CẤU TRÚC VĂN HOÁ XĂ HỘI

CỦA NGƯỜI VIỆT NAM TRONG HOẠT ĐỘNG XĂ HỘI

 

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn

 

 

 

Lời mở

 

Nhân dịp hội thảo về “Đào tạo con người trong công tác xă hội ở Việt Nam”, tôi xin được chia sẻ đôi điều về cấu trúc văn hoá - xă hội của người Việt. Hy vọng nhờ đó các hoạt động xă hội của chúng ta sẽ đạt được hiệu quả cao hơn và tốt đẹp hơn. Chúng ta có thể nói rằng trong hầu hết các hoạt động xă hội ở nước ta, con người Việt Nam vừa là chủ thể và cũng là đối tượng của các hoạt động. Chính người Việt Nam nghiên cứu và h́nh thành các dự án xă hội, rồi cũng chính họ thực hiện, giám sát, quản lư dự án để phục vụ và làm cho đồng bào được ấm no, hạnh phúc và phát triển toàn diện con người.

Tuy nhiên, nhiều dự án đă thất bại, nhiều công tŕnh bị bỏ dở dang, không được như mục tiêu ban đầu đặt ra chỉ v́ người ta không chú ư đến cấu trúc văn hoá - xă hội của người Việt.

V́ thế trong phạm vi bài này chúng ta khởi đầu với vài nhận định thực tế về hiện trạng xă hội rồi từ đó t́m hiểu khái quát về cấu trúc văn hoá xă hội của người Việt, nhất là một số nét tiêu cực, để t́m ra biện pháp hay đường hướng sửa chữa.

 

1.TỪ NHỮNG NHẬN ĐỊNH THỰC TẾ

 

T́nh trạng xă hội Việt Nam hiện nay đă được các phương tiện truyền thông nói đến rất nhiều và có lẽ không cần lặp lại. Chúng tôi chỉ xin tóm tắt vài điểm nổi bật, đáng quan tâm sau đây:

 

1.1. Nhận định tổng hợp giá trị hơn cả được tŕnh bày trong bản Dự thảo Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X, được phổ biến trên các báo đài ngày 3-2-2006 và đang xin ư kiến đóng góp của nhân dân. Chúng tôi xin trích nguyên văn trong phần kiểm điểm 5 năm thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xă hội từ 2001-2005 và tổng kết 20 năm đổi mới (1985-2005).

“Năm năm qua bên cạnh những thuận lợi cơ bản do tiến tŕnh đổi mới tạo ra, nước ta cũng gặp không ít khó khăn, thách thức… (x. Bản Dự thảo phần I, điểm 1) cũng như khuyết điểm và yếu kém sau đây:

+ Nhịp độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng… Tŕnh độ khoa học, công nghệ năng suất lao động c̣n thấp, giá thành nhiều sản phẩm cao hơn so với khu vực và thế giới. Nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước chưa được huy động và khai thác tốt. Đầu tư của Nhà nước dàn trải, bị thất thoát nhiều. Một số công tŕnh xây dựng lớn, quan trọng của quốc gia không hoàn thành theo kế hoạch, lăng phí trong chi tiêu ngân sách Nhà nước và tiêu dùng xă hội c̣n nghiêm trọng. Môi trường sinh thái ở nhiều nơi ô nhiễm nặng. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, nh́n chung chưa hợp lư.

 + Cơ chế, chính sách về văn hoá - xă hội chậm đổi mới, nhiều vấn đề xă hội bức xúc chưa được giải quyết tốt.

Thành tựu xoá đói giảm nghèo chưa thật vững chắc, nguy cơ tái nghèo c̣n lớn. Chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng có xu hướng tăng. Nhu cầu bức xúc về việc làm ở các thành thị và nông thôn chưa được đáp ứng tốt. Nhiều vấn đề xă hội quan trọng chưa được giải quyết thoả đáng.

+ Giáo dục và đào tạo chất lượng c̣n thấp, cơ cấu chưa hợp lư… Xu hướng xa rời tôn chỉ, mục đích, chạy theo thị hiếu thấp kém v́ lợi ích vật chất đơn thuần, v́ lợi ích cục bộ cá nhân… chưa được khắc phục có hiệu quả. Tệ quan liêu tham nhũng lăng phí vẫn nghiêm trọng. Tội phạm và một số tệ nạn xă hội có chiều hướng tăng. Tai nạn giao thông gây ra nhiều thiệt hại về người và của” (x. Bản Dự thảo phần I, điểm 2).

 

+ “Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở nhiều nơi c̣n thụ động, mang tính hành chính, h́nh thức. Dân chủ trong xă hội c̣n bị vi phạm. Kỷ cương, kỷ luật ở một số cấp và lĩnh vực không nghiêm.

+ T́nh trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, thiếu trung thực và tệ quan liêu, tham nhũng, lăng phí, sách nhiễu trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng.

+ T́nh trạng nói nhiều làm ít, làm không đến nơi đến chốn hoặc không làm c̣n diễn ra ở nhiều nơi…” (x. Bản Dự Thảo, phần I, điểm 4).

Khi trích dẫn nhiều điểm tiêu cực trong hiện t́nh đất nước, chúng ta không có ư bôi xấu chế độ nhưng muốn mời gọi mọi người nh́n thẳng vào thực tế để nh́n ra nguyên nhân sâu xa của chúng. Nếu chúng ta chỉ nh́n gần để thấy ngôi nhà của ḿnh 20 năm trước là túp lều tranh rách nát bây giờ đă là nhà gạch mái ngói, ta có thể tự hào về sự phát triển và tiến bộ này. Nhưng nếu chúng ta nh́n xa trông rộng, so sánh ngôi nhà của ḿnh hiện nay với các nước trong khu vực ta mới thấy bàng hoàng, e ngại về sự chậm tiến của dân tộc. Cách đây 30 năm các nước như Thái Lan, Hàn Quốc, Philippines chỉ ngang tầm với Miền Nam Việt Nam, c̣n Malaysia, Indonesia ta vẫn cho là thấp kém hơn ḿnh. Bây giờ các nước ấy đă vượt xa ḿnh về rất nhiều mặt. Nếu chúng ta không khám phá được nguyên nhân sâu xa nằm trong chính con người Việt Nam mà chỉ đi t́m các biện pháp kinh tế, khoa học, chính trị th́ sợ rằng khoảng cách này sẽ c̣n xa hơn nữa.

 

1.2. Một vài lĩnh vực cần quan tâm đặc biệt

 

Nếu đi vào các lĩnh vực cụ thể, chúng ta thấy dân tộc Việât Nam hiện nay có nhiều vấn đề cần quan tâm tuỳ theo mức độ ưu tiên về tỷ lệ dân số hay t́nh trạng khẩn cấp về mặt xă hội:

-               Hơn 60% dân số là người trẻ dưới 30 tuổi, mức độ tha hoá, tục hoá, sống buông thả để hưởng thụ vật chất nơi người trẻ rất cao.

-               Gần 51% dân số là phụ nữ nhưng nhiều người c̣n bị bạo hành trong gia đ́nh, chưa được hưởng sự b́nh đẳng về giới, chưa biết bảo vệ sức khoẻ sinh sản. Nhiều miền cao, vùng xa, nhất là đồng bằng sông Cửu Long có đến 60-80% phụ nữ mắc bệnh phụ khoa v́ thiếu nước sạch. Gần 3 triệu người goá bụa sống nghèo khổ, trong đó hơn 2 triệu là phụ nữ. Do t́nh trạng nghèo khổ, nhiều phụ nữ bị lạm dụng t́nh dục, phải lấy chồng nước ngoài, thậm chí phải bán cảû thân xác.

-               26% dân số sống trong t́nh trạng nghèo khổ (theo tiêu chuẩn mới của thế giới: thu nhập dưới 1USD/ngày), đặc biệt là đồng bào thiểu số, nhưng không biết phải xoá đói giảm nghèo như thế nào.

-               20 triệu người, đa số là nam giới, uống rượu và nghiện rượu dẫn đến bạo hành, ly dị, bất hạnh trong gia đ́nh.

-               Hơn 5 triệu người khuyết tật, trong đó có 1,2 triệu là trẻ em.

-               Hơn 4 triệu người di dân phải làm ăn xa gia đ́nh, nhiều người bị bóc lột sức lao động, sống trong những điều kiện thiếu thốn, một ít người trẻ sống thử trước hôn nhân.

-               1,4 triệu-2 triệu người phá thai mỗi năm, trong đó có nhiều người trẻ. Họ rất cần được học hỏi về giá trị sự sống, về giới tính, về t́nh yêu.

-               Đại dịch HIV/AIDS với gần 265.000 người nhiễm HIV/AIDS.

-               Nhiều tệ nạn xă hội như nghiện ma tuư (180.000 người), măi dâm (hơn 100.000 người), nạn cờ bạc… xảy ra khắp nơi trong cộng đồng xă hội.

-               Tŕnh độ văn hoá dân chúng c̣n thấp, chỉ vừa tốt nghiệp cấp I, trong đó c̣n 6% dân số mù chữ, nhất là ở vùng quê, vùng cao.

         Đứng trước những nhu cầu lớn lao và cấp thiết của xă hội hiện nay, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích và mở rộng sự cộng tác của mọi người, không phân biệt đảng phái, tôn giáo, địa phương, người trong nước hay ngoài nước… để có thể tập hợp được sức mạnh toàn dân cũng như tranh thủ được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Có lẽ chúng ta cần phải vượt qua những nghi ngờ hay e ngại về ảnh hưởng của nhóm này, phe nọ để thực sự lo cho những đồng bào đang nghèo khổ, bệnh tật hay bị trói buộc bởi những tệ nạn xă hội. Chúng ta từng thấy có rất nhiều người, nhờ niềm tin tôn giáo, đă quảng đại dấn thân trong những môi trường khó khăn, nguy hiểm để chăm sóc những bệnh nhân HIV/AIDS, những người nghiện ma tuư, những phụ nữ lỡ lầm…

 

1.3. Hoạt động bác ái xă hội của Giáo hội Công giáo Việt Nam

 

Chúng ta có thể nói đôi điều về hoạt động bác ái xă hội của Giáo hội Việt Nam. Tính đến ngày 31-12-2004, số người Công giáo trên toàn quốc là 5.776.972 người trên tổng số dân cả nước là 82.032.300 người, chiếm tỷ lệ khoảng 7,04% dân số. Giáo hội Việt Nam có 3.126 linh mục, 14.413 tu sĩ nam nữ, 53.887 giáo lư viên, 1.552 giáo xứ và giáo họ có linh mục đảm nhận mục vụ và c̣n 890 giáo xứ, giáo họ chưa có linh mục phụ trách.

 Rất nhiều hoạt động bác ái xă hội của các xứ đạo, các ḍng tu và giáo dân không được báo cáo cho Ṭa Giám mục hay Hội đồng Giám mục v́ người tín hữu thường sống theo tinh thần âm thầm khiêm tốn “để cho tay trái không biết việc tay phải làm” (x. Mt 6,3-4). Hơn nữa, một số nơi có nhắc đến sự khó khăn về mặt cho phép của chính quyền địa phương đối với các hoạt động xă hội. V́ thế, theo báo cáo tổng kết của Văn pḥng Thư kư Hội đồng Giám mục Việt Nam, Giáo hội Việt Nam có tất cả 698 nhà trẻ mẫu giáo, 94 trường t́nh thương cấp I (Thống kê GHCG, Bản tin Hiệp Thông số 31-32, 12-2005, tr. 115-117). Nếu so với 88.700 lớp mẫu giáo năm 2003-2004 và 14.346 trường cấp I trong cả nước (Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê 2003, NXB Thống kê, tr. 455-456) th́ số lượng và hoạt động của Giáo Hội như vậy là rất thấp so với tỷ lệ % dân số.

Trong t́nh h́nh mới của đất nước, chính quyền chủ trương xă hội hoá việc giáo dục. Nhưng các xứ đạo cũng như các tổ chức ḍng tu hiện nay chỉ tập trung cho nhà trẻ mẫu giáo và ít quan tâm đến trường học các cấp, một phần do không c̣n quản lư các cơ sở giáo dục đă có từ trước năm 1975, một phần không c̣n đủ nhân sự để quản lư các cơ sở ấy. Tuy nhiên, nếu muốn thúc đẩy công cuộc Tin Mừng hoá xă hội, Giáo hội Việt Nam và cụ thể là các ḍng tu, các tổ chức giáo dân nên quan tâm hơn cho công tác giáo dục các cấp, ngay cả cấp đại học, bằng cách chuẩn bị đào tạo nhân sự ngay từ bây giờ.

Về hoạt động từ thiện, bác ái, người Công giáo, nhất là các tu sĩ, đang điều hành hoặc làm việc tại 99 trạm xá, bệnh viện, 8 trại phong, trung tâm dành cho người tâm thần, người nghiện ma tuư và nhiễm HIV/AIDS, 82 cơ sở khuyết tật, cô nhi viện và nhà dưỡng lăo. Sự tham gia về mặt xă hội như thế là rất ít so với nhu cầu xă hội kể trên. Trong chủ trương xă hội hoá hoạt động y tế, người tín hữu Công giáo có nhiều điều kiện dễ dàng hơn để trực tiếp thành lập và quản lư các cơ sở từ thiện xă hội. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra vẫn là t́nh trạng thiếu hụt trầm trọng những người có khả năng chuyên môn để làm việc trong các cơ sở đó.

Ở Việt Nam, nhu cầu về công tác từ thiện xă hội rất cao, như chúng ta vừa thấy ở điểm 1.2. Nhưng nhiều tín hữu Công giáo dường như chỉ nghĩ đến việc đóng góp, giúp đỡ chút ít về vật chất, mà không hiểu được rằng công tác xă hội, gồm thăng tiến con người toàn diện và phát triển cộng đồng, đ̣i hỏi phải được đào tạo kỹ lưỡng và tổ chức chặt chẽ hơn nhiều, như Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI vừa mới nhắc đến trong suốt phần thứ 2 của thông điệp đầu tiên Thiên Chúa là T́nh Yêu. (x. Thông điệp Deus Caritas est, số 19-39, công bố ngày 25-12-2005).

Sự cộng tác của tín hữu Kitô, nhất là các linh mục, tu sĩ, giáo dân quan tâm đến vấn đề xă hội, sẽ là một sức mạnh tổng hợp cần được cổ vũ và h́nh thành.

Giáo hội Việt Nam hiện nay có 26 giáo phận. Có thể nói ngoại trừ Tổng Giáo phận TP. HCM có Văn pḥng Bác ái Xă hội (BAXH) và nhiều nhân sự có tŕnh độ chuyên môn cao, 25 giáo phận c̣n lại hầu như chỉ cắt cử 1, 2 linh mục, tu sĩ lo cho việc này, chưa tổ chức được văn pḥng và ít người được đào tạo về chuyên môn. Ước mong các anh chị em tốt nghiệp khoa Xă hội học, có thể t́m đến các giáo phận để làm việc trong các Ban BAXH, nhờ đó hoạt động BAXH sẽ khởi sắc hơn.

Theo thống kê của ban tổ chức Quỹ Học bổng Xă hội Công giáo do tổ chức Misereor (Đức) tài trợ, đă có 228 sinh viên tốt nghiệp đại học và 176 người đang được trợ cấp học 4 năm tại các đại học. Đa số những người này là các tu sĩ. Tuy nhiên, nhiều người tốt nghiệp đang bằng ḷng với những công việc dễ dăi, nhẹ nhàng như quản lư các nhà trẻ, hoặc trực tiếp đứng lớp dạy trẻ mẫu giáo hay lớp học t́nh thương. Nhiều người chưa biết chọn cho ḿnh một lĩnh vực xă hội để hoạt động. Hy vọng những lĩnh vực chúng tôi giới thiệu trên đây giúp các bạn quan tâm hơn để không phụ ḷng những người đă đóng góp cho quỹ học bổng này.

 

Tóm lại: Trong một đất nước như thế th́ việc sống Lời Chúa không đơn giản chỉ là sáng lễ chiều kinh với những câu Tin Mừng chú giải cách này hay cách khác. Sống Lời Chúa trên con đường đi tới của Giáo hội Việt Nam chính là gặp gỡ được Đức Kitô, gắn bó với Người và trở thành h́nh ảnh sống động của Người để có sức mạnh và t́nh yêu chữa lành những người bệnh tật, giúp đỡ những người đói khát và giải thoát cho những con người đang bị trói buộc bởi đủ loại xích xiềng (Thư Mục vụ của HĐGMVN 2005, số 9-11). Sống Lời Chúa hôm nay c̣n là t́m đủ mọi phương cách, nhất là sử dụng các phương tiện truyền thông xă hội, để chia sẻ cho người khác những ǵ ta đón nhận được từ Đức Giêsu, giúp họ sống trọn vẹn giá trị của con người và của con Thiên Chúa. Đó là ư nghĩa sự cứu độ mà Đức Giêsu muốn thể hiện qua chúng ta.

 

2.CẤU TRÚC VĂN HOÁ - XĂ HỘI CỦA NGƯỜI VIỆT

 

Đứng trước thực tế đau xót của xă hội với nhiều vấn đề cấp thiết cần giải quyết cũng như trước t́nh trạng kém phát triển, chúng ta đặt câu hỏi: Tại sao lại xảy ra như thế và phải làm ǵ để sửa đổi? Đă có rất nhiều bài nghiên cứu và ư kiến đề xuất hành động của cá nhân và tập thể trong các lĩnh vực xă hội, kinh tế, chính trị, văn hoá… Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ rằng vấn đề cơ bản vẫn là đào tạo con người Việt Nam, nhưng muốn đào tạo kết quả phải hiểu rơ con người và cấu trúc của nó.

 

2.1. Nhận định chung về con người Việt Nam.

 

- Xét về mặt văn hoá, con người Việt Nam (VN) bị tác động bởi những yếu tố địa lư, lịch sử đă kết thành một thực thể phức tạp với nhiều đức tính và khuyết điểm. Chúng tôi tin rằng, chỉ khi hiểu rơ thật sự con người, ta mới có thể giải quyết những vấn đề trong gia đ́nh và xă hội v́ "sự thật sẽ giải phóng chúng ta" (x. Ga 8,32) dù sự thật ấy có thể làm chúng ta buồn ḷng.

-               Nói đến con người VN, chúng ta có thể nhắc đến bao điều kỳ diệu, bao đặc tính tốt đẹp mà nhiều người đă không ngớt lời ca tụng như Toan Ánh trong bộ Nếp Cũ - Con người VN, Sơn Nam trong Người Sài G̣n, Vương Hồng Sển trong Sài G̣n năm xưa... nhất là Vũ Hạnh (A. Pazzi) trong Người Việt kỳ diệu. Những lời ca tụng đó có thể ru ta vào giấc mộng dĩ văng mà không dám nh́n thẳng vào thực tế để giải quyết những vấn đề hiện nay.

-               Có lẽ chúng ta cần nh́n rơ con người VN để nhận ra cả hai mặt tốt, xấu, nhất là mặt xấu mà ít người dám nói v́ sợ bị kết tội “vạch áo cho người xem lưng”. Nhà văn Bá Dương đă dám viết Người Trung Hoa xấu xí, được Nguyễn Hồi Thủ dịch sang tiếng Việt. Những bài viết này tác động mạnh đến dân tộc ông cũng như đóng góp nhiều cho công cuộc phát triển đất nước Trung Hoa. Chỉ trong ṿng 50 năm qua, từ một dân tộc lạc hậu, chậm phát triển, nước Trung Hoa đă tiến lên địa vị của một cường quốc, và nhiều lĩnh vực vượt cả Anh, Pháp, Đức. Dân tộc Việt Nam ta đâu có thua kém người bạn láng giềng.

-               Đă có những nghiên cứu lớn về con người Việt Nam, thí dụ như của Viện Nghiên cứu Xă hội Hoa Kỳ, kết quả rất đáng cho chúng ta lưu ư. Viện này đă đưa ra 10 đặc điểm của người Việt Nam như sau:

1.            “Cần cù lao động, song để thoả măn, nên tâm lư hưởng thụ c̣n nặng.

2.            Thông minh, sáng tạo, song chỉ có tính chất đối phó, thiếu tư duy dài hạn, chủ động.

3.            Khéo léo, song không duy tŕ đến cùng (ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng của sản phẩm).

4.            Vừa thực tế, vừa mở rộng, song lại không có ư thức nâng cao lên thành lư luận.

5.            Ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh, song ít học từ đầu đến đuôi nên kiến thức không có hệ thống, mất căn bản. Ngoài ra, học tập không phải v́ tự thân của mỗi người (nhỏ học v́ gia đ́nh, lớn học v́ sĩ diện, v́ kiếm công ăn việc làm, ít v́ chí khí, v́ đam mê).

6.            Xởi lởi, chiều khách, song không bền.

7.            Tiết kiệm, song nhiều khi hoang phí v́ những mục tiêu vô bổ (sĩ diện, khoe khoang, thích hơn đời).

8.            Có tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, song hầu như chỉ trong những hoàn cảnh, những trường hợp khó khăn, bần hàn; c̣n trong điều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn th́ tinh thần này ít xuất hiện.

9.            Yêu hoà b́nh, nhẫn nhịn, nhưng nhiều khi lại hiếu chiến, hiếu thắng v́ những lư do tự ái lặt vặt làm đánh mất đại cuộc.

10.        Thích tự lập, nhưng lại thiếu t́nh liên kết để tạo ra sức mạnh (cùng một việc, một người làm th́ tốt, ba người làm th́ kém, bảy người làm th́ hỏng)”.

- Những nhận định trên đây và những kết quả nghiên cứu khác có thể giúp ích nhiều cho chúng ta, nhưng tiếc là chúng chưa tŕnh bày các lư do h́nh thành nên cấu trúc tâm lư xă hội của người Việt cũng như t́m ra được đường hướng sửa chữa những khuyết điểm trong cấu trúc. Điều này có lẽ cần đến sự nghiên cứu và làm việc lâu dài hơn của các nhà giáo dục, tâm lư, xă hội học.

Trong phạm vi bài này, chúng tôi dùng phương pháp phân tích con người và hoàn cảnh văn hoá, xă hội để nêu lên một số điểm khái quát về con người VN thời xa xưa và hiện tại để giúp các nhà nghiên cứu t́m ra đường hướng đào tạo con người VN.

 

2.2. Về mặt địa lư

 

Nước VN là một dải đất h́nh chữ S, nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, phía Đông bán đảo Đông Dương. Dù cùng một nguồn gốc, nhưng người VN lại rất khác với người Trung Hoa ở phía Bắc, với người Lào và Cambodia ở phía Tây, v́ những rặng núi h́nh rẻ quạt ở phía Bắc và dăy Trường Sơn hùng vĩ ở phía Tây đă ngăn cách các dân tộc đó với người VN, ngăn cản phần nào sự hoà nhập của các nền văn hoá khác nhau. Phía Đông, Nam và Tây Nam của đất nước là Biển Đông và Ấn Độ Dương. Nền văn hoá dân tộc được xây dựng theo truyền thuyết những người con theo mẹ lên núi hái thuốc thành tiên và theo cha xuống biển vượt khó thành rồng. VN có 2.860 con sông có chiều dài từ 10km trở lên (x. Tổng Cục Du lịch, Non nước VN, Hà Nội, 2000, tr.9), trong đó có nhiều hệ thống sông lớn như sông Mêkông, sông Hồng. Gắn bó với núi cao, biển rộng, sông dài nên người VN thường có nhiều t́nh cảm cao thượng, biết nh́n xa trông rộng và gần gũi với thiên nhiên. Những tâm t́nh tốt đẹp này h́nh như đang bị sói ṃn và biến chất, đặc biệt với làn sóng đô thị hoá hiện nay, nơi những cư dân thành thị sống trong những toà nhà cao tầng, những căn pḥng nhỏ hẹp che chắn tầm mắt con người.

Hướng tiến bị bên núi, bên biển ngăn cản buộc dân tộc phải hướng về phía Nam từ đồng bằng châu thổ sông Hồng ở miền Bắc (rộng 15.000km2), vượt qua các đồng bằng nhỏ hẹp ở miền Trung để vào tới đồng bằng sông Cửu Long (rộng 40.000km2) ở miền Nam. Bước chân khai phá của người Việt chỉ dừng lại trước biển cả ở cực Nam đất nước, nhưng thiên nhiên vẫn ưu đăi cho dân Việt nên bờ cơi tiếp tục mở rộng về phương Nam v́ hằng năm đồng bằng Nam Bộ vẫn trải rộng lấn về phía biển từ 60-80m, do phù sa của các con sông Cửu Long bồi đắp. Người Việt, với tâm hồn của những người tiên phong khai hoang dựng nước, đă không sợ hiểm nguy, dám đối đầu với những thử thách, bất trắc của cuộc sống, đă viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc. V́ thế càng tiến vào niềm Nam, người Việt càng hành động phóng khoáng, cởi mở và liều lĩnh hơn.

Khí hậu cũng ảnh hưởng khá nhiều đến tâm tính con người, t́nh trạng gia đ́nh và hoạt động xă hội. VN nằm hoàn toàn trong vành đai nhiệt đới của nửa cầu Bắc, nghiêng về chí tuyến hơn là xích đạo nên có nhiệt độ cao, trung b́nh từ 220C-270C. Hằng năm, có khoảng 100 ngày mưa với lượng mưa trung b́nh từ 1.500 -2.000ml/cm2, độ ẩm khoảng  80%, số giờ nắng khoảng 1.500-2.000 giờ/năm. Do ảnh hưởng của gió mùa và địa h́nh phức tạp, nên khí hậu VN luôn thay đổi trong năm, giữa năm này với năm khác, giữa nơi này với nơi kia (từ Bắc xuống Nam và từ thấp lên cao). Nh́n chung, VN có một mùa nóng mưa nhiều và một mùa tương đối lạnh ít mưa. Nhưng khí hậu các tỉnh ở phía Bắc, từ đèo Hải Vân trở ra, thay đổi theo 4 mùa khá rơ rệt với xuân, hạ, thu, đông. Khí hậu này cũng tạo ra những bất lợi về thời tiết v́ Việt Nam bị băo tố, lũ lụt, hạn hán thường xuyên đe doạ (x. Tổâng Cục Du lịch, Non nước VN, Hà Nội, 2000, tr. 11-12).

Do đó, tâm tính người VN có thể nói dễ thay đổi theo kiểu "sáng nắng chiều mưa" hơn những dân tộc sống trong các vùng khí hậu ổn định, ôn hoà. Gia đ́nh từ đó cũng chịu những hậu quả của sự thay đổi thất thường này như: có nhiều căi vă, xung đột, kém thuỷ chung hơn. Hoạt động kinh tế xă hội cũng chịu sự thay đổi thường xuyên do các quyết định bất nhất của người lănh đạo. Nhận ra sự tác động của thời tiết, ta sẽ thấy người Việt cần tập tính kiên nhẫn, ôn hoà, ư chí vững mạnh th́ mới có thể thực hiện những kế hoạch lâu dài.

 

2.3. Về mặt lịch sử

 

Tiếp đến chúng ta chú ư hơn về con người VN qua các giai đoạn lịch sử h́nh thành dân tộc, tức là chú ư đến khía cạnh văn hoá xă hội của người Việt.

2.3.1. Giai đoạn tiền sử: Người VN có nguồn gốc dân tộc trong khối các chủng Đông Nam Á (Austro-asiatique) h́nh thành từ 2 đại chủng Á (Mongoloid) và chủng phương Nam (Australoid): vào khoảng 10.000-8.000 năm trước Công nguyên (TCN). Sau đó từ 5.000 năm TCN, chủng Cổ Mă Lai (Indonesian) ở miền Đông Nam Á, phối hợp với các chủng Nam đảo, Nam Á để h́nh thành nên các nhóm Chàm - Môn Khmer - Việt Mường - Tày Thái - Mèo Dao - Tiền Thái - Tạng Miến - Hán: gồm 54 dân tộc Việt Nam (x. Lê Văn Chưởng, Cơ sở Văn hoá Việt Nam, NXB Trẻ, 1999, tr. 24-27; Trần Ngọc Thêm, Cơ sở Văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục, 1999; NN, Niên giám GHCGVN 2005, NXB Tôn giáo, tr. 454-466). Không gian văn hoá gốc VN thời tiền sử là không gian của các dân tộc có nền văn minh nông nghiệp lúa nước, văn minh đồ đồng và ngôn ngữ đơn lập. Sau đó đến những thế kỷ trước Công nguyên, không gian gốc này bị thu hẹp v́ các dân tộc ở vùng Nam sông Dương Tử bị người Trung Hoa bành trướng và đồng hoá.

Người Việt có những nét đặc thù của nền văn hoá nông nghiệp: tôn trọng và hoà hợp với thiên nhiên, có lối sống định canh, định cư và nền kinh tế tự cung, tự cấp. Trong mối quan hệ với gia đ́nh, người Việt trọng nữ và nhiều cộng đồng xă hội c̣n bị ảnh hưởng theo chế độ mẫu hệ. Đời sống nông nghiệp gắn bó chặt chẽ với gia tộc và xóm làng, trọng t́nh hơn trọng lư, trọng đức hơn trọng tài, trọng văn hơn trọng vơ. Lối nhận thức tư duy thiên về tổng hợp, mang tính chủ quan, theo cảm tính và kinh nghiệm hơn là mang tính phân tích khách quan và hợp lư theo một hệ thống suy tư rơ ràng.

Trong cách ứng xử với môi trường xă hội, người Việt dễ dung hợp trong tiếp nhận, ngay cả trong tín ngưỡng. Ngoài tín ngưỡng bái vật, đa thần, người Việt đón nhận tam giáo Đông Phương: Nho - Phật - Lăo, và sau này cả Thiên Chúa giáo. Niềm tin vào một chủ thể tối cao, gọi là Trời mà sau này các tôn giáo khác có thể xác định rơ hơn là Thiên, Chúa Trời, Đức Thượng Đế, Đấng Cao Đài, Đức Allah, Thiên Chúa,.. lúc nào cũng bàng bạc trong tâm hồn người Việt để thúc đẩy họ tin tưởng và sống theo lương tâm ngay chính của ḿnh. Chính niềm tin ấy giúp cho đời sống họ được an vui “Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm, lấy rơm đun bếp…”, xă hội được ổn định “trời cao có mắt”, ngăn ngừa những hành động ác đức “thiên bất dung gian”…

 

2.3.2. Giai đoạn thống trị của các đế chế Trung Hoa kéo dài trong 11 thế kỷ ảnh hưởng không ít tới con người cũng như gia đ́nh và xă hội VN. Năm 179 TCN, nước Âu Lạc do An Dương Vương Thục Phán (257-208 TCN) lập nên với thành Cổ Loa bị Triệu Đà, vua của nước Nam Việt chiếm. Năm 111 TCN, nước Nam Việt bị chuyển sang tay nhà Hán rồi trải qua nhiều đời vua Trung Hoa cho đến năm 938, khi Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán, trên sông Bạch Đằng, mới khôi phục được nền độc lập cho đất nước.

Dù sống dưới chế độ bóc lột hà khắc với chính sách “chia để trị” của ngoại xâm, người Việt vẫn kiên nhẫn chịu đựng gian khổ, biết chờ thời cơ trỗi dậy với cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40-43), Bà Triệu (248), Lư Bí (thế kỷ VI), Mai Thúc Loan (722), Phùng Hưng (766-791). Tuy nhiên, v́ sống quá lâu dưới ách thống trị, người Việt có đặc trưng thường nhút nhát, sợ sệt, không dám bày tỏ trực tiếp ư kiến của ḿnh, nhất là trước mặt người lạ. Họ hay giấu diếm t́nh cảm của ḿnh, chỉ thân thiện vồn vă bên ngoài để tránh cho quân thù khỏi chú ư, làm hại. Họ dễ nghi ngờ v́ nghĩ rằng ai cũng có thể là kẻ thù, thiếu tin tưởng và ít cộng tác với người khác, ngay cả với người thân.

Những đặc tính này tạo ra nhiều điểm bất lợi cho đời sống gia đ́nh v́ gia đ́nh là một cộng đồng đ̣i hỏi sự hiệp thông trọn vẹn, sự cởi mở chân thành, tin tưởng và lo lắng cho nhau giữa các thành viên. Nó cũng tác hại rất lớn đến xă hội v́ xă hội là một cộng đồng lớn hơn đ̣i hỏi mọi thành viên phải tin tưởng để cùng hợp tác với nhau lo cho công ích.

Sự chia rẽ thiếu đoàn kết diễn ra khắp nơi, trong mọi ngành nghề, tổ chức của xă hội và cả trong các tổ chức tôn giáo. Dù thời Bắc thuộc đă qua nhưng những di chứng tiêu cực dường như vẫn c̣n ăn sâu trong tâm hồn người Việt.

Hầu hết người Việt yêu mến quê hương và chống lại kẻ ngoại xâm. Để biểu thị sự bất hợp tác, họ chỉ làm việc cầm chừng và ra vẻ chăm chỉ dưới ánh mắt theo dơi hay dưới làn roi hành hạ của quân thù. Do làm măi dưới chế độ này người Việt dễ trở thành người làm việc nửa vời, chỉ cố gắng khi có sự quan sát hay theo dơi của người khác thay v́ làm việc với sự đam mê hay ư thức trách nhiệm.

Ngoài ra, v́ quan niệm tất cả những ǵ công cộng như vườn cây, đường xá, cầu cống... đều là của chung, do kẻ thù quản lư, nên họ chẳng thiết tha ǵn giữ. Hơn nữa, những thứ chung đó cũng là do sưu cao thuế nặng của họ đóng cho Nhà nước đô hộ nên họ nghĩ có lấy cắp của công cũng chỉ là hoàn trả cho ḿnh, thậm chí có người c̣n cho rằng: "Ăn cắp của công là không có tội". Thái độ này dễ dẫn đến tệ nạn tham ô, lăng phí của công.

Về mặt gia đ́nh và xă hội, Nhà nước đô hộ Trung Hoa thời đó chỉ nhằm khai thác kinh tế nên không chú ư đến việc xây dựng và giáo hoá dân Việt. Bị ảnh hưởng bởi nền văn hoá Trung Hoa, xă hội VN thời đó theo chế độ đa thê: người đàn ông có thể có nhiều vợ, nhiều tỳ thiếp, nhất là những người giàu. Nền kinh tế dựa trên nông nghiệp thô sơ, cần có nhiều lao động khoẻ, nên gia đ́nh càng đông con nhiều cháu th́ càng tốt, nhất là con trai để nối dơi tông đường. Tinh thần trọng nữ trước đây bị đả phá. Xă hội theo chế độ gia trưởng, mọi quyền hành đều tập trung vào người đàn ông, nên phụ nữ thường bị đối xử bất b́nh đẳng "nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô". Sống trong hoàn cảnh như thế, người phụ nữ phải âm thầm chịu đựng những thua thiệt và áp bức để thờ chồng, nuôi con.

Những người đàn ông làm việc quần quật suốt ngày ngoài đồng, chiều về họ thường tụ tập bên chén rượu để quên đi nỗi vất vả nhọc nhằn. Những chai rượu làm từ nông sản ấy tuy có giúp họ quên đi nỗi cơ cực, nhưng lại ảnh hưởng nặng nề tới sức khoẻ và hạnh phúc gia đ́nh. Khi người đàn ông say khướt trở về nhà, họ trở thành người nóng tính, hay đánh đập vợ con. Rượu đă tàn phá sức khoẻ của họ và làm con cái họ kém thông minh, thân thể yếu ớt. T́nh trạng say sưa rất phổ biến ở nông thôn thời trước (ngay cả bây giờ đối với cư dân thành thị) nhưng chính quyền đô hộ vẫn cố t́nh làm ngơ, thậm chí ngầm khuyến khích, để giảm bớt sức đấu tranh của dân tộc Việt.

 

2.3.3. Giai đoạn độc lập và thống nhất đất nước dưới thời quân chủ bắt đầu từ thế kỷ X đến thế kỷ XX, trải qua ba triều đại nhỏ là Ngô (939-965), Đinh (968-980), Tiền Lê (980-1009) và bốn triều đại lớn: Lư (1009-1225), Trần (1226-1400), Lê (1428-1788), Nguyễn (1802-1945), xen kẽ với ba triều đại nhỏ là: Hồ (1400-1407), Hậu Trần (1407-1414), Tây Sơn (1788-1802). Người Việt ra sức củng cố nền độc lập non trẻ bằng các cuộc chiến thắng ngoại xâm: Lê Hoàn thắng quân Tống năm 981 và Lư Thường Kiệt thắng quân Tống năm 1077, Trần Hưng Đạo thắng quân Nguyên Mông vào các năm 1258, 1285, 1288, Lê Lợi thắng quân Minh sau mười năm chiến đấu, vua Quang Trung Nguyễn Huệ chiến thắng quân Xiêm (1785) ở Rạch Gầm, Xoài Mút và đại phá quân Thanh vào năm 1789.

Tinh thần ái quốc dâng cao khiến người Việt sẵn sàng hy sinh t́nh riêng gia đ́nh v́ đại nghĩa của đất nước. Bài học của giai đoạn này như giới thiệu cho người Việt, nam cũng như nữ, là phải biết bảo tồn ḍng họ của ḿnh, khi mở rộng t́nh gia đ́nh thành gia tộc. Từng cá nhân phải biết hy sinh quyền lợi cho ḍng tộc.

Sự gắn bó với ḍng tộc đôi khi quá mức khiến nhiều người lại khép kín với đồng bào, chỉ tin tưởng bao che cho những người thân thuộc, tạo nên sự bất công đối với người khác đến độ "một người làm quan cả họ được nhờ".

Gắn bó với những người đă khuất trong ḍng tộc, người Việt chứng tỏ ḷng thảo hiếu qua việc thờ cúng tổ tiên. Người Việt lập bàn thờ tại nhà với bài vị của những người đă khuất, cúng bái trong những ngày sóc, vọng, giỗ, Tết. Việc này tạo lại mối tương quan mật thiết với cả những người sống để xoá đi phần nào sự nghi ngại chia rẽ do thời đô hộ để lại.

Gắn bó với đời sống nông nghiệp, người Việt phát triển t́nh làng nghĩa xóm và các mối quan hệ đồng hương. Tuy nhiên v́ sống măi trong luỹ tre làng, thiếu giao tiếp để mở rộng tầm nh́n nên người Việt dễ hướng tới óc cục bộ, hẹp ḥi đánh mất tinh thần trọng tài đức, trọng t́nh nghĩa trước đây. Cộng thêm bản chất nghi kỵ người khác của thời bị đô hộ để lại, óc cục bộ này đă được nhà nước quân chủ chuyên chế khai thác tối đa trong tổ chức hành chính làng xă, địa phương, dẫn đến việc người Việt khó chấp nhận sự điều khiển, lănh đạo của người không đồng hương với ḿnh, coi thường luật pháp quốc gia “phép vua thua lệ làng”, coi thường cả những giá trị nhân bản như cạo đầu, bôi vôi, bỏ trôi sông những phụ nữ lầm lỡ, chửa hoang. Óc cục bộ ấy vẫn c̣n mạnh mẽ trong thời đại ngày nay.

Trong thời kỳ này, chúng ta ghi nhận ảnh hưởng của Tam giáo Đông Phương, đặc biệt là Khổng giáo. Cả ba đều đến từ Trung Hoa, chỉ riêng Phật giáo lại chia làm hai ngả, theo con đường Đồng Cỏû vào miền Bắc VN và theo con đường Hồ Tiêu vào miền Nam VN (x. Nguyên Tạng, trong Niên Giám Giáo hội Công giáo Việt Nam 2005, tr. 492-498).

Phật giáo ảnh hưởng nhiều đến quần chúng b́nh dân, nhất là dưới thời Lư - Trần, với thuyết Luân Hồi, với Tứ Diệu Đế, với luật Nhân Quả để nuôi dưỡng ḷng đạo đức, giải thích cho người dân hiểu về nguồn của bể khổ đời người là do ḷng dục, v́ thế muốn diệt khổ phải từ khước ḷng dục của ḿnh bằng cách theo Bát Chánh đạo.

Khổng giáo hay Nho giáo là hệ thống các nguyên tắc đạo đức, chính trị do Khổng Tử lập ra nhằm duy tŕ trật tự của xă hội phong kiến nên ảnh hưởng nhiều đến vua quan và quần chúng trong cách tổ chức xă hội ở Trung Hoa và ảnh hưởng nhiều đến VN. Nho giáo khởi đầu với việc lập Văn Miếu (1070), Quốc Tử Giám và tổ chức thi cử (1076) và càng ngày càng chiếm ưu thế cho đến khi đạt được địa vị độc tôn vào thế kỷ XVIII-XIX. Người VN ứng xử trong các quan hệ cá nhân, gia đ́nh, họ hàng, làng xóm, vua quan theo những chuẩn mực của lễ nghĩa Nho giáo như Tam cương - Ngũ thường, để có thể "tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ".

Những chuẩn mực của Nho giáo có mặt tốt là giữ cho xă hội được trật tự ổn định, nhưng nhà nước quân chủ chuyên chế lại dùng chúng như một phương tiện áp chế con người, khi tôn vinh vua là “thiên tử” (con Trời) nắm trọn quyền sinh sát trong tay "quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung". Những vị Nho gia ăn theo chế độ ít người dám nghĩ, dám làm với tầm nh́n xa trông rộng để "trị quốc, b́nh thiên hạ" mà chỉ trở thành những nhà trí thức luẩn quẩn với những bài phú, bài thơ ca tụng chế độ, suy tôn mù quáng một con người dù người đó bất tài, thất đức hoặc nhai đi nhai lại những câu trích dẫn thuộc ḷng trong Tứ Thư Ngũ Kinh. Cách học từ chương và chế độ thi cử của Nho giáo này đă trói buộc những sáng kiến, suy tư của người Việt và c̣n ảnh hưởng đến ngày nay.

Chúng không những không cải tạo được t́nh trạng đa thê hay bất b́nh đẳng nam nữ, như ta từng thấy trong thời bị Trung Hoa đô hộ mà c̣n làm cho người phụ nữ càng bị lệ thuộc hơn vào người đàn ông "Trai th́ năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng", vào ḍng họ của chồng "Lấy chồng th́ phải theo chồng, lấy chồng phải gánh giang san nhà chồng". Người phụ nữ chỉ c̣n là cái bóng của người đàn ông v́ họ được dạy phải có đủ tam ṭng "Tại gia ṭng phụ, xuất giá ṭng phu, phu tử ṭng tử", tứ đức “Công, dung, ngôn, hạnh” chứ không c̣n là một con người thật sự độc lập với tất cả giá trị làm người.

Sống trong nền quân chủ chuyên chế độc tài, người dân không được phép có nhiều phương tiện vật chất, nhiều nông nô v́ sợ bị phản loạn. Nhưng dù có nhiều tiền họ cũng không được phép tiêu xài, không được cất nhà theo ư ḿnh, thậm chí không được ăn mặc theo ư thích. Họ cũng không được học rộng v́ càng có nhiều tư tưởng mới lạ họ càng dễ ra ngoài sự kiểm soát của chính quyền: chỉ cần một câu thơ không rơ ư cũng có thể bị kết tội phản nghịch và bị tru di tam tộc. Mỗi làng chỉ có một vài người được đi học c̣n tất cả nam cũng như nữ, già cũng như trẻ đều đầu tắt mặt tối với công việc đồng áng. Chính sách ngu dân này làm cho người Việt không phát triển óc suy tư, sáng tạo, càng làm cho cuộc sống của họ thêm cơ cực, nghèo túng.

Cuối cùng, Lăo giáo du nhập vào VN đồng thời với Phật giáo và Nho giáo ngay từ thời Bắc thuộc, đến đời vua Đinh Tiên Hoàng (cuối thế kỷ X) đă khá phát triển ở nước ta. Lăo giáo chủ trương vô vi (không làm), "nghĩa là chủ ư cốt theo cách tự nhiên thanh tĩnh không cần phải làm ǵ, nghĩa là muôn việc cứ phó mặc tự nhiên, không cần phải lo lắng, nghĩ ngợi mới hưởng sự khoái lạc phiêu diêu" (Toan Ánh, Nếp cũ - Tín ngưỡng VN, quyển Thượng, NXB TP.HCM, 1992, tr. 221). Chủ trương này đúng ra là thái độ sống của những nhà trí thức Nho giáo. Dần dần đạo Lăo đi vào các tầng lớp b́nh dân và biến thể thành những h́nh thức bí hiểm mê tín như phù phép, sấm kư, chầu đồng, thẻ xăm, bói toán, với các thần tiên ẩn thân trong vạn vật: "bếp th́ có ông Táo, đất có Thổ Công, sông có Hà Bá". Tuy nhiên, cái nh́n "linh hoá vạn vật" này lại giúp cho người VN vượt qua thái độ quá chuộng h́nh thức lễ nghĩa tỉ mỉ, vụn vặt của Nho giáo để đến gần với thiên nhiên và t́m được sự khoáng đạt cho tâm hồn.

Chúng ta không thể không nhắc đến ảnh hưởng của Kitô giáo trong thời kỳ này. Kitô giáo được truyền vào VN là đạo Công giáo theo lễ nghi Roma, qua các giáo sĩ ḍng Đa Minh, ḍng Phanxicô, ḍng Augustinô người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha vào thế kỷ XVI, nhất là các giáo sĩ ḍng Tên vào thế kỷ XVII. Các giáo sĩ này nói được tiếng Việt, sáng lập ra chữ quốc ngữ và đóng góp nhiều về khoa học, cũng như xă hội cho các vua chúa của cả hai miền Nam Bắc. Họ truyền bá một giáo thuyết khác với Tam giáo Đông phương về nhiều điểm nên gặp sự chống đối mănh liệt của vua quan, nhưng đó lại là những sự thật cơ bản. Sự thật đó là tất cả mọi người đều có giá trị cao quư như nhau v́ đều là con cái Chúa, đều tự do và b́nh đẳng trước pháp luật chứ không phải vua có toàn quyền sinh sát trong tay, hôn nhân một vợ một chồng, nam nữ b́nh đẳng và có giá trị như nhau...

Điều không may cho Công giáo là vào thời điểm này, các đế quốc thực dân đi chiếm thuộc địa và các nhà truyền giáo lại theo chân họ vào VN gây nên nhiều hiểu lầm và cả những cuộc bách hại. Khi quân đội Pháp bắn thị uy vào cảng Đà Nẵng (1847) và nhanh chóng chiếm được các tỉnh miền Đông Nam Kỳ (1862), rồi đặt nền đô hộ từ 1862-1945 th́ người VN như bừng tỉnh trước sức mạnh trổi vượt về quân sự, khoa học, kỹ thuật của quân thù trước chính sách bế quan toả cảng của vua quan, dẫn đến ngu dốt, lạc hậu, yếu kém. Họ giống như người Trung Quốc bừng tỉnh sau cuộc Chiến tranh Nha phiến (1839-1842) và thấy rằng: "Cái học nhà Nho đă hỏng rồi!" (Trần Kế Xương). Họ muốn được như người Nhật cởi mở với nền văn minh kỹ thuật của phương Tây nên phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục của Lương Văn Can... đă ra đời. Dân tộc VN bước vào một thời kỳ mới.

 

2.3.4. Thời kỳ phát triển và hội nhập với thế giới (1945-2000)

 

Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập ở Hà Nội, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Ngay sau đó, thực dân Pháp trở lại xâm lược Đông Dương và nhân dân VN đă kháng chiến để bảo vệ nền độc lập. Thế giới vào thời điểm 1945-1975 chia thành 2 phe Tư bản và Cộng sản xung đột mănh liệt với nhau. Do hoàn cảnh và vị trí đặc biệt, Việt Nam lại trở thành giới tuyến cho 2 phe phái trên đây. Sau chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), với hiệp định Genève, người Pháp rút khỏi miền Bắc VN, nước VN tạm thời bị chia làm 2 miền theo vĩ tuyến 17: miền Bắc là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà theo chế độ Cộng sản; miền Nam là nước Việt Nam Cộng hoà theo chế độ Tư bản. Từ năm 1964-1975, chính quyền Cộng sản ở miền Bắc lănh đạo cuộc chiến tranh chống lại chính quyền Tư bản ở miền Nam. Ngày 30-4-1975, chính quyền Sài G̣n ở miền Nam sụp đổ, VN hoàn toàn thống nhất, lấy tên là nước Cộng hoà Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Trong cuộc chiến tranh giữa hai ư thức hệ, kẻ thù đă khai thác triệt để sự chia rẽ và phân hoá của người Việt có từ thế kỷ XVIII với Trịnh Nguyễn phân tranh, thế kỷ XIX-XX với ba miền Bắc - Trung - Nam của thực dân Pháp để “người Việt thù người Việt, người Việt giết người Việt”. Biết bao cuộc xung đột, giết hại nhau chỉ v́ những sự khác biệt về tôn giáo, sắc tộc, đảng phái… để lại những di chứng cho đến ngày nay khiến cho người Việt càng khó cộng tác và tin tưởng lẫn nhau.

Cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc (1953-1956), với những màn đấu tố, đă phá hoại truyền thống hiếu hoà, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, làm tan vỡ luân thường đạo lư của gia đ́nh, xă hội khi cha mẹ, con cái, vợ chồng, anh em, bạn bè, hàng xóm..., dùng những h́nh thức dối trá để tố cáo, giết hại lẫn nhau. Nỗi sợ hăi tột cùng của thời ấy đă ăn sâu vào tiềm thức - vô thức, tạo nên nếp sống khép kín và giả dối của nhiều người.

C̣n nhiều người trẻ ở miền Nam có tâm trạng "yêu cuồng, sống vội", hối hả hưởng thụ cuộc sống trước khi phải ra chiến trường, với tâm trạng không cần biết đến ngày mai, v́ nghĩ rằng bom đạn vô t́nh có thể phá hoại tất cả những ǵ người ta xây dựng hôm nay.

Bỏ qua sự khác biệt về nhiều lĩnh vực, cả hai chế độ có nhiều điểm tích cực đó là đóng góp vào tâm tính người Việt: tinh thần yêu chuộng những điều mới mẻ dựa trên khoa học kỹ thuật để phát triển đời sống, vượt qua những mê tín dị đoan thời trước và sự cố gắng làm việc để có nhiều phương tiện vật chất làm cho đời sống được ấm no, hạnh phúc.

Từ năm 1975 đến nay, người Việt cố gắng xây dựng lại đất nước bằng cách du nhập các lối sống và khoa học kỹ thuật của các nước trong cộng đồng thế giới. Họ trở thành những con người hiểu biết nhờ tŕnh độ văn hoá được nâng cao. Nếu như trước kia, cả làng chỉ có một hai người biết chữ để làm văn tự, sổ sách, th́ giờ đây hầu như mọi người đều được khuyến khích đi học, mọi trẻ em bắt buộc phải đi học. Qua việc học hành và các phương tiện truyền thông như báo chí, sách vở, phim ảnh, truyền thanh, truyền h́nh, và cả mạng lưới thông tin toàn cầu (internet), người Việt càng ngày càng thông thạo khoa học, phát triển nền kinh tế, khai thác được các nguồn tài nguyên phong phú của đất nước.

Nếu như trước đây, người VN tin vào Trời - Phật độ tŕ, vào thiên mệnh của Nho giáo, vào Thiên Chúa của Kitô giáo, vào Ông bà Tổ tiên chứng giám th́ giờ đây, những bài học bài bác thái độ duy tâm, đề cao chủ nghĩa duy vật từ 30 năm qua dường như đang có hiệu quả rơ rệt là xoá bỏ niềm tin mang tính tín ngưỡng ấy của người Việt. Nhưng một khi con người đánh mất ư nghĩa của đời sống tinh thần, chối bỏ sự hiện diện của chủ thể luân lư tối cao như là nền tảng cho đạo đức xă hội th́ người ta dám làm bất cứ điều ǵ để chiều theo những tham vọng và dục vọng! Luật pháp không có khả năng khám phá tất cả những hành động bí ẩn của con người bắt nguồn từ trong tâm trí. V́ thế, khi tin vào một chủ thể luân lư tối cao nh́n thấu ḷng ḿnh (Trời cao có mắt), con người mới ư thức và tự nguyện sống theo lương tâm ngay chính, vượt qua những quyến rũ của vật chất, đam mê để sống đạo đức. Từ căn bản đạo đức này, người Việt mới có thể vượt qua những tệ nạn như: dối trá, tham nhũng, quan liêu, lăng phí, phá thai… đang tràn lan trong xă hội hiện thời. Như thế, suy cho cùng th́ sự có mặt của các tôn giáo rất cần thiết cho xă hội. Một số ít người đă nhận ra điều ấy và đang cổ vũ cho những lễ hội dân gian hoặc tham gia các lễ nghi tôn giáo. Nhưng nhiều người VN hiện nay chưa ư thức được điều này.

Vấn đề đặt ra cho chúng ta là làm sao xây dựng một nền đạo đức xă hội tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của mọi người thay v́ mất nhiều sức lực cho những tranh căi duy tâm- duy vật hoặc vô thầân- hữu thần.

 

Kết luận

 

Chúng ta vừa thử t́m hiểu cấu trúc tâm lư - văn hoá xă hội của con người Việt Nam và thấy nhiều tầng xấu tốt xen lẫn, chồng chất lên nhau như những lớp đất của các tầng địa chất. Để trồng được cây lành trái ngọt hay xây dựng công tŕnh lớn lao lâu dài cho dân tộc Việt Nam, chúng ta phải biết rơ từng lớp đất, loại bỏ những lớp đất bạc màu trước khi “trồng người”.

Công việc xây dựng và hoàn thiện giá trị con người VN thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá như Đảng Cộng sản đề ra trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X  đang mời gọi mỗi người cố gắng ư thức và hoàn thiện chính ḿnh, nghĩa là loại trừ những tật xấu và tập luyện những tính tốt nơi ḿnh. Nhưng công việc của từng cá nhân này chỉ có thể thực hiện với sự giúp đỡ của tập thể và cộng đồng để giúp họ khám phá ra những đức tính xă hội căn bản và những tật xấu thường có nơi người Việt. Sau đó phải t́m được những biện pháp hay đường hướng thích hợp để hoàn thiện nhân cách theo từng độ tuổi hay môi trường sống. Những công việc này đ̣i hỏi sự cộng tác chặt chẽ của các nhà tâm lư, khoa học, giáo dục cũng như các văn nghệ sĩ, những nhà truyền thông xă hội…

Riêng đối với người tín hữu Công giáo, chúng ta càng phải tích cực cũng như chủ động trong việc xây dựng và hoàn thiện giá trị con người VN theo Tin Mừng v́ con người là đối tượng chính yếu trong công tŕnh tạo dựng của Thiên Chúa và là đích điểm cứu độ của Đức Giêsu Kitô. “Không có ǵ thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong ḷng người môn đệ Chúa Kitô” (Công đồng Vatican II, x. Gaudium et Spes, số 1).

Chính trong tinh thần này chúng tôi mạnh dạn đóng góp ư kiến về bản dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, tŕnh Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X.

Vậy xin bạn cùng chúng tôi suy nghĩ về một vài câu hỏi sau đây và chia sẻ suy tư của bạn về đề tài chúng ta cùng quan tâm. Bạn có thể gửi câu suy tư trả lời theo địa chỉ: Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Uỷ ban Bác ái Xă hội, Hội đồng Giám mục Việt Nam, 72/12 Trần Quốc Toản, Q.3, TP. HCM. Email: ubbaxh_vn@hcm.vnn.vn. Đt: (08) 8208716.

Xin chân thành cám ơn các bạn.

 

NHỮNG CÂU HỎI GỢI Ư SUY TƯ VÀ CHIA SẺ

 

1. Bạn có bao giờ thất bại trong công việc nhất là trong các dự án xă hội, trong quan hệ với con người, và ngay cả trong quan hệ với Thiên Chúa? Đâu là nguyên nhân của thất bại?

 

2. Trong các nguyên nhân thất bại, con người (chính bạn hay đối tác của bạn) đóng vai tṛ ǵ?

Bạn có hiểu rơ cấu trúc tâm lư - xă hội - văn hoá của con người để thông cảm, tha thứ và sửa đổi cho tiến bộ và hiệu quả hơn không?

 

3.Bạn thử lập các tầng cấu trúc văn hoá xă hội của người Việt theo các giai đoạn lịch sử với những tính tốt và tật xấu.

 

Thí dụ:

Giai đoạn lịch sử

Văn hoá xă hội

Tính tốt

Tật xấu

Tiền sử

Văn minh nông nghiệp

Trọng t́nh, trọng nghĩa, trọng văn …

Hẹp ḥi, “phép vua thua lệ làng”,…

 

4.            Để đào tạo con người Việt Nam, bạn hăy liệt kê những đức tính nhân bản cần thiết và những tật xấu thường gặp thấy nơi người Việt Nam hiện nay.

 

5.            Để phục hồi và phát triển toàn diện con người Việt Nam theo đường hướng Tin Mừng, bạn đề nghị những biện pháp hay phương cách nào để chống lại tật xấu và tệ nạn như: thiếu trung thực, thiếu đoàn kết, hay nghi ngờ, thiếu tôn trọng của chung, thiếu kiên định, cục bộ, tham nhũng, lăng phí, phá thai, nghiện ngập, bạo hành, sống buông thả, tự ái vặt…

 

Để xây dựng và hoàn thiện con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo đường hướng Tin Mừng, bạn đề nghị những biện pháp hay phương cách nào để phát triển các đức tính như: trung thực, nhân ái, dũng cảm, đoàn kết, tin tưởng, yêu thương, tinh thần nghèo khó, tiết kiệm, tôn trọng và bảo vệ sự sống, yêu thiên nhiên, tin vào Trời…