Ḥa b́nh theo Nho học

Nguyễn đăng Trúc

Strasbourg

 

Nói đến Nho giáo, ta nghĩ ngay đến Khổng tử và các bộ sách và kinh được xem là mẫu mực: Tứ Thư và Ngũ Kinh. Các tác giả thâm cứu Nho học đều cho rằng phần cốt lơi tŕnh bày tư tưởng đó tóm lược trong chương đầu của cuốn Trung Dung.

Ở ngay trong mấy câu của chương nầy, ḥa b́nh được gọi là TrungḤa. Và hẳn đó cũng là toàn thể nội dung Nho học về cuộc sống con người và xă hội.

Trung là gốc lớn của thiên hạ,

Ḥa là đạt Đạo, tức là thực hiện trọn vẹn Đạo của con người 1

Và ngay từ đầu sách, Tử Tŕnh Tử lại định nghĩa ngay chữ Trung:

Không thiên lệch, sai lạc là Trung [1]

Đạo là Trung, không dời đổi theo sự hưng suy của lịch sử hay cảm nghĩ tùy thích của bất cứ ai. Dẫu con người trong thực tế đă tạo ra nhiều đường đi theo ư ḿnh, dẫu con người có xa Đạo, nhưng :

Đạo không xa con người, và con người không được xa đạo giây phút nào.[2]

Và trong thân phận đổi thay của xă hội con người, của phán đoán giá trị tùy lúc, của hoàn cảnh bất cập không thấy, không nghe rơ Đạo đó, người quân tử tức là kẻ muốn ở trong Đạo nầy cần phải khiêm cung, cẩn trọng.

“Trung” không dời đổi, không có nghĩa là một cái ǵ vật chất hay một tư tưởng bất động, nhưng là nguyên sơ của Trời Đất vốn cho con người như thế. Sách Trung Dung nói rơ:

Vui, giận, buồn, sướng chưa phát ra, đó là Trung. [3]

Chưa phát ra, như “cây sự sống” giữa vườn Eden trước khi Adam đưa lên hái. Đây cũng là ư nghĩa của lộc, ơn phúc Trời cho (chưa có vết dơ của bàn tay con người) mà người dân ta có tập tục đi hái ngày đầu năm.

Kinh Thư, cũng nói như thế:

Ḷng người sai lệch; nơi sâu kín của Đạo th́ ẩn kín; hăy thực thà và một mực giữ lấy Trung (tức là Đạo Tâm).[4]

Khi thực hiện vui, buồn, giận, sướng mà hợp với Đạo th́ gọi là Ḥa.[5]  

Đây là điểm cam go của Nho học. “Trúng tiết”, trúng cũng là trung; tiết là thời gian, và cũng có nghĩa là một đốt tre trong cây tre. “Thời gian của Trung” là thời ḥa giữa việc làm của người với Ư của Đạo. Nói cách khác, con người làm, nhưng không phải tự ḿnh, mà làm như cánh tay của Đạo làm.

Nhưng với tâm vốn có nguy cơ sai lạc (di nguy), làm sao thực hiện được cụ thể Đạo luôn ẩn kín, vượt tầm tay con người, để tạo một thời của Đạo? Nói cách khác, với xă hội vốn đă thiên lệch, với tâm con người vốn hướng đến xằng bậy và tội ác, ai thực hiện nổi trọn vẹn Đạo giữa đời nầy để chứng thực có cảnh thái ḥa?

Ở chương 11 Sách Trung Dung trả lời như sau:  Đạo đó hạng “phu phụ chi ngu” cũng biết và làm được, nhưng thánh nhân đến chỗ cùng tột cũng bất cập. Và ở chương 4, sách trích lời Khổng Tử nói “Đạo không c̣n thi hành được nữa chăng!”[6]

Để trả lời về cái cùng tột của đạt đạo, tức là ḥa, Khổng Tử thường gợi đến một thời Nghiêu Thuấn xa xưa, h́nh ảnh của một thời không phải là thời con người lịch sử, nhưng có thể nói “một vườn Eden” nằm trong Đại-kư-ức.

Vào những chương cuối của sách Luận ngữ, nhiều ẩn sĩ tân-Lăo-học bi quan nhắc Khổng Tử và đồ đệ ông là nơi xă hội trần thế không c̣n cách ǵ tạo ḥa b́nh được; tốt nhất là nên lui về ở ẩn cho yên thân:

Có phải là người biết

 không thể làm được mà cứ làm ư?  [7]

Khổng Tử cho rằng:

 Muốn sạch cho riêng ḿnh,

 mà để loạn cho luân thường xă hội sao!

 Người thuận đạo ra làm kẻ sĩ, cứu dân, là để trọn nghĩa làm người của ḿnh. Đạo  không ai thi hành được, th́ ta đă biết lâu rồi.[8]

Việc tạo được ḥa b́nh trần thế, nơi xă hội, Khổng Tử cho đó là sự sắp xếp của Trời, và có thể nói tùy ḷng người, là những kẻ khác ḿnh nữa. Nhưng đạo làm người trung thực vẫn là cố lắng nghe Đạo và làm theo tiếng gọi của Đạo.

Và nghe ở đâu?

Hẳn nhiên, Đạo không phải tự ḿnh làm ra. Ngay cả Khổng Tử cũng nói rằng người chỉ truyền lại kư ức thuở Nghiêu Thuấn (Đại Kư Ức).

Trong các biểu tượng khác lấy từ h́nh ảnh cuộc sống xă hội, của vận chuyển sự sống nơi thiên nhiên, Nho học cố t́m cách nói đến Đạo qua nhiều phương cách:

-   Trước hết trong Kinh Dịch, toàn bộ 64 quẻ là con số tượng trưng cho đời sống con người, cũng như Nguyễn Du dùng chữ 100 năm trong cơi người ta. Nếu Nguyễn Du thấy mỗi khoảnh khắc đời người là đấu trường giữa tàimệnh, giữa đạo do người và Đạo Trời, th́ nơi Kinh Dịch gợi lên sự hiện diện của Đạo Trời không đổi nơi cuộc sống muôn h́nh vạn trạng của con người trong thời gian. Trung Dung tóm lại ư đó khi nói Đạo không xa người trong một giây một phút của đời sống đổi thay, mặc dầu Đạo không thiên, không dịch.

Và con đường để thấy Đạo, múc lấy sức sống của Đạo để biết được vị trí của ḿnh là phải đi sâu vào ḷng ḿnh, t́m nơi bao dung ẩn kín, không phải chỉ bằng ḷng với những kiến thức của thế giới đổi thay bên ngoài:

Nương theo mực thước trời đất,

 đừng có tự ư chế biến,

 Biết thấu đáo mọi việc để lấy Đạo cứu thiên hạ,

 đừng  sai trái,

 Khi xuất xử đừng phiêu lưu,

 Vui đạo trời và biết rơ phận ḿnh, đừng lo ngại

Cư ngụ “Yên” nơi cung Thổ, nuôi dưỡng đức nhân, luôn nỗ lực yêu thương. [9]

Thế nào là an thổ ?

Cung thổ được biểu thị bằng số năm (5). Con số năm (5) của Trung hoa là sự nối kết giữa số một (1), tức Mẫu mực đo lường cái khác, và bốn (4) tượng trưng cho sự đổi thay, hữu hạn của thời gian không gian.

Và nếu lấy h́nh ảnh của không gian, ta có Nam, Bắc, Đông, Tây và Trung tâm. Nếu lấy h́nh ảnh của các thành tố vật chất ta có Thủy, Kim, Mộc, Hỏa và Thổ là trái đất chứa đựng các chất khác.

Biểu tượng nầy gọi là ngũ hành, kỳ thực đó cũng là cách nói biểu tượng về bản tính con người nơi trần thế. Trọn đạo làm người là làm sao sống hài ḥa Đất-Trời, như trật tự bền vững nối được Trung tâm, trung cung là nơi vua ngồi trị v́ và bá quan bốn phương trợ giúp. Khi không có Trung Cung (Thổ), th́ không c̣n vua, mất vương đạo; và hỗn loạn bắt đầu, mỗi quan tự xưng vua, để triệt hạ các quan khác. Đó là cảnh bá đạo với ư nghĩa là tiếm quyền, lầm lỗi.

H́nh ảnh của trật tự xă hội một thời gợi lên một trật tự đạo lư sâu xa liên quan đến chân tính con người.

“An thổ”, tức là cư ngụ nơi quê hương thật của con người, là chốn cư ngụ và gặp gỡ của Trời - Đất. Quê hương đó sâu kín nơi Tâm duy-vi. Đi vào bên trong Tâm Đạo không phải t́m lấy ước mơ, ư muốn riêng của ḿnh, v́ bên trong theo nghĩa nầy cũng chỉ có nghĩa là “tâm duy nguy”. “An thổ” là “doăn chấp quyết Trung” nơi Đạo ẩn kín giúp con người mở ra với Trời cao và người bên cạnh. Đạo tâm đó cũng gọi là nhân, tức là “người gặp trời đất”. Khi đức “Nhân” hiểu theo nghĩa nầy được tồn dưỡng, bấy giờ ḷng yêu thương kẻ khác mới trọn nghĩa.

Yêu thương (cố năng ái) phát xuất từ đức nhân [10]  hay nhân tính chân thật, không phải làm điều tốt cho ai theo ư ḿnh, nhưng thực hiện mối tương giao chân thật, tương kính, tôn trọng tự do theo chân lư của Đạo. “Ḥa b́nh” theo Nho học như thế là trật tự hài ḥa giữa Trời và Đất, giữa cộng đồng nhân loại với nhau.

Nhân” thường được con người tân thời ngày nay hiểu là Mẫu Mực Con Người hay một Ư Niệm Người do tự ḿnh hoặc ư thức về chính ḿnh, hoặc do lịch sử của nhiều thời đại xây đắp nên. Các chủ thuyết nhân bản tân thời Tây phương thường gọi ư niệm nầy là nhân loại. (= Humanité selon les humanismes modernes). C̣n Nho học th́ sẽ gọi “nhân loại tự tôn nầy” là “bất nhân tạo bất ḥa”, v́ đây là ư niệm phát sinh do những kẻ không sợ trời đất ǵ nữa. “Nhân” nơi Khổng Tử có nghĩa là “con người” trong tương quan với “Trời” (nét ngang ở trên) và “Đất” (là nét ngang ở dưới), như chữ Vương trong vương đạo. “Nhân” đó là “mệnh” theo nghĩa là tính uyên nguyên của con người, không do nơi bất cứ quan điểm, ư muốn riêng của ai, của thời đại nào làm ra. Nguyễn Du đă hiểu thâm sâu sự khác biệt nầy khi nêu lên sự tương khắc, mâu thuẩn giữa “tài” (=người tự đánh giá, làm nên ḿnh) và “mệnh”. ‘Nhân’ của Nho thể hiện nơi sự thương yêu người, như Khổng Tử đă trả lời cho Phàn Tŕ, trong sách Luận ngữ:

Phàn Tŕ hỏi: Nhân là ǵ?

 Khổng Tữ đáp: Là yêu người. [11]

Nhưng yêu người thế nào mới đúng đạo nhân, v́ biết bao lần nhân danh ḷng yêu người, con người xâm phạm đến nhân phẩm kẻ khác.

Đến đây Khổng Tử mới đưa ra những chỉ dẫn thực tiễn. Khi trả lời cho Tử Cống, Ngài nói cách tiêu cực về yêu người là thứ:

 Đó là ḷng thứ: việc ǵ ḿnh không muốn, chớ đem làm cho người khác [12]

Và một cách tích cực:

 Thế nào là đạo nhân ư? đó hẳn phải là bậc thánh! Ngay cả Nghiêu Thuấn c̣n chưa đạt được! Vun trồng đạo nhân, là muốn xây dựng cho người như ḿnh muốn xây dựng cho ḿnh, muốn cho người được thành đạt như ḿnh muốn vui đó cho ḿnh. Cố gần với người trong việc thực hành như thế, có thể nói là phương pháp thực hiện đức nhân.” [13]

Nhưng việc đó không phải dễ làm, v́ “tâm” người “duy nguy”, không những không làm nổi, mà c̣n không thấy rơ điều ḿnh muốn thế nào cho đúng với chân lư để tạo điều tốt ngay cho chính ḿnh.

V́ thế, trước thực tế nhân sinh, Khổng Tử mới nói với Nhan Uyên:

Sửa ḿnh theo lễ là thực hiện đức nhân. [14]

Và tiếp đó người nói, không phải “lễ” th́ không nên nh́n, không nên nghe, không nên nói, không nên làm.

Sửa ḿnh theo lễ thực hiện đức nhân,

 cũng gọi là “kính”  [15]

Tiên vương thực hành lễ, là vâng Đạo trời để chửa trị tính người [16]

Sự giáo hóa của lễ rất tinh tế, ngăn cấm điều xấu ngay khi chưa thành h́nh, làm cho người mỗi ngày gần điều thiện xa điều lầm lỗi, mà tự ḿnh không biết  [17]

Lễ là ǵ sao, là để đưa về đạo Trung vậy [18]

Các h́nh thức sinh hoạt bên ngoài, tùy hoàn cảnh, tùy tâm thức văn hóa gợi lên tâm t́nh “kính trọng” gọi là “lễ nghi”. Nhưng cốt lơi của “Lễ” là ḷng kính trọng điều tai thường không nghe, mắt thường không thấy.

Yêu người” là nhân ái, nhưng kẻ trước mặt ḿnh luôn cao cả hơn những ǵ mà sức lực, tài trí tự nhiên có thể biết được. Nên “yêu người” đúng đạo nhân trước hết là kính trọng người nơi sự cao cả của họ, mà các cách thẩm định giá trị của ḿnh, của lịch sử xă hội không thể đạt đến được.

Nhưng xă hội có thể biến lễ nghi bên ngoài (vốn là phương cách tùy thời để tỏ bày sự kính trọng con người và Một ai đó cao hơn con người) trở thành mối lo duy nhất bất chấp ư nghĩa bên trong, và bất chấp luôn Đấng ḿnh phải kính trọng.  Bấy giờ người ta chỉ biết trọng nghi lễ chứ không c̣n trọng người nữa; và nghi lễ biến thành một h́nh thức xă hội khắc nghiệt, giả h́nh, vô nghĩa. Nói theo ngôn ngữ nhà Nho, xă hội đă chỉ biết “dụng” mà đánh mất “thể”, lấy lễ nghi mà xóa sạch “ḷng kinh trọng”:

Khổng Tử nói: người mà bất nhân, th́ lễ mà làm ǵ? [19]

Qua các thời đại lịch sử của dân tộc ta, không phải bất cứ ai cũng thấu đáo được hết ư nghĩa của đạo Nho, phân tích thành hệ thống theo yêu sách của trường ốc, bác học. Hơn thế nữa, cũng có những cách hiểu, cách áp dụng đạo Nho lấy “dụng” làm “thể”, nên có những hiện tượng phản kháng nếp sống cao ngạo, giả tạo và khắt khe của lớp “quan lại hủ nho”, những cách đối xử thiếu t́nh nghĩa trong gia đ́nh và ngoài xă hội, những lễ nghi rườm rà, bất nhân… Sứ điệp nào, tôn giáo nào cũng gặp nguy cơ như thế khi tiếp cận với lịch sử xă hội. Nhưng đằng sau những hiện tượng xă hội tiêu cực trên đây, hồn của đạo Nho vẫn thấm nhập vào nếp sống sinh hoạt của mỗi một người con dân Việt; và đôi khi chính cái hồn đó là sức mạnh tố giác những h́nh thức nhiêu khê, giả tạo của nếp sống “nho nhă” giả h́nh.

        Từ triều đ́nh đến cuộc sống làng mạc, từ cách cư xử bạn bè, thân quyến đến nếp sống gia đ́nh... Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín được đề xuất như những mẫu mực tạo một trật tự nhân sinh t́nh nghĩa. Từ vua chúa đến thứ dân, từ người có ăn học đến người dân quê không biết đọc biết viết…, th́ “lễ”, là sự kính trọng kẻ khác, luôn được cảm nhận như giềng mối của các tương quan xă hội.

        Mỗi người biết kính trọng kẻ khác, v́ tất cả đều phải kính trọng “Chí Thiện”, cái Đạo sâu kín mà ngay cả Nghiêu Thuấn cũng c̣n bất cập. Cố tâm thực thi Đạo, gần, thật gần với người, nhưng không do người làm ra và không bao giờ thấu đáo hết trong thân phận con người của ḿnh, đó là “nghĩa” (= làm điều phải làm) [20].

 Nên kẻ kiến tạo ḥa b́nh không ảo tưởng cho rằng một trật tự nào đó nơi dương gian nầy bất kỳ, theo ư con người bày ra, là Ḥa thật sự. Nhưng từng bước đi của ḿnh, con người  luôn cố gắng noi theo ánh sáng của Đạo nơi Đại Kư Ức, nơi Chí Thiện.  Nỗ lực liên tục nầy là “nghĩa” của con người.

         Từ ư thức nghĩa làm người, dân Việt Nam đă anh dũng đẩy lui, tố giác... những hành vi bạo ngược vi phạm đến tự do và sự sống an b́nh của đồng bào họ. Và chưa có ai, sử gia nào Việt Nam, dám viết rằng những năm tháng bị ngoại bang đô hộ, vua quan hà hiếp dân chúng... dầu có ổn định bên ngoài từng trăm năm, là những năm tháng ḥa b́nh cả.

       V́ tự thâm sâu nơi tâm hồn người Việt Nam, ḥa b́nh chân thật là nỗ lực xây dựng con người và xă hội trong Đạo lư, một nền ḥa b́nh vốn không phải do bất cứ ai, bất cứ phe nào suy nghĩ ra và áp đặt theo sở thích của ḿnh. Nhưng ḥa b́nh chân thật trong khuôn khổ Trung và Ḥa của Nho học  có căn nguồn vững bền nơi Tâm Duy Vi, xuất phát từ đáy ḷng của mỗi người.


 

1  “Trung dă giả, thiên hạ chi đại bản dă, ḥa giả thiên hạ chi đạt Đạo dă” (Trung Dung, Chương I)

[1]    “Bất thiên chị vị Trung” (Trung Dung, Dẫn nhập)

[2]    “Đạo bất khả tu du lỵ dă” (Trung Dung, Chương I)

[3]    “Hỷ, nộ, ai, lạc chi vị phát, vị chi Trung” (T D, Chương I)

[4]       “Nhân tâm duy nguy; đạo tâm duy vi.

Duy tinh duy nhất, doản chấp quyết Trung.”  (III Đại Vũ Mô,15)

[5]  “ Phát nhi dai trúng tiết, vị chi Ḥa.” (K. Thư, Chương I)

[6]  “Đạo kỳ bất hành hỷ phù!” (TD ch.4)

[7]Thị tri kỳ bất khả nhi vi chi giả dư?” (Luận ngữ, Hiến vấn XIV, 41)

[8] “Dục khiết kỳ thân, nhi loạn đại luân! Quân tử chi sĩ dă, hành kư nghĩa dă. Đạo nhi bất hành, dĩ tri chi hỷ!” (Luận ngữ, Vi tử XVIII, 7)

[9]  “Dử thiên địa tương tợ, cố bất vi; Trí chu hồ vạn vật nhi đạo tế thiên hạ, cố bất quá; Bàng hành nhi bất lưu; Lạc thiên tri mệnh, cố bất ưu; An thổ đôn hồ nhân, cố năng ái.” (Hệ tử Thượng truyện, chương 4, tiết 3)

[10]  Nếu phải chiết tự để minh giải ư nghĩa, th́ chữ nhân gồm chữ nhân đứng (= là người) với hai gạch ngang ( tương trưng đất - trời, tượng trưng cho hai người gâén nhau), gợi lên nội dung tương đương với ư nghĩa chữ vương trong vương đạo. Tương quan nầy là sự sống linh ư vạn vật  của nhân tính toàn diện.

[11] “Phàn tŕ vấn nhân: Tử viết: ‘Ái nhân... (Luận ngữ, Nhan Uyên XII, 22)

[12]Kỳ thứ hồ! Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Luận ngữ, Vệ Linh Công XV, 23)

[13] “Hà sự ư nhân? tất dă thánh hồ? Nghiêu Thuấn kỳ do bệnh chư? Phù nhân giả, kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân. Năng cận thủ thí, khả vị nhân chi phương dă hỉ!” (Ln Ung Dă VI, 28)

[14]Khắc kỷ phục lễ vi nhân” (Ln Nhan Uyên XII,1)

[15]  “Tu kỷ dĩ kính” (Ln, Hiến vấn XIV, 45)

[16]  “Phù lễ, tiên vương dĩ thừa thiên chi đạo, dĩ tự nhân chi  tính.” (Lễ kư, Lễ vận IX)

[17]  “Lễ chi giáo hóa giă vi, kỳ chỉ tà giă ư vi h́nh, sử nhân nhật tể thiện, viễn tội, nhi bất tư tri giă” (Lễ kư, Kinh giải XXXI)

[18]  “Lễ hồ, lễ hồ, sở dĩ chế trung giă” (Lễ kư, Ai Công VấnXXVIII)

[19]Tử viết: nhân nhi bất nhân, như lễ hà?” (Luận ngữ; Bát dật III,3)

[20]  Chữ “nghĩa” của Nho giáo, cũng như dân Việt Nam ta hiểu không nằm trong khuôn khổ sự hiểu biết sự vật. Nhưng “nghĩa” là bổn phận (= đạo đức) sống nhân phẩm của ḿnh cho đúng với Đạo - Nhân. Khi người Việt nói làm việc nghĩa, hoặc nói nghĩa làm người, chữ nghĩa đó không có cùng nội dung với chữ nghĩa trong câu nầy: Cái bàn nghĩa là ǵ?