Mối t́nh Non Nước

 và

 ư nghĩa Thi Ca

 

Nguyễn Đăng Trúc

Strasbourg, Pháp

 

Nói và làm

 

Thắc mắc về con người nếu không bị quên lăng, th́ cũng chỉ được xem là một xa xỉ, một lănh vực giải trí đứng bên ngoài những câu hỏi về các chương tŕnh hành động được xem là đúng  đắn và thực tiển.  Chúng ta không phải đă vượt qua thời đại của những thắc mắc "vô ích" đó để sống trong thời đại của hành động hữu hiệu hay sao?  Chúng ta không phải đă sống trong thời điểm của ánh sáng do lư trí con người làm nên lịch sử chính ḿnh hay sao?  Phải chăng chỉ có kẻ mù mới không thấy thế giới "vinh quang" đó của con người? Thời "vinh quang" của con người không c̣n là thắc mắc, nói, nhưng là hành động, "biến sỏi đá thành cơm", và rốt ráo là "người làm nên người", không phải vậy sao?

Thực ra, nếu thời đại chúng ta, những kẻ chính thức và triệt để muốn làm nên một xă hội của con người "không nói", th́ ư đồ căn cơ đó không phải là phát minh của xă hội tân  kỳ ngày nay, nhưng nó gắn chặt với thân phận con người.

Văn hóa Do Thái, Kitô giáo gọi tên con người đó là Adam hái trái cấm; thi ca Hy lạp cô động trong các nhân vật Oedipe, Prométhée; kinh sách Trung Hoa đưa ra h́nh ảnh Bá Cổn, Tề Thiên, Trư Bát Giới, Sa Tăng; và Tây phương cận đại được Goethe mô phỏng qua nhà thông thái Faust bán hồn cho qủi:  Khởi thủy là hành động.[1]

Hành động gọi là khởi thủy, không phải là làm việc này hay việc khác, nhưng biến ta thành một cái ǵ do tự ta và v́ ta. Ngôn ngữ nhà Phật gọi hành (karma), có căn nơi chấp ngă. "Chấp" là đóng khung lại và biến thể "ngă" thành một cái ǵ tuyệt đối, bao trùm. Trong vị thế độc tôn của "ngă", không c̣n có ai, có kẻ nào khác để Lời nối kết mối tương giao. Hành động nguyên thủy đó biến tất cả "kẻ khác" thành dụng cụ làm nên "ngă"; và Lời bấy giờ đă bị biến thành phương thế cân đo, đong đếm phục vụ cho hành động "ta làm nên ta" này.

Đi t́m một trật tự mới cho xă  hội con người, phải chăng  chỉ là tổng hợp các yếu tố cũ nơi thế giới của Faust mà xă hội đang đeo đuổi, phác họa ra một kiếp hành động khác trong muôn kiếp đọa đày của karma – là bô lô, ba la thảo luận về các chương tŕnh hành động trong khung cảnh của "chấp ngă" như thế?

 

Trước những đổ vỡ của trật tự cũ, vấn đề ưu tiên và then chốt có phải là tiếp tục nêu lên nhiều câu hỏi "phải làm ǵ ?", hay dừng lại giây lát lắng nghe một lời của "Ai" nói,  một âm vang làm n bung vỏ cứng của chấp ngă, để có được lời nói  thật sự nối kết người với người, tạo nên hồn của cuộc sống xă hội?

Nhà tư tưởng Jean Brun  trong cuộc hội thảo quốc tế về triết học tổ chức tại Roma năm 1978, đă mạnh dạn phát biểu:          

 

      Làm ǵ?

- Không có ǵ để làm cả! Không có ǵ để làm v́ không có vấn đề thêm một cái làm khác vào vô  số cái làm đă đày đọa chúng ta. Vấn đề là "chân chất tính thể của ḿnh (être) [2].

 

Nói cách khác, trước tất cả mọi câu hỏi "làm ǵ ?", ưu tiên và nền tảng phải là thắc mắc "làm người".

 

 

Hưng ư thi  [3]

 

"Làm người" mà Khổng Tử gọi là Đạo Nhân tức là cuộc sống nối kết trời-đất-người, mà trí năng và hành động của chấp ngă đă biến thể thành phản ứng, tương quan vô hồn giữa vật này với vật khác. T́m lại người và quê hương của nó cũng là t́m lại lời nói chân thật biểu lộ sự nối kết của Đạo Nhân.

 

Lời nói là nhà của Tính Thể.  Những nhà tư tưởng và thi hào là những kẻ coi sóc chốn ấy [4].  

 

"Lời nói", đơn sơ như thế, nhưng Khổng Tử phải dạy con là Bá Ngư:

 

Bất học Thi, vô dĩ ngôn [5]

(Không học Thi, không có lời để nói)

 

Vậy lời nói từ thi ca là ǵ, mà bậc thầy của nhân loại, một kẻ suốt đời dấn thân cải tạo xă hội như Khổng Tử đă đặt nó làm nền cho sinh hoạt con người?

Cũng mang nỗi lo âu cho t́nh trạng Nước Non đôi cảnh chia ĺa, v́ "hồn dân tộc" đă trốn thoát, kẻ sĩ Sảng Đ́nh Nguyễn Văn Thích đă dạy cho ấu nhi của vườn trẻ Hương Linh do người sáng lập tại Huế bài đồng dao:

 

Cái nhà là nhà của ta

Công khó ông cha lập ra

Cháu con luôn ǵn giữ lấy

Muôn năm nhớ Nước Non Nhà

 

Cái nhà là nơi cư ngụ cho xă hội t́nh nghĩa cụ thể của con người, là nơi thể hiện t́nh Nước và Non.

Cái nhà của cuộc sống tinh thần con người là Lời, tức là tương giao vô vị lợi của Đạo Lư, t́nh nghĩa, là nơi mà cái tôi, như thánh Phanxicô Assisi nói, "đă  chết đi" từ bao giờ: cha sống v́ con, vợ sống  v́ chồng, chồng lao nhọc v́ vợ, và con cái an tâm trong niềm tin vào cha mẹ.

Thi ca là cái nhà của lời con người, v́ hồn thi ca không phát xuất tự ḿnh, diễn tả sự khôn ngoan hay trí tưởng tượng của ḿnh, nhưng là dấu tích của âm vọng từ Non Cao, của thần nhập từ bên kia bờ thế sự.

 

 

Hồn của Thơ và T́nh Non Nước

 

Thơ là một lời nói, nhưng h́nh thức thô thiển nhất để phân biệt với lời nói thông thường là tiết điệu nhịp nhàng của thơ. Tiến xa hơn nữa, người ta đ̣i hỏi lời thơ phải đáp ứng những tiêu chuẩn đẹp đẽ của ngôn từ. Cũng c̣n được đánh giá thật sự là thơ khi lời thơ đủ sức tác động đưa người nghe, người ngâm, đọc, bước qua cảnh vực khác với thế giới đang sống . Từ tác động đó người ta phải nghĩ đến thơ là sản phẩm của trí tưởng tượng, nhưng cũng c̣n là trí tưởng tượng không sản xuất ra những ư niệm áp dụng vào hành động thực tiển, hay bị thúc bách bởi lợi ích của cuộc sống thực tiển. Không ǵ ngượng ngùng, nếu không nói là xúc phạm với thơ hơn là phải nghe một bản vận văn ca tụng, nịnh hót một chế độ để cầu chức tước hay kiếm ăn. Cũng như không ai xếp những câu vè quảng cáo vào ngôn ngữ của thi ca. Những yếu tố sơ đẳng đó thường là những mẫu mực để những nhà phê b́nh văn học xếp loại và đánh giá thi ca .

Trực diện với cuộc sống xă hội ngày nay, trong tiềm thức sâu xa và tập thể của một con người gọi là văn minh, của các nhà thông thái, của một Faust đă dùng "bàn tay" tự tạo nên ḿnh thay lời nói, th́ Đông cũng như Tây hầu như đă không c̣n đoái hoài ǵ đến thi ca nữa. Nếu phía Đông đă chuyển thơ thành dụng cụ phục vụ bộ máy sản xuất, th́ Tây cũng chỉ c̣n mấy câu nói xuôi tai dùng trong quảng cáo. Thi ca đă cáo chung không phải chỉ trong sách báo, mà ngay cả trong cuộc sống dân gian. Một hiện tượng văn học qua đi trong sự hững hờ, không nuối tiếc của ngay những kẻ gọi là làm văn hóa. Thi ca nếu c̣n được nhắc nhở th́ cũng chỉ là một sinh hoạt tối thiểu của một thế hệ quá tuổi sản xuất, một tṛ giải trí lỗi thời. Đó là dấu chứng của một xă hội mang tiền kiến vô thức thu gọn Chân-Thiện-Mỹ vào hiệu năng của hành động. Hiện tụợng vắng bóng thi ca không phải chỉ v́ tâm thức con người không c̣n cảm nhạy về thơ v́ đă măi ưu tư hành động; nhưng trước đó, thực tế của văn học thi ca đă từng mất hồn sống của ḿnh rồi.

Thơ mất hồn v́ thơ chỉ được xem là sản phẩm của trí tưởng tượng của con người.  Nếu lấy ngôn từ của Kant để nói về trí tưởng tượng, th́ trí tưởng tượng hướng đến nhận thức sự vật gọi là trí tưởng tượng sản xuất (l'imagination productive). Phải chăng khi trật lề không đóng khung được vào đối tượng nhận thức, ngôn ngữ bấy giờ trở thành đối tượng của ảo ảnh để tạo thành thế giới thi ca! Từ tiền kiến về thi ca là thế giới của không thực, sản phẩm của trí tưởng tượng mông lung, thơ trở thành một lối tự thoát, một h́nh thức đào ngũ trước thực tế.

 

 Là thi sĩ nghĩa là ru với gió,

 Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây  [6]

 

Thơ như thế không phải là Lời đến với người, nhưng thơ là sản phẩm của trí tưởng tượng con người làm nên một thế giới ảo tưởng. Thơ ấy kỳ thực cũng chỉ là lời của một hành động con người: hành động sản xuất của giấc mơ.  Nhưng hành động lại phải gắn liền với hiệu năng; trong khuôn khổ này, thơ không đáp ứng tiêu chuẩn của hành động là hiệu năng sản xuất, nên thơ tự ḿnh đào thải chính ḿnh.

Khi Khổng Tử nói "hưng ư thi", toàn nội dung của tư tưởng ngài không cho phép ta quan niệm được thi ca theo nghĩa vừa tŕnh bày. Thơ hưng chấn tâm hồn, thơ tạo nền cho lời nói chân thật  như Luận Ngữ đă diễn tả, thơ như thế hàm ngụ việc nghe và nhận. Trong quan điểm "hưng ư thi" đó, Khổng Tử nói rằng ngài thuật lại mà không làm ra.

Chỉ có thể thuật lại khi đă nghe và cảm nhận, khi ngộ được sức hưng chấn của thơ. Chúng ta hăy tạm quên quan niệm lịch sử hàng ngang, một cái nh́n quá tân thời đối với Khổng Tử để cập nhật ngôn ngữ thi ca của ngài khi ngài nói về thuở Nghiêu Thuấn. Nghiêu Thuấn cũng là thời của "Đại Kư  Ức", không khác nội dung của Mnemosyne trong văn hóa Hy lạp mà Heidegger giải minh:

 

Nơi Hoelderlin, Mnemosyne là tên của một nữ thần, con Trời và Đất. Khi đính hôn với Zeus, Đại Kư Ức trở thành mẹ của thi hứng. Đùa chơi, nhảy nhót, thi ca được Đại Kư Ức cưu mang. Chữ đó ở đây hẳn nhiên nói đến một cái ǵ khác với khả năng được gọi là thuộc về tâm lư: tức là khả năng lưu trử h́nh ảnh của quá khứ trong lối biểu tượng thông thường. Đại Kư Ức tư tưởng về điều đáng được con người suy nghĩ. Nhưng tên của bà mẹ các niềm hứng khởi không có nghĩa là "trí nhớ" được hiểu như là một hành vi của tư duy hướng đến bất cứ một vật nào có thể tư duy. Đại Kư Ức ở đây là nguồn mạch tư tuởng, một khi tư tưởng quay về với điều người ta đă từng suy nghĩ trước đó, v́ điều này luôn muốn được xem là tiên quyết . Đại Kư Ức là nguồn mạch làm ta suy tư đến điều phải lưu ư trước bất cứ một điều ǵ ... Đại Kư Ức, một kỷ niệm nằm trong ta buộc ta quay về với điều phải suy nghĩ, là vùng đất làm trào vọt lên thi ca.[7]

 

Qua lối minh giải đó Heidegger muốn nói lên rằng Đại Kư Ức là tiếng vọng khác lạ, một trái tim luôn khắc khoải (theo ngôn ngữ của thánh Augustinô) như đă có từ bao giờ khi con người là người. Tiếng vọng buộc ta phải suy nghĩ về một cái ǵ ngay cả trước sự suy nghĩ của ta. Một cái ǵ gần gũi với ta, nhưng là khác với ta, khác đến nỗi nó vượt lên trên tất cả các h́nh ảnh xa xưa nhất mà trí tưởng tượng và kư ức có thể mô phỏng. Huyền thoại Nghiêu Thuấn, một h́nh ảnh quá khứ nhưng như không thuộc về thời gian lịch sử, một Đại Mẫu Mực, một "nghĩa" của thân phận làm người và xă hội, khi "nghĩa" được hiểu là "cái phải là như thế". Thi ca cũng như tư tưởng không phải là sinh hoạt của tưởng tượng đẻ ra h́nh ảnh, nhưng là sự nhớ lại theo ngôn từ thi ca của Platon. Nhớ lại không được hiểu ngây ngô là quay về một thế giới trước khi con người là người; qua h́nh ảnh thi ca đầy ắp trong các tác phẩm của Platon, thế giới bên kia, trước đây, cũng là đây, trong tâm hồn con người. Trong tác phẩm Phèdre, ông viết:

 

Một loại nhập thần và xuất thần thứ ba là loại đến từ các Thần Thi, và khi nó đến với một tâm hồn đơn sơ, trong trắng, khi nó thức tỉnh và làm cho tâm hồn đó ngây ngất, trong nhịp điệu của ca nhạc cũng như trong tiết tấu của tất cả các loại thể văn, khi nó ca ngợi các kỳ công của người thuở trước, th́ nó giáo hóa cho hậu thế! Ngược lại, ai không ngây ngất bởi thần thi mà chủ tâm đi vào thi ca, với xác quyết rằng bằng kiến thức kỹ thuật có thể đủ làm cho ḿnh trở thành thi sĩ, kẻ đó hẳn chỉ là thi công bất toàn; trước thi ca của người đầy thi hứng, thơ của kẻ sáng suốt b́nh thường không "có ǵ  là thơ cả [8].

 

Trong khuôn khổ của ngôn ngữ thi ca, nói đến hồn,  Đại Kư Ức, nhập thần, xuất thần tưởng chừng như nói đến một cái ǵ khác với một chân trời sáng tỏ, mở toang của thế giới nhận thức thuộc lư trí. Đại Kư Ức như ở bên kia bờ của cuộc sống gọi là tự nhiên, với những thúc bách, nhu cầu, kể cả nhu cầu suy tư, ṭ ṃ hiểu biết của ḿnh, cùng nhịp điệu với thời gian trôi chảy, thích ứng với những hoàn cảnh không gian, và môi trường sinh hoạt thăng trầm của xă hội. Thánh Phaolô gọi cuộc sống tự nhiên này là cuộc sống của thân xác, mang tất cả ưu tư thế sự, của một loài người có thể có những tài năng được xem là cao độ hơn các loài sinh vật khác; nhưng, chỉ thế thôi th́ loài người đă mất hồn, v́ "sống" đối với người không chỉ là trôi chảy  với thời gian mà c̣n là khắc khoải về căn nguồn của ḿnh. Thi sĩ Tản Đà nói:

 

 Nước Non nặng một lời thề,

 Nước đi đi măi, không về cùng non [9]

 

Hai câu thơ tiếp theo, Tản Đà đưa ta vào cốt lơi của hồn thơ:

 

Nhớ lời nguyện Nước thề Non,

Nước đi chưa lại, Non c̣n đứng không

 

Hồn thơ là nhớ lại một lời nguyện thề, gắn Non với thân phận của Nước. Nhưng Nước măi đi và Non vẫn đứng đấy một ḿnh, như là không ǵ cả đối với Nước!

Quên Non, Nước mất hồn, và người mất lời nói. Sinh làm kiếp người, bơi vào gịng  nước, nhập cuộc với đời, con người mang lấy nghiệp "quên"; văn hóa Kitô giáo gọi là tội nguyên tổ, tội của tự do làm người, v́ con người là người. Thi hào Sophocle mượn h́nh ảnh của Oedipe để biểu  tượng cho "kiếp người  quên lăng", không hay biết nguồn gốc là Non, nên măi nghĩ rằng thời gian luôn bung mở và nhận thức hiểu biết của con người là chân lư trọn đầy. Hoặc nói như Héraclite, Non vẫn nói bằng muôn ngh́n cách, nhưng con người thế sự đầy ứ ưu lo cho ḿnh mà thôi, nên nghe cũng chẳng hiểu ǵ :

 

Họ nghe mà không hiểu ǵ, không khác những người điếc. Cách ngôn áp dụng đúng trường  hợp của họ: Họ hiện diện, nhưng kỳ thực đang vắng mặt  [10]

 

Œdipe, trong kịch bản của Sophocle, có ngờ đâu khi nhập cuộc với  thời gian th́ cũng chính là lúc gươm của tự tay ḿnh giết chết thân phụ ḿnh là Laios. Ngập vào "Nước" là  thời gian, con người  đă nhúng tay vào tội nguyên tổ giết cha, tức quên Nguồn. Con người biết thật nhiều, nhưng không biết Cha, nên lầm lạc và măi lầm lạc. Thi ca như kẻ mù, một sự đối nghịch của "ánh sáng" của thân xác-trần thế, qua h́nh ảnh người tiên tri mù Tirésias đến báo cho Oedipe hay rằng:

 

Bởi v́ ông sỉ nhục tôi là kẻ mù, tôi sẽ nói cho ông hay việc này: Ông có hai mắt, nhưng ông không thấy ông đă rơi vào hố thẳm, ông không biết ông  đang ở đâu và ăn nằm với ai. Ông có hay ai sinh ra ông không? Ông không hay chính ông là thù địch của người thân của ông, kẻ sống cũng như ngưới đă khuất [11]

 

Cũng như người mù Tirésias, người điên (kẻ không b́nh thường theo khôn ngoan thế sự) của F. Nietzsche đă một lần nữa hét to:

 

Người điên có lúc cần phải hét to lên: "Thần đi đâu rồi? Tôi nói cho bà con hay, chúng ta đă giết thần rồi. Bà con cũng như tôi! tất cả chúng ta là những kẻ sát thần..[12]

 

Chúng ta giết Thần hay nói cách khác, Thần không đóng khung trong thế giới chỉ có mặt ta dưới bóng nước. Thần vô phương, v́ không có một nơi nào ta định được cho Thần ở, dẫu Thần ở mọi nơi, như Trang Tử nặng lời nói Đạo ở ngay trong đống phân ḅ. Hồn thơ là Thần đến, nhưng Thần không cư ngụ trong lời hoa mỹ do tài con người xếp đặt. Một trăm thợ vẽ tài ba dẫu có sao lại tinh tế đến đâu một bức tranh nhỏ của Van Gogh, cũng không làm cho những bức họa đồ đó trào vụt lên cái thần của họa sĩ này.

Hồn thơ như một  sức từ ngoài nhập đến. "Nhớ Lời", không phải do suy tư mà nhớ, do "ngă" được định vị từ trong gịng nước thời gian tự quay lại nh́n ḿnh. "Nhớ Lời" của Tản Đà không có chủ từ rơ rệt đi trước, như đă mang âm hưởng câu nói bất hủ của đức Buddhaghosa:

 

Có khổ, nhưng  không thấy người khổ [13]

 

"Nhớ lời" là hồn thơ đến từ bờ bên kia.

 

Non cao những ngóng cùng trông

Suối tuôn gịng lệ chờ mong tháng ngày. .

 

Thánh Augustinô trong cuốn Confessiones gọi nguồn của nhớ là "Misericordia", tức là "Đại từ tâm" của Non.

Nhớ như thế phải chăng là hồn thơ đă nhập vào lời trần, để lời trần không c̣n nhi nhô hoan lạc với thời gian mở rộng,  nhưng vướng lấy âm hưởng của Non trong lối nói khác đời, tiêu cực, thiếu vắng. Augustinô đă hỏi trời, đất, cây cỏ, nhưng Thần không phải chúng. Những nhà đại thi hào muôn thuở của nhân loại đều nhập Thần để khai mở lối nói thi ca này. Tất Đạt Đa gọi nỗi nhớ  đó là "khổ", Lăo Tử gọi là "vô", Kinh Thư gọi là "Đạo tâm duy vi" không phải là đạo của tâm con người vốn là "duy nguy", Pascal trong Pensées cảm nhận hồn thơ nơi tâm thức về "thinh lặng miên viễn" [14].

Hồn thơ đến như một cơn đau, nỗi khổ vô tận của thời gian và kiếp làm người "hay quên", một cảm xúc thiếu vắng mà không một yếu tố chất liệu nào của trần gian lấp đầy được. Thi hào Hoelderlin gọi là nỗi "nhớ quê - nhớ nhà". Heidegger lấy lại h́nh ảnh này để nói lên cơn đau đó:

 

Nỗi nhớ nhà, nhớ quê là cơn đau mà sự gần gũi của cái ǵ thật xa vắng ập đến trên ta [15] 

 

Cảm được sự gần gũi của Lời thật xa, của lời thề muôn thuở Non-Nước sẽ hưng chấn con  người và cộng đồng huynh đệ thật sự, để lời nói không chỉ làm dụng cụ tính toán của hành động, nhưng c̣n là sự sống nối kết Đất-Trời-Người.

Lời thơ sẽ dẫn đưa lời trần thế, từ ưu lo khai thác, khám phá vật này vật kia đến cảnh giới tương giao giữa người với người, được nối kết với Non cao thật gần và thật xa.

Lời thơ sẽ tuyệt tác khi c̣n là tiếng vọng của Non cao "khuất mặt" để từ đáy ḷng con người cảm nhận nỗi khắc khoải về quê nhà ḿnh, cảnh vực của Nước-Non-Nhà để đón nhận cái "Khổ" cứu thoát.


 

[1] GOETHE, Faust - tập đầu - vần thơ 1237

[2]  Jean BRUN - La Politique et le Mal radical, dans  Religion et Politique, Actes du Colloque à Rome,1978, Montaigne, Paris, 1978,tr 144

[3]  Luận Ngữ - VIII-8.

[4]   M. HEIDEGGER, Lettre sur l'humanisme (bilingue), Aubier,tr 27

[5]  Luận Ngữ ,XVI-13

[6] XUÂN DIỆU - Thơ Thơ

[7] M. HEIDEGGER - Essais  et Conférences - Que veut dire "penser»? - Ed. Gallimard - 1958, tr 161

[8]   PLATON,  Phèdre  245 a

[9]   TẢN ĐÀ, xb Tùng Văn, trang 47

[10]   HÉRACLITE, câu 34

[11]   SOPHOCLE, Oedipe-Vua- câu  400- 410 .

[12] F. NIETZSCHE – Le gai savoir - l'Insensé  125

[13] Visuddhimagga  - Text Society -Londres - tr. 513

[14] cf:  Le silence éternel de ces espaces infinis m'effraie.

[15]  M. HEIDEGGER  -  Essais  et  conférences  -  Qui est Zarathoustra de Nietzsche? - Gallimard - 1958, tr 125).