 250 sinh viên tham dự các buổi bảo vệ luận án này. Tất cả đồ án xây dựng đều do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đảm trách. Riêng đồ án thư viện với đầy đủ chi tiết (working plan) này, KTS. Ngô Viết Thụ đă hoàn tất vào tháng tư năm 1975 và chính người viết đă tŕnh ngân phiếu 500 ngàn đồng cho cha Viện Trưởng kư, trước khi Sài G̣n sụp đổ vào cuối tháng 4/1975, để trả tiền cho văn pḥng kiến trúc sư v́ biết rằng Viện sẽ không bao giờ sử dụng họa đồ ấy nữa. Tưởng cũng nên nhắc lại ở dây, nếu cha Viện Trưởng Nguyễn Văn Lập có nhiều công lao trong việc khai sang và gầy dựng Viện Đại Học trong giai đoạn đầu thành lập th́ cha Vũ Minh Thái là người ađ4 góp phần rất lớn trong việc kiện toàn guồng máy điều hành và cơ cấu tổ chức của Viện.
Thật vậy, từ năm 1972, cha Thái đă thực hiện được các công tŕnh như sau:
* Hoàn thành qui chế cho các nhân viên của Viện.
* Ấn định h́nh thức, điều kiện và thủ tục để các sinh viên nhận lănh văn bằng tốt nghiệp.
* Chuyển đổi chương tŕnh học tập theo từng chứng chỉ của ban cử nhân theo kiểu cũ của Pháp tại Đại Học Văn Khoa và Đại Học Khoa Học, sang hệ thống tín chỉ (credit) được phân chia đồng đều trong chương tŕnh học bốn năm để lấy văn bằng cử nhân theo lối giáo dục mới của Hoa Kỳ.
* Vận động với Bộ Quốc Gia Giáo Dục mở thêm Ban Sư Phạm Trung Học Sắc Tộc dành cho vùng CaoNguyên Trung Phần.
Và sau hết là nghiên cứu để thực hiện một chương tŕnh cải cách qui mô và toàn diện như vừa tŕnh bày ở trên.
Nhưng dự án cải tổ này đă ngưng lại, khi toàn bộ Hội Đồng Viện di tản về Sài G̣n vào đầu tháng 4/1975. Khi về Sài G̣n, các cha đă yêu cầu các nhân viên giảng huấn đến làm việc tại văn pḥng cao học Chính Trị Kinh Doanh, ở lầu 2 thương xá Tax, và yêu cầu tất cả các sinh viên đến đăng kư tại văn pḥng này. Sau hai tuần đăng kư, , tổng số sinh viên ghi tên đă lên tới 1.000 người. Căn cứ trên danh sách này, cha Vũ Minh Thái đă xin Asia Foundation cho được một ngân khoản. Sau đó, cha và văn pḥng sinh viên vụ đă cấp phát cho mỗi sinh viên10 ngàn đồng để sinh viên tạm giải quyết các khó khăn khi phải di tản về Sài G̣n.
Sau Ngày Di Tản Về Sài G̣n
Khi bắt đầu làm việc lại tại Sài G̣n, Hội Đồng Viện đă được cải tổ lại như sau: Viện Trưởng: LM. GS. Lê Văn Lư Phó Viện Trưởng: LM. GS. Nguyễn Văn Đời
Tổng Thư Kư: LM. Lê Công Chuyển
Chánh Văn Pḥng Viện Trưởng : Ô. Phạm Văn Lưu Khoa Trưởng Văn Khoa: LM. GS. Thiện Cẩm Khoa Trưởng Sư Phạm: LM. GS. Vũ Minh Thái Phó Khoa Trưởng Sư Phạm: LM. GS. Mai Văn Hùng Khoa Trưởng Khoa Học: LM. GS. Nguyễn Văn Đời Phó Khoa Trưởng Khoa Học: LM. GS. Nguyễn Hữu Toản Khoa Trưởng CTKD: GS. Phó Bá Long Phó Khoa Trưởng CTKD: Ô. Tạ Tất Thắng Tổng Thư Kư Ban Cao Học CTKD: Ô. Đỗ Văn Thành Sinh Viên Vụ:GS. Ngô Đ́nh Long.
Ngay sau khi Hội Đồng Viện được cải tổ, các cha, đặc biệt là cha Thái, đă gấp rút thương lượng để mua lại khách sạn Imperial, trên đường Phạm Ngũ Lăo, Quận I, Sài Goàn để tăng cường cho cơ sở của Viện. Khách sạn này gồm 150 pḥng với giá 150 triệu và người chủ khách sạn chỉ cần Viện ứng trước 1/3 số tiền để ông xuất ngoại, phần c̣n lại có thể trả sau ở ngoại quốc. Các cha đă dự định sử sang cơ sở này thành các giảng đường và văn pḥng các phận khoa để tiếp tục hoạt động. Kế hoạch này được thiết kế và hoạch định một các khẩn cấp, nhằm mục đích giúp sinh viên cọ thể hoàn tất đúng thời hạn chương tŕnh của niên khóa 1974-1975. Nhưng rồi ngày 30/4, xảy ra quá động ngột, ngoài dự tính của mọi người. Dự án này cũng đành bỏ dở.
Ghi chú của BBT: Sở dĩ có việc cơ cấu điều hành của Viện chuyển về Sài G̣n và có những thay đổi khẩn cấp để thích ứng với t́nh thế mới v́ Đà Lạt rơi vào tay CSBV sớm hơn Sài G̣n và cho đến khi ấy vẫn không h́nh dung được cả nước sẽ mất vào tay CS sớm như thế.
Đi Hay Ở Lại
Những ngày cuối tháng 4.1975, vấn đề đi hay ở là một mối ưu tư hang đầu cho những người dân cả. Miền Nam nói chung và cho nhân viên của Viện Đại Học Đà Lạt nói riêng. Lúc đó trên cương vị là Chánh Văn Pḥng Viện Trưởng mỗi buổi chiều, tôi thường điện thoại để nói chuyện với cha Lư về những công việc của Viện trong ngày. Lúc đó, cha Lư trú ngụ và làm việc trên lầu 2, cơ sớ phía sau Nhà Sách Xuân Thu và Ciné Miné Tự Do trên đường Tự Do, chứ cha không đến làm việc ở Van Pḥng Viện ở lầu 2, Thương xá Tax như các cha khác. Trong thời gian này, có hai điều tôi nghĩ là tôi nghĩ đáng ghi ở đây là, trước đó cha Lư đă liên lạc với Đức Tổng Giám Mục thảo luận về việc đi hay ở của toàn thể các vị trong Hội Đồng Viện và có lẽ Đức Cha B́nh cũng có liên lạc với Thượng Nghị Sĩ Nguyễn Văn Huyền để tham khảo về t́nh h́nh chính trị, nhằm quyết định nên đi hay ở lại. Do đó một hôm văn pḥng tôi nhận đưọcđiện thoại của Thượng Nghị Sĩ Huyền, muốn nói chuyện với cha Lư, nhưng tôi nói cha Lư hiện không có ở văn pḥng và nếu ông không thấy trở ngại, ông có thể nói chuyện với tôi và tôi sẽ báo lại cho cha Viện Trưởng ngay khi có thể. Ông bảo tôi theo yêu cầu của Đức Tổng B́nh, Ông báo cho Viện Đại Học biết việc quyết định đi hay ở hoàn toàn thuộc về cha Viện trưởng và các vị trong Hội Đồng Viện và ông không có ư kiến. Tuy nhiên, nếu hỏi về đời sống chính trị, ông nghĩ rằng đi hay ở không quan trọng lắm, v́ t́nh thế không đến nỗi bi đát. V́ với sự bảo đảm của quốc tế, Miền Nam Việt Nam sẽ là một quốc gia trung lập ít nhất trong một vài năm, để những người muốn ra đi, có đủ th́ giờ quyết định. Chiều hôm đó, tôi báo lại với cha Viện Trưởng (tôi không nhớ rơ ngày nào). Trong dịp này cha Viện trưởng cũng cho tôi biết thêm rằng, đầu tiên Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn B́nh không đồng ư để Hội Đồng Viện của một Viện Đại Học Công Giáo chính thức di tản, v́ làm như thế, Giáo hội sau này sẽ mất uy tín và khó làm việc với chính quyền mới, nếu có một sự thay đổi thể chế chính trị tại Miền Nam sau này.. Nhưng sau đó, có lẽ với sự khuyến khích của Cơ Quan Viện Trợ Công Giáo Hoa Kỳ cho rằng, trong Hội Đồng Viện gồm những người đă học tập và làm việc lâu năm tại các quốc gia tây phương như cha Thái, cha Đời, cha Toản và Thầy Phó Bá Long đều ở Mỹ nhiều năm, cha Lư, cha Hùng, cha Cẩm, và GS. Giáp cũng nhiều năm sống tại Pháp, tính mạng của các vị nầy chắc hẳn sẽ bị nguy hiểm. nếu một chính quyền Cộng Sản được h́nh thành tại Miền Nam. Từ ư nghĩ đó, Đức Tổng Giám Mục đă báo cho cha Lư biết các vị trong Hội Đồng Viện có thể Đi Hay Ở Lại tùy theo quyết định lương tâm của mỗi người. Nhưng sau cùng, có thể thấy t́nh h́nh chính trị và quân sự diễn biến quá tệ hại cho Miền Nam, nên Đức Cha B́nh, với tư cách là Chủ Tịch Hội Đ̣ng Quản Trị Viện Đại Học Đà Lạt, đă đi đến một quyết định mạnh mẽ hơn, khuyến cáo toàn thể Hội Đồng Viện nên di tản, ví Đức Cha không muốn gánh chịu những trách nhiệm lương tâm về những hiểm nguy có thể xảy đến cho các vị trong Hội Đồng Viện một khi chính quyền Miền Nam sụp đổ. V́ khuyến cáo này của Đức Cha B́nh, cha Viện trưởng Lư đă yêu cầu cha Đời, Phó Viện trưởng triệu tập Hội Đồng Viện họp tại Thư viện của Ban Cao Học CTKD, trên lầu 2, Thương xá Tax. Tôi không hiện diện trong buổi họp mặt đó nhưng sau này cha đời nói lại với tôi là Thầy Phó Bá Long đề nghị Hội Đồng Viện nên ở lại để tiếp tục giúp đỡ sinh viên trong thời buổi hỗn loạn, họ đă từ tứ phương chạy về Sài G̣n tá túc. Do đó Hội Đồng Viện chính thức quyết định ở lại nhưng mỗi cá nhân có quyền quyết định Đi Hay Ở tùy theo lương tâm và hoàn cảnh của ḿnh. Mặc dù, lúc đó Cơ Quan Viện Trợ Công Giáo Hoa Kỳ sẵn sàng giúp đỡ phương tiện để đưa các cha rời khỏi Việt Nam. Không biết kế hoạch này đă được dự trù thực hiện như thế nào, nhưng ít ra cha Lư, cha Đời và cha Hùng đă nói với tôi như vậy. Sau phiên họp này, cha Đời mời tôi vào văn pḥng riêng của Cha. Cha Đời buồn rầu nói với tôi, với một giọng khá nghiêm trọng mà tôi chưa bao giờ thấy, đại ư : “Bây giờ Hội Đồng Viện quyết định ở lai, v́ t́nh h́nh Việt Nam quá xấu, không thể bỏ rơi sinh viên trong hoàn cảnh khốn khó này… Các cha một thân một ḿnh, nếu có chuyện ǵ xảy ra, cũng không sao cả, con c̣n có gia đ́nh, và đặc biệt là con nhỏ. Biến động chính trị chắc sẽ xảy ra trong những ngày sắp đến, hậu quả không thể nào lường trước được. Con cũng biết rơ, trong văn pḥng Viện, con là người hiểu rơ t́nh h́nh chính trị Việt Nam hơn các cha, lúc này con cũng biết thực sự cha cần đến con. Nhưng không phải v́ thế mà các cha muốn con ở lại để con và gia đ́nh con phải chịu những hiểm nguy về sau. Cha đă tŕnh với cha Viện Trưởng rồi, là để con ra đi, cha sẽ t́m người khác thay thế. Nếu con ngại ra đi trong lúc này mà về sau, nếu t́nh h́nh yên tĩnh trở lại, con sẽ khó làm việc v́ bị sinh viên lên án là đă trốn chạy trong lúc hiểm nguy. V́ thế cha và cha Viện trưởng cũng trù tính rồi, sẽ làm giấy cho con đi tu nghiệp ở ngoại quốc trong ṿng 6 tháng, để sau này hoàn cảnh thay đổi, con có thể trở về mà không ai có thể trách cứ được con.”
Tôi suy nghĩ một lúc và trả lời với cha đại ư như sau :
“Như cha biết đó, các cha ở ngoại quốc quá lâu, không hiểu rơ t́nh h́nh chính trị Việt Nam như con, đặc biệt trong lúc này, t́nh h́nh biến chuyển quá nhanh chóng và đày nguy hiểm. Nay v́ trách nhiệm với sinh viên, các cha chấp nhận ở lại. C̣n con v́ sự tự trọng và trách nhiệm tối thiểu, con cũng không thể trốn chạy được trong khi để thượng cấp, thuộc cấp và sinh viên ở lại gánh chịu hiểm nguy, tai biến của thời cuộc. Cha cho con được quyết định ở lại để chia sẻ trách nhiệm và những khốn khó chắc chắn sẽ xảy ra cho các cha và tập thể sinh viên của Viện.”
Sau đó cha Đời có vẻ suy nghĩ lung lắm, rồi nói với tôi :
“Nếu con quyết định như vậy, về phương diện t́nh cảm, cha rất e ngại cho gia đ́nh con. Nhưng trên b́nh diện công việc của Viện cha cảm thấy yên tâm hơn để đối phó với những chuyển biến của t́nh thế trong những ngày tới.”
Và chiều hôm ấy, khi tôi gọi điện thoại báo cáo t́nh h́nh của Viện cho cha Viện trưởng như thường lệ, cha Viện trưởng cũng đề nghị những điều mà cha Đời đă nói với tôi. Tôi cũng lặp lại quyết định mà tôi đă tŕnh bày với cha Đời. Cha Viện trưởng cảm ơn tôi đă chấp nhận ở lại cộng tác với Viện trong những giờ phút hiểm nguy nhất. Rồi cha nói đại ư: Chính sách của Viện cũng như trongthâm tâm cha, cha không muốn những người đă hết ḷng làm việc cho Viện phải chịu thiệt tḥi trong những hoàn cảnh khó khăn… Nhưng bây gờ tôi đă tự nguyện ở lại làm việc, thật sự cha cảm thấy hài ḷng và an tâm hơn bao giờ hết.
Một Quyết Định Sinh Tử
Khi nói đến quyết định Đi hay Ở Lại vào những ngày cuối của Sài G̣n vào tháng 4.1975, tôi không thể không nhắc đến LS. Trần Văn Tuyên, một giáo sư thỉnh giảng của Viện về môn ”Các Vấn Đề Chính Trị” Trong những ngày đó tôi nhận được điện thoại của LS. Tuyên, báo tôi thuyết phục các cha nên ở lại. Lúc bấy giờ, tôi thiển nghĩ, đây là vấn đề hết sức quan trọng, tôi chỉ im lặng nghe LS. Tuyên nói, tôi không có ư kiến và chẳng bao giờ tôi tŕnh ư kiến này cho các cha cả. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng LS. Tuyên năm 1945-1946 đă có kinh nghiệm liên hiệp với chính phủ Hồ Chí Minh và bị phản bội, phải bỏ trốn sang Trung Hoa để thoát chết. Tháng 4-1975, cũng nghĩ rằng với những bảo đảm của quốc tế, Miền Nam sẽ có ḥa b́nh và trung lập. LS. Tuyên lúc đó là dân biểu của Hạ Nghị Viện, là một trong những người tích cực nhất thuyết phục Tổng thống Trần Văn Hương trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh để Miền Nam có ḥa b́nh, để cho mọi người VN có cơ hội xây dựng đất nước. Nhưng khi Cộng sản vào Sài G̣n, cơ hội để góp phần xây dựng Tổ quốc chỉ dành cho những người miền Bắc, c̣n những chính khác Miền Nam như LS. Tuyên phải đi tŕnh diện học tập cải tạo, nói khác đi đó là việc bắt người cầm tù khổ sai mà không cần xét xử. Điều cay đắng đó đă được LS. Tuyên phát biểu trong buổi thu hoạch trong chương tŕnh học tập như sau :
“Tôi có một tội lớn đối với Tổ quốc, không thể tha thứ đươc, , đó là không chống Cộng đến cùng, để đất nước rơi vào tay Cộng sản và dân chúng phải khốn cực và điêu linh như hiện nay.”
LS. Tuyên chỉ nói được tới đó. Người cán bộ quản giáo quát to: “Anh phản động, ngồi xuống”. Và không cho LS. Nói thêm câu nào nữa. Một thời gian sau, LS. Tuyên bị đưa ra Bắc, bị đứt gân máu nhưng không được đưa đi cấp cứu và đă chết vào ngày 16/10/1976. Người kế tiếp tôi muốn nói là ông Vơ Văn Hải. Trước năm 1963, ông là Tổng Thư Kư Văn Pḥng Đặc Biệt của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và sau đó ông làm Tổng Giám Đốc Đại Á Ngân Hàng tại Sài G̣n. Trong thời gian này, ông cũng là giáo sưthỉnh giảng của Trường CTKD. Ông đă có kinh nghiệm đi tù với Cộng sản khi theo ong Ngô Đ́nh Diệm từ Sài G̣n ra Huế vào 1945. Sau đó ông xuất ngoại du học ở Geneva và đỗ cao học chính trị học tại đây. Trở về nước 1954, phục vụ trong chính quyền của Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Theo kinh nghiệm của tôi khi tiếp xúc với ông Hải, tôi nghĩ rằng ông không phải là người sâu sắc về chính trị, nhưng ít ra sau nhiều năm làm việc với ông Diệm và ông Nhu, tôi nghĩ ông Hải cũng có ít nhiều kinh nghiệm về Cộng sản. V́ thế, vào những ngày cuối tháng 4.1975, khi gặp ông Hải, tôi hỏi : “Thầy dự định đi hay ở lại?” Đại ư Thầy cho tôi biết “với sự sắp xếp của Hoa Kỳ và Pháp, tướng Dương Văn Minh sẽ lân làm Tổng thống và Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia trung lập.” Tôi hỏi, Thầy không nhớ kinh nghiệm liên hiệp với Cộng sản hồi năm 1945 sao? Thầy nói: “Vous c̣n trẻ sao cứ muốn nh́n về quá khứ, hăy mạnh dạn nh́n về tương lai, hăy đón chào đất nước Ḥa B́nh Trung Lập và gắng sứ kiến tạo lại đất nước sau hơn 30 năm chiến tranh …” Thầy c̣n hăng hái và tin tưởng nói với tôi nhiều điều khác nữa. Sau khi tôi tỏ ra rất dè dặt về khả năng lănh đạo của tướng Minh, Thầy bảo tôi “Minh không có tài, nhưng ông ta chịu nghe ḿnh. V́ thế moi cần ở lại để làm cố vấn cho tướng Minh”. Tôi không rơ sự thật về chuyện này ra sao? Sau 1975, tôi gặp Thầy rất nhiều lần, tôi biết Thầy rất ân hận về quyết định sai lầm của ḿnh, nhưng lúc nào trên gương mặt của Thầy, cũng tỏ ra b́nh tĩnh và vui tươi. Rồi đến đầu năm 1977, Thầy bị công an đến nhà bắt và đem đi học tập và Thầy bị chết trong tù, chính quyền không cho gia đ́nh biết chết v́ lá do ǵ.
Sau Ngày Sài G̣n Sụp Đổ
Sáng ngày 1.5.1975, khoảng 10 giờ sang, tôi đến khách sạn Imperial chỉ c̣n gặp cha Đời, cha Toản và cha Lê Công Chuyển, Tổng Thư Kư của Viện. Trong khoảnh khắc ấy, thật là ngỡ ngàng và hoang mang, tôi hội ư với các cha rất nhanh và tạm quyết định sẽ tham khảo ư kiến của cha Viện trưởng về các công việc trong tương lai Sau đó Viện quyết định làm việc lại vào ngày thứ hai 5.5.1975. Khi đến văn pḥng, tôi gặp lại mọi người, ai cũng đều hết sức hoang mang và buồn rầu. Bề ngoài, tôi cố gằng tạo cho ḿnh một vẻ mặt thật điềm tĩnh và đầy tự tin, để trấn an họ, nhưng trong tâm tâm, tôi cũng buồn rầu không kém ǵ họ. Tuy nhiên, thực sự mà nói, tôi có thể b́nh tĩnh hơn họ, v́ gần hai tuần trước đó, khi quyết định ở lại, tôi đă chuẩn bị tâm lư để chờ đón mọi biến cố có thể xảy ra, mà trong đó, t́nh trạng tệ hại nhất là Sài G̣n sẽ hoàn toàn sụp đổ. Chỉ c̣n một điều khá bất ngờ, là sự sụp đổ xảy ra quá mau lẹ, ngoài sự ước tính của mọi người. Giữa không khí ảm đạm đó, khoảng 9 giờ sang, vị khách đầu tiên đến gặp tôi ở văn pḥng Viện là ông Phạm Như Hồ, tốt nghiệp Cao Học ở Trường Chính Trị Học tại Paris, lúc đó đang là giảng viên cơ hữu của Đại Học Văn Khoa Sài G̣n, nhưng đồng thời là giảng viên của Viện chúng ta. Ông trạc tuổi tôi, ông báo cho Viện biết giáo sư Trần Chánh Thành, trước đây cũng là giáo sư thỉnh giảng của Viện, đă tự vận trong ngày 30/4 vừa qua. LS. Trần Chánh Thành, là một luật gia lăo luyện về chính trị, thầy dậy về các Vấn Đề Chính Trị Hiện Đại tại Ban Chính Trị của Trường CTKD. Trước năm 1954, Thầy là Ủy Viên Tuyên Vận của Liên Khu Bốn của CS. Sau đó thầy bỏ về hợp tác với phe quốc gia và trở thành Bộ Trưởng Thông Tin đầu tiên trong chính quyền ông Diệm. Sau này thầy trở thành Thượng Nghị Sĩ, rồi Bộ Trưởng Ngoại Giao. Nhưng 1975, cũng như một số chính khách Miền Nam lúc đó, Thầy tin rằng với sự bảo đảm của quốc tế, miền Nam sẽ trung lập và mọi người sẽ có cơ hội đóng góp để xây dựng đất nước. Nhưng cuối cùng CS bác bỏ mọi giải pháp trung lập, quyết dung bạo lực để cưỡng chiếm miến Nam. Có lẽ thầy cảm thấy những dự kiến của ḿnh đă trở thành ảo tưởng, Thầy quyết định quyên sinh tại nhà riêng, trước khi bị CS bắt giam. Lúc đó mọi người trong văn pḥng Viện đều rất bùi ngùi và vô cùng xúc động trước hung tín này.
Sau đó Hội Đồng Viện được sắp xếp lại và gồm các thành phàn như sau :
Viện Trưởng: LM Lê Văn Lư Phó Viện Trưởng: LM. Nguyễn Văn Đời Chánh văn pḥng Viện Trưởng: Ô. Phạm Văn Lưu Khoa Trưởng Văn Khoa: LM. Thiện Cẩm Khoa Trưởng ư Phạm: LM. Mai Văn Hùng Khoa Trưởng Khoa Học: LM. Nguyễn Văn Đời Phó Khoa Trưởng Khoa Học: LM. Nguyễn Hữu Toản Khoa Trưởng CTKD: Ô. Nguyễn Lâu Tổng Thư Kư Ban Cao Học CTKD: Đỗ Văn Thành Sinh Viên Vụ: Ô. Mai kim Đĩnh.
Liên Lạc Vời Ủy Ban Quân Quản
Công việc đầu tiên của tôi sau khi trở lại làm việc là liên lạc với Ủy Ban Quân Quản Đại Học. Tôi đến Văn Pḥng Viện Trưởng Viện Đại Học Sài G̣n, ở số 3 Công Trường Chiến Sĩ, gặp vị Trưởng Ban tiếp quản Viện Đại Học Sài G̣n là Tiến Sĩ Nguyễn Tấn Lập, ông là người nhỏ con như GS. Trần Long của chúng ta, trạc tuổi 55. Và theo như lời ông nói với tôi, ông tốt nghiệp Tiến Sĩ Toán Học ở Đại Học Sorbonne (1), Paris và Ông đă nghe tiếng cha Lư, từ ngày c̣n ở Pháp và ông cũng đă đọc luận văn của cha Lư: Le Parler Vietnamien. Ông ngỏ ư muốn gặp gỡ vaà nói chuyện với cha Viện Trưởng. Ngày hôm sau, tôi đă sắp đặt để cha Viện Trưởng gặp ông ở văn pḥng của ông. Tiếp đến Ủy Ban này đă gởi hai nhân viên giảng huấn, một người tên là Phan Văn Dật, và người kia, tôi không c̣n nhớ tên, đến Viện Đại Học Đà Lạt, trên lầu 2, Thương xá Tax, để tŕnh bày về đường lối của chính quyền mới cho các giáo chức của Viện chúng ta. Điều đặc biệt là họ mặc quần đen và đeo súng lục và nói là đại diện choChính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam, nhưng rồi cũng theo lời họ nói, họ không phải là những quân nhân mà là giáo chức thực thụ của Đại Học Hà Nội, được gởi vào đây công tác !!! Sau đó, là thủ tục tŕnh diện, tại Viện Văn Hóa Goethe, trực thuộc Ṭa Đại Sứ Tây Đức, tại số 49 đường Hồng Thập Tự. Dĩ nhiên, lúc đó toàn bộ nhân viên ở đây đă di tản về Đức cả rồi. Mỗi giáo chức của chúng ta phải đến làm thủ tục đăng kư, nghĩa là làm bản tự khai lư lịch và mỗi người lên gặp một cán bộ để họ vừa đọc lư lịch của ḿnh vừa hỏi những điều họ muốn biết thêm về ḿnh, trung b́nh mỗi người phải trả lời phỏng vấn khoảng 30 phút nhưng cũng có thể dài hơn tùy theo lư lịch của từng người. Trong buổi đăng kư này, tất cả gồm những người có tên trên danh sách vừa kể trên, c̣n có các ông Lê Văn Khuê, Đậu Quang Luận, Đỗ Hữu Nghiêm, bên Đại Học Văn Khoa, Ô. Nguyễn Bào, Phan Nam bên Đại Học Khoa Học, Ô. Nguyễn Hữu Thân, ban Cử Nhân CTKD, Ô. Nguyễn Chính Đoan, Ô. Nguyễn Đ́nh Quế, Ban Cao Học Chính Trị Kinh Doanh. Về việc đăng kư này, tôi có một kỷ niệm buồn về trường hợ của Anh Mai Kim Đĩnh. Lúc đó anh là Giám Đốc Sinh Viên Vụ của Viện, thay thế cho GS. Ngô Đ́nh Long đă di tản, đồng thời cũng là Giám Đốc Tuyên Nghiên Huấn Của Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam. Theo qui định lúc đó, những người trong quân đội từ cấp Đại Úy trở lên, những giám đốc trong các phủ, bộ của chính phủ và những người lănh đạo trong các đảng phái chính trị phải đi học tập trong ṿng một tháng. Trước khi anh Đĩnh đi học tập theo diện cải tạo của Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam, anh có đến văn pḥng Viện từ biệt tôi. Tôi đề nghị anh Đỉnh, để tôi làm hồ sơ anh đi học tập chung với giáo chức của Viện tại Sài G̣n và rồi về làm việc với an hem cho vui. Đỉnh cảm ơn đề nghị tốt của tôi và nói để anh ấy đi học tập theo diện nặng nhất, lâu nhất sau đó sẽ thanh thản trở về làm việc với anh em th́ vui hơn. Tôi rất ái ngại về quyết định của Đỉnh, nhưng tôi không dám nói ǵ thêm. Cuối cùng anh đề nghị tôi tim một quán cà phê nào để tán dóc trước khi từ biệt. Nhưng hôm đó tôi có hẹn, không thể đi được. Anh Đỉnh chở tôi ra bền xe buưt ở Chợ Cũ Sài G̣n bằng chiếc xe đạp Đỉnh mới mua, để tôi về Gia Định. Từ đó đến nay, tôi chưa gặp lại anh. Mặc dù, tôi biết sau đó, tôi biết anh Đỉnh không những đi học tập một tháng như chính quyền đă hứa, mà h́nh như anh c̣n phải ở trong trại học tập đến gần 8 năm, một vài người bạn ở chung trại với anh kể lại cho tôi như vậy. Sau này, tôi nghe anh làm việc tại Trung Tâm Nghiên Cứu tại Tân Gia Ba rồi Luận Đôn, cũng như thỉnh thoảng có nghe giọng nói của anh trả lời phỏng vấn trên các đài phát thanh.
Phương Pháp Làm Việc Rập Khuôn
Tiếm theo đó, ngày 19.5 là ngày sinh nhật của Hồ Chí Minh, các giáo chức phải đi tham dự buổi họp theo các đại học của ḿnh. V́ Đại Học Đà Lạt là đại học tư thục, nên chúng tôi cùng phải đi tham dự cùng các đại học tư khác như Đại Học Phương Nam, Đại Học Minh Đức, Đại Học Cao Đài, Đại Học Ḥa Hảo… đến một giảng đường của đại học Minh Đức h́nh như ở dường Trần Quốc Toản, để dự lễ tưởng niệm. Sở dĩ tôi muốn nói đến sự việc này, ví có một sự kiện hơi khôi hài ! Buổi sang hôm ấy, tôi tham dự lễ, một vị giáo chức cán bộ lên đọc diễn văn, khi đến đoạn “chúng ta tiếc thương bác Hồ kính yêu”, ông lấy kính trắng xuống rồi lấy khăn tay lau nước mắt. Đến 7 giờ tối hôm đó, tôi xem Đài Truyền H́nh Sài G̣n, chiếu lại quang cảnh buổi tưởng niệm ở Đại Học Sài G̣n dành cho các giáo chức đại học công lập, một giáo chức khác cũng đọc một câu như vậy và cũng lấy kính trắng xuống, lau nước mắt giống hệt như cảnh tượng tôi đă chứng kiến buổi sang tại Đại Học Minh Đức. Lúc đó, tôi hết sức ngỡ ngàng, nhưng sau này tôi hiểu đó là phương cách làm việc theo tiêu chuẩn của người Cộng sản ! Trong thời gian này, các cha trong Hội Đồng Viện c̣n gặp một khó khăn khác với chính quyền mới là việc đăng kư hộ khẩu. V́ trước đây tờ khai gia đ́nh của các cha đều ở Đà Lạt, nay chạy về Sài G̣n các cha không có giấy thường trú. Theo nguyên tắc các cha phải trở về Đà Lạt đăng kư thường trú, rồi sau đó xin di chuyển xuống Sài G̣n, và nếu các quận trong thành phố chấp thuận, các cha mới vào được hộ khẩu, nếu không phải về sống tại Đà Lạt. Đây là việc vô cùng khó khăn lúc đó, v́ liên quan đến lănh vực an ninh nội chính. Tôi phải lo công việc này cho các cha. Nhưng rất may, đang cơn bối rối này, tôi nhận được điện thoại của một nữ giáo sư thỉnh giảng bên khoa học bảo tôi rằng, nếu bên Viện Đại Học Đà Lạt có gặp khó khăn ǵ, bà có thể giúp cho, v́ ông Cao Đăng Chiếm, Giám Đốc An Ninh Nội Chính, là chỗ thân t́nh. Sau đó, vấn đề hộ khẩu của các cha được giải quyết mau chóng. Cha Lập cũng gặp khó khăn tương tự và tôi cũng t́m cách giải quyết theo đường lối này.
Học Tập Chính Trị
Theo chỉ thị của Ủy Ban Quân Quản các Đại Học tư, giáo chức nào muốn tiếp tục giảng dạy phải tham dự các buối học tập chính trị kéo dài khoảng bốn tháng tại Sài G̣n. Sau đó, nhà nước sẽ quyết định bố trí công tác, sau khi cứu xét lư lịch từng cá nhân. Trên nguyên tắc, họ tuyên bố như vậy, nhưng sau khi học tập xong những khóa chính trị này, không một giáo chức nào của các đại học tư tại Sài G̣n được tiếp tục việc giảng dạy, v́ một lư do dơn giản, không có một đại học tư nào được giấy phép để hoạt động. Thành phần của Đại Học Đà Lạt đi tham dự học tập chính trị gồm có: Văn pḥng Viện có các cha Đời, cha Tản và cá nhân tôi. Trường CTKD có Ô. Vũ Thiện Vinh, Ô. Vơ Văn Hải, Ô. Nguyễn Chính Đoan, Ô. Nguyễn Lâu, Ô. Nguyễn Văn Thân, và TS. Lương Hữu Định. Bên Văn Khoa có Ô. Đâu Quang Luận, Ô. Lê Văn Khuê, Ô. Đỗ Hữu Nghiêm, có thể kể thêm một vài người nữa tôi không nhớ rơ. C̣n cha Thiện Cẩm, Khoa Trưởng Văn Khoa và cha Mai Văn Hùng, Khoa Trưởng Sư Phạm quyết định không xin dạy học naữ, nên không tham dự các khóa học này. C̣n các ô. Nguyễn Bào, Phan Nam bên Khoa Học, Ô. Nguyễn Văn Mầu bên Sư Phạm, Ô. Nguyễn Thanh Châu bên Văn Khoa đă trở về Đà Lạt.
Đăng Kư Chương Tŕnh Giảng Dạy
Và cũng theo chỉ thị của chính quyền, để chẩn bị việc mở lại Đại Học Đà Lạt ở Sài G̣n, yêu cầu văn pḥng Viện làm hồ sơ đăng kư. Trong hồ sơ này, có phần quan trọng nhất là phải đăng kư nội dung các môn học (syllabus). Tôi được cha Viện Trưởng cũng như các Khoa Trưởng ủy nhiệm đảm lănh công việc đó. Để xúc tiến phần vụ này, tôi đă xin cha Viện Trưỏng triệu tập một phiên họp tất cả các giáo sư cơ hữu và thỉnh giảng của Viện đang có mặt ở Sài G̣n đến họp tại thư viện Ban Cao Học CTKD trên lầu 2, Thương xá Tax. Tôi c̣n nhớ những người tham dự gồm những nhân viên giảng huấn cơ hữu của Viện như tôi vừa kể trên, ngoài ra c̣n có một số giáo sư thỉnh giảng như Ô. Phạm Như Hồ, GS. Lê Thành Trị, TS. Nguyễn Hưng, TS. Nguyễn Huy, TS. Bửu Lịch, Ô. Vơ Văn Hải, TS. Lương Hữu Định và Ô. Vũ Thiện Vinh. Lấy ư kiến của tất cả mọi người, tôi soạn lại nội dung các môn học, sau gần một tháng hồ sơ này hoàn tất. Sau khi tŕnh và lấy chữ kư của cha Viện Trưởng Lê Văn Lư, tôi gởi hồ sơ này cho Ủy Ban Quân Quản Đại Học Tư, nhưng rồi chẳng bao giờ được hồi âm.
Tiếp Xúc Với Chủ Tịch Nguyễn Hữu Thọ?
Tiếp tục nỗ lực để vận động cho Viện Đại Học Đà Lạt được mở cửa lại, cha Lư đă nhờ Ô. HHBá, Ủy Viên Trung Ương trong Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, sắp xếp một cuộc gặp mặt với Chủ Tịch Nguyễn Hữu Thọ. Sau đó, cha Viện Trưởng nhận được giấy mời đến Văn Pḥng Chủ Tịch Thọ, và tôi với tư cách là Chánh Văn Pḥng đă đi theo Cha Viện Trưởng trong cuộc họp này. Tôi không c̣n nhớ rơ ngày, có lẽ vào cuối tháng 11.1975, v́ quyển nhật kư của tôi mang theođă phải hủy bỏ trên đường vượt biển. Buổi họp khoảng 8 giờ tối, tại dinh của Chủ Tịch Thọ, tức địa điểm cũ của Phủ Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, trên đường Thống Nhất. Đến nơi, chỉ có vị Đại Tá Chánh Văn Pḥng tiếp chúng tôi, chứ không có Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ như đă được thong báo. Cha Viện Trưởng bảo tôi tŕnh bày công việc của Viện đă làm, như chấp hành mọi chỉ thị của chính quyền: các giáo chức ađ4 đi học tập chính trị và cũng đă hoàn tất hồ sơ đăng kư nhưng vẫn chưa được trả lời. Viện chỉ mong muốn một điều duy nhất được biết sớm ư định của chính quyền, có c̣n cho phép duy tŕ các đại học tư nữa không? Nếu không, xin cho Viện biết sớm, để thong báo cho các nhân viên giảng huấn của Viện t́m ngành nghề khác để kiếm sống, v́ các giáo chức đă chờ đợi quá lâu, gia đ́nh của họ đă phải đối phó với nhiều thử thách. Ông Đại Tá này, ghi rất kỹ lưỡng những điều tôi tŕnh bày vào một cuốn sổ tay, và hứa sẽ tŕnh với Chủ Tịch Thọ t́m cách giải quyết thỏa đáng, trong một tương lai thật gần. Sau cuộc gặp gỡ này, văn pḥng Viện không c̣n nhận được văn thư nào nữa của văn pḥng Chủ Tịch Thọ, cho đến khi văn pḥng này giải tán vào khoảng tháng 6.1976. Suốt trong thời gian làm Chánh Văn Pḥng cho cha Viện Trưởng, tôi có cảm nhận sâu sắc rằng, cha Lư không giao thiệp rộng, không năng động, không cởi mở như cha Lập, nhưng trong thâm tâm cha Lư cũng có những quyết tâm không kém là luôn luôn t́m mọi cách để duy tŕ và phát triển Viện theo những chiều hướng tốt đẹp nhất, mà cha có thể làm được. Nhưng rồi thời cuộc đă cuốn trôi tất cả. Sau những cố gắng để xin mở cửa Viện Đại Học Đà Lạt bất thành, cha Viện Trưởng và các cha bảo tôi hăy tổ chức, dưới một h́nh thức nào đó, để có thể tạo công ăn việc làm cho các công nhân viên của Viện và giúpổn định đời sống gia đ́nh họ. V́ nay Viện không thể tiếp tục giảng dạy phục vụ cho giới trẻ nữa, không lẽ Viện đành giải tán để mỗi người đi một nơi, trong khi chính quyền chưa chịu đến tiếp quản cơ sở của Viện! Để thực hiện ư định này của các cha, tôi bàn với các Ô. Lê Văn Khuê, Văn Khoa, và Ô. Nguyễn Chánh Đoan, bên Cao Học CTKD. Sau đó, chúng tôi đưa ra dự án thành lập Cơ Sở Sản Xuất Thụ Nhân, dưới h́nh thức một công ty năc danh, gồm nhiều cổ phần và mọi người có thể góp vố bằng cách mua cổ phấn. Cơ sở này chuyên sản xuất văn pḥng phẩm như phấn viết bảng, compa, but bi và các loại đồ chơi trẻ em. Chúng tôi được sự hưởng ứng nồng nhiệt của mọi người, trước hết là các cha trong Hội Đồng Viện như cha Lư, cha Đời, cha Hùng, cha Cẩm và cha Toản. Nhưng người tích cực nhất vẫn là cha Lập, Cựu Viện Trưởng của chúng ta, lúc đó đang ở B́nh Triệu. Tiếp đến là các giáo chức trong Viện như các ông Nguyễn Đ́nh Quế, Vơ Văn Hải, Lương Hữu Định, Nguyễn Lâu và vợ của Ông Lê Hữu Hiếu (lúc đó ông c̣n đang đi học tập cải tạo) bên CTKD, ông Đậu Quang Luận bên Văn Khoa. Một số giáo chức của các đại học khác như Đại Học Tây Ninh và Minh Đức cũng hưởng ứng bằng cách mua cổ phần và đưa thân nhân đến tham gia lao động sản xuất. Về cơ cấu tổ chức, tôi được bầu làm Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị kiêm nhiệm chức Giám Đốc Ban Điều Hành, nhưng lúc đó gọi là Tổ Trưởng, Ông Nguyễn Chánh Đoan là Tổ Phó, Ông Lê Văn Khuê là Tổng Thư Kư của cơ sở sản xuất này. Đến đầu năm 1977, Ông Đoan đi vượt biên, Ông Khuê trở thành Tổ Phó và Tiến Sĩ Lương Hữu Định làm Tổng Thư Kư. Với những kiến thức quản trị chuyên môn đă thủ đặc được từ những sách báo chuyên môn Âu Mỹ, chúng tôi đă tố chức cơ sở này rất thành công, và chính quyền đă dành cho chúng tôi một sự tuyên dương đặc biệt như đưa chúng tôi làm đại diện cho 50 hợp tác xă lớn sản xuất đồ chơi trẻ em trong TP HCM. Doanh thu mỗi quí (3 tháng) của cơ sở Thụ Nhân lúc đó, là khoảng 1 triệu 200 ngàn đồng tiền mới, tức 600 triệu đồng tiền của VNCH trước năm 1975. Nhờ sự thành công của Cơ Sở Thụ Nhân, cá nhân tôi được Ṭa Đại Sứ Liên Xô tại Hà Nội mời tham dự Hội Chợ Triển Lăm tại Mạc Tư Khoa 1981. Khi tiếp xúc với nhân viên Sứ Quán Liên Xô, tôi đă t́m mọi cách để từ chối, v́ cần phải về Sài G̣n sớm để sửa soạn chương tŕnh vượt biên. Về Cơ Sở Sản Xuất này sẽ được tŕnh bày chi tiết trong một dịp khác. Tôi xin lược thuật lại một vài kỷ niệm tôi c̣n giữ đượcvới các cha trong Viện như sau:
Cha Nguyễn Văn Lập
Gia đ́nh bên nội tôi quen biết rất mật thiết với cha Nguyễn Văn Lập, nhưng khi lên ghi danh học tại Viện sau khi tôi phải rời khỏi trường Đại Học Y Khoa Huế v́ t́nh h́nh chính trị, tôi đă không đến gặp cha để đưa thư giới thiệu của cha Trinh, thuộc Ṭa Giám Mục Huế cho cha biết. Măi đến hơn hai tháng sau ngày nhập học, khi ông Bùi Tuân, Cựu Tổng Thư Kư của Quốc Hội Lập Hiến Đệ Nhất Cộng Ḥa Việt Nam, từ trần tại Huế. Gia đ́nh ông đánh điện tín cho cha, nhờ cha thông báo tin cho tôi. Cha gọi tôi lên văn pḥng và hỏi về gia đ́nh tôi. Lúc đó cha mới nhận tôi như chỗ thân quen trong gia đ́nh. Nhưng sau đó tôi rất ít khi tôi đến gặp cha hay xin cha điều ǵ. Măi đến năm 1968, sau trận Tổng Công Kích Tết Mậu Thân, lúc đó tôi đang học năm cuối của Ban Sử Địa bên Văn Khoa và đồng thời học Năm Nhiệm Ư Bang Giao Quốc Tế Chính Trị Kinh Doanh. Trong thời gian này, tôi cũng là Chủ Tịch của Hội Nghiên Cứu Sử Địa, Viện Đại Học Đà Lạt. Một trong những sinh hoạt thường lệ của Hội là ấn hành bản tin hàng tháng. V́ vấn đề tài chánh rất hạn chế, nên tôi thường bảo anh Lâm, Tổng Thư Kư của Hội phải cắt bỏ những bài quá dài hoặc thu ngắn lại cho đúng số trang qui định. Tôi không ngờ anh đă tiết lộ những khó khăn này trên bản tin, nên sau đó có một số giáo sư đă ủng hộ tài chánh cho Hội. Nhưng trong thâm tâm, tôi không bao giờ nghĩ rằng cha Lập cũng quan tâm đến điều này. Rồi khoảng tháng 3 năm 1968, khi Nhóm Sử Địa Viện Đại Học Sài G̣n ấn hành quyển Hiện T́nh Kinh Tế Thế Giới nhờ Hội chúng tôi phát hành ở Đà Lạt, cũng trong mục tiêu hỗ trợ tài chánh cho Hội. Khi các poster quảng cáo cho việc phân phối sách này được dán trong khuôn viên của Viện, cha bảo một người tùy phái mời tôi đến văn pḥng gặp cha. Trong cuộc gặp gỡ này, cha nói với tôi, cha biết các con đang cần tiền để thực hiện một số công việc của Hội, nhưng việc bán sách giúp cho các giáo sư của Viện Đại Học Sài G̣n, theo cha, chắc chắn sẽ không thu được bao nhiêu, lại mất th́ giờ, tốt hơn là các con nên chú tâm vào việc nghiên cứu chuyên môn của ḿnh. Cha đề nghị, từ nay, việc ấn phí ấn hành. Viện sẽ tài trợ cho Hội nên chúng tôi không c̣n phải lo về tài chánh cho khoản mục này nữa. Ngoài ra, cha nói với tôi rằng, khi cha đến Mỹ, cha được mời vào Ṭa Bạch Ốc, người ta đă biếu cha một quyển sách Chỉ Dẫn in thật đẹp và thật đầy đủ, cha có thể đi bất cứ chỗ nào ở nước Mỹ, mà không sợ bị lạc. Rồi cha đề nghị Hội Sử Địa có thể soạn cho cha một cuốn Địa Phương Chí (Monography) về Đà Lạt, trong đó có phần về Lịch Sử, Địa Lư H́nh Thể, Nhân Văn, Kinh Tế, và phần Chỉ Dẫn Du Lịch thật chi tiết, để biếu cho các vị khách đến Viện. Khi tác phẩm này hoàn thành vào đầu năm 1970, lúc đó cha Lập sắp rời Viện. Cha bảo cha không c̣n nhiều thời giờ để xuất bản và cha để lại cho vị Viện Trưởng kế nhiệm tùy nghi sử dụng. Sau này, không thấy Viện xuất bản, tôi gởi phần Lịch Sử cho Tập San Sử Địa của Trường Đại Học Sư Phạm Sài G̣n đăng tải. Phần Địa Lư H́nh Thể, gồm phần Thổ Nhưỡng và Thảo Mộc sau đó được đăng tải trên Tập San Địa Dư do Nha Địa Dư Quốc Gia Đà Lạt ấn hành. Phần Lịch Sử do tôi phụ trách, Phần Địa Lư H́nh Thể, gồm có Phần Thổ Nhưỡng do anh Nguyễn Thanh Lâm nghiên cứu và tŕnh bày và Phần Thảo Mộc do GS. Thái Công Tụng biên soạn. Nhưng một sự kiện đáng tiếc và không mấy vui xảy ra, khi bài nghiên cứu này xuất hiện trên Tập San Địa Dư.
Ghi Chú: Một cách chi tiết, tác phẩm Địa Phương Chí Đà Lạt được soạn thảo với thành phần như sau: Phần Lịch Sử: Phạm Văn Lưu Phần Địa Lư H́nh Thể, Thổ Nhưỡng: Nguyễn Thanh Lâm Thảo Mộc: GS. Thái Công Tụng Phần Địa Lư Nhân Văn: Nguyễn Thanh Lâm và Nguyễn Định Phần Chỉ Dẫn Du Lịch: Lưu Thị Lệ Dung và Phạm Văn Lưu
Khi gởi Phần Địa Lư H́nh Thể để đăng trên Tập San Địa Dư, tôi chỉ viết khoảng 5 gịng để giới thiệu bài nghiên cứu này với tư cách là Chủ Tịch Hội Nghiên Cứu Sử Địa Viện Đại Học Đà Lạt và là Trưởng Ban biên soạn tác phẩm này. Sau đó, tôi có ghi rơ phần nào là của anh Nguyễn Thanh Lâm và phần nào là của GS. Thái Công Tụng biên soạn. Nhưng có lẽ v́ sơ sót về kỹ thuật, người phụ trách tập san này, chỉ ghi tên tôi và tên anh Lâm nhưng lại bỏ sót tên GS. Thái Công Tụng. Khi Tập San ấn hành, Kỹ sư Hoàng ngọc Cưỡng, Phó Giám Đốc Nha Địa Dư và là Chủ bút của Tập San có gởi cho tôi một ấn bản. Nhưng tôi chỉ đọc lướt qua, không để ư đến điều này. Măi hơn 2 năm sau, tôi nghe một số sinh viên trong Ban Sử Địa kể lại với tôi, GS. Tụng có phàn nàn về việc sử dụng bài viết của GS. Tụng, nhưng Hội Sử Địa đă không ghi tên của Giáo Sư như là tác giả của bài viết. Tôi cảm thấy rất ân hận về sự việc này và gọi điện thoại ngay cho Kỹ Sư [299]Cưỡng để xin anh đính chính trên báo. Nhưng rất tiếc lúc đóTập San này đă đ́nh bản, không c̣n cơ hội chính thức và công khai đăng bài đính chính, và cáo lỗi. Nay đă hơn 30 năm rồi, tôi không c̣n dịp gặp lại GS. Tụng để xin lỗi về chuyện đáng buồn này. Nếu giờ này ở một phương trời nào đó, GS. Tụng đọc những giong chữ này, xin nhận nơi đây lời tạ lỗi chân thành của cá nhân tôi về sự việc đáng tiếc ngoài ư muốn đó. Lúc cha Lập rời Đại Học Đà Lạt để về làm Tổng Đại Diện cho Địa Phận Huế, tôi không c̣n liên lạc với cha, và dĩ nhiên tôi cũng không kỳ vọng là cha c̣n quan tâm về những sinh hoạtcủa tôi nữa. V́ thế, tôi hết sức ngỡ ngàng, khi cha hỏi tôi về những hoạt động sau này của tôi ở Viện Đại Học Đà Lạt, ví dụ như vào giữa năm 1974, khi chuẩn bị cho bộ môn Á Châu Học sẽ thành lập tại Viện Đại Học, chúng tôi gồm một số người trong Ban Giảng Huấn của Viện thành lập Hội Nghiên Cứu Đông Nam Á trong đó có Tiến Sĩ Nguyễn Hồng Giáp làm Chủ Tịch, Ông Lê Văn Khuê làm Phó Chủ Tịch Ngoại Vụ và Ông Vơ Sĩ Khải làm Phó Chủ Tịch Nội Vụ và cá nhân tôi làm Tổng Thư Kư. Mục đích đầu tiên của Hội là dịch một ít sách về lịch sử, văn minh và văn hóa của các quốc gia Á Châu để chuẩn bị tài liệu tham khảo cho cách sinh viên. Và Hội cũng định xuất bản một tập san định kỳ, nhưng chưa khởi sự được th́ biến cố chính trị và quân sự dồn dập xảy ra bất lợi cho Miền Nam. Mọi người đều hoang mang, nên Hội chưa có những hoạt động nào đáng kể. Sau ngày 30/4/1975, khi gặp lại cha Lập ở B́nh Triệu, cha hỏi tôi về hoạt động của Hội trước dó ra sao. Tôi hơi ngạc nhiên và ṭ ṃ hỏi cha, sao cha biết về những sự việc đó? Cha bảo tôi, dù cha rời Viện, nhưng cha vẫn lưu tâm những ǵ xảy ra ở đó cũng như việc của các con làm. Tôi hết sức cảm động về những t́nh cảm cao đẹp này của cha đă dành cho chúng tôi.
Mời Giáo Sư Giảng Dạy
Có một vài việc cha đă thực hiện hết sức đặc biệt, ít người biết đến, tôi muốn thuật lại như những kỷ niệm khó quên về cha. Chẳng hạn, khi mời một giáo sư ở Sài G̣n lên dạy ở Đà Lạt, cha đích thân đến nhà vị giáo sư đó, nhưng cha bảo người tài xế phải đậu xe cách nhà chừng 100 mét, cha đi bộ vào nhà. Và khi vị giáo sư đó tiễn cha, ra cổng thấy xe cha đậu xa, hỏi lư do tại sao? Cha trả lời, ngày xưa Lưu Bị đi mời Khổng Minh phải tam xa cố thảo lư. Bây giờ tôi đậu xe xa có 100m, đâu có ǵ khó nhọc so với công lao của giáo sư sẽ giúp cho Viện sau này. Nhưng nếu có vị giáo sư nào từ chối lời mời của cha lần đầu, cha sẽ trở lại lần thứ hai, cha bảo người tài xế đậu xe cách nhà khoảng 200m. Khi vị giáo sư đó tiễn cha ra công lấy làm lạ tại sao cha cho đậu xe xa hơn lần trước, cha cũng trả lời tương tự như lần vừa rồi. Trong thực tế cũng có vị từ chối đến lần thứ hai, cha sẽ quyết định trở lại lần thứ ba, lần này cha đậu xe xa hơn 300m và cuối cùng vị giáo sư đó thực sự cảm động về t́nh cảm sâu đậm của cha nên đă nhận lời. Không những cha Lập ưu đăi đối với những giáo sư đang giảng dạy ở Viện, mà cha c̣n đối xử hết sứ nhiệt t́nh với những người chưa được mời dạy hay thân nhân trong gia đ́nh của các giáo sư. Thật vậy có những người đang học ở hap hay ở Mỹ chưa tốt nghiệp, nghỉ hè về Việt Nam chơi, lên Đà Lạt ở khách sạn Palace, nếu cha biết được cha cũng đích thân đến khách sạn mời về Viện ở trên Năng Tĩnh và ăn ở chung với các giáo sư khác, khiến họ rất cảm kích t́nh cảm quí báu đó của cha. Khi họ về nước, cha mời họ, th́ họ không thể nào từ chối được. Ngay cả đến thân nhân của các giáo sư cũng vậy, cha cũng đối xử thật hết t́nh, thí dụ như phu nhân của một bác sĩ, em ruột của một giáo sư dạy trong Viện, có quen biết cha từ trước ở Huế. Khi ba lên Đà Lạt ở trong Viện, và một buổi sáng bà cần xe của Viện đưa bà đi chơi thác Cam Ly. Ông Ḥa người phụ trách nội dịch lên báo với cha, trong Viện không c̣n xe nào để đưa bà đi, nhưng không dám kêu taxi, v́ sợ phật ḷng vị khách này, cha bảo lấy xe riêng của cha đưa bà đi chơi. Dù sau đó, chính cha phải đi xe taxi đến dự lễ khai giảng của Trường Trung Học Bùi Thị Xuân gần đó. Vế sau, gia đ́nh của vị giáo sư biết chuyện, họ hết sức cảm động về nghĩa cử đấy thâm t́nh này của cha.
Giải Quyết Các Vấn Đề Tế Nhị Giũa Các Giáo Sư
Tôi suy nghĩ thật nhiều trước khi ghi lai những sự kiện này, v́ đây là những chuyện quá riêng tư và cá biệt giữa các giáo sư trong Viện và những vị này đă cộng tác lâu đời với Viện. Nhưng cũng v́ vậy tôi nghĩ rằng, việc làm của cố Viện Trưởng cũng là một chính sách của Viện, nên tôi muốn nêu lên cho các thành viên của Viện đều biết. Nếu các vị giáo sư liên hệ, không hài ḷng về sự kiện này, người viết xin được thứ lỗi trước.
Chuyện GS. T. N. T.
Một lần GS. T. N. T. lên dạy ở trường Đại Học Khoa Học. GS. T. chỉ đi có một ḿnh, nhưng giáo sư bảo pḥng Nội Dịch của Viện cho giáo sư ở pḥng đôi. Nếu Viện hết pḥng đôi, th́ GS. sẽ ra khách sạn Palace, sang mai sẽ lấy taxi vào Viện dạy học, chẳng có việc ǵ phải lo. Pḥng Nội Dịch rất lúng túng, v́ GS. T. ngoài uy tín trong giới khoa học gia, c̣n là nhân vật rất có thể lực trong Hội Đồng Quản Trị của Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín và giáo sư là người có nhiều cổ phần nhất trong ngân hang này. Lúc đó, ở Năng Tĩnh không c̣n pḥng đôi nào nữa hết. Chỉ có Học giả Ph. V. D. đang ở pḥng đôi. Nhưng nếu bây giờ yêu cầu thầy D. dời sang pḥng chiếc, để thầy T. ở pḥng đôi thầy D. sau này biết được, hẳn phải tức giận lắm. Lúc đó, nhân viên nội dịch chạy lên cầu cứu cha Viện Trưởng. Cha đề nghị lên mời thấy D. xuống giải nghĩa những câu thơ chữ Hán cho cha. Thầy D. được cha Viện Trưởng, mời xuống giải nghĩa thơ chữ Hán như vậy dĩ nhiên thầy D. rất vui vẻ và hănh diện xuống nhà Đôn Hóa để ngủ. Đây là một cách giải quyết rất khôn khéo, tế nhị và hết sức đặc trưng của cha Viện Trưởng.
Chuyện GS. Trần L. và Luật Sư V. V. B.
Câu chuyện bắt đầu v́ việc GS. Trần L. đă tính lộn giờ dạy và tiền thù lao của LS. V. V. B. khoảng 10 ngàn đồng. LS. B. báo và yêu cầu văn pḥng Trường CTKD điều chỉnh lại. Nhưng GS. Trần L. từ chối. Sau đó, LS. B. quyết định không tiếp tục các giảng khóa tại Viện nữa. Cha Lập biết chuyện này, đích thân cha về Sài G̣n và đến văn pḥng LS. B. để xin lỗi về sự việc đáng tiếc đó. Theo cha Lập, LS. B.cho cha biết rằng, tiền bạc đối với Luật Sư không quan trọng lắm, nếu xét công việc trên căn bản lợi nhuận, chắc không bao giờ Luật Sư lên dạy ở Đà Lạt. V́ một buổi sang làm việc ở Văn Pḥng tại Sài G̣n, Luật Sư B. có thể kiếm từ 30 ngàn đến 40 ngàn đồng. Trong khi giảng dạy ở Đà Lạt, mỗi giờ chỉ có 1 ngàn 500 đồng. Nhưng Luật Sư quyết định nhận dạy ở Đà Lạt v́ Luật Sư thương sinh viên và quí t́nh cảm sâu đậm mà cha Viện Trưởng dành cho ông. Kết quả của việc dàn xếp này là LS. B.vui ḷng trở lại cộng tác với Viện.
Ân Huệ Dành Cho Sinh Viên
Trườc khi nói đến những ân huệ mà cha đă dành cho sinh viên, tôi muốn tŕnh bày về những thương mến vô bờ bến của cha đă dành cho các bạn trẻ trong Viện. Mỗi buổi sang cha Viện Trưởng đều đứng trước văn pḥng Viện để chào đón các sinh viên, trước khi họ vào các giảng đường. Và mỗi buổi chiều, cha cũng đứng đó để tiễn đưa các sinh viên ra về. Và trên văn pḥng của cha Viện ở lầu 2, bàn làm việc của cha nh́n ra cửa sổ, có thể nh́n thẳng xuống cổng Viện. V́ thế, bất cứ lúc nào cha cũng có thể nh́n thấy các sinh viên ra vào cổng Viện. Chính v́ các sự việc này, cộng thêm trí nhớ c̣n rất tốt của cha, cha thuộc hầu hết tên các sinh viên trong Viện vá đặc biệt cha biết rơ những mối t́nh của các cặp sinh viên trong Viện thời đó như căp Tân & Việt, Nho & Xuân Lang v.v. mà ngay cả sau này, khi không c̣n ở Viện nữa, đôi lúc cha cũng nhắc lại với tôi trong các buổi tṛ chuyện. Về sau, khi trốn khỏi Việt Nam, tôi có dịp đi học lại, nghiên cứu, làm việc và giảng dạy ở khá nhiều các đại học trên thế giới, như chưa thấy có một viện trưởng nào dành những cảm t́nh sâu đậm như vậy cho sinh viên của họ. Hầu như sinh viên tại các đại học ở Úc hay ở Mỹ, chỉ biết mặt ông viện trưởng vào ngày măn khóa, khi ông đến chủ tọa lễ phát bằng tốt nghiệp cho họ mà thôi. Trong khoảng thời gian từ lễ Giáng Sinh cho đến Tết âm lịch, các nhóm sinh viên thường tổ chức party thâu đêm suốt sang. Đó là nét đặc trưng nhất của Đại Học Đà Lạt. Điều này chỉ có thể thực hiện được là do sự giúp đỡ tài chánh của cha Lập. Thật vậy, trong Viện lúc đó có rất nhiều nhóm, như Nhóm Rong Biển Nha Trang, Nhóm Bông Bưởi Biên Ḥa, Nhóm Huế, Thanh Niên Thiện Chí, Thanh Niên Chí Nguyện… Thời đó, ít nhất cũng có từ 30 đến 40 nhóm. Mỗi nhóm khi tổ chức party, tất cả đều lên xin tiến cha Viện Trưởng. Thông thường câu chuyện diễn ra như thế này:
Trưởng Nhóm: -Nhóm chúng con muốn tổ chức party mừng Giáng Sinh (hoặc Tết), xin cha giúp cho chúng con một ít tiền. Cha bảo: -Các con tổ chức, con phải đóng góp trước đă. -Thưa cha, chúng con cung đă cố gắng đóng góp nhưng không đủ, nhất là tụi con ở xa nhà không có nhiều tiền. Cha bảo: -Như vậy, party dự định bao nhiêu người? -Thưa cha khoảng 100 người, chúng con đă đóng góp mỗi đứa 5 đồng. Tổng cộng được khoảng 500 đồng. Xin cha cho them một ít, để party thêm xôm tụ. -Bây giờ cha cho hai ngàn rưỡi được chưa? -Xin cha cho chúng con thêm một ít nữa. Cha bảo : -Thôi cha cho 4 ngàn đó. Cầm giấy này, qua pḥng kế toán kư giấy nhận tiền.
Sau chuyện liên hoan, phải kể đến chuyện sinh viên về ăn Tết. Ai cũng biết Đại Học Đà Lạt nghỉ Tết đặc biệt hơn các Đại Học khác, là nghỉ đến 1 tháng. Trước Tết, các sinh viên (đa số là các nữ sinh viên) hay đến mượn tiền cha mua vé máy bay về nhà ăn Tết, thường với lư do bưu phiếu gởi lên chưa kịp. Nhưng sau khi mua được vé máy bay rồi, các anh chị này c̣n trở lại gặp cha và thường nói rằng: “Cám ơn cha rất nhiều đă cho con mượn tiền mua vé máy bay, nhưng bây giờ đi xa về nhà mà không có quà cáp cho gia đ́nh th́ kỳ quá. Xin cha cho con mươn thêm một ít tiền nữa để mua quà cáp cho bố mẹ và các em trong gia đ́nh”. Thế rồi cha cũng đành bấm bụng cho các anh chị này mươn thêm tiền. Nhưng có một điều đáng nói, mà số sinh viên mượn tiền mà trả lại ṣng phẳng cho Viện ít lắm. Đến năm 1970, lúc cha Lập rời chức vụ Viện trưởng để về Huế, danh sách các sinh viên c̣n thiếu tiền khá dài. Cha đă bảo pḥng kế toán xé bỏ đi, trước khi bàn giao sổ sách lại cho người kế nhiệm.
Bênh Vực Cho Sinh Viên
Sau cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968, chính quyền lập ra chương tŕnh huấn luyện quân sự học đường cấp tốc cho nam sinh viên. Do đó cha Lập đă yêu cầu Trường Vơ Bị Quốc Gia sang đảm trách chương tŕnh huấn luyện cho sinh viên Viện Đại Học Đà Lạt. Trường Vơ Bị đă cử Thiếu tá Hạnh, tôi không nhớ họ của ông ta, làm Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Khóa Sinh, và các sinh viên năm thứ 4 của Trường Vơ Bị làm huấn luyện viên. Thường ngày, các sinh viên của Viện và các sinh viên trường Vơ Bị hay theo đuổi các nữ sinh viên trong Viện. Không hiểu v́ lư do ǵ, các chị sinh viên thường khoái các anh sinh viên của Viện hơn là các anh bên Vơ Bị. Do đó, khi qua huấn luyện quân sự cho sinh viên của Viện, đây là cơ hội bằng vàng cho các sinh viên Vơ Bị dằn mặt chúng tôi. Cơ hội đó đă đến, khi chúng tôi tập đi diễn hành ngang qua một nhóm nữ sinh viên đang tụ tập trước thư viện, một số anh đă vẫy tay và là ó để chọc ghẹo các chị. Chiều hôm đó, các huấn luyện viên đă tập họp tất cả liên đoàn khóa sinh trong sân khu Năng Tĩnh. Rồi các sinh viên Vơ Bị dạy luân lư chúng tôi. Sau đó họ bảo ban chiều ai đă chọc ghẹo các nữ sinh viên, nên tự giác ra nhận lỗi và chịu phạt hoặc ai biết người nào phạm lỗi, nên báo cáo lên để bắt người đó ra phạt. Nếu không sẽ bắt tất cả khóa sinh phải chịu phạt hít đất và nhảy xổm. Không có ai nhận lỗi và tố cáo. Các huấn luyện viên này nói những câu xúc phạm đến chúng tôi. Một số anh, trong đó có người viết, đă đứng lên phản đối. Chúng tôi lập luận rằng ai có lỗi, phải bị phạt. Đó là điều cần phải làm để duy tŕ trật tự và sức mạnh của quân đội. Nhưng chúng tôi phản đối, không thể dung h́nh phạt như một phương cách để hành xác và lăng nhục tất cả tập thể sinh viên được. Sau đó, toàn thể sinh viên khóa sinh đă vỗ tay tán đồng, rồi la ó phản đối, nên các huấn luyện viên đă phải nhượng bộ và cho giải tán. Tối hôm đó, các huấn luyện viên này báo cáo với Thiếu tá Hạnh và yêu cầu phải áp dụng kỷ luật nghiêm khắc với chúng tôi.Thiếu tá Hạnh gặp cha Viện trưởng, xin cho ông được nghiêm phạt các sinh viên, v́ kỷ luật là sức mạnh của quân đội. Nếu lời thỉnh cầu này không được chấp thuận, Trường Vơ Bị sẽ ngưng chương tŕnh huấn luyện. Cha Viện trưởng bảo:
“Các ông đừng nóng giận, các ông không phải là nhà giáo dục, nên các ông mới hành xử như vậy. Các ông nên hiểu rằng, khi các sinh viên tụ họp thành đám đông th́ hay phá phách chọc ghẹo các nữ sinh viên như vậy, cũng như khi đi dự các buối liên hoan đông người, các sinh viên cũng nghịch ngợm lấy confetti ném lên tóc, lên áo các cô gái. Nhưng nếu giao cho một nam sinh viên nó cũng biết galant, biết chiều chuộng, tiếp đăi lịch sử, tử tế và ân cần săn sóc cô gái đó. Trong số những sinh viên chiều nay, chỉ vài tháng nữa thôi, chúng nó tốt nghiệp ra trường, chúng sẽ làm ông này, bà nọ, cũng là giáo sư, là giám đốc, phó giám đốc của các cơ quan, xí nghiệp. Chúng ta không thể áp dụng những h́nh phạt như con vịt đối với chúng nó.” Cuối cùng, Thiếu tá Hạnh phải nhượng bộ và chương tŕnh huấn luyện đaược tiếp tục như cũ. Điều này chứng tỏ cha Lập luôn thong cảm và hiểu biết sâu sắc về tâm lư của sinh viên, cha luôn đứng về phía sinh viên để ủng hộ và bảo vệ. Đó là những kỷ niệm của những ngày cha c̣n làm viện trưởng. Sau này, trong thời gian cha ở B́nh Triệu, chúng tôi thành lập Cơ Sở Sản Xuất Thụ Nhân, cha là người đóng góp cổ phần nhiều nhất và dành cho chúng tôi một sự ủng hộ tinh thần hết sức nồng nhiệt vào những ngày đầu khai trương. Trong thời gian này, tôi thỉnh thoảng lên dự thánh lễ vào chiều chủ nhật ở B́nh Triệu, và ghé thăm cha sau Thánh lễ, cha con thường nói chuyện thân t́nh và nhắc lại quá khứ của Viện cùng những khuôn mặt sinh viên quen thuộc của những khóa học đầu tiên của Viện. Rồi đến giũa tháng 6 năm 1981, khi tôi chuẩn bị vượt biên, chiều cuối cùng ở Sài G̣n tôi lên thăm và chào tiễn biệt cha. Cha con nghen ngào chỉ nói chuyện với nhau một ít câu. Tôi vội vă tóm lược cho cha biết kế hoạch vượt biên và các phương cách cha có thể cứu giúp tôi, nếu chẳng may tôi bị bắt. Cha tỏ ra quan tâm rất nhiều về sự an nguy của chúng tôi khi vượt đại dương. Cha không tiễn chúng tôi ra băi đậu xe như thường lệ. Cha chỉ nói cầu mong cho các con đi bằng yên và cha sẽ cầu nguyện cho các con. Cha đưa chúng tôi đến cửa rồi cha đóng cửa thật nhanh. H́nh qua khung cửa kính, tôi thấy cha cúi đầu thật sâu và tay phải cha đưa lên ngực, h́nh như cha xúc động nhiều. Đó là h́nh ảnh cuối cùng tôi c̣n giữ về người cha chung và đầy nhân từ của Viện Đại Học chúng ta.
Cha Nguyễn Văn Đời
Nếu với cha Lập là người dành cho tôi những t́nh cảm thật thân thương, th́ với cha Đời là người có nhiều dịp tôi được làm việc chung và được chia sẻ nỗi buồn khổ của ngài trong những ngực cảnh của t́nh h́nh sau 1975 và ngài cũng đă dành cho tôi những t́nh cảm sâu đậm không kém. Có một điều cho đến nay, ít người biết về những t́nh cảm đầy u uẩn của cha trong cuộc sống tinh thần, v́ cha không thể nói được tiếng Việt thông thạo và lưu loát. Điều này rất dễ hiểu, khi đọc kỹ tiểu sử của cha. Cha Đời rời Việt Nam từ lúc mới lên 5 tuổi, sang Cao Miên học tiểu học chương tŕnh Pháp đến khi đậu tiểu học lúc 12 tuổi. Cha rời xứ Chùa Tháp sang Pháp du học. Đậu Tú Tài vào năm 19 tuổi, cha ở lại Pháp thêm vài năm nữa, thụ phong chức linh mục rồi sang Mỹ du học, cho đến khi đậu Ph. D. Sau khi tốt nghiệp, làm việc ở Mỹ thêm vài năm nữa, đến năm 38 tuổi mới về lại Việt Nam. Cha Đời làm tuyên úy cho quân đội Mỹ tại Mỹ Tho khoảng hai năm, lên Đà Lạt làm Khoa Trưởng Khoa Học thay thế cha Hoàng Quốc Trương vào năm 1972. Có lẽ tiếng Việt là tiếng mà cha Đời kém nhất. Cha ít đọc sách báo Việt ngữ, cha nói tiếng Việt với ngôn ngữ của người b́nh dân, không phải cách nói văn hoa, trau chuốt của lớp người thượng lưu trí thức hay của giới học giả. Khi phải viết thông báo cho các sinh viên thi cuối năm, cha thường nhờ tôi viết hộ và đọc lại các đề thi cho cha. Cha xem tôi như một người rất thân t́nh với cha. Sau năm 1975, khi gặp những khó khăn với chính quyền mới, tối nào cha cũng đến nhà riêng của chúng tôi trên Thương xá Tax, để tâm sự. Sau đó, cha Đời và cha Toản cũng đăng kư đi học tập chung trong nhóm anh em giảng huấn của Viện Đại Học Đà Lạt trong ṿng 4 tháng, với hy vọng sẽ được đi dạy lại. Nhưng rồi sau đó, các giáo chức Viện Đại Học Đà Lạt ở Sài G̣n, không ai được phép đi dạy lại cả, chỉ có bộ phận ở Đà Lạt là được tiếp tục hành nghề nếu muốn. Mỗi ngày, cha cùng với tôi, lấy xe buưt, đi từ đường Nguyễn Huệ đến Đại Học Y Khoa trên đường Nguyễn Văn Tráng để đi học tập với các giáo chức đại học tư khác. Đến năm 1978, sau khi bàn giao Viện Đại Học cho Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hồ Chí Minh, cha Đời về Cần Thơ và t́m cách vượt biên. Nhưng không may cho cha, chuyến đi bị lộ, công an biên pḥng đuổi theo và bắn vào thuyền vượt biên làm 2 người chết và nhiều người bị thương. Cha Đời bị bắt và cha khai thành thật, cha là linh mục và là giáo sư của Viện Đại Học Đà Lạt, nên họ giam cha rất lâu. Đến giữa năm 1980, cha vượt trại giam và trốn về Sài G̣n, sau đó cha di chuyển đến một vùng quê cách Sài G̣n 10 km về phía Nam. Một chiều gần cuối năm 1980, khi đi làm về, con gái đầu ḷng của tôi bảo tôi, có một người mặc đồ nông dân đội nón lá cũ và rách đến t́m tôi, nhưng cháu bảo tôi; nhưng con biết chắc là Ông Cố Đời, và ông dặn khoảng 6 giờ sẽ trở lại. Sau đó, cha Đời đến gặp tôi, cha con gặp nhau vừa vui mừng vừa lo sợ cho sự an toàn của cha. Rồi cha bảo tôi lâu quá không được uống bia, cha thèm lắm, nhưng cha sợ tôi không đủ tiền, cha bảo cứ vào nhà hàng quốc doanh nào đó uống cho rẻ tiền. Tôi nghĩ không tiện v́ nhà hàng quốc doanh thời đó có nhiều cán bộ, công nhân viên nhà nước. Nên tôi quyết định đưa cha đến một nhà hang khá sang trọng trên đường Hai Bà Trưng ở quận 1, gần nhà tôi cư ngụ để cha uống bia và một ít đồ nhậu cho bơ những ngày cựa nhọc trong tù. Tưởng cũng nên nhắc lại, cha Đời lúc c̣n ở Viện Đại Học Đà Lạt, cha không bao giờ uống nước lạnh hay nước trà, mỗi sáng khi thức dạy cha uống cà phê, nên mùa hè, suốt ngày cha chỉ uống bia (lade). Mùa đông cha uống toàn Johnny Walker. Cho nên những ngày trong tù là những ngày đầy thử thách đối với cha. Ngồi nói chuyện với cha Đời, tôi thầm cảm phục cha. Tôi nghĩ suốt đời cha chỉ được đào tạo để trở thành linh mục, một nhà nghiên cứu, một giáo sư. Cha đâu có được chuẩn bị để sống lặn lội trong cuộc sống đầy gian khổ và hiểm nguy của chiến tranh loạn lạc. Thế mà giờ này, cha tỏ ra hết sức xuất sắc để thích nghi với xă hội mới. Cha đă vượt trại giam an toàn, giờ đây điềm tĩnh ngồi nói chuyện với tôi, không sợ sệt, không than van, không trách móc một ai. Điều tốt nhất mà tôi học được ở các cha như cha Đời, cha Toản và cha Hùng trong những ngày tháng đó, là chúng tôi rất trân quí những giờ phút gặp gỡ nhau. Trong các lần gặp mặt, chúng tôi chỉ hỏi tin tứ những người thân và cầu mong cho họ được mọi điều an lành. Các cha luôn b́nh tĩnh, an nhiên tự tại, luôn tươi cười, không than thân trách phận, không hận đời hay hận người. Chúng tôi chỉ nói những chuyện vui cho nhau nghe và bản kế hoạch phải làm ǵ để có thể sử dụng thời gian trong tương lai một cách hữu ích, mặc dù lúcđó chúng tôi ư thức rằng chính quyền, đang t́m đủ mọi cách để đầy đọa, nhằm loại trừ chúng tôi ra khỏi cuộc sống của xă hội. Đặc biệt, tôi biết trong thâm tâm, cha Toản cảm nhận hết sức chua xót về quyết định ở lại. Thưc vậy, trước đó, cha nghĩ v́ trách nhiệm đối với sinh viên buộc cha phải ở lại và ước muốn đem hết khả năng và tâm huyết của ḿnh để góp phần xây dựng và tái thiết đất nước sau nhiều năm bị tàn phá v́ chiến tranh. Nhưng thực tế hoàn toàn trái ngược. Cha ở lại cũng không cứu được sinh viên và cũng chẳng cho ai có cơ hội đem khả năng của ḿnh phục vụ tổ quốc. Chính quyết định lầm lẫn này, đă hủy diệt tương lai và cuộc sống của cha. Trong thời gian đó, chính sách nhà nước là dứt khoát không chấp nhận những người trí thức và các nhà khoa học được đào tạo ngoài hệ thống xă hội chủ nghĩa. Nhưng cha không bao giờ tỏ ra ân hận hay bực tức v́ sự nhầm lẫn này. Cha không để nỗi bực dọc đó laàm vẩn đục tâm hồn ḿnh, cha luôn luôn cố giữ trí óc được thảnh thơi trong sang, luôn tin tưởng và hy vọng vào tương lai để sống, mặc dù đang đứng trước một cuộc sống đầy nghịch cảnh và vô vọng. Thực tế, cuộc sống kinh tế của tôi cũng tạm đủ. Nhưng các cha luôn quan tâm đặc biệt đến gia đ́nh tôi, có lẽ, các cha nghĩ các cha có một thân một ḿnh, mà c̣n khốn đốn, huống chi tôi có vợ và 3 con nhỏ phải lo chuyện ăn học… Cha Hùng đă cố gắng liên lạc với vài gia đ́nh quen biết của cha ở Thụy sĩ để t́m cách bảo trợ cho các con của tôi, mặc dù, lúc đó, việc làm này rất nguy hiểm, v́ chính quyền có thể bắt giam cha v́ tội liên lạc với người nước ngoài. Cha cũng t́m người dạy tiếng Anh và tiếng Pháp cho các con tôi mỗi ngày, chuẩn bị cho gia đ́nh tôi, nếu sau này vượt thoát khỏi Việt Nam, các cháu sẽ không bị thiệt tḥi. Đó có lẽ là những bài học cao quí về triết lư sống và t́nh thương yêu trong sáng, bao la và đằm thắm nhất của những thành viên trong gia đ́nh Thụ Nhân, mà tôi đă học được từ các cha. Trở lại chuyện cha Đời, trong thời gian này, thường hai tuần một lần, vợ chồng tôi lại đến thăm cha và tiếp tế cho cha một ít trái cây tươi và một chút tiền tiêu vặt. Cho đến thàng 4.1981, hôm đó tôi đi làm về trễ, khoảng 9 giờ tối. Con gái lớn tôi bảo ông nông dân lần trước đến gặp tôi, nhưng không có tôi ở nhà, ông nhắn lại, nếu tôi về phải đến gặp ông trong đêm nay v́ ngày mai ông phải đi xa. Tôi quyết định mang một ít tiền cho cha làm lộ phí và lấy xe Honda cùng vợ tôi đi đến gặp cha. Nhưng khi ra khỏi Sài G̣n. Nhưng khi ra khỏi Sài G̣n, đường vắng quá. Vợ tôi sợ rằng nếu giữa đường bi cướp, th́ không những không giúp được cha mà c̣n hại thân ḿnh nữa. Vợ tôi bàn nên trở về nhà để sang mai đi thật sớm th́ chắc ăn hơn… Năm giờ sang hôm sau, tôi và vợ tôi lại lấy xe Honda ra di, nhưng đi nửa đường, mưa lớn quá, trời đất mịt mù không thấy đường di nữa. Chúng tôi phải t́m chỗ trú mưa và độ nửa giờ sau, mưa nhẹ hạt hơn, chúng tôi tiếp tục hành tŕnh. Nhưng khi đến nơi cha cư ngụ th́ cha đă đi trước đó khoảng 15 phút rồi, để về Cà Mau chuẩn bị vượt biên lần nữa. Người nhà cho tôi biết cha đă chuẩn bị cho tôi cùng đi với cha, nên cha có ư định chờ tôi măi từ tối hôm qua cho đến sang nay, nhưng không nhận được tin tức của tôi. Cha đành phải ra đi một ḿnh cùng với người hướng đạo. Tôi rất ân hận về chuyện này, v́ tôi biết rằng vượt biên có rất nhiều hiểm nguy chờ đợi và cần phải có tiền để giải quyết, tôi lại không đến kịp lúc để trợ giúp cha trên bước đường đấy chông gai cha sẽ gặp phải. Sau đó, tôi được tin cha lại bị bắt, nhưng lần này cha kinh nghiệm hơn lần trước, khi vào thẩm vấn cha khai cha làm thợ hớt tóc ở Sài G̣n, vơ con trốn đi Mỹ từ lâu, nên bây giờ phải t́m cách vượt biên để t́m gặp lại vợ con. Nhờ khai như vậy và người nhà chạy tiền cho công an, nên chỉ bị giam hơn 2 tuần là cha được thả. Khoảng trung tuần thàng 6 năm 1981, cha vượt biên thành công đến Mă Lai và đến tháng 12 năm 1981, cha được chính quyền Úc cho định cư tại Sydney. Khi cha Đời đi rồi, tôi cũng t́m đường vượt biên. Ngày 24.6.1981, tôi rời Sàig̣n xuống Sóc Trăng và tối hôm sau lên ghe vượt biên. Sau hơn 4 ngày 5 đêm trôi dạt trên biển cả v́ ghe chết máy, cuối cùng chúng tôi được một tàu Panama vớt đưa vào Indonesia tạm cư tại trại Galang I. Chúng tôi được chính quyền Úc nhận cho định cự tại Darwin vào ngày 17/12/1981. Khi vừa đến Úc, tôi đọc báo Việt Ngữ thấy có đăng tin linh mục Dominic Nguyễn Văn Đồi, đến định cư tại Sydney cùng ngày với tôi. Tôi băn khoăn không biết có phải cha Đời hay không? Tại sao là Đồi mà không phải la Đời? Tội điện thoại xuống Sydney nhờ một người bà con xác nhận, họ cho biết cha Đồi này trước là Khoa Trưởng của Trường Đại Học Khoa Học Đà Lạt. Tôi vui mừng khôn cùng, v́ hết sức ngẫu nhiên, cha con được đến Úc cùng một ngày, dù là khác tiểu bang. Sống một thời gian ở Darwin, tôi không t́m được việc làm và cũng không có một Viện Đại Học có cấp Cao Học để tôi có thể tiếp tục học thêm. Vơ tôi bàn là nên thu xếp để có thể về miền Nam nước Úc để chúng tôi có nhiều cơ hội thăng tiến hơn. Và vợ tôi t́nh nguyện đi trước về Melbourne, để thu xếp chuyện nhà cửa, nơi ăn chốn ở. Rồi hai tuần sau, tôi dắt ba con nhỏ về và chúng tôi bắt đầu cuộc sống mới tại vùng Sunshine của tiểu bang Victoria. Khoảng tháng 9. 1982, gần 10 giờ tối, cả gia đ́nh tôi đang ngồi xem truyền h́nh nghe tiếng có người đập cửa thật lớn và tiếng người la to: Có ông bà chủ ở nhà không? Tôi hơi bực ḿnh về cách xử sự này. Nhưng không ngờ khi mở cửa, cha Đời hiện ra trước mặt. Cha con gặp nhau mừng khôn xiết. Vào nhà, cha con hàn huyên những chuyện đă qua. Con gái tôi nói đùa với cha: Giờ ông Cố Đời ngon lành quá, không c̣n làm nông dân nữa. Rồi tất cả chúng tôi cùng cười thật thoải mái, như để quên đi những ngày thật gian truân trong quá khứ. Từ đó, thỉnh thoảng chúng tôi xuống Sydney, đến ghé lại thăm cha. Cha thường mời chúng tôi dung cơm với cha. Có lẽ cha đă nhờ các bổn đạo của cha nấu ăn cho chúng tôi thật thịnh soạn, nhưng cha luôn bảo với chúng tôi. Tui bay xuống Sydney ‘tau’ phải đích thân nấu ăn cho tụi bay ăn như vậy được chưa? Và mặc dù, sau này các con của tôi đă lớn và đi làm có tiền cả, nhưng lần nào ghé thăm cha, cha cũng cho mấy cháu một ít tiền, các cháu không muốn nhận, nhưng tôi bảo cứ nhận để cha khỏi buồn ḷng. Đặc biệt có một lần, chúng tôi xuống Sydney, chỉ báo cho cha vài tiếng đồng hồ, trước khi đến thăm. Cha không đủ thời giờ nhờ người làm thức ăn. Cha lấy xe ra chợ mua một ít thịt trừu, thịt gà, và ḅ về làm barbecue. Cha bảo phải biết ăn theo kiểu thiên nhiên của Úc, không ướp, không gia vị ǵ hết, như vậy mới ngon và bổ dưỡng! Chúng tôi đều cười thoải mái, v́ biết rơ là cha không biết ướp thịt. Sau đó, cha con nói chuyện vui vẻ với nhau một lúc, rồi cha sực nhớ ra, chiều nay có thánh lễ và cha phải giảng. Cha bảo: Tụi bay ngồi chơi, tau soạn bài giảng một lúc, rồi đưa tụi bay đi viếng Sydney. Tôi nói đùa: Cha để con soạn cho cha. Cha nói: Mày soạn bài giảng, bổn đạo mất linh hồn hết ! Chiều hôm đó, chúng tôi đi dự thánh lễ do cha cử hành, cha rất lung túng trong bài giảng. Sau thánh lễ chúng tôi gặp lại cha, để từ giă cha trở lại Melbourne. Con gái tôi lại bảo: Chúng con đến phá Ông Cố hôm nay, nên Ông Cố không giảng được. Cha cũng lại đùa: Im đi, tau đánh chết cha mày. Có lẽ có hai điều làm cha Đời buồn khổ nhất: 1. Hội Thụ Nhân Sydney, không công nhận cha Đời là Giáo Sư Của Viện Đại Học Đà Lạt, một anh đă nói với tôi, không biết cha có dạy ở Viện Đại Học Đà Lạt hay không? Và các Ban Chấp Hành không bao giờ mời cha tham dự các buổi họp của Hội. Tôi không rơ sự việc cho lắm. Nhưng một cách tổng quát, trước đây có sự tranh chấp giữa một số linh mục Việt Nam ở Sydney. Cha Đời luôn đứng về phía Ṭa Tổng Giám Mục Sydney, không chấp nhận quan điểm thành lập Giáo Hội Việt Nam Tự Trị tại Tiểu Bang NSW. Nhưng có lẽ điều đáng tiếc là Thụ Nhân Sydney lại rơi vào cuộc tranh chấp đáng buồn đó, rồi xa lánh cha Đời. Ngay cả khi cha Đời vĩnh viễn ra đi. Thụ Nhân trên toàn thế giới đều có lời phân ưu, riêng Thụ Nhân Sydney vẫn im lặng. Tôi muốn minh xác ở đây, tôi không hề có ư chỉ trích hay phiền hà ǵ các anh chi em Thụ Nhân Sydney cả. Đối với cá nhân tôi, trong tận cùng của trái tim, tôi muốn luôn luôn dành một sự kính trọng, và thân t́nh đặc biệt đến mỗi cá nhân trong gia đ́nh Thụ Nhân Sydney. Tuy nhiên, tôi vô cùng ân hận để nói rằng cho phép tôi được bày tỏ niềm thất vọng và nỗi bất b́nh của tôi đối với cách hành xử của các bạn với cha Đời, v́ đă để những vấn đề tôn giáo và chính trị xen lẫn vào t́nh cảm của gia đ́nh Đại Học chúng ta. Đó là một điều cha Viện Trưởng Nguyễn Văn Lập đă luôn luôn nhắc bảo, chúng ta nên tránh để khỏi làm sứt mẻ t́nh yêu thương trong gia đ́nh Thụ Nhân. Mặt khác, trong văn hóa Việt Nam, nghĩa tử là nghĩa tận, nghĩa là những người cón sống phải cố gắng hết sức ḿnh để chu toàn bổn phận, nghĩa vụ của ḿnh đối với người chết - bổn phận của những học tṛ đối với thày, không lẽ chúng ta không thể đến nghiêng ḿnh trước linh cữu để giă biệt thày cũ của ḿnh và phân ưu cùng thân nhân của thày? 2. Vụ cha Đời bị điều tra về những cáo buộc thâm lạm tài chánh và bị yêu cầu từ chức. Khi Đức Giám Mục George Pell từ Melbourne được thuyên chuyển về Sydney, để làm Tổng Giám Mục cho Tổng Giáo Phận này. Ngài đă thực hiện những cải tổ sâu rộng, và lợi dụng những sự không hiểu biết đầy đủ của vị Tân Giám Mục về t́nh h́nh giáo hội địa phương, một số người đẽ làm đơn tố cáo cha Đời đă lạm dụng tài chánh trong việc sử dụng quĩ của cộng đồng Công giáo Việt Nam tại Sydney. Mặc dù những lời tố cáo này, không trưng dẫn được bằng chứng cụ thể, cha Đời đă bị giáo quyền bắt từ chức và lập Ủy Ban Điều Tra. Trong thời gian điều tra, Đức Hồng Y Pell đă điều một linh mục Việt Nam khác, cha Nguyễn Khoa Toàn, từ tiểu bang Queensland làm Tuyên Úy Trưởng cho Ban Tuyên Úy Công Giáo tại Sydney. Và sau khi Ủy Ban hoàn tất công cuộc điều tra, xác nhận cha Đời hoàn toàn không có ǵ sai trái trong công việc chi tiêu ngân sách. Nhưng bản phúc tŕnh này không được công bố một cách rộng răi tên báo chí hay đài phát thanh, khiến cho dư luận vẫn c̣n hiểu lầm về cha Đời. Ngoài ra, để đền bù những ngộ nhận của giáo quyền đối với cha Đời, cũng như để thanh minh cho việc làm của cha Đời, các cố vấn của Đức Giám Mục George Pell đề nghị phong chức Đức Ông cho cha Đời, nhưng cha cương quyết từ chối. Đứng về phương diện xă hội b́nh thường, quyết định không nhận chức Đức Ông của cha Đời là một sự sai lầm. V́ tai tiếng mà những người chống đối đă rêu rao để bêu xấu cha Đời không được giải tỏa và nhiều người vẫn tiếp tục hiểu lầm về cha, nhưng đối với cá nhân cha Đời. Cha là một người hết sức giản dị. Cha không muốn nhận bất cứ một ân huệ nào từ Đức Hồng Y Pell, một người đă đối xử không mấy tế nhị với cha (???) Một cách tổng quát, sự việc này đă gây cho cha Đời một chấn động tinh thần sâu xa nhất, Cha trông già hẳn đi và sức khỏe suy sụp trông thấy rơ cuối cùng chứng bện đau tim của ngài trở nên trầm trọng hơn. Đối với tôi là người luôn tin tưởng ở sự thánh thiện và trong sạch của cha, nên trước dư luận không tốt về cha, tôi không bao giờ để ư. Nhưng tôi sợ gợi lên hay hỏi cha về những chuyện này, có thể làm cha buồn, nên trong những dịp gặp gỡ cha, tôi không bao giờ đề cập đến. Có lần cha hỏi tôi, có nghe những tiếng đồn về cha không? Tôi nói có và c̣n biết nhiều chuyện khác nữa, nhưng cha hiểu, con không bao giờ tin những tin đồ nhảm đo. Rồi, cha chậm răi nói: Có lẽ mày là người hiểu tau nhiều nhất. Cha ngẫm nghĩ một lúc, thở dài và nói tiếp : Trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn ḷng. Rồi đến ngày 22/4/2006, lúc đó tôi đang ở Sydney v́ công việc. Sắp tời giờ lên máy bay về lại Melbourne, tôi được tin cha Đời bị đột quỵ, tôi định hủy chuyến bay ở lại vào thăm cha ở bệnh viện. Như khi điện thoại cho bệnh viện, mới biết rằng cha đang ở pḥng cấp cứu, nên không thể vào thăm được. Khoảng mười ngày sau, từ Melbourne, tôi gọi điện thoạ hỏi thăm sức khỏe của cha. Có lẽ cha c̣n mệt nhiều, nhưng vẫn cố gắng để nói đùa với tôi :
-Tau vẫn c̣n sống đây, chưa chết đâu, mày đừng có lo.
Nhưng qua giọng nói của cha, tôi cảm thấy hơi thở của cha quá ngắn và yếu lắm. Ngày 18/5/2006, cha Đời vĩnh viễn ra đi. Mặc dù đă có nhiều nỗ lực từ trước, tôi chỉ biết tin giờ động quan vào 22 giờ đêm, mà tang lễ cử hành vào 10 giờ sáng hôm sau, nên dù cố gắng hết sức, tôi vẫn không lấy được vé máy bay để đến đưa tiễn cha về nơi an nghỉ cuối cùng. Thật vô cùng ân hận. Có một điều an ủi cho cha Đời là tang lễ của cha được cử hành hết sức trọng thể do chính Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám Mục Sài G̣n, từ Việt Nam đến Úc để chủ tế, với sự tham dự của Đức Hồng Y Edward Clancy, Đức Giám Mục Julian, địa phận Sydney và hơn 40 linh mục Việt Nam từ khắp các tiểu bang trên đất Úc về cùng đồng tế trong thành lễ an táng.
LM. Mai Văn Hùng & LM. Nguyễn Hữu Toản,
Hy vọng sau này, tôi sẽ có dịp viết về hai cha, những người đă vĩnh viễn ra đi trong tức tưởi. Các Cha là những thượng cấp nhưng đồng thời cũng là bằng hữu thân thiết nhất của tôi, sau ngày Sài G̣n sụp đổ. Để kết luận bài này, tôi muốn ghi lai câu nói hết sứ mộc mạc thân t́nh nhưng đầy ắp T́nh Người mà cha Lập đă luôn dặn ḍ chúng tôi, khi ra trường: “Mong rằng sau này, trên bước xuôi ngược của đường đời, trong khi bỡ ngỡ trước những bất trắc của cuộc sống, trong khi lo ngại trước những khó khăn của chức vụ, các bạn sẽ nhớ đến ngôi trường cũ, nhớ đến t́nh thầy nghĩa bạn và biết đâu những kỷ niệm của Viện Đại Học Đà Lạt khiêm tốn nhưng đầy thương yêu sẽ đem lại cho các bạn một vài phấn khởi…” Bây giờ, ngồi trong căn pḥng làm việc ở một đất nước cách xa Đà Lạt hàng vạn dặm, nhưng tôi cảm thấy Viện Đại Học của tôi thật gần gũi và thân thương hơn bao giờ hết, tôi có thể h́nh dung được cả một chân trời đầy những kỷ niệm êm đềm, diệu vơi của những tháng ngày đă mất. Ở đó tôi được trang bị những kiến thức căn bản để vào đời, những điều trân quư nhất là tôi đă t́m thấy nơi đây những mảnh đời mẫu mực cao quư về ư chí và t́nh người, để tôi có thể tin, để yêu và để sống trong ư nghĩa đích thực của một con người./.
Melbourne 30.4.2007. ______________________________________________ (1) Ghi chú của Lê Đ́nh Thông: Tôi học và tốt nghiệp Đại Học Sorbonne. Với sự hiểu biết về Đại Học này, tôi xác nhận từ trước đến nay, Đại Học Sorbonne (nay được gọi là Paris IV) không giảng dạy và cấp phát văn bằng về toán học. Trước 1975 không có bộ môn này. Hiện nay Đại Học Paris I mượn trụ sở tại Sorbonne mở chuyên khoa toán nhưng giảng dạy ở ngại trường sở Sorbonne: Université Panthéon-Sorbonne (Paris I) UFR de Mathémathiques et Informatiques. Maison de Sciences Économiques 106-112 bp de l’Hôpital – 75013 Paris.
|