|
GIÁO PHẬN HUẾ
KỶ NIỆM 150 NĂM THÀNH LẬP |
Nguyễn Lư Tưởng sưu tầm |
Huế là vùng đất cổ Vào thế kỷ 13, vùng đất thơ mộng này đă ḥa nhập vào Đại Việt bởi là quà tặng của Vua Chiêm Thành khi cưới công chúa Huyền Trân của nhà Trần. Nơi đây đă được Chúa Tiên Nguyễn Hoàng chọn làm Kinh Đô của xứ Đàng Trong (1558), được Vua Quang Trung chọn làm Kinh Đô của triều đại Tây Sơn (1788-1802), Vua Gia Long chọn làm Kinh Đô của triều Nguyễn (1802-1945). Và Huế là Giáo Phận Chính Ṭa (1960), là Tổng Giáo Phận, đứng đầu Giáo Tỉnh Huế.
Nửa thế kỷ Ḍng Tên đặt nền móng ở Đàng Trong (1615-1665) Đầu thế kỷ XVII, Việt Nam thuộc hai thế lực Trịnh và Nguyễn. Sông Gianh làm ranh giới Đàng Ngoài- Đàng Trong của Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn. Bối cảnh ấy đă khiến các Thừa Sai gặp rất nhiều khó khăn trong việc truyền giáo. Các nhà Chúa thường nổi giận khi tàu Âu Châu chậm đến hoặc giúp đỡ phía đối phương. Các Thừa Sai từ Nam ra Bắc hoặc từ Bắc vào Nam phải tế nhị đi ṿng qua tỉnh Macao. Từ Macao, vị Thừa Sai ḍng Tên đầu tiên đến truyền giáo ở xứ Đàng Trong là Cha Buzomi (Ư). Ngài có mặt tại Hội An vào đầu năm 1615, để lo cho Nhật Kiều và người Bồ buôn bán, đồng thời Ngài đă mở rộng truyền giáo đến Quảng Nam, Nước Mặn (Quy Nhơn) và ra phía Bắc (Thuận Hóa). Từ 1615-1665 có 25 Linh Mục và 5 trợ sĩ ḍng Tên hoạt động ở Đàng Trong. Trong số nầy có Thừa Sai Pina là người rất thông thạo tiếng Việt. Năm 1625 Cha đến Thuận Hóa và đă rửa tội cho Bà Minh Đức Vương Thái Phi, vợ lẻ của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Một Thừa Sai nổi tiếng khác là Cha Alexandre de Rhodes đă đến truyền giáo ở Huế, cư ngụ tại nhà Bà Minh Đức và đă rửa tội cho viên Quản Lư của Bà: Phêrô Văn Nết, ông đă được diễm phúc tử đạo dưới thời Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687). Cha Alexandre de Rhodes cũng đă tới Quảng Trị, Quảng B́nh rửa tội cho nhiều người (1642). Công cuộc truyền giáo của các Thừa Sai ḍng Tên ở Đàng Trong rơ ràng đă đem lại kết quả: khoảng 20.000 tín hữu, một đội ngũ Thầy Giảng, Câu Trùm... Nhưng là những kết quả khai phá. Bởi v́ các Ngài là những Linh Mục có quyền rao giảng và cử hành các bí tích, chứ không được ủy quyền tổ chức thành cơ chế để có thể tự tồn tại. Sau khi Cha Alexandre de Rhodes bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam năm 1645, Ngài đă trở về Âu Châu vận động cho có thêm Thừa Sai và có Giám Mục sang Việt Nam truyền giáo. Năm 1659, với Đoản Sắc “Super cathedram principis”, ĐGH Alexandro VII (1655-1667) quyết định tổ chức ở Việt Nam hai địa phận và giao cho hai Giám Mục người Pháp: Đức Giám Mục François Pallu làm Đại Diện Tông Ṭa ở Đàng Ngoài, gồm khu vực Chúa Trịnh và 4 tỉnh Nam Trung Quốc và Đức Giám Mục Lambert de la Motte làm Đại Diện Tông Ṭa ở Đàng Trong, gồm khu vực chúa Nguyễn, Cao Miên và Thái Lan.
Huế thuộc Địa phận Đàng Trong (1659-1844) Gần 2 thế kỷ, 16 Giám Mục Đại Diện Tông Ṭa kế tiếp nhau gian khổ cật lực và trải qua muôn vàn khó khăn đặt nền móng, xây dựng, củng cố Địa Phận Đàng Trong được trao phó cho ḿnh. Khó khăn lớn, lúc đầu, là xác lập quyền bính của các Giám Mục Đại Diện Tông Ṭa. Cuộc tranh chấp giữa các Thừa Sai ḍng Tên và các Giám Mục Đại Diện Tông Ṭa kéo dài cho tới giữa thế kỷ XVIII, khi tất cả các Thừa Sai bất cứ thuộc quốc tịch nào đều bị trục xuất (1750), chỉ trừ một Linh Mục ḍng Tên phục vụ ngự y trong triều đ́nh... Ngoài ra c̣n có sự kèn cựa giữa các Thừa Sai thuộc quốc tịch này với Thừa Sai thuộc quốc tịch khác, hay Thừa Sai của Hội Ḍng này với Thừa Sai của Hội Ḍng khác. Khó khăn lớn nhất vẫn là tính cách bất hợp pháp của Công Giáo: sự có mặt của các Thừa Sai nước ngoài trên đất Việt Nam là bất hợp pháp; người Việt Nam mang trong ḿnh hoặc tàng trữ trong nhà ảnh tượng, đồ đạo, sách đạo... đều là phạm pháp. Nhưng các vị Giám Mục Đại Diện Tông Ṭa đă nhiệt tâm xây dựng địa phận bằng việc đào tạo hàng giáo sĩ, thiết lập các chủng viện, lập ḍng Mến Thánh Giá, huấn luyện chức việc làm cơ cấu của Giáo Hội Việt Nam. Ngày 22-8-1662, Đức Cha Lambert de la Motte (1659-1679) tới Thái Lan. Ngài đặt Ṭa Giám Mục tại Ayuthia, v́ Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) đang bắt bớ người Công Giáo ở Đàng Trong. Ngài cùng với Đức Cha Pallu và các Thừa Sai họp Công Đồng Ayuthia (1664) để hoạch định đường hướng mục vụ, và lập chủng viện Thánh Giuse ở Yuthia (1665) để đào tạo các Linh Mục Thái-Việt-Hoa. Tháng 7-1664, Đức Cha đặt Cha L. Chevreuil làm Cha Chính địa phận và sai đến Đàng Trong để xác lập quyền bính của vị Đại Diện Tông Ṭa. Ở Hội An các Cha Ḍng Tên đón tiếp ngài tử tế, nhưng bất đồng quyền Đại Diện Giám Mục địa phận. Đức Cha Lambert de la Motte đến kinh lư địa phận Đàng Trong 2 lần. Lần 1 (1671-1672), từ Phan Rí Đức Cha đi đường bộ ra Hội An. Dọc đường Đức Cha thăm các giáo điểm. Cuối năm 1671, Đức Cha đến Quảng Ngăi, tại đây Đức Cha đă thành lập Tu Viện Mến Thánh Giá An Chỉ, với bản quy luật như ở Kiên Lao, Đàng Ngoài. Bà Luxia Kỳ, một quả phụ đạo đức, quảng đại dâng nhà và tài sản để chăm lo đời sống cho các nữ tu. Các nữ tu mặc thường phục để tránh sự ḍm ngó của xă hội chưa quen h́nh thức đời tu Công Giáo. Đến Hội An, ngày 19-2-1672, Đức Cha triệu tập Công Đồng Hội An. Tham dự gồm có: 6 Thừa Sai, 2 Linh Mục Việt Nam (2 Linh Mục tiên khởi của địa phận Đàng Trong: Giuse Trang và Luca Bền được Đức Cha Lambert de la Motte phong chức tại Ayuthia ngày 31-3-1668), một số Thầy Giảng, các Cha ḍng Tên được mời, nhưng không có ai đến. Trong Hội Công Đồng, Đức Cha phổ biến các sắc lệnh Ṭa Thánh đă dặt vị Đại Diện Tông Ṭa tại Đàng Trong và phổ biến nghị quyết của Công Đồng Phố Hiến ngày 24-2-1670 ở Đàng Ngoài. Ngày 29-3-1672, Đức Cha và Cha Vachet đưa 12 chủng sinh xuống tàu về Thái Lan. Cuối năm 1672, tại Ayuthia, Đức Cha phong chức Linh Mục cho Manuel Bổn, vị Linh Mục thứ 3 của Địa phận Đàng Trong. Lần thứ 2 (1675-1676), Đức Cha đến Hội An, từ Hội An Đức Cha ra Thuận Hóa. Chúa Hiền không gặp Đức Cha, v́ nhà Chúa có tang, nhưng cho phép Đức Cha đi lại thăm bổn đạo. Đức Cha ở lại Thợ Đúc 15 ngày, nhà của thợ Mật, rửa tội cho 300 tân ṭng và thêm sức 4500 người. Đức Cha đi Quảng Ngăi thăm tu viện Mến Thánh Giá An Chỉ mà Ngài đă thành lập, nhận lời khấn của các nữ tu, ngài rất hài ḷng về con cái của ngài ở An Chỉ. Trước khi rời địa phận, tại Quảng Ngăi, Đức Cha truyền chức Linh Mục cho Thầy Louis Đoan, một nhà Nho nỗi tiếng, tác giả “Sấm truyền ca”, vị Linh Mục thứ 4 của địa phận Đàng Trong. Đức Cha bổ nhiệm 8 Linh Mục (4 Pháp, 4 Việt) đến các tỉnh, rồi Ngài về Thái Lan tháng 5-1676. Ṭa Thánh đặt Đức Cha Guillaume Mahot (1680-1684) làm Giám Mục Đại Diện Tông Ṭa Đàng Trong. Cùng ngày 26-10-1682 được tấn phong Giám Mục, Đức Cha Mahot triệu tập Công Đồng Hội An II bàn về việc tổ chức quản trị địa phận: chia các xứ, họ; đặt các Thầy Giảng địa sở hoặc lưu động tháp tùng các Linh Mục; quy định nhiệm vụ các chức; và băi bỏ những lạm dụng trong việc thờ phượng. Đức Cha rất năng nổ, làm việc cật lực khiến ngài qua đời sớm (15-6-1684). Kế vị Đức Cha Mahot là Thừa Sai Joseph Duchesne (1684), Tiến Sĩ Sorbonne, giáo sư chủng viện Thánh Giuse ở Thái Lan. Ṭa Thánh đă kư sắc phong, nhưng đáng tiếc, ngài chưa nhận được sắc phong của Ṭa Thánh th́ đă qua đời sau Đức Cha Mahot 2 ngày tại Thái Lan. Đức Cha Laneau ở Thái Lan làm giám quản, đặt Cha Pierre Langlois(1680-1700) làm Cha Chính địa phận Đàng Trong. Cha P. Langlois là một trong những vị Thừa Sai Pháp nổi tiếng ở Đàng Trong. Khắp Kinh Thành Huế mọi người đều biết “Ông Cố Phêrô”. Cha là một thầy thuốc cao tay, biết phẫu thuật, thông thạo tiếng Việt, Cha soạn bộ Từ Điển Pháp Việt hơn 1500 từ và một cuốn Văn Phạm Việt Nam được các Thừa Sai hoan nghênh. Cha đến Đàng trong năm 1680, Cha được Chúa Hiền hậu đăi, cho ở trong Vương Phủ tại Kim Long. Năm 1687, Chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Trăn (1687-1690) dời Vương Phủ sang Phú Xuân, Cha Langlois dọn đến Phủ Cam. Cha xây bệnh xá và hằng ngày chẩn bệnh, phát thuốc. Trong khi chữa bệnh phần xác, Cha chiếm được nhiều con tim, đưa họ về với Chúa. Cha đă rửa tội cho nhiều quan trong đội cận vệ ở Vương Phủ, nhiều phu nhân, dân chúng. Cha quy dân, lập ấp Công Giáo: Họ đạo Phủ Cam, nay là Giáo Xứ Chính Ṭa của Tổng Giáo Phận Huế, Cha là cha sở đầu tiên. Dưới thời của Đức Giám Quản Laneau, có thêm 4 Linh Mục Việt Nam từ Thái Lan về địa phận: Cha Maurô Lộc, Phanxicô Vân (Nho), Emmanuel Lâu, Tađêô Nghiêm. Sau 7 năm không có Giám Mục, năm 1691 Ṭa Thánh phong Đức Cha Francisco Perez (1691-1728) làm Giám Mục Đại Diện Tông Ṭa Đàng Trong, lễ tấn phong tại Thái Lan. Đức Cha là người lai, cha là người Tây Ban Nha, mẹ là người Thái Lan, các Cha Thừa Sai Pháp không mấy thích Ngài. Ngày 29-7-1691, Đức Cha về nhận địa phận. Đức Cha Perez đặt Ṭa Giám Mục tại Phủ Cam. Đức Cha không chủ tâm đào tạo Linh Mục bản xứ, v́ ngài cho các vị chưa đủ tư cách, nhưng Đức Cha rộng mở cửa địa phận, đón nhận tất cả các Thừa Sai bất cứ thuộc hội ḍng nào thành tâm thiện chí giúp địa phận. Đặc biệt Ngài mời các Cha ḍng Phanxicô, từ 1719- 1834 có 30 Cha ḍng Phanxicô truyền giáo mở rộng địa phận đến tận cuối Miền Nam, Cao Miên. Các Cha ḍng Tên, tuy Ṭa Thánh ra lệnh về Ma Cao, vẫn đến Việt Nam tranh chấp quyền bính với các Thừa Sai Pháp. Năm 1688, có 3 Giáo Sĩ ḍng Tên hoạt động ở Huế. Khởi đầu đời Giám Mục của Đức Cha Perez th́ Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1726) cũng lên ngôi nối nghiệp Chúa. Nhà Chúa là người sùng Phật, đă cho xây, trùng tu nhiều chùa chiền, cho rước các sư Trung Hoa đến truyền đạo. Chúa cho đúc chuông lớn và viết bài minh ở Chùa Thiên Mụ (1700). Năm 1700, Minh Vương ra lệnh bách hại đạo, triệt hạ các nhà thờ, bắt các người có đạo làm phu phen tạp dịch, bắt đóng thuế gấp 3 lần lương dân... Đức Cha phải trốn khỏi Ṭa Giám Mục, lênh đênh trên sông nước dọc bờ biển đến tận Quảng Nam, Quảng Ngăi. Năm 1727, Đức Cha Perez đề cử một vị Giám Mục phụ tá với quyền kế vị, đó là Đức Cha Alessandro di Alexandris, quốc tịch Ư, thuộc ḍng Banabit. Ngày 29-9-1728, Đức Cha Perez qua đời, thọ 85 tuổi, 37 năm Giám Mục địa phận Đàng Trong. Năm 1728, Đức Cha Alessandro di Alexandris (1728-1738) lên kế vị Đức Cha Perez. Dưới thời Đức Cha Alessandro, địa phận mở rộng đến tận cùng Miền Nam, Thủy Chân Lạp. Các Cha Thừa Sai Pháp c̣n lại trong địa phận rất ít, chỉ 3 vị t́nh nguyện ở lại, v́ Đức Cha Alessandro không thích các Thừa Sai Pháp. Đức Cha không coi trọng việc đào tạo Linh Mục Việt Nam, v́ bị đánh giá không đủ tư cách và đức tính. Hội Thầy Giảng cũng như ḍng Mến Thánh Giá bị bỏ rơi, không được huấn luyện, đào tạo, lư do là con cái của các Thừa Sai Pháp! Năm 1724, Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin gởi 2 Linh Mục của Thánh Bộ đến: Cha Valere Rist và Cha Seraphino di Borgia. Tháng 9-1738, Đức Cha Alessandro qua đời, để lại nhiều khó khăn rắc rối về Ḍng Triều, về Lễ Nghi phong tục, quyền bính... bắt nguồn từ thời Đức Cha Perez. Đức Thánh Cha Clementê XII (1730-1740) đă cử Đức Cha Elzéar des Achards de la Baume làm Khâm Sai Tông Ṭa đến Đàng Trong. Ngày 2-6-1739 Đức Khâm Sai từ Hội An đến Huế, ở Ṭa Giám Mục Phủ Cam. Đức Khâm Sai ra một thư Luân Lưu gởi toàn thể các Thừa Sai và Tín Hữu, lời lẽ đượm t́nh cảm cha con thắm thiết. Các Thừa Sai đến chào Ngài và kư tờ tuyên thệ nhận quyền Đức Khâm Sai. Đức Khâm Sai triệu tập Đại Hội Địa Phận, Ngài lắng nghe, cân nhắc, nghiên cứu vấn đề dưới mọi phương diện, ngày 2-7-1740, Đức Khâm Sai tuyên bố quyết định phân chia ranh giới hoạt động cho các Thừa Sai như sau : - Ḍng Tên lănh trách nhiệm chăm sóc các tín hữu từ Quảng B́nh vào Huế và vùng Đồng Nai. - Các Thừa Sai Pháp từ Huế đến B́nh Thuận. - Các Thừa Sai Phanxicô từ B́nh Thuận vào Nam. Ngày 30-5-1740, Đức Khâm Sai De la Baume thành lập chủng viện Thợ Đúc. Một trang sử mới cho việc đào tạo hàng Giáo Sĩ Việt Nam tại chính trong nước và nhất là trong chính địa phận Đàng Trong, tại Huế. Chính Đức Khâm Sai chọn một khu vườn dưới chân Thành Lồi (Thợ Đúc), nằm cạnh trụ sở các Cha Thừa Sai Pháp, để xây chủng viện, thánh hiệu là Carôlô. Niên khóa đầu tiên 1740-1741 có 24 chủng sinh, chính Đức Khâm Sai làm Giám Đốc, sau đó trao lại cho Cha Chính De la Court. Sau những hành tŕnh vất vả và những cuộc kinh lược giải quyết khó khăn, Đức Khâm Sai lâm bệnh và từ trần ngày lễ Phục Sinh 2-4-1741, an táng trong nhà thờ Thợ Đúc. Cha P. Favre, thư kư Khâm Sai, tiếp tục và kết thúc cuộc kinh lược. Ngày 14-6-1741 Cha Favre rời Phú Xuân, vào Cửa Hàn, xuống tàu về Rôma, tường tŕnh Ṭa Thánh kết quả cuộc kinh lược. Đức Cha Alessandro mất năm 1738, nhưng măi đến năm 1741 Ṭa Thánh mới chọn Thừa Sai Armand Lefebvre bấy giờ ở Thái Lan lên chức giám mục. Đức Cha Armand Lefebvre (1741-1760) đến Huế và lập Ṭa Giám Mục ở Thợ Đúc, nơi có trụ sở của các Cha Thừa Sai Pháp, Ngài làm Giám Đốc chủng viện Carôlô thay thế Cha Chính De la Court qua đời. Đức Cha chú tâm đến việc đào tạo hàng Giáo Sĩ Việt Nam và tái lập Hội Thầy Giảng. Nhờ đó trong khi Vơ Vương Nhuyễn Phúc Khoát (1738-1765) trục xuất tất cả các Thừa Sai ra khỏi Đàng Trong (1750), chỉ trừ Cha Koeffler, ḍng Tên, giữ chức ngự y trong Vương Phủ và giết các tín hữu, địa phận có 3 Linh Mục do Đức Cha tấn phong và 200 Thầy Giảng làm việc. Bị trục xuất khỏi Việt Nam, Đức Cha Lefebvre đến Ma Cao, rồi sang Cao Miên (1755), Đức Cha ở một ḥn đảo nhỏ trên sông Cửu Long, giúp mục vụ cho những người đánh cá vùng Đại Hồ, liên lạc thư từ với địa phận cho tới ngày qua đời 27-3-1760, thọ 51 tuổi, 10 năm lưu đày. Ngài là Giám Mục thứ 8 của địa phận Đàng Trong. Đức Cha Guillaume Piguel (1760-1771) được chọn làm Giám Mục Tông Ṭa Đàng Trong. Địa phận chưa hết cơn bách hại, Đức Cha phải lưu lại Cao Miên. Đức Cha sống rất thanh đạm, nhà lá, áo quần mộc mạc, của cải nhận được, Ngài trợ cấp cho chủng sinh, Thầy giảng và tiếp tế cho giáo dân. Huệ Vương Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777) lên ngôi kế vị Vơ Vương, giảm bớt bách hại đạo. Các Thừa Sai âm thầm, dè dặt trở lại địa phận: 4 Cha ḍng Tên, 2 Cha ḍng Phanxicô. Các nhà thờ, nhà nguyện từ từ mọc lên. Đức Cha đi kinh lược địa phận 2 lần (1765 và 1766) viếng thăm, nâng đỡ giáo dân, v́ 15 năm không có chủ chăn, bị bắt bớ. Sau cuộc kinh lư lần thứ 2 về Cao Miên, Đức Cha ngày càng yếu, bệnh tật, và nhất là Đức Cha buồn v́ chủng viện Thánh Giuse ở Ḥn Đất bị tàn phá cuối năm 1769. Đức Cha qua đời ngày21-6-1771. Từ ngày Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613) vào “dung thân” ở Đàng Trong cho đến Huệ Vương Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777) nối nghiệp Chúa, tất cả là 10 đời. Các Chúa Nguyễn đă giữ ǵn bờ cơi chống lại Chúa Trịnh xâm lăng và mở rộng đến tận cùng Miền Nam. Nhưng từ khi Trương Phúc Loan lập con thứ 16 của Vơ Vương mới 12 tuổi lên ngôi là Huệ Vương Nguyễn Phúc Thuần, Trương Phúc Loan nắm quyền hành, thao túng nhà Chúa, ai ai cũng ghét. V́ thế ở phía Nam, tại Ấp Tây Sơn, 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ dấy binh chiếm thành Quy Nhơn (1771). Ở Bắc Chúa Trịnh Sâm đem quân vào chiếm thành Phú Xuân làm cho Chúa Nguyễn phải chạy vào Gia Định (1775). Đất nước rơi vào cảnh chiến tranh giành ngôi báu giữa ba phe: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn (1774-1801), đời sống dân chúng rất cơ khổ, đạo bị bắt bớ. Đức Cha Pigneau de Béhaine (1771-1799) kế vị, coi sóc địa phận Đàng Trong. V́ chiến tranh, Đức Cha chỉ hoạt động mục vụ ở Miền Nam, c̣n các tỉnh ở phía Bắc địa phận trao cho Đức Cha phụ tá Jean Labartette (1782-1799). Đức Cha Labartette đặt Ṭa Giám Mục tại Di Loan, rồi Cổ Vưu tỉnh Quảng Trị, nhưng 11 năm sau Đức Cha mới được tấn phong. Hàng Giáo Sĩ của Đức Cha Labartette có: 2 Thừa Sai, Cha Longer và Darcet, 3 Linh Mục Việt Nam, 4 Linh Mục ḍng Tên. 6 Tu viện Mến Thánh Giá đông đến 200 nữ tu. Mặc dù chiến tranh, cuộc sống thiếu thốn, khó khăn, Đức Cha vẫn quan tâm việc đào tạo hàng giáo sĩ bổn quốc và các Thầy Giảng. Đức Cha mở chủng viện Ḥa Ninh (1784-1801) rồi dời vào An Ninh (1801-1820) ở Quảng Trị, đặt Cha Longer làm Giám Đốc. Sau 8 năm đánh nhau (1771-1778), anh em Tây Sơn diệt được Chúa Nguyễn ở Đàng Trong, Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế lập nên triều đại Nhà Tây Sơn. Nguyễn Huệ ra Bắc diệt được Chúa Trịnh chuyên quyền, tôn pḥ Vua Lê, nhưng Vua Lê Chiêu Thống đă rước quân xâm lược Măn Thanh vào Thăng Long, nên Nguyễn Huệ xưng Vương, hiệu Quang Trung (1788), đem quân đi đánh giặc Tàu. Vua Quang Trung chỉ làm Vua được 4 năm th́ qua đời (1792), Thái Tử Quang Toản lên ngôi, lấy hiệu Cảnh Thịnh (1792-1802). Cuối năm 1797, Vua Cảnh Thịnh bắt được một bức thư của Nguyễn Ánh gởi cho Đức Cha Labartette, nhà Vua nghi ngờ người Công Giáo tiếp tay cho giặc, nên tháng 8-1798 Vua ra chiếu chỉ cấm đạo. Ở Dinh Cát (Quảng Trị), quân Tây Sơn sát hại người Công Giáo, quan quân bày ra đủ tṛ dă man hành hạ, nhiều giáo hữu đă chạy vào rừng vắng La Vang ẩn trốn. Theo truyền lại Đức Mẹ đă hiện ra (1798) với những giáo hữu hằng ngày họp nhau dưới gốc cây đa cổ thụ đọc kinh Mân Côi. Tại Phú Xuân, Cha Emmanuel Nguyễn văn Triệu bị bắt ngày 7-8-1798 và bị chém đầu ngày 17-9-1798 tại Băi Dâu. Đức Cha Pigneau de Béhaine trong khi lánh giặc ở Thái Lan gặp Nguyễn Ánh, đă đi mộ người, đi mua khí giới cho Nguyễn Ánh chống lại Tây Sơn, v́ Đức Cha nghĩ Chúa Nguyễn mới là chủ của Đàng Trong, và hy vọng một vị Vua có cảm t́nh với đạo sẽ dành nhiều dễ dăi cho Giáo Hội. Nhiều Thừa Sai đă lên tiếng phản đối Ngài quên bổn phận tông đồ, dấn thân vào chính trị, chính Đức Cha đă nhiều lần thanh minh. Đức Cha Pigneau de Béhaine qua đời tại Diên Khánh năm 1799, trút gánh nặng trên vai Đức Cha Jean Labartette (1799-1823). Nguyễn Ánh nhờ có Pháp ngoại viện, hằng năm từ Gia Định đem quân ra đánh Tây Sơn, chiếm được Quy Nhơn (1799), Phú Xuân (1801), diệt được nhà Tây Sơn. Ngày 31-5-1802 Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng Đế lấy hiệu là Gia Long (1802-1819), đặt quốc hiệu Việt Nam và từ nay Phú Xuân là Kinh Đô Huế, thống nhất nước nhà bị chia cắt 150 năm từ thế kỷ XVI. Vua Gia Long nhớ công ơn của Đức Giám Mục Pigneau, nên rất nhân nhượng đối với các Thừa Sai Pháp. Đạo v́ vậy mà được một thời yên ổn dưới triều Vua Gia Long. Nhưng Vua Gia Long đă không pḥ Công Giáo như các Thừa Sai mong muốn, trái lại nhà Vua càng ngày càng nghi ngờ và lo sợ trước sự có mặt và ảnh hưởng của các Thừa Sai nước ngoài. Năm 1803, lợi dụng t́nh thế yên ổn, Đức Cha Labartette họp Công Đồng địa phận, bàn hướng đi và hành động trong t́nh thế mới. Đức Cha muốn chọn một vị phụ tá, nhưng chưa biết hết các Thừa Sai có mặt trong địa phận. Đức Cha lập một phái đoàn Giám Mục đến triều đ́nh xin Vua Gia Long ban chiếu chỉ bênh vực đạo Công Giáo, nhưng Vua chỉ cho phép các Thừa Sai được tự do giảng đạo, người Công Giáo được tự do giữ đạo và hứa sẽ nghiêm trị những ai ức hiếp đạo. Năm 1808, Đức Cha tấn phong Thừa Sai Jean Doussain làm Giám Mục Phụ Tá, nhưng vị Tân Giám Mục qua đời năm đó. Năm 1818, Đức Cha lại tấn phong Cha Jean Audemar làm Giám Mục Phụ Tá, nhưng 3 năm sau Đức Cha phó vội vĩnh biệt Đức Cha già về Nhà Chúa. Đức Cha Labartette càng ngày càng già yếu, các Thừa Sai chết dần mà không có vị nào đến thêm, v́ ảnh hưởng của Cách Mạng Pháp 1789. Các Cha ḍng Phanxicô cũng trao những xứ đạo của ḿnh cho các Thừa Sai Pháp mà về Manila. Địa phận lúc nầy chỉ có: Đức Cha Labartette, 80 tuổi, 4 Thừa Sai Pháp, 18 Linh Mục Việt Nam, 2 Cha ḍng Capuxinô người Ư, mấy chục Thầy giảng, và hơn 400 nữ tu Mến Thánh Giá sinh hoạt trong 16 tu viện ở khắp địa phận. Đức Cha Labartette lâm bệnh và qua đời ngày 6-8-1822 tại Cổ Vưu, sau khi đă nếm đủ mùi gian khổ, hết nội chiến đến cấm cách, hai lần bị giam tù gông cùm. Vua Gia Long băng hà (1819), Hoàng Tử Đảm lên ngôi lấy hiệu là Minh Mạng (1820-1840). Những năm đầu Vua Minh Mạng chưa ra tay bách hại đạo, địa phận c̣n được b́nh an. Khi Đức Cha Labartette qua đời (1822), Ṭa Thánh đặt Thừa Sai Taberd (1827-1840) làm Giám Mục Đàng Trong, măi đến năm 1830, ngài mới được tấn phong ở Thái Lan. Vua Minh Mạng chỉ thực sự cấm đạo từ năm 1833. Nhưng trong chiếu chỉ 1825, Vua phê phán các Thừa Sai mê hoặc ḷng dân và làm bại hoại phong tục, Vua bắt đầu khắt khe với đạo. Vua “bế môn tỏa cảng”, cấm không cho “Tây dương đạo trưởng” xâm nhập và đồng thời bắt quản chế tại Cung Quán các Thừa Sai đă có mặt tại Việt Nam, ban cho bổng lộc, làm phiên dịch cho nhà Vua, cố ư kiểm soát hoạt động truyền giáo của các Ngài. Tả Quân Lê Văn Duyệt can thiệp với nhà Vua trả lại tự do cho các Ngài năm 1828. Trong 3 chiếu chỉ liên tiếp, Vua Minh Mạng ra lệnh cấm đạo. Chiếu chỉ 1833 viết: “...Ai trót theo đạo muốn hối th́ phải bỏ đạo, quá khóa th́ được miễn tội...”. Chiếu chỉ 1836 Vua hạ lệnh “...nếu là Tây dương đạo trưởng, chiếu theo luật trinh sát, ngoại quốc lén vào trong nước mà khép tội chém”. Chiếu chỉ 1838 Vua Minh Mạng dạy “ Sở dĩ người Công Giáo không chịu bỏ đạo, v́ họ kém văn hóa, chưa biết cái tốt đẹp của các đạo khác”, nên Vua ra “Thập điều”, bắt các quan dạy cho dân chúng. Các thánh tử đạo dưới triều Minh Mạng (đặc biệt thuộc địa phận Huế): Thánh Thừa Sai Francois Isidore Gagelin (Kính) ngày 18-10-1833, Thánh Phaolô Tống Viết Bường ngày 23-10-1833, Thánh Thừa Sai Joseph Marchand (Du) ngày 30-11-1835, Thánh Anrê Trần Văn Trông ngày 28-11-1835, Thánh Thừa Sai Francois Jaccard (Phan) ngày 21-9-1838, Thánh chủng sinh Tôma Trần Văn Thiện ngày 21-9-1838, Thánh Linh Mục Vinh Sơn Nguyễn Thế Điểm ngày 24-11-1838, Thánh Antôn Nguyễn Hữu Năm ngày 10-7-1840, Thánh Simon Phan đắc Ḥa ngày 18-12-1840. Từ ngày Vua Minh Mạng ra lệnh bắt đạo toàn quốc (1833), Đức Cha Taberd phải lánh qua Thái Lan. Thái Lan và Việt Nam lại đánh nhau, Đức Cha lại phải lánh sang Singapore (1834). Từ nơi xa Đức Cha và các Thừa Sai hướng ḷng về con cái bị bắt bớ đau thương. Ngày 3-5-1835 Đức Cha Taberd chọn Cha Cuénot làm Giám Mục Phụ Tá và sai về coi sóc địa phận thay thế Đức Cha. Đức Cha sống những ngày cuối đời ở nước ngoài và qua đời tại Calcutta năm 1840. Đức Cha Cuénot (Thể) đến Đà Nẵng ngày 26-6-1835, nhưng không thể ra Huế được, Ngài phải vào trốn tránh ở G̣ Thị (Quy Nhơn). Đức Cha đến Việt Nam đúng lúc kịp thời băng bó vết thương cho con cái trong cơn bách hại đạo. Trong 26 năm Đức Cha sống “hầm trú”, không đi đâu được, chỉ viết thư Luân Lưu, dọn bài giáo lư gởi đi khắp các họ đạo cổ vơ các Linh Mục, các Thầy Giảng, không có một việc ǵ xảy ra trong địa phận mà Ngài không hay biết. Linh Mục cũng như giáo dân cảm thấy ḿnh có người nâng đỡ, lên tinh thần nhiều. Năm 1836, Đức Cha Cuénot phong chức 10 Linh Mục Việt Nam, trong đó Huế có 3 Linh Mục: Cha Gioan Đoạn Trinh Hoan người Vân Dương, Cha Tađêô Phan Văn Thận người Kẻ Sen, Cha Nhân người Gia Môn. Đồng thời đặt Cha Lefebvre làm Giám Đốc, tái lập chủng viện Cái Nhum (Sài G̣n), cử Cha Candalh tổ chức lại chủng viện Di Loan (Quảng Trị). Và Đức Cha cũng tập trung được 250 nữ tu Mến Thánh Giá trong 18 tu viện. Riêng Huế, tại Quảng B́nh có Tu Viện MTG Trung Quán, Mỹ Hương, Kẻ Bàng. do Cha Gioan Đoạn Trinh Hoan phụ trách. Tại Quảng Trị có tu viện Di Loan, Nhu Lư. Tại Thừa Thiên có tu viện Dương Sơn, Thợ Đúc. Đức Cha Taberd qua đời (1840), Đức Cha Cuénot (Thể) (1840-1861) kế vị. Đức Cha tận dụng giai đoạn b́nh yên dưới triều Vua Thiệu Trị (1841-1847) mở Công Đồng G̣ Thị (1841), quyết định gởi lại chủng sinh du học Pinang, nhưng về nước mới thụ phong. Ngài cử nhiều Thừa Sai và Thầy Giảng đi truyền giáo ở Kontum, Ban Mê Thuuột. Trong địa phận, Ngài tổ chức học hỏi cho các Linh Mục hằng năm, thi đua truyền giáo giữa các xứ đạo. Với người đă chối đạo, Ngài yêu cầu họ mời gọi một tân ṭng khác nhập đạo. Số tín hữu gia tăng nhanh. Đức Cha sưu tầm và viết lại lịch sử các vị tử đạo trong địa phận Đàng Trong. Và nhất là Đức Cha c̣n cho xuất bản những sách đạo: 4 Phúc Âm, Gương Chúa Giêsu, Bài gẫm, Tứ Chung... đặc biệt Đức Cha phiên dịch cuốn “La vérité du Christianisme démontrée aux paiens” (Tŕnh bày chân lư Công Giáo cho người lương), sách rất hay, dịch rất tuyệt. Năm 1844 Ṭa Thánh tách địa phận Đàng Trong thành hai: Tây Đàng Trong (Sài G̣n) giao cho Đức Cha Lefebvre (Nghĩa) 1844-1864, và Đông Đàng Trong (Quy Nhơn) vẫn được Đức Cha Cuénot (Thể) phụ trách. Năm 1850 Ṭa Thánh lại chia Đàng Trong thành 4 địa phận : - Bắc Đàng Trong (Huế) giao cho Đức Cha Pellerin (Phan) (+1862) - Đông Đàng Trong (Quy Nhơn) giao cho Đức Cha Cuénot (Thể) - Tây Đàng Trong (Sài g̣n) giao cho Đức Cha Lefebvre (Nghĩa) - Nam Đàng Trong (Nam Vang) giao cho Đức Cha Miche (Mịch) (+1873). Đức Cha Cuénot qua đời ngày 14-11-1861 trong nhà tù B́nh Định v́ bệnh kiết lỵ. Dù Ngài đă chết rủ tù, nhưng Vua Tự Đức bắt phải đào xác lên chém đầu. Ai nấy đều ngạc nhiên v́ chôn đă 3 tháng 17 ngày rồi mà xác vẫn c̣n nguyên vẹn. Đức Cha sống ở Việt Nam 34 năm, không có lấy một ngày “an nhàn tự tại”.
THÀNH LẬP, XÂY DỰNG ĐỊA PHẬN HUẾ Ngày 27-8-1850, Đức Thánh Cha Grégôriô XVI kư sắc lệnh “Pastulat Apostolici” thiết lập địa phận Bắc Đàng Trong (từ năm 1924 sẽ gọi Địa phận Huế), bao gồm tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị và một phần Quảng B́nh, từ sông Gianh đến đèo Hải Vân, trao cho Đức Cha Francois Marie Pellerin (Phan) (1850-1862) cai quản. Năm 1851, Đức Cha Pellerin ra Huế nhậm chức. Ngài đặt Ṭa Giám Mục tại Di Loan. Hàng Giáo Sĩ chỉ có 2 Thừa Sai Pháp, là Cha Sohier ở Di Loan, Cha Galy ở Kẻ Sen, 12 Linh Mục Việt Nam, quá nửa đă già yếu, bệnh tật. Khoảng 24.000 giáo hữu. Ngày 17-8-1851, Đức Cha tấn phong Giám Mục cho Cha Sohier làm phụ tá tại Di Loan trong cảnh nghèo hèn “gậy tre, mũ giấy”, lén lút, nhưng các Linh Mục, các Bà Bề Trên Tu Viện, các Ông Câu Trùm đến tham dự đông đảo.
Địa phận Huế mới khai sinh đă bị thử thách! Đầu triều Vua Tự Đức (1848-1883), các Thừa Sai lạc quan hy vọng vị Tân Vương sẽ ban hành một chỉ dụ giải tỏa cho Công Giáo. Nhưng do việc Hồng Bảo là con của Vua Thiệu Trị, anh cả của Vua Tự Đức, nhiều lần mưu toan cướp lấy ngai vàng, Vua Tự Đức và triều đ́nh Huế nghi ngờ là có các Thừa Sai và người Công Giáo đứng đàng sau các mưu toan của Hồng Bảo, nên đă ban hành những sắc dụ Cấm Đạo rất có hệ thống và quyết liệt : Sắc dụ năm 1851, Vua Tự Đức hạ lệnh “...bắt và liệng xuống sông tất cả các Tây dương đạo trưởng... chặt làm đôi các đạo trưởng Việt Nam, dù đạp hay không đạp lên Thập tự.... chặt các kẻ oa trữ đạo trưởng...”. Sắc dụ 1855 Vua ra hạn “các quan ở tỉnh 3 tháng để xuất giáo, dân chúng và binh sĩ được 6 tháng để bỏ đạo. Phải đốt tất cả các nhà thờ, nhà xứ; cấm giáo hữu không được tập trung”. Sắc dụ 1857 Vua dạy: “khắc vào má hai chữ Tả Đạo và tên làng” cho giáo hữu; “những ông quan chễnh mảng phải mất chức”. Sắc dụ 1859 Vua ra lệnh “bắt các Chức việc họ, Thầy Giảng”. Sắc dụ 1860 Vua Tự Đức truyền cấm không cho đàn bà, con nít ra khỏi làng “v́ chúng dùng những đàn bà xấu nết mà chúng gọi là trinh nữ, là bà phước để giấu diếm các đồ thờ, để đưa thư từ và tin tức”. Cuối cùng Vua Tự Đức hạ một sắc dụ quyết liệt có ư tản mác người Công Giáo đi khắp nơi trong nước giữa lương dân để tận diệt, gọi là “Phân Sáp” (1861). Các Thánh tử đạo dưới triều Tự Đức (thuộc Huế): Thánh Micae Hồ Đ́nh Hy, quan Thái Bộc, ngày 22-5-1857, Thánh Phanxicô Trần Văn Trung ngày 6-10-1858, Thánh Giuse Lê Đăng Thị ngày 24-10-1860, Thánh Linh Mục Gioan Đoạn Trinh Hoan ngày 26-5-1861, Thánh Mathêô Nguyễn Văn Phượng ngày 26-5-1861, Thánh Giám Mục Têphanô Cuénot Thể ngày 14-11-1861. Mặc dù lo trốn tránh Nhà Cầm Quyền bắt bớ, Đức Cha t́m mọi cách tiếp xúc với giáo dân, dạy dỗ chủng sinh, đào tạo hàng giáo sĩ tương lai. Đức Cha chỉnh đốn các Tu Viện Mến Thánh Giá, dạy sống theo quy luật ḍng, dạy đọc kinh chung giống nhau trong mọi Tu Viện. Đức Cha tổ chức các Hội trong địa phận (Hội Đức Bà Môi Khôi, Hội Đức Bà Phù Hộ Các Giáo Hữu), dạy làm những việc đạo đức (làm việc Trái Tim ĐCG, Trái Tim Đức Bà, Kính 7 sự thương khó Đức Mẹ, Tuần Cửu Nhật). Đức Cha cho in sách “Mục lục”, sách “Kinh nghĩa” để giáo hữu trong địa phận đọc và học. Tù tháng 10-1856, địa phận bị bắt bớ quá căng thẳng, Đức Cha sang Macao rồi về Pháp. Đức Cha có yết kiến Vua Napoléon III (Pháp) tŕnh bày về t́nh h́nh tôn giáo, chính trị hồi đó. Sau cuộc yết kiến đó Vua Pháp gởi quân sang gây hấn Việt Nam, làm cho Vua Tự Đức càng tức giận, ra lệnh bắt bớ, giết hại nhiều người Công Giáo hơn. Năm 1856, Đức Cha Pellerin trở lại Việt Nam, nhưng không vào được địa phận, Ngài phải sống lang thang, khi th́ ở Hồng Kông, khi th́ ở Mă Lai và Ngài qua đời ngày 13-9-1862, an táng tại Pinang, hưởng thọ 49 tuổi, làm Linh Mục được 27 năm, Giám Mục được 17 năm. Những năm Vua Tự Đức bắt đạo ác liệt, Đức Cha phụ tá Sohier ở tại Kẻ Sen để lo chủng viện. Kẻ Sen là xứ ở gần núi dễ trốn tránh. Trong ṿng 10 năm quan quân lùng bắt Đức Cha nhiều lần mà không được, nên báo cáo với Vua Tự Đức là Đức Cha Sohier đă chết. Ngày 13-9-1862, Đức Cha Pellerin qua đời, Đức Cha Sohier (1862-1876) lên kế vị cai quản địa phận. Năm 1862, Triều Đ́nh Huế kư ḥa ước Nhâm Tuất với liên quân Pháp-Tây Ban Nha, ở điều 1 có quy định về tự do theo đạo Công Giáo, nhưng Vua Tự Đức không nói đến điều khoản đó, mà nhà Vua chỉ tuyên bố: nhân ngày sinh của nhà Vua, nhà Vua ân xá cho những tù nhân, trong đó có người Công Giáo. Năm 1863, Đức Cha Sohier thấy t́nh h́nh yên ổn, đă rời Kẻ Sen, đến đặt Ṭa Giám Mục tại Kim Long. Lần đầu tiên Đức Cha xuất hiện tại Sứ Quán trong Kinh Thành Huế, làm cho Vua Tự Đức hết sức tức giận, ra lệnh cách chức các quan đă chễnh mảng không chịu truy nă, bắt giết vị Giám Mục. Lợi dụng sắc dụ tha đạo của Vua Tự Đức, Đức Cha triệu tập tất cả các Cha về Ṭa Giám Mục Kim Long tĩnh tâm (1864). Đây là một biến cố lớn của địa phận! Trong dịp tĩnh tâm nầy Đức Cha quy định nhiều việc đến hôm nay c̣n thực hành: - Kể từ nay, mỗi Linh Mục được sai đi phục vụ đều có “Bài Sai” chỉ nơi, ranh giới rơ ràng. - Mỗi địa sở phải có nhà thờ, nhà xứ, giáo dân. - Mỗi giáo xứ phải có sổ Bí Tích, kê khai đầy đủ lư lịch từng người, gia đ́nh. - Các Cha phải chăm lo mục vụ, tránh gương xấu, lo dạy giáo lư. - Chỉnh đốn lại các Tu Viện Mến Thánh Giá. - Nhất là phải tuyển chọn các chủng sinh có tính t́nh, khả năng tốt hơn vào chủng viện Di Loan. Ngày ra pḥng, 23-1-1864 Đức Cha phong chức Cha Giuse Hồ Đ́nh Tính, con của Thánh Tử Đạo Micae Hồ Đ́nh Hy và Cha Luca Tín, người Mỹ Hương, Quảng B́nh. Các quan trong triều, bạn của Thánh Tử Đạo Hồ Đ́nh Hy ngày trước đến tham dự. Đức Cha Sohier lập sở Dục Anh Thanh Tân để nuôi dạy con cái mồ côi của những gia đ́nh bị “phân sáp” trong cuộc bách hại vừa qua. Đức Cha đặt Cha Hồ Đ́nh Tính làm Cha sở và đồng thời quản lư sở Dục Anh. Đức Cha c̣n canh đất Ba Trục làm sở “Tài chính” cho địa phận. Sau khi chấn chỉnh lại địa phận, ngày 10-7-1864 Đức Cha đi Âu Châu kiếm tài chánh lo địa phận và kiến thiết các cơ sở tôn giáo. Ngài trao địa phận lại cho Cha Chính Roy và Cha quản lư Bernard. Đức Cha không những chỉ lo cho Địa Phận, Ngài cũng rất tích cực giúp đất nước Việt Nam. Vua Tự Đức muốn nhờ Đức Cha chiêu mộ những giáo sư người Pháp đến Việt Nam mở một Đại Học theo lối Âu Châu tại Kinh Thành Huế, nhưng các quan triều đ́nh phản đối, Vua Tự Đức phải đ́nh chỉ công việc. Tháng 6-1876, Đức Cha đi kinh lược tỉnh Quảng B́nh, khi tới họ Kẻ Sen, Đức Cha bị kiết lị qua đời ngày 3-9-1876, an táng tại Kẻ Sen. Hưởng thọ 58 tuổi, 34 năm làm Linh Mục, 23 năm Giám Mục. Lao đao khổ sở v́ con cái Chúa! Ṭa Thánh chọn Cha Jean Pontiane (Phong) (1877-1879) làm Giám Mục địa phận. Thánh lễ truyền chức được cử hành tại Nhà Thờ Chính Ṭa Kim Long ngày 12-5-1878. Nhưng chẳng mấy chốc Đức Cha lâm bệnh, phải sang Hồng Kông chữa bệnh, giao công việc cho Cha Chính Dangelzer. Ngài qua đời ngày 30-7-1879, thi hành chức vụ Giám Mục được 14 tháng, thọ 40 tuổi. Một năm sau khi Đức Cha Pontviane qua đời, Ṭa Thánh chọn Cha Antoine Caspar Lộc (1880-1907) đang phục vụ địa phận Saigon làm Giám Mục địa phận Huế. Lễ tấn phong ngày 24-8-1880 tại Saigon. Đầu tháng 9-1880, Đức Cha tới Huế nhậm chức. Đức Cha đi thăm các Cha, nhất là Đức Cha ở lại với các Cha vùng sâu vùng xa vài hôm có khi vài tuần để dạy giáo lư, ban các bí tích, cảm thông đời sống của các Cha. Đức Cha quan tâm đến việc đào tạo hàng giáo sĩ bản quốc. Đức Cha lo kiến thiết chủng viện An Ninh. Đức Cha ra lệnh cho Cha Bề trên Bonin (Cố Ninh) xây nhà nguyện chủng viện bằng gạch, có tháp cao và một nhà nguyện kính Đức Bà. Xây nhà lầu hai tầng làm pḥng ngủ, pḥng học cho các chú. Đức Cha khánh thành cơ sở chủng viện ngày 21-11-1905 rất trọng thể. Năm 1882, Đức Cha xây chủng viện mới ở Thợ Đúc, thay thế chủng viện ở Kim Long. Đức Cha đến Huế chưa được bao lâu, th́ xảy ra thảm cảnh Văn Thân “B́nh Tây Sát Tả” 1883-1886, gây tang tóc lớn cho địa phận. Vua Tự Đức qua đời ngày 16-6-Quư Mùi (1883), không có con nối ngôi, nên đă xảy ra cảnh “tứ nguyệt tam vương” 1883-1884, truất phế rối reng trong Triều Đ́nh do các đại thần Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết chủ mưu: - Vua Dục Đức làm Vua được 2 ngày (24-7-1883). - Vua Hiệp Ḥa làm Vua được 4 tháng (30-7-1883). - Vua Kiến Phúc làm Vua được 8 tháng (2-12-1884). Lợi dụng cơ hội rối reng của Triều Đ́nh Huế,quân Pháp tấn công miền Bắc và đem tàu đánh chiếm Thuận An ngày 21-8-1883. Triều Đ́nh phải kư kết Ḥa Ước Quư Mùi (1883). Khởi đầu sự bảo trợ của người Pháp trên đất Việt Nam. Trong lễ kư kết này Triều Đ́nh Huế có mời Đức Cha Caspar Lộc làm người trung gian giữa hai chính phủ Pháp Việt. Khi thấy Triều Đ́nh Huế kư kết nhiều Ḥa Ước bất lợi cho Việt Nam, Văn Thân, một đảng xuất xứ từ nghệ An năm 1874, bất măn với Triều Đ́nh, đâm ra hận thù luôn người Công Giáo, nên họ đă hành động “B́nh Tây Sát Tả”. Cuối năm 1883, Văn Thân bắt đầu giết hại người Công Giáo các họ đạo ở phía Nam Thừa Thiên (Châu Mới, Nước Ngọt, Cầu Hai, Truồi); các họ đạo ở phía Tây Thừa Thiên (Buồng Tằm). Đêm 4 rạng ngày 5-7-1885, Tôn Thất Thuyết ra lệnh tấn công đồn Mang Cá và đồn Ṭa Khâm của Pháp. Quân của Tôn Thất Thuyết đánh rất anh dũng nhưng vũ khí quá thô sơ, nên bị thất bại. Tôn Thất Thuyết hộ giá Vua Hàm Nghi (1884-1885) chạy ra Tân Sở, Quảng Trị. Tôn Thất Thuyết mở chiến dịch “Cần Vương, Bài ngoại, Sát tả”. Từ ngày đó Văn Thân lại bao vây và giết hại người Công Giáo ở Dinh Cát, Quảng Trị (1885-1886), ở Quảng B́nh (1886). Cả Địa phận 12 Linh Mục, một vạn giáo hữu, nhà thờ, ruộng vườn của cải... bị Văn Thân sát hại, đốt phá... Một không khí sục sôi bạo động, huynh đệ tương tàn, nồi da nấu thịt rất đáng tiếc! Vua Hàm Nghi bôn tẩu, Pháp đă đưa Đồng Khánh lên ngôi Vua (1885-1888). Đồng khánh là vị Vua đầu tiên của Triều Nguyễn thừa nhận nền Bảo Hộ của người Pháp. Tạm yên nạn Văn Thân, Đức Cha Caspar Lộc dạy t́m kiếm giáo dân và giúp dân đoàn tụ lại với gia đ́nh. Giáo hữu về lại xứ, xây dựng lại nhà cửa, nhà thờ. Đức Cha vận động chính phủ hai nước Pháp Việt, các ân nhân, để tái thiết địa phận. Đức Cha đặt lại các Cha coi sóc bổn đạo, xây các lăng Tử Đạo, ghi tên các vị Tử Đạo do Văn Thân gây nên: Ḥa Viện, Gia Liêm, Hoan Thịnh (Kẻ nghĩa), Cổ Vưu (Trí Bưu), Nhu Lư, An Lộng, Đầu Kinh, Phúc Lộc, Bích khê, Dương Lệ, Đại Lộc, Dương Lộc, Đồng Giám, Kẻ Vịnh, Kẻ Văn, Gia B́nh, Bái Sơn, Gia Môn, Cao Xá, Loan Lư, An Lễ, Ba Ngoạt, Mỹ Phước, Buồng Tằm, Châu Mới. Kế vị Vua Đồng Khánh là 2 Vua ái quốc bị Pháp đem đi đày: Vua Thành Thái (1889-1907) và Vua Duy Tân (1907-1916). Đức Cha Caspar Lộc mời các Bà Saint Paul de Chartres đến Huế lo việc từ thiện. Ngày 25-1-1889 Soeur Ignace de Marie Fournier, Soeur Philomène Seive (người Pháp) và 3 bà Việt Nam đến lo nhà Dục Anh. Các bà mở trường Jeanne d’Arc và giúp viện Pasquier. Năm 1904, Đức Cha rước các Sư Huynh Lasan đến Huế mở trường dạy học. Sư huynh Agilbert sáng lập trường Pellerin (sau đổi lại B́nh Linh). Các Sư Huynh mở thêm nhà Đệ Tử, nhà Tập, nhà Hưu Dưỡng cho các Thầy. Cha Léculier (Cố Lựu), cha sở Phủ Cam kiêm tuyên úy cộng đoàn từ 1904-1911. Ngoài việc từ thiện, văn hóa, Đức Cha lo mua đất ruộng để tạo nguồn thu chi cho địa phận. Có tới 800 mẫu ruộng thuần thục ở các làng Nông, Truồi, Phù Bài, Lương Văn, Tô Hà, Thần Phù, Vinh Ḥa, Ḥa An, Nam Trường, Phú Thứ... Đặc biệt Đức Cha chú tâm đến anh chị em dự ṭng, tân ṭng. Đức Cha đặt những cha chuyên lo việc dạy giáo lư cho những anh chị em xin gia nhập đạo.Có những gia đ́nh hoàng phái theo đạo, con cái làm Linh Mục. Trước đây số giáo hữu chừng 18.000, nay trong đời Ngài lên tới 62.000. Nhưng Đức Cha cũng rất khổ tâm, v́ từ năm 1896-1900 có một số quan chức Việt cũng như Pháp chẳng ưa ǵ người Công Giáo, đă khuyến khích hoặc bắt ép anh chị em tân ṭng “cải giáo hoàn lương”. Có nhiều tân ṭng v́ quá sợ hăi đă đem tượng ảnh trả lại cho các Cha và trở lại lương. Một khởi sắc trong địa phận là có nhiều nhà thờ lợp ngói. Đức Cha là người đầu tiên xây nhà thờ lợp ngói Chính Ṭa Kim Long (1880). Các Cha Pháp cũng như Việt đă xây các nhà thờ lợp ngói.Cuối năm 1885 Cha Allys xây nhà thờ Phủ cam rất đẹp, năm 1961 Đức Cha Ngô Đ́nh Thục triệt hạ để xây ngôi nhà thờ hiện đại hiện nay. Hai sự kiện nổi bật trong đời Đức Cha: Ngày 27-5-1900, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII phong 64 Chân Phước cho các vị Tử Đạo Việt Nam, trong số này có 9 vị thuộc địa phận Huế: 1. Emmanuel Nguyễn Văn Triệu tử đạo 17-09-1798 2. Isiđôrô Gagelin (Kính) tửû đạo 18-10-1833 3. Phaolô Tống Viết Bường tử đạo 23-10-1833 4. Anrê Trần Văn Trông tử đạo 28-11-1835 5. Phanxicô Jaccard (Phan) tử đạo 21-09-1838 6. Tôma Trần Văn Thiện tử đạo 21-09-1838 7. Vinh Sơn Nguyễn Thế Điểm tử đạo 4-11-1838 8. Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh (Năm) tử đạo 10-07-1840 9. Ximong Phan Đắc Ḥa tử đạo 18-12-1840 Một sự kiện lịch sử khác của địa phận là Đại Hội La Vang (1901) và Đức Cha ra thông lệ cứ 3 năm một lần mở Đại Hội vào giữa tháng 8. Trong Đại Hội này Đức Cha khánh thành Đền Thánh Đức Mẹ Lavang. Dưới thời Đức Cha Caspar có hai vị Thừa Sai người Pháp nhập tịch địa phận Huế rất danh tiếng: Đó là Cha Léopold Cadière (1892-1955), sử gia, nhà Huế học và Cha Henri Denis (1903-1933), tổ phụ Ḍng Phước Sơn Việt Nam. Năm 1906, Đức Cha về Pháp chữa bệnh và từ chức năm 1907. Đức Cha hưu trí tại quê nhà Obernai (Alsace) cho đến lúc qua đời ngày 13-6-1917, hưởng thọ 75 tuổi, làm Linh Mục được 52 năm và 37 năm Giám Mục. Ṭa Thánh chọn Cha Eugène Marie Allys (Lư) (1908-1931) làm Giám Mục địa phận. Lễ tấn phong Giám Mục tại nhà thờ Phủ Cam ngày 24-5-1908. Việc đầu tiên của tân Giám Mục là di chuyển Ṭa Giám Mục từ Kim Long về Phủ Cam và lấy nhà thờ Phủ Cam làm chánh ṭa. Đức Cha sống rất đơn giản, ăn uống đạm bạc, Đức Cha dồn hết mọi công sức lo cho các người dự ṭng, và phát triển địa phận. Đức Cha nhờ cụ Nguyễn Hữu Bài mua lại các vườn tư ở gần sông Phủ Cam và giao cho Cha Léculier xây Ṭa Giám Mục và sở Quản Lư địa phận. Năm 1909, Đức Cha về ở Ṭa Giám Mục mới. Đức Cha đặt Cha Stoeffler (Thể) làm cha sở Phủ Cam và Cha Léculier làm quản lư địa phận đồng thời làm tuyên úy cho hai trường Pellerin và Jeanne d’Arc. Đức Cha cũng mua một thửa đất xây nhà thờ Phanxicô, khánh thành ngày 15-8-1918 và đặt cha Léculier làm cha sở đầu tiên họ này. Đức Cha lại c̣n mua một thửa vườn khá rộng ở phố Gia Hội, xây một nhà thờ nhỏ giao cho cha sở Nam Phổ kiêm, lập nên họ Gia Hội. Ở tại Gia Hội các Sư Huynh La San cũng mua một thửa vườn lập trường tiểu học Thánh Louis, về sau trao lại cho các Chị Ḍng Phú Xuân gọi là trường Mai Khôi Gia Hội. Ở trong nội, dù các Quan phản đối, nhưng nhờ sự trung gian của cụ Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài, Vua Duy Tân cho phép Đức Cha xây một nhà thờ gọi là nhà thờ Tây Linh (Cầu Kho). Vua Duy Tân (1907-1916) tuy ít tuổi, nhưng rất thông minh và có chí lớn, thấy cảnh nước mất nhà tan, Vua âm mưu khởi nghĩa, bị Pháp bắt đem đi đày. Khải Định lên ngôi kế vị (1916-1925). Từ lúc Khải Định lên ngôi cho đến Bảo Đại là vị Vua cuối cùng của Nhà Nguyễn (1926-1945), người Pháp điều khiển, bảo hộ Nam Triều. Năm 1910, Ḍng Kín được thành lập tại Huế gần Ḍng Phú Xuân bây giờ. Năm 1921, Đức Cha lập Ḍng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm Phú Xuân để dạy giáo lư, văn hóa cho các em trong các giáo xứ. Năm 1924, Đức Cha cũng lập một Ḍng nam mang tên là Ḍng Thánh Tâm để dạy đức tin và văn hóa cho các em. Đức Cha trao cho Cha Hồ Ngọc Cẩn lo việc xây cất cơ sở, đào tạo các thầy cho đến khi Ṭa Thánh đặt Ngài làm Giám Mục Bùi Chu năm 1935. Cũng năm 1924, Đức Cha cho phép Cha Giuse Trần Văn Trang lập Ḍng Mến Thánh Giá Cải Cách tại Kim Đôi, sau đổi thành Ḍng Con Đức Mẹ Đi Viếng dưới thời Đức Tổng Giám Mục Phêrô Ngô Đ́nh Thục. Năm 1925, Các Cha Ḍng Chúa Cứu Thế tỉnh Ḍng Canada đến lập cơ sở tại Huế để lo việc truyền giáo. Càng ngày Ḍng càng phát triển, có nhà tập, có nhà đệ tử. Các cha lo việc giảng “Đại Phúc” và truyền bá ḷng tôn sùng Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Hiện nay trong địa phận có họ đạo Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp rất phồn thịnh. Năm 1933, Cha Henri Denis sáng lập Ḍng Thánh Mẫu Phước Sơn, một chi nhánh của Ḍng Xitô bên Âu Châu. Năm 1936, Ḍng Phước Sơn sinh ra Ḍng con đầu tiên ở Việt Nam, ngoài địa phận là Ḍng Châu Sơn (Ninh B́nh). Năm 1950, thêm một Ḍng con nữa là Ḍng Phước Lư. Và năm 1972, lại thêm một Ḍng con nữa là Châu Thủy ở B́nh Tuy. Ngoài những Ḍng được thiết lập ở trong địa phận, Đức Cha c̣n mời các Ḍng. Đặc biệt Đức Cha gởi các Thầy đi du học ngoại quốc: Thầy Phêrô Nguyễn Văn Lành và Phêrô Ngô Đ́nh Thục. Sau khi làm Linh Mục trở về Huế, Ṭa Thánh đă chọn Cha Thục làm Giám Mục Vĩnh Long tháng 11-1939, rồi Tổng Giám Mục Huế (1960). Từ năm 1908-1928, Đức Cha 17 lần phong chức cho 62 vị Linh Mục. Cả địa phận lúc đó có 68 Linh Mục Việt Nam, 2 vị về sau làm Giám Mục là Đức Cha Phêrô Martinô Ngô Đ́nh Thục và Tađêô Lê Hữu Từ. Có hai sự kiện nổi bật trong thời Đức Cha: - Ngày 02-5-1909, Đức Giáo Hoàng Piô X phong chân phước cho 20 vị Tử Đạo Việt Nam, trong đó có 6 vị thuộc Địa phận Huế : 1. Micae Hồ Đ́nh Hy tử đạo 22-05-1857 2. Phanxicô Nguyễn Văn Trung tử đạo 06-10-1858 3. Giuse Lê Đăng Thị tử đạo 24-10-1860 4. Mathêô Nguyễn Văn Phượng tử đạo 26-05-1861 5. Gioan Đoạn Trinh Hoan tử đạo 26-05-1961 6. Stêphanô Cuénot (Thể) tử đạo 14-11-1861 - Sự kiện nổi bật thứ hai là việc Đức Giáo Hoàng Piô XI lập Ṭa Khâm Mạng ở Huế coi cả vùng Đông Dương vào năm 1925. Vị Khâm Mạng đầu tiên là Đức Cha Constantinô Ajuti, người Ư. Năm 1931, Đức Cha Allys tấn phong Đức Cha Alexandre Paul Chabanon (Giáo), rồi Ngài xin từ chức, và qua đời ngày 23-4-1936, thọ 84 tuổi, 61 năm Linh Mục, 28 năm Giám Mục.
Đức Cha Alexandre Paul Chabanon (Giáo) (1931-1936) kế vị Đức Cha Allys, Ngài xây Ṭa Giám Mục Huế mà Đức Cha Allys đă chuẩn bị, bên cạnh sở Nhà Chung hiện nay. Năm 1933, Đức Cha khai trương trường Thiên Hựu (Institut de la Providence) và đặt Cha Bouchet làm quản lư trường. Cha Bouchet xây Nhà Nguyện và những công tŕnh khác trong trường. Năm 1933, Ṭa Thánh bắt đầu trao quyền cai quản địa phận cho hàng giáo sĩ Việt Nam, đặt Đức Cha G.B. Nguyễn Bá Ṭng, Giám Mục Việt Nam tiên khởi, coi sóc địa phận Phát Diệm, đánh dấu sự trưởng thành của Giáo Hội Việt Nam. Hai năm sau, 1935, Ṭa Thánh chọn Cha Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn, địa phận Huế làm Giám Mục Bùi Chu. Lễ tấn phong ở nhà thờ Chính Ṭa Phủ Cam ngày 29-6-1935. Đức Cha Chabanon là người nghiêm trang, ít nói, nhưng rất nhân từ, bác ái. Chính ngài là vị Giám Mục đầu tiên đặt các Cha Việt Nam làm chánh xứ, quản hạt,và xếp đặt chỗ ngồi theo thứ tự thời gian thụ phong, chứ không phân biệt Thừa Sai- bản xứ ǵ cả. Đức Cha lâm bệnh mà dè dặt không nói, cho đến khi trầm trọng phải về Âu Châu chữa. Vào bệnh viện của thành phố Marseille được vài hôm th́ qua đời ngày 4-6-1936. Hưởng thọ 63 tuổi. Trong ṿng chưa đầy hai tháng, địa phận chịu hai cái tang của hai Đức Cha. Ṭa Thánh chọn Cha Chính Francois Marie Lemasle (Lễ) (1937-1946) làm Giám Mục địa phận. Lễ tấn phong tại nhà thờ Phủ Cam ngày 27-5-1937. Đức Cha tiếp nối công việc của hai đấng tiền nhiệm. Ngài thường xuyên đi kinh lược các giáo xứ..., ưa rước cách trọng thể “Cho Cha thêm một ṿng nữa!”. Đức Cha tổ chức những cuộc kiệu trọng thể : kiệu Ḿnh Thánh Chúa, kiệu Đức Mẹ, mừng kính Các Thánh Tử Đạo ở trong địa phận làm gia tăng ḷng tin, ḷng mến cho các tín hữu. Trường Thiên Hựu nổi tiếng là nhờ Đức Cha đặt các giáo sư giỏi vào dạy. Các Ḍng Tu đă hoạt động tích cực trong địa phận, nay (10-6-1940) Ngài c̣n mời ḍng Thiên An đến Huế nữa. Cha Don Romain, Cha Corintin là những vị Bề Trên và đồng thời là nhũng giáo sư lỗi lạc đă giúp nhiều người trở về với Chúa. Các phong trào Công Giáo Tiến Hành nở rộ trong giáo phận: Thanh Sinh Công, Hướng Đạo, Hội Bác Ái Vinh Sơn, Ḍng Ba Phanxicô, Nghĩa Binh Thánh Thể. Năm 1940, Đức Cha ra Directoire hướng dẫn giáo sĩ địa phận. Cuối năm 1941, 18 vị Giám Mục Đông Dương họp tại Ṭa Khâm Mạng Phủ Cam, bàn nhiều vấn đề của Giáo hội địa phương. Tuy nhiên thời Giám Mục của Ngài cũng lắm khó khăn, nhiều biến cố: nạn dịch tháng 3-1938, nạn đói tháng 8-1945, Đệ Nhị Thế Chiến 1939-1945, Nhật lật đổ chính quyền Pháp, chấm dứt chế độ bảo hộ: 9-3-1945, chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ: 1-1946. Địa phận lớn mạnh, năm 1938, số giáo dân: 74.904 người. Linh Mục Thừa Sai Paris: 25 vị. Linh Mục Việt Nam: 102 vị... Cũng năm nầy, Ṭa Thánh bổ nhiệm thêm một vị Giám Mục gốc Huế: Đức Cha Phêrô Martinô Ngô Đ́nh Thục làm Giám Mục Vĩnh Long. Đức Cha Lemasle qua đời ngày 26-9-1946 tại Sàigon. Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chánh lật đổ chính quyền Pháp, chấm dứt chế độ bảo hộ Việt Nam. Ngày 25-8-1945, Bảo Đại, vị Vua cuối cùng của triều Nguyễn trao Bửu Kiếm và Ngọc Tỷ cho Đại Diện Cách Mạng: Nguyễn Lương Bằng, chấm dứt chế độ phong kiến tại Việt nam. Pháp Việt bùng nổ chiến tranh. Đức Cha Jean Baptiste Urrutia (Thi) (1948-1960) được Ṭa Thánh đặt làm Giám Mục địa phận. Lễ tấn phong tại nhà thờ chính ṭa Phủ Cam năm 1948. Dù bị chiến tranh, nhưng số người theo Đạo vẫn gia tăng. Hiệp định Genève 1954 chia đôi Đất Nước, lấy vĩ tuyến 17, sông Bến Hải làm ranh giới. Quảng B́nh và một phần Quảng Trị thuộc miền Bắc. Đa số giáo dân trong các phần đất nầy di cư vào Nam. Chủng viện An Ninh di chuyển vào Phú Xuân, các Thầy ở Phú Xuân được gởi vào Đại chủng viện Sàig̣n. Đức Cha cho lập thêm nhiều giáo xứ mới, xây nhiều trường Trung và Tiểu Học và thêm nhiều đoàn thể Công Giáo Tiến Hành trong địa phận. Dưới thời Đức Cha Urrutia, Giáo Hội Việt Nam có thêm một Giám Mục gốc Huế, Đức Cha Tađêô Lê Hữu Từ, Giám Mục Phát Diệm 1945. Sau 12 năm làm Giám Mục, Đức Cha được thăng chức Tổng Giám Mục Hiệu Ṭa Karpatos và hưu trí ngày 24-11-1960. Ngài qua đời ngày 15‑1‑1979, an táng tại Montbeton, Pháp.
TỔNG GIÁO PHẬN HUẾ (1960) Tông thư “Venerabilium Nostrorum” của Đức Thánh Cha Gioan XXIII đề ngày 24-11-1960 thiết lập “Hàng Giáo Phẩm Công Giáo Việt Nam” với 3 Giáo Tỉnh: Hà Nội, Huế và Sàig̣n. Các Giám Mục “Đại Diện Tông Ṭa” nay trở thành “Giám Mục Chính Ṭa”. Giáo tỉnh Huế gồm: Giáo Phận Huế, Quy Nhơn, Nha Trang, Kontum (1960), Đà Nẵng (1963), Ban Mê Thuột (1967). Ngày 8-12-1960, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII ban sắc lệnh nâng Địa Phận Huế lên cấp Tổng Giáo Phận và trao quyền cai quản cho Đức Tổng Giám Mục Phêrô Martinô Ngô Đ́nh Thục (1960-1968). Đức Tổng Giám Mục đến nhậm Ṭa Huế ngày 12-4-1961. Vừa đến Huế, Đức Tổng lo kiến thiết và tổ chức lại giáo phận. Ngài đi kinh lư mục vụ các giáo xứ, ngài cho xây Tiểu Chủng Viện Hoan Thiện và lập lại Đại Chủng Viện Phú Xuân. Ngày 13-4-1961, các Đức Giám Mục miền Nam Việt Nam họp tại Huế và quyết định thiết lập Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc tại La Vang. Ngày 22-8-1961, Đền Thờ La Vang được cung hiến trở thành Vương Cung Thánh Đường, do sắc chỉ “Để Muôn Đời Ghi Nhớ” của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII. T́nh trạng Giáo Phận Huế năm 1962 : - Số Linh Mục 162, gồm:Triều: 112, Ḍng: 50 - Số người Công Giáo: 100.225 - Giáo xứ có Linh Mục quản trị: 85 - Giáo họ không có Linh Mục: 264 - Nhà thờ trên 400 người: 95 - Nhà thờ dưới 400 người: 143 Đức Tổng đi dự Công Đồng Chung Vatican II năm 1962 và ở lại Rôma do biến cố lật đổ chính quyền Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm năm 1963. Năm 1968, Đức Tổng từ chức, hưu trí, và Ngài từ trần tại Hoa Kỳ ngày 13-12-1984. Ṭa Thánh đặt Đức Giám Mục Philipphê Nguyễn Kim Điền (1968-1988) làm Giám Quản Tông Ṭa cho tới năm 1968, Đức Tổng Giám Mục Ngô Đ́nh Thục từ chức, Đức Cha Nguyễn Kim Điền mới trở thành Tổng Giám Mục chính thức của Tổng Giáo Phận Huế. Đức Tổng Giám Mục Philipphê trải qua các biến cố lớn 1968, 1972 và 1975. T́nh h́nh chính trị bất ổn tác động trên t́nh h́nh tôn giáo. Giáo dân Huế nhiều lần ra đi và trở lại. Các Thầy Đại chủng viện Huế đă phải di tản vào Đà Nẵng, Nha Trang. Chính Đức Tổng Giám Mục đă trở lại Giáo Phận trong năm 1975. Ngày 7-9-1975, Đức Tổng Giám Mục tấn phong Tổng Giám Mục Têphanô Nguyễn Như Thể làm phụ tá tại nhà thờ Chính Ṭa Phủ Cam. Đức Tổng Giám Mục cai quản Giáo Phận cho tới khi ngă bệnh trầm trọng, vào Sàig̣n chữa bệnh và qua đời tại đó ngày 8-6-1988, an táng trong nhà thờ Chính Ṭa Phủ Cam. Ṭa Thánh bổ nhiệm Đức Hồng Y Giuse-Maria Trịnh Văn Căn, Tổng Giám Mục Hà Nội làm Giám Quản Tông Ṭa Tổng Giáo Phận Huế (1988‑1990). Đức Hồng Y có vào Huế một lần. Năm 1990, Đức Hồng Y qua đời đột ngột tại Hà Nội. Tổng Giáo Phận Huế “trống ṭa” trong ṿng 4 năm. Cha Giacôbê Lê Văn Mẫn làm Giám Quản Giáo Phận (1990-1994) cho tới khi Ṭa Thánh bổ nhiệm Đức Tổng Giám Mục Têphanô Nguyễn Như Thể làm Giám Quản Tông Ṭa Tổng Giáo Phận Huế ngày 23-4-1994. Ngày 1-9-1994, Đức Tổng Giám Mục Têphanô phong chức 5 tân Linh Mục. Đây là lần phong chức Linh Mục đầu tiên sau năm 1976. Cũng trong năm nầy Đại Chủng Viện Huế được mở cửa lại, có 39 thầy. Đại Chủng Viện liên Giáo Phận (Huế-Đà Nẵng-Kontum), do các Linh Mục thuộc Tu Hội Xuân Bích điều khiển. Năm 1995, Đức Tổng Giám Mục được bầu vào Ban Thường Vụ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, nhiệm kỳ 1995-1998, đặc trách Ủy Ban Linh Mục, Tu Sĩ và Chủng Sinh. Ngày 22-1-1996, Giáo Phận Huế đón tiếp Hội Đồng Giám Mục Pháp đến thăm. Ngày 2-2-1996, Đức Tổng Giám Mục phong chức 7 tân Linh Mục. Từ ngày 13 đến 15 tháng 8-1996, Đại Hội Hành Hương Đức Mẹ La vang lần thứ 24, có sự tham dự của Đức Hồng Y Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và Đức Cha Tổng Thư Kư. Sau khi nhậm chức, Đức Tổng Giám Mục Giám Quản Têphanô chỉnh đốn Giáo Phận, cho bầu Hội Đồng Linh Mục, xếp lại các Hạt thành 5 Hạt, đặt các Linh Mục phụ trách các ngành, bồi dưỡng tu đức và trí thức cho các Linh Mục, tu sĩ, chủng sinh. Ngày 9-3-1998, sau 10 năm “trống ṭa”, Ṭa Thánh bổ nhiệm Đức Tổng Giám Mục Têphanô Nguyễn Như Thể chính thức cai quản Giáo Phận. Ngài là vị Giám Mục thứ 11 của “Bắc Đàng Trong” của “Địa Phận Huế”, kể từ ngày Giáo Phận được thành lập vào năm 1850, tách khỏi Giáo Phận Đông Đàng Trong (Quy Nhơn). Đức Tổng Giám Mục Têphanô nhậm chức ngày 9-4-1998 tại nhà thờ Chính Ṭa Phủ Cam. “Tôi đến để cho trần gian được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10b). Bốn tháng sau ngày nhậm chức, Đức Tổng Giám Mục Têphanô tổ chức Tam Nhật Đại Hội Kỷ niệm 200 năm Đức Mẹ hiện ra tại La Vang (từ ngày 13-15 tháng 8-1998). “Một rừng người” đông đảo chưa từng có tại Thánh Địa La Vang... họ đến để gởi gắm hết mọi tâm tư nguyện vọng cho Mẹ, Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu. Đức Tổng Giám Mục Têphanô cũng sẽ tổ chức lễ Kỷ Niệm 150 năm ngày thành lập Giáo Phận Huế, tách khỏi Giáo Phận Đông Đàng Trong (Quy Nhơn) vào năm 2000... Trước thềm Thiên Niên Kỷ Thứ Ba, trong Ân Lộc của Năm Thánh 2000, Giáo Phận Huế “Vảng cố dĩ tri kim”, từ đỉnh cao của ḷng Tin, Cậy, Mến, chúng ta Tạ Ơn Thiên Chúa là Đấng Quan Pḥng kỳ diệu luôn “viết thẳng với những đường cong” trong lịch sử Giáo Phận. Chúng ta Ghi Ḷng Tạc Dạ ơn sâu nghĩa nặng của Các Bậc Tiền Nhân, các Sứ Giả rao giảng Tin Mừng đă thành lập, xây dựng và làm phát triển Giáo Phận. Chúng ta cùng nhau ǵn giữ và bồi đắp thêm cho di sản quư báu nầy ngày càng tốt đẹp. |