Nguyễn Văn Thành

 

ĐỒNG  CẢM

để

ĐỒNG  HÀNH

 

 

 

Lời Mở đầu

 

Đồng cảm để đồng hành

 

Nhằm hướng dẫn quần chúng mộc mạc đơn sơ có những khả năng hiểu biết cơ bản và chứng nghiệm một phần nào về quan hệ đồng cảm giữa người với người :

-         Đồng cảm là gì ?

-         Khi đồng cảm với tha nhân, cần thực thi những động tác cụ thể nào ?

Cha ông, tổ tiên chúng ta thường sử dụng hình tượng "Quan Thế Âm".

Ngài có trăm con mắt, để nhìn ngắm cuộc đời, dưới tất cả mọi gốc độ chìm nổi, lớn bé khác nhau.

Ngài có trăm lỗ tai, để lắng nghe tiếng kêu trầm thống, từ bốn phương chân trời vọng lại.

Ngài có trăm đôi chân, để lại gần, cùng có mặt với những người đang khổ đau, buồn chán, thất vọng, bị áp bức và sống lầm than.

Ngài có trăm đôi tay, để băng bó vết thương cho mỗi anh chị em đồng bào, đồng loại, không phân biệt màu da, nguồn gốc, địa phương, chính kiến, tôn giáo, giai tầng xã hội.

Ngài có trăm bộ mặt : Ông bác sĩ, chàng kỹ sư, cô y tá, người nông dân, bà giúp việc ... sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của từng người trong mỗi hoàn cảnh đặc thù.

Ngài có trăm quả tim, để phập phòng, trăn trở, chia sẻ, đồng hành. Ai tan nát mà lòng Ngài không thổn thức, nhức nhối ? Ai tê liệt, kiệt quệ mà Ngài không cúi xuống nâng đỡ, hiến tặng một sức sống vươn lên ? Ai lần mò, dò dẫm trong bóng đêm mịt mù mà Ngài không đốt lên một tia nắng hy vọng ?

Sống bên cạnh Ngài, người tốt càng ngày càng tốt hơn. Người xấu, trái lại, không nhục nhã, thấy mình bị kết án, phê phán, tố cáo và loại trừ. Cho nên cái gì đã "hữu xạ", có hương sắc thanh cao trong bản thân của họ, sẽ từ từ được đánh thức, chỗi dậy, nẩy mầm, đâm mộng, "tự nhiên hương", tô điểm cho cuộc đời.

Ngài là một bóng mát bao la, giữa trưa hè đứng ngọ. Được Ngài đùm bọc, che chở, chúng ta cảm thấy mình an lành, tươi thắm, được chấp nhận và đón nhận với tất cả điều kiện hiện hữu của mình. Xuyên qua cách nhìn và lối đãi ngộ của Ngài, ai ai cũng ý thức rằng mình là nhân vật quan trọng, có giá trị nội tại, nằm sẵn trong từng tế bào, thớ thịt, chứ không phải được vá víu, chắp nối, thêm vào một cách giả tạo từ bên ngoài.

Theo bước chân Ngài, tôi làm một chủ thể tự do, có khả năng sáng tạo hạnh phúc cho bản thân và những ai tiếp cận với tôi. Trong lối nói của văn hào Paulo Coelho, tôi là người "luyện vàng". Đồng, chì, sắt, thép, cho dù là ai... ở trong quỷ đạo của tôi, từ từ họ sẽ biến thành vàng nguyên chất.

Trong lòng đất nước và dân tộc, ngày hôm nay, thuộc thời đại Nghìn năm thứ ba, còn có chăng những vị bồ tát Quan Thế Âm ? Phải chăng quê hương nầy muôn đời vẫn là trời đất của lòng Bao dung, Tha thứ, Đồng cảm và Quảng đại ? Đoàn đoàn lũ lũ con cháu của chúng ta đang sinh ra, tiếp tục nhau lớn lên. Cơ hồ, Thánh Gióng trước ba tuổi, chúng nó cũng chậm phát triển, không biết đi, không biết nói. Chúng nó chờ bà con họ hàng, người đồng hương, đồng bào "Cho ăn, cho mặc, cho ngựa, cho gươm", để có khả năng đứng dậy, lên đường nghe theo tiếng gọi của hồn thiêng sông núi, đi cứu Nước, cứu Nhà, mang về thái hòa cho anh chị em, trên mọi nẻo đường của cả ba miền đất nước.

Hẳn thực, như cha ông chúng ta đã thường nhắc tới, "không thầy đố mầy làm nên", nếu hôm nay, người đi trước không tìm cách đứng đắn và tốt hảo, để dạy cho người đến sau, trong tương lai "Con Rồng Cháu Tiên" sẽ là những thế hệ mang số phận con thiêu thân, ngày ngày lăn xả vào con đường hận thù, bạo động, chia rẽ, chiến tranh, đàn áp, bốc lột, hối lộ, tham tàn ..., để cuối cùng tự hủy diệt và biến mất khỏi mặt địa cầu !

Trong tinh thần và chí hướng "Trồng Cây Đức, nuôi con ăn", do Nguyễn Trãi đã khai vạch, cách đây hơn năm thế kỷ, tập sách này muốn đề xuất một mục tiêu "Mở rộng cửa Nhân mời khách đến". Bằng con đường nghiên cứu, học hỏi và nhất là nhìn người để hiểu mình, ước gì ai ai trong chúng ta cũng sẵn sàng mở cửa lòng cho thật rộng, mời khách đến. Vì tiền đồ của quê hương, dân tộc, chúng ta cần học những bài học sau đây :

Thứ nhất : Thế nào là nhìn đời với trăm con mắt ?

Thứ hai : Cần phải làm những gì, khi lắng nghe kẻ khác với trăm lỗ tai ?

Thứ ba : Đồng hành, đồng sự với trăm bàn tay, với trăm đôi chân, trong những quan hệ giữa người với người, đòi hỏi những tác phong và thái độ cụ thể nào ?

Thứ bốn : Khi mang vào mình một trăm quả tim, để sống với kẻ khác trong môi trường gia đình cũng như ngoài xã hội, tôi thâu đạt những thành quả gì?

 

*

*  *

 

Để tháo mở bao nhiêu thắc mắc lớn lao và phức tạp ấy, tôi không buộc trói mình hay là lôi kéo người khác vào trong những vòng mê cung lý thuyết xa lạ, viễn mơ hoặc giáo điều ... tôi đi tìm con đường hiểu biết và tình thương. Điều chính yếu không phải là những kiến thức quảng bá, nhưng là những cách "biết làm, biết sống", có tác dụng thăng tiến cuộc sống làm người hằng ngày :

Hiện tại tôi ở đâu ?

Cần đi về hướng nào ?

Kết thúc ở chỗ nào ?

Đâu là những cạm bẫy đang đón chờ ?

Tôi sẽ chuyển hóa tình hình thế nào ?

Khi nào dừng lại ?

Khi nào phải rút lui vì lầm đường ?

Nội lực đang thúc đẩy tôi vượt qua mọi thách  đố và thực hiện hoài bảo của mình bao gồm những nhân tố nào ?

Khi đặt câu hỏi cho nhiều vị thầy mà tôi có cơ may gặp gỡ trên mọi nẻo đường của nhân loại, từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam, tôi luôn luôn tìm cách chuyển dịch những sứ điệp muôn màu muôn sắc của họ thành những động tác cụ thể và khách quan, để thực thi hằng ngày với tất cả khối óc và con tim. Tôi từ từ đi tới, theo từng bước "cháo nóng húp quanh", hay là "kiến tha lâu đầy tổ", có mặt trong nền văn hóa Việt Nam, từ đời Hồng Bàng cho tới ngày hôm nay.

Khác với những cuốn sách được tôi xuất hành trước đây, tác phẩm nầy không đi theo lối tầm chương trích cú, trình bày, trích dẫn, lý luận một cách bài bản, có hệ thống ... Ở đây, như trong một thiên hồi ký, tôi thả mình trôi theo dòng chảy của tư duy tìm kiếm, học hỏi, chứng nghiệm. Tôi biến thân thành con ong mật đi tìm hoa hút nhụy đó đây. Và khi trở về, tôi hy vọng có khả năng làm ra mật cho bản thân và cuộc đời, bằng cách đi lại những bước chân của Bồ Tát Quan Thế Âm.

Trên con đường đồng hành khắp muôn nơi, tôi xác tín rằng thế nào trong vòng anh chị em đồng bào, bạn bè, bà con xa gần ..., cũng sẽ xuất hiện những vị Bồ Tát Quan Thế Âm "đang thành và sẽ thành". Họ mặc nhiều chiếc áo, mang nhiều hình hài khác nhau : một bà mẹ nuôi con. Một người cha làm lụng vất vả, phục vụ gia đình. Một người phu quét đường phố. Một nhà nông dân đang cuốc đất trồng khoai. Một vị lãnh đạo "chăn lạnh choàng vai đêm chẳng ngủ, suĨt đời ôm mãi nỗi lo dân"; theo cách hình dung của Nguyễn Trãi.

Mặc dù họ là ai, tất cả cùng nhau làm nên một Quan Thế Âm tròn đầy và viên mãn, bất tận và bất tử, trong lòng Đất Nước và Quê Hương.

Nhìn từ ngoài, có lẽ chúng ta đang là một hỗn hợp, chắp nối lộn xộn; cơ hồ "ngàn sông, ngàn nước, ngàn mảnh trăng rơi ...".

Nhưng từ bên trong, bản sắc của tất cả chúng ta chỉ là một; "muôn dặm không mây chỉ một bầu trời !"

 

 

 

Chương Một

Đoái Thương Nhìn Cuộc Đời

 

Nói đến lối nhìn, tâm lý học đương đại, tùy vào giai đoạn thành hình, phân biệt hai thể loại khác nhau :

1.- Ghi nhận và phản ảnh thực tại khách quan bên ngoài

Trong giai đoạn đầu, giác quan ghi nhận những sự kiện có mặt trong thực tại bên ngoài và phản ảnh lại những gì mắt thấy, tai nghe, làn da tiếp xúc và cảm nhận. Thông thường, như chúng ta có thể quan sát trong cuộc sống, những dụng cụ như chiếc máy ảnh hay bộ máy ghi âm có tác dụng thu nhận những gì đang có mặt trong môi trường, không thêm không bớt. Không đưa ra những nhận xét, bình phẩm hay đánh giá, theo quan điểm riêng tư và chủ quan của mình. Các giác quan của con người, trái lại, vì nhu cầu học tập, thu lượm tin tức, rút tỉa những kinh nghiệm cho cuộc sống ... thực thi công việc tiếp thu và ghi nhận, một cách rất chủ động, xuyên qua ba cơ chế sau đây :

Cơ chế thứ nhất là tổng quát hóa : rút ra những qui luật ổn định, thường hằng, dựa vào một số sự kiện khách quan lặp đi lặp lại nhiều lần.

Cơ chế thứ hai là chọn lọc : chỉ giữ lại những sự kiện nào thích hợp với nhu cầu hiện tại. Tôi cố tình bỏ qua, coi như không có bao nhiêu sự kiện mà tôi đánh giá là không cần thiết.

Cơ chế thứ ba là chủ quan hóa : khoác vào cho sự kiện bên ngoài những ý hướng và kích thước của cá nhân tôi. Cơ hồ nước - vô hình, vô dạng - được đổ vào bình, chai nào, thì tiếp nhận hình dạng của các bình, chai ấy. Khi chủ quan hóa các sự kiện như vậy, công việc của tôi có thể mang tên là xuyên tạc, bóp méo thực tại. Tuy nhiên, mỗi lần sáng tạo, uốn nắn, định hướng, hóa giải một thực tại, tôi cũng đang vận dụng cơ chế chủ quan hóa nầy, nghĩa là nhận làm của mình, ghi khắc vào đó chứng tích của tôi.

Nói cách chung, chúng ta ngày ngày sử dụng ba cơ chế tâm lý trên đây, hình như trong  mọi lãnh vực của cuộc sống như học tập, giáo dục, tiếp xúc, xã hội hóa ... Từ tuổi thiếu thời, khi bắt đầu học nói, một trẻ em đã làm quen với những phương thức hành động này. Cho nên vào tuổi thành nhân, khi dùng ngôn ngữ để diễn tả, trình bày ý kiến, tất cả chúng ta, không loại trừ một ai, đều dễ dàng sa vào ba cạm bẫy : vơ đũa cả nắm, giận cá chém thớt hay là bắt râu ông nọ đặt cằm bà kia. Ba cạm bẫy nầy còn mang những tên tuổi thông thường khác là chụp mũ, tố cáo, phê phán, đổ lỗi, gắn nhãn hiệu ... Từ đó, bao nhiêu quan hệ tiếp xúc và trao đổi giữa người với người bị đầu độc, ô nhiễm. Xung đột, chia rẽ, hận thù, chiến tranh, bạo động là những hệ quả thường nhật trong mỗi cộng đỊng nhân loại.

2.- THUYÊN GIẢI : sáng tạo ý nghĩa, kiến dựng một lối nhìn

Bước qua giai đoạn thứ hai, trên cơ sở những tin tức do năm giác quan cung ứng từ bên ngoài, phần vụ mà tư duy phải đảm nhiệm một cách chủ động là THUYÊN GIẢI. Động tác nầy thuộc vào khuôn khổ nội tâm, có mục đích : khám phá hay là sáng tạo ý nghĩa, kiến dựng một lối nhìn về thực tại, môi trường sinh sống và người khác đang có mặt với tôi, trong những quan hệ tiếp xúc, trao đổi qua lại hằng ngày.

Thuyên giải, trong lăng kính nầy, là một CHỌN  LỰA và QUYẾT ĐỊNH, phát xuất từ tôi. Tôi là nguyên nhân. Là tác giả có chủ quyền về lối nhìn.

Theo P. RICOEUR, để thực thi công tác sáng tạo lối nhìn, tư duy dựa vào ba điểm qui chiếu hay ba chuẩn mực chính yếu :

Chuẩn mực thứ nhất là ANANKÉ.

Từ Hy lạp nầy có nghĩa là tất yếu, tính quy luật hay là thực tế. Thái độ của chúng ta, khi đối diện với thực tế tất yếu, là tôn trọng, chấp nhận và đón nhận. Thể theo lời dạy bảo của Lão Tử và Trang Tử, "tự bản chất, chân vịt thì ngắn. Nếu tôi muốn kéo ra cho dài, nó khổ. Trái lại, chân ngỗng thì dài. Nếu tôi muốn cắt ngắn lại, nó chết". Thực tế được định nghĩa một cách hình tượng như thế, còn mang tên là "chân như", theo thuật ngữ của Phật học. Người ấy là người, vật ấy là vật như vậy. Cho nên  vật ấy phải được tiếp cận như vậy. Người ấy phải được cư xử như một người, có tư cách  làm người. Trong quan hệ giữa người với người, bao lâu tôi chưa nhìn và nhận người trước mặt tôi là một người như tôi, ngang hàng tôi, có giá trị giống tôi, tôi chưa thể nói đến quan hệ ĐỒNG CẢM, đồng hành và chia sẻ.

Chuẩn mực thứ hai là THANATOS.

Từ nầy mang ý nghĩa là chết, hy sinh, từ bỏ. Khi tôi chọn lựa hay là quyết định cư xử ai với tư cách là con người toàn diện, toàn phần, trong lối nhìn của tôi, người ấy không còn là địch thù. Không thuộc về lổi người hạ đẳng. Không phải là dụng cụ để sai khiến. Bao nhiêu xu thế tự nhiên và tự phát vẫn còn tồn đọng trong tôi, như phê phán, tố cáo, đổ lỗi ... nhưng vì tôi đã quyết định chấp nhận tính người của người ấy, tôi phải can đảm sẵn sàng từ bỏ những tàn tích của bạo động, trong ngôn ngữ và tác phong của tôi. Lúc ban đầu, vì còn thiếu tôi luyện một cách thuần thành và nhuần nhuyễn, bạo động vẫn len lỏi, nằm vùng và xuất hiện một cách tự động. Nhưng vừa khi ý thức, nhận biết điều ấy, tôi sáng suốt dừng lại, chuyển hóa bản thân mình. Từng phút, từng giây, tôi trở về với quyết định và chọn lựa cơ bản ban đầu.

Chuẩn mực thứ ba là EROS.

Đây là tình yêu trao đổi, qua lại, nhận và cho. Khi yêu ai, tôi chủ động, sáng tạo, làm cho người ấy trở nên đáng yêu và đáng quý trọng, bằng cách phát hiện và ngày ngày vun bón những tư cách hiện hữu hay là những điểm tích cực đã có mặt trong người ấy. Yêu như vậy, theo cách giải thích của tác giả M.R. ROSENBERG, có hiệu năng thúc giục, kêu mời chúng ta hãy phát hiện không ngừng nhu cầu cơ bản có liên hệ đến điều kiện làm người của người ấy. Khi những nhu cầu nầy được nhìn nhận và đáp ứng, tự khắc họ triển khai mọi chiều kích làm người. Họ trở nên an toàn, thư thái, hạnh phúc. Theo cách giải thích của Thiền học Phật giáo, khi sống được tình trạng an lạc trong nội tâm và kết dệt được những quan hệ hài hòa với tha nhân, tôi trở thành con người "Thức Tĩnh". Khi ăn, tôi biết tôi đang ăn. Khi nói, tôi biết tôi đang nói. Tôi không ném đá giấu tay. Tôi không giận cá, chém thớt. Tôi không vọng động như "vượn chuyển cành". Tôi không phân thân, chắp nối lộn xộn, theo kiểu "lấy râu ông nọ đặt cằm bà kia". Những khi chúng ta tố cáo, phê phán, đổ lỗi, ngụp lặn trong những xung đột, tranh giành hơn thua ... là vì chúng ta đang lạc loài trong vòng mê cung khổ đau, phiền muộn. Chúng ta không ý thức mình là ai, không biết mình ở đâu, đang làm gì ...

Trái lại, khi tình yêu có mặt trong tâm hồn và cuộc đời, tôi dễ dàng phát hiện "trong tôi có người, và trong người có tôi". Khi tôi gieo vãi hạt mầm hạnh phúc, an lạc trong vườn lòng của một người khác, tôi gặt hái mùa màng hạnh phúc và an lạc trong bản thân và cuộc đời của tôi. Cho nên, mỗi lần cho ra, tôi không cần đòi hỏi người khác phải cho lại. Hay là tỏ lòng biết ơn. Tôi không cần chờ đợi, mong cầu gì cả. Chính lúc tôi cho ra, là tôi đã nhận lại bao nhiêu quà tặng trọng đại và cao quí : trời đất, gió mưa, hoa trái bốn mùa, cuộc sống làm người, cha mẹ, bạn bè, quê hương, sông núi ...

Xin đừng chờ phải nằm tê liệt trên giường bệnh, mới nhận ra có được hai chân là một món quà vô giá.

Tôi đã được bác sĩ giải phẫu hai lần hai con mắt bị cườm giăng màn, mới có khả năng biết thưởng thức, khi nhìn một tia nắng xuyên qua cửa sổ, một đóa hoa hàm tiếu chờ đợi ánh bình minh vươn lên.

Hồi còn bé, tôi thường trách mẹ hay la hay rầy. Bây giờ, với sáu mươi lăm tuổi đời, tôi nhiều lúc thèm khát một tiếng rầy, tiếng la của mẹ. Nhưng mẹ lại không còn. Khi mẹ không còn, tôi mới ý thức được mẹ là món quà bao la như trời, mênh mơng tựa biển cả.

3.- LỐI NHÌN và YÊU THƯƠNG

Chính vì bao nhiêu lý do, mà tôi vừa trình bày một cách đơn sơ, tác giả G.G. JAMPOLSKY đã khẳng định trong mỗi tác phẩm của mình :

-         Bản sắc làm người của chúng ta là tình yêu thương,

-         Khi có thương yêu trong nội tâm, chúng ta mới có LỐI NHÌN đứng đắn, chính xác, toàn diện về người khác, đang chung sống hai bên cạnh chúng ta.

-         Trong mọi loại quan hệ tiếp xúc và trao đổi giữa người với người, khi có một vấn đề xảy ra - bất kể loại vấn đề gì -, tình thương yêu là câu trả lời.

-         Ngược lại với tình thương yêu là SỢ.. Xúc động nầy phát sinh mọi xung đột, chiến tranh, hận thù trong thế giới, từ nguyên thủy cho tới ngày hôm nay.

-         Tuy nhiên, đối với những ai cưu mang một lối nhìn đầy tình thương yêu trong nội tâm, thái độ SỢ nơi kẻ khác chỉ là phản ứng của một con người đang THIẾU tình thương yêu. Bao nhiêu hành động như tố cáo, phê phán, hận thù, tranh chấp hơn thua ... đều phát xuất từ một tâm hồn đầy lo sợ và khổ đau. Đó là những tiếng kêu cầu cứu: "Tôi thiếu tình thương yêu. Xin hãy cứu tôi". Và chỉ có tình thương yêu mới có khả năng hóa giải tình trạng oái oăm, khốc liệt nầy.

-         Thứ tha là một danh hiệu khác của tình thương yêu. Tha thứ đích thực không phải là quên, coi như không có. Tha thứ cũng không phải là ban bố một ân huệ từ trên. Khi thứ tha, tôi xác định một cách chính thức và rõ ràng lối nhìn làm người của tôi :"Dù có hành vi sai trái đến đâu, dù bạo động và máu đang thấm đậm tâm tư, người trước mặt tôi vẫn LÀ NGƯỜI như tôi". Tha thứ như vậy có nghĩa là chuyển hóa lối nhìn. Nâng cao chất lượng của lối nhìn về tôi cũng như về người anh chị em. Bao lâu chúng ta chưa có khả năng xác định và điều chỉnh lối nhìn của mình như vậy, thứ tha đang còn vắng mặt. Chúng ta còn sợ. Bạo động còn đặt sào huyệt trong tâm hồn chúng ta. Bạo động phát sinh và nuôi dưỡng bạo động. Đó là vòng luân hồi dai dẵng đang đe dọa và trấn áp kiếp người trên mặt địa cầu nầy.

4.- Những Động Tác cụ thể

Để có thể thấm nhuần tư tưởng của tác giả G.G. JAMPOLSKY, trong mọi quan hệ tiếp xúc và trao đổi hằng ngày với tha nhân, chúng ta cần đánh sáng những điểm trọng yếu sau đây :

-         Lối nhìn của tôi về thực tại bên ngoài hay là về người khác là một quyết định và chọn lựa của tôi. Tôi là nguyên nhân, chứ không phải là những biến cố xảy ra trong môi trường hay là những lời nói và tác phong của người khác áp đặt điều ấy cho tôi. Chẳng hạn, khi tôi phê phán :"Ông A là một tay gian lận", chưa hẳn trong thực tế khách quan bên ngoài, ông A là người gian lận, tự bản chất của mình. Thậm chí, trước mắt chứng kiến của tôi, ông A đã có một vài hành vi gian lận cụ thể, rõ ràng... chưa hẳn ông ấy là người gian lận. Đó chỉ là lối nhìn của tôi, do tôi. Tôi là nguyên nhân, là tác giả của lời khẳng định ấy.

-         Những gì xảy ra bên ngoài, do giác quan ghi nhận và tiếp thu, như lời nói tôi nghe, việc làm tôi thấy, theo lối nói của tâm lý, đều là những YẾU TỐ DẪN KHỞI, gợi ý mà thôi. Duy thức học - khoa tâm lý trong Phật học - gọi đó là DUYÊN. Nhân là hạt giống sẽ trở nên cây. Duyên là đất, nước, khí, mặt trời... giúp cho hạt giống trở thành cây. Duyên chỉ cung ứng điều kiện thuận lợi, từ bên ngoài.

-         Trong khuôn khổ của nội tâm, lối nhìn phát sinh mọi sinh hoạt tâm lý khác : điều hướng đời sống xúc động và định hướng mọi đường đi nẻo về của tôi, trong lãnh vực quan hệ tiếp xúc và trao đổi.

-         Chính vì những lý do vừa được quảng khai, khi tôi đã chọn lựa và quyết định cư xử, đãi ngộ ai với tư cách là người toàn phần, như tôi, ngang hàng tôi, có mọi quyền lợi và giá trị làm người giống như tôi, CHỈ CÓ YÊU THƯƠNG là câu trả lời đúng đắn duy nhất, cho mọi vấn đề đã, đang và sẽ xảy ra giữa người ấy và tôi. Yêu thương vì bao nhiêu đồng điểm đang nối kết hai người lại với nhau. Yêu thương, thậm chí vì bao nhiêu dị điểm. Nhờ khác nhau, chúng ta có thể bổ túc, kiện toàn nhau, thay vì loại trừ, xung đột. Sau hết, khi hai người yêu thương nhau, họ CẦN nhau. Tôi cần cơm ăn, áo mặc, để sống. Tôi cần yêu thương anh chị em đồng bào, để làm người.

-         Tôi đã cố tình sử dụng từ ngữ "Yêu thương", bao gồm trong đó tình yêu trai gái, vợ chồng, tình thương cha mẹ và con cái, tình mẫu tử, tình bạn bè, tình đồng bào, tình nhân loại. Tôi cũng không loại trừ tình yêu thương cao cả giữa Trời và Đất, giữa Nước và Non. Chỗ nào có yêu thương thật sự, không có phân biệt to hay nhỏ, tốt hay xấu, cao hay thấp, trọng hay hèn. Nước trong lòng Đại Dương bao la hay là nước trong giọt sương ban sáng chỉ là một.

5.- KHOA HỌC KỸ THUẬT "tạo Đồng Cảm"

Khi nói đến yêu thương và tha thứ, chúng ta đang nói tới một viễn tượng bao la. Chúng ta đề cập những giá trị phổ quát. Để thiết lập và phát huy "ở đây và bây giờ" những quan hệ hạnh phúc, hài hòa với người đang ở trước mặt, tôi cần những kỹ thuật khoa học, những cách làm cụ thể. Đi vòng quanh thế giới, tác giả M.R. ROSENBERG nuôi ẵm một hoài bảo là tạo nên những quan hệ hiểu biết, yêu thương và đồng cảm giữa người với người, nhất là trong hàng ngũ giới trẻ. Nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều người, tác giả nầy đã đề xuất kỹ thuật tạo đồng cảm bao gồm bốn bước sau đây :

Thứ nhất là trình bày yếu tố dẫn khởi với mọi dữ kiện cụ thể, khách quan thuộc hai giác quan thị và thính. Cách làm nầy được gọi là môi trường hóa các sự kiện và tin tức :"Tôi thấy ... tôi nghe ... tại nơi ... vào lúc ...".

-         Thứ hai là diễn tả xúc động đang phát sinh trong tôi, giữa những hoàn cảnh vừa được mô tả rõ ràng :"Cho nên, tôi cảm ...". Vì tôi là tác giả, sứ điệp ngôi thứ nhất "Tôi" được dùng, để diễn tả và đảm nhiệm xúc động.

-         Thứ ba là xác định nhu cầu cơ bản đang có mặt ở dưới mỗi xúc động: "Tôi cảm (buồn, lo, sợ, khổ đau ...), vì tôi cần ...".

-         Thứ bốn là nêu rõ điều tôi ước muốn và yêu cầu, thay vì đòi hỏi, áp đặt, lèo lái "Vậy tôi XIN ... Bạn HÃY VUI LÒNG ...".

 

Đồng cảm là con đường hai chiều. Tôi phát biểu, để khẳng định mình. Sau khi diễn tả, tôi tạo ra mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ người đối diện cũng khẳng định mình như tôi. Và đương lúc họ nói, tôi lắng nghe, tìm hiểu và đón nhận với tất cả tấm lòng. Khi hai người có điều kiện khẳng định mình, một cách trung thực, họ sẽ từ từ khám phá giao điểm là nhu cầu THƯƠNG và ĐƯỢC THƯƠNG. Để phân biệt thế nào là yêu cầu, khi nào là đòi hỏi, tôi chỉ cần khảo sát nội tâm của mình, khi kẻ khác chối từ ý kiến của tôi. Nếu lòng tôi vẫn thanh thản trân trọng ý kiến của kẻ khác và không để cho một ý đồ bạo động nào len lỏi vào tâm tư, như trách móc, oán hận ... đó là dấu chứng của tâm hồn biết xin, một cách thành khẩn, khiêm cung và đầy sáng tạo.

 

*

*          *

 

Làm được bấy nhiêu điều, phải chăng chúng ta đã thực hiện những bước chân vĩ đại của Bố Tát Quan Thế Âm, trên mọi nẻo đường của Quê Hương, Lục địa Á Châu và toàn thể Nhân Loại ?

 

6.- Tên Em Mẹ Từ Tâm

 

Em đang đến, cùng có mặt với tôi,

Trên con đường ngang dọc giữa cuộc đời.

Em nhìn tôi, mắt dịu ngọt, âm thầm.

Tôi xin gọi tên Em Mẹ Từ Tâm.

Tôi sợ hãi, lòng ngỗn ngang  trăm mối,

Tôi buồn lo, nặng tâm tình tội lỗi,

Tôi cô đơn giữa đoàn lũ vui cười,

Em hiến tặng một đóa hoa nở tươi.

Chỉ lắng nghe, Em không nói một lời,

Như bếp lửa, Em sưởi ấm cuộc đời,

Đốt tia nắng giữa bầu trời ảm đạm,

Thắp ngọn đuốc xóa tan lòng u ám.

Em bóng mát giữa trưa hè đứng ngọ,

Đời xa lạ, Em nhận làm quán trọ,

Con đường đi, qua khu rừng dẫn lối,

Ánh sao Trời gọi người người về cội.

Ai hạnh phúc, Em nụ cười rạng rỡ,

Ai hân hoan, Em cuộc đời rộng mở,

Ai an hòa, Em con đường diệu vợi.

Người và Em cưu mang Trời Đất Mới.

Khi tôi đói, chính Em làm lương thực,

Lúc kiệt quệ, Em sẵn sàng chuyền sức,

Giữa khổ đau Em đồng hành, chia sẻ,

Đời oi bức, Em thổi làn gió nhẹ.

Hồn thiêng Sông Núi,cùng Em hiện diện,

Nhắc mọi người nắm tay nhau cùng tiến.

Lòng Em Biển Cả bao la, trọng đại,

Đang chuyển hóa cuộc nhân tình thế thái.

Cuộc đời Em, một sứ điệp hương trầm :

Mắt Em nhìn, xuyên thấu cõi nội tâm,

Chân Em đến ủi an người chới với,

Tay băng bó vết thương hồn lở lói.

Em chuẩn bị Ngày Mai về tươi sáng,

Ngày Thái Hòa giữa lòng người tỏa rạng.

Em là ai ? - Bồ Tát ? - Con Người Mới ?

Nguồn Yêu Thương vượt ra ngoài tên gọi

 

 

Chương hai

Nhìn Đời với Trăm Con Mắt

 

Để đồng cảm với người anh chị em, theo tác giả G.G. JAMPOLSKY, thái độ và lối nhìn chủ yếu của chúng ta là Yêu Thương và Tha Thứ. Từng phút, từng giây, quyết định và chọn lựa lại lối nhìn của mình về người khác, để hóa giải bao nhiêu xu thế tố cáo và phê phán trong thái độ, tác phong và ngôn ngữ của chúng ta. Đối với M.R. ROSENBERG, trình bày nhu cầu của mình và tìm đến gặp gỡ nhu cầu của kẻ khác là bí quyết trong mọi cố gắng phát huy quan hệ đồng cảm, bất bạo động giữa người với người.

Trong nền văn hóa Việt Nam, tổ tiên chúng ta đã sử dụng lối nói hình tượng "Nhìn Đời với Trăm Con Mắt", mỗi lần trình bày nếp sống và quan hệ đồng cảm. Không giải thích dài dòng, không đề xuất những động tác cụ thể cần thực thi hằng ngày, cha ông chúng ta chọn lựa cách giáo dục của các Thiền sư : đưa ra những công án. Chính đồ đệ, con cháu tự mình dấn bước lên đường tìm kiếm, để thành thân và lập thân.

Mọi công án luôn luôn khởi đầu với một tình huống nghịch lý. Đương khi sinh ra làm người, chúng ta chỉ có tối đa hai con mắt. Để đồng cảm, trái lại, chúng ta phải "nhìn với trăm con mắt". Làm sao giải trừ con đường nghịch lý, tiến thối lưỡng nan ấy, để từ từ dấn bước trên con đường hiểu biết và tình thương ?

 

*

*   *

1.- Sáng suốt và can đảm nhìn nhận những giới hạn tất yếu : "Tôi chỉ có hai con mắt".

Để lý giải hay tháo mở công án "nhìn với trăm con mắt", chúng ta bắt đầu ở điểm khởi đầu, thay vì loay hoay, vọng đọng tưởng mình có phù phép toàn năng, khởi đầu bất cứ nơi đâu.

Chúng ta chỉ có hai con mắt cùng nhìn một hướng, khác với con ruồi chẳng hạn, có con mắt nhiều mặt, nhìn được nhiều hướng trong cùng một lúc.

Trong điều kiện làm người, khi nhìn lên, tôi không thấy ở dưới. Khi nhìn qua mặt, tôi không thể ghi nhận những gì nằm phía trái của tôi. Sống bên Đông, tôi không thể có một lối nhìn của người phương Tây, nếu tôi không học hay là không ai dạy cho tôi.

ý thức rõ rệt về lối nhìn luôn luôn phiến diện như vậy, tôi đã bắt đầu tu thân, không phê phán, kết án, hạ bệ những gì không có mặt trong lối nhìn của tôi. Phương Tây chưa hẳn là vô đạo, đồi trụy. Phương Đông có thể không phải và không còn là nơi mặt trời mọc lên, trong giây phút "ở đây và bây giờ".

Không những chỉ phiến diện, lối nhìn của tôi thay đổi không ngừng, vì đó là một tiến trình tùy thuộc yếu tố thời gian. Quá khứ đã qua rồi. Tương lai thì chưa tới. Chỉ có giây phút hiện tại là có thực. Nhưng cái thực ấy rất phù phiếm. Giây phút nầy đóa hoa đang phơi phới. Giây phút sau, một ngọn gió từ đâu thổi tới ồ ạt : Đóa hoa đã "nửa chừng thoắt gãy cành thiên hương". Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba La Mật, được tụng niệm trong các Thiền viện, dạy chúng ta :"không nhơ không sạch, không thêm không bớt" ... Sống được giây phút hiện tại như vậy, chúng ta không còn sợ hãi, khổ đau, vọng tưởng. Chúng ta "Vượt qua" bến bờ bên kia.

 

2.- Nhìn nhiều lần, Nhìn nhiều nơi, Nhìn từ nhiều phương hướng.

Khi sáng suốt nhận ra mình chỉ có hai con mắt, tôi sẽ không dừng lại ở một nhãn hiệu. Lối nhìn của tôi không thấu triệt thực tại toàn diện của một người đang được tôi nhìn. Qua nhiều ngày tháng suy tư,  ngẫm nghĩ, chàng trai Augustinô - sau nầy sẽ trở thành một nhà tư tưởng có tầm cỡ trong nền văn hóa Âu Tây - nhân một hôm dạo chơi trên bờ biển, khám phá được mình chỉ là "lỗ cát nho nhỏ". Làm sao tát cạn đại dương bao la, hùng vĩ, bằng cách gồng mình đổ hết nước của biển khơi vào trong tư duy mong manh, hạn hẹp ? Cho nên, để lý giải câu hỏi "làm sao" ấy, cha ông chúng ta đã nêu lên hình tượng Quan Thế Âm "Nhìn thế nhân với trăm con mắt" : nhìn nhiều lần, nhìn nhiều khía cạnh hay là phương diện khác nhau, thay đổi chỗ đứng nhìn, để có thể nhìn từ nhiều phương hướng, tọa độ. Mặc dù vậy, con người của tha nhân, trong mọi quan hệ tiếp xúc, vẫn còn là một thực tại bao la, muôn hình muôn dạng với màu sắc biến hiện không cùng.

Nhìn với trăm con mắt như Quan Thế Âm còn có nghĩa là cẩn trọng lối nhìn của Tổ Tiên, Cha Ông qua các thế kỷ, từ đời các Vua Hùng, nhất là trong những thời kỳ phấn đấu với ngoại xâm.

Nhìn với trăm con mắt của cháu chắt và các thế hệ tương lai, trong hai mươi năm, năm chục năm hay là một thế kỷ sắp tới, để tiên liệu những vụ mùa lúa chín và đề phòng những ngày mưa bão, lụt lội. Nhìn với trăm con mắt bao nhiêu giai đoạn hưng thịnh của Đất Nước, để đánh sáng niềm tin vào khả năng yêu nước của anh chị em đồng bào, và chuẩn bị tiền đồ xán lạn cho Quê Hương.

Nhìn với trăm con mắt những chuỗi ngày ảm đạm và tang thương, để rút ra nhừng bài học. Đất Nước nào biết nhìn quá khứ và lịch sử như một bài học vô tận, đất nước ấy có khả năng sáng tạo những con đường đi ra vùng ánh sáng. Trái lại, đất nước nào cứ  ngày ngày trở lui với những con đường mòn thiên kiến, hận thù, chia rẽ, bạo động, đất nước ấy đang đi vào con đường bế tắc, hoại diệt, vong bản và vong thân. Khi thấy mình là nạn nhân, Đất Nước ấy biến mình thành nạn nhân.

Tất cả những điều tôi đề cập có liên hệ đến vận mệnh của Đất Nước, nhưng cũng có thể ứng dụng cho từng cá nhân của mỗi người.

 

3.- Những hiểm họa trong lối nhìn :

-         Nhìn mà không thấy vì chúng ta đã "quá đầy",

-         Lối nhìn độc lộ

-         Lối nhìn nhị nguyên

Nhìn với trăm con mắt còn có nghĩa là sở hữu hóa, nhận làm của mình lối nhìn của anh chị em, trên tất cả mọi nẻo đường của Đất Nước. Không ai, cho dù có mọi quyền năng phù phép đến đâu, có thể khinh mạn lối nhìn của người khác. Bằng mọi phương tiện hoặc đại lộ thông tin, ngày hôm nay, chúng ta hãy thực hiện trong tâm hồn và cuộc đời của mình một "hội nghị Diên Hồng". Vì cận thị và già nua chúng ta mất khả năng nhìn thấu tận chân trời của Núi Non hùng vĩ. Hãy khiêm cung mời anh chị em lên ngồi trên vai mình và nói cho mình biết nhu cầu và nguyện vọng của đoàn lũ quần chúng tay lấm chân bùn, đang ngày ngày lam lũ trên những cánh đồng của Núi Sông. Họ đang ở ngoài tầm nhìn của chúng ta.

Đôi mắt của trẻ thơ có thể nhìn thấy những con nước đang luân chuyển ở dưới những tầng đất lớp đá. Chúng ta hãy mời các cháu giúp chúng ta đào lên những giếng nước trong lòng cuộc đời.

Dưới đời Lý và Trần, những ông già bà lão làm nghề chài lưới đã dạy cho Lý Thường Kiệt và Trần Hưng Đạo biết đóng chông ở những khúc sông nào để đánh chìm thuyền bè của quân xâm lược Tống và Nguyên.

Trong tinh thần và ý hướng được khai vạch như vậy, Bồ Tát Quan Thế Âm không phải là ai xa lạ, ngoài chúng ta. Với anh chị em đồng bào, chúng ta làm nên một Quan Thế Âm duy nhất, từ đời nầy qua đời nọ, để nhìn thấy được gió mưa trong lòng Đất Nước, để khám phá nhu cầu của Núi Sông chạy dài, từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau.

*

*   *

Hiểm họa đang giết chết hoặc làm tê liệt nhiều thế hệ Quan Thế Âm là tinh thần tự mãn. Như một tách trà tràn đầy nước nguội  lạnh, không còn hương vị thơm và ngon, chúng ta khước từ mọi đóng góp, kêu mời mới lạ và trẻ trung từ các thế hệ mầm non chưa bị những thành kiến vùi dập. Vì quá quen, chúng ta không còn khả năng thấy. Vì đã quá thấy, chúng ta đánh mất niềm tin vào cuộc sống đang đổi mới từng ngày từng giờ. Chúng ta trở nên "lạc hậu", nghĩa là rớt lại đằng sau, không theo kịp thời cuộc.

Hiểm họa thứ hai là lối nhìn "độc lộ", tư duy một chiều. Một khi đã bị một nhãn hiệu khống chế, chúng ta bị che mắt, không còn đọc được những nhãn hiệu khác. Chúng ta chỉ lặp lại như keo vẹt và cảm thấy an toàn, sung mãn. Mọi đổi thay nho nhỏ, mọi khác lạ từ ngoài sẽ tạo ra khủng hoảng ở bên trong nội tâm. Phản ứng của chúng ta lúc bấy giờ là tự vệ : xóa bỏ, đàn áp mọi cơ phận được ghép vào từ ngoài, cho dù phổi cũ của chúng ta đã rách nát. Tim cũ đã tê liệt. Thận cũ đã teo tóp. Đại trường trở nên một đại lộ kinh hoàng đầy chết chóc và tang thương.

Hiểm họa thứ ba là não trạng nhị nguyên. Những gì không thuộc về tôi, đều là thù địch của tôi. Những gì không theo đúng lý của tôi đều là phi lý, cần phải loại trừ, xóa bỏ. Chính vì lý do nầy, thay vì nhìn đời với hai loại kính đen trắng phản nghịch và khai trừ nhau, tác giả E. DE BONO đề nghị chúng ta hãy tạo cho đời mình một lối nhìn có sáu màu khác nhau như trắng, đen, vàng, đỏ, xanh da trời và xanh lá cây. Lối nhìn sáu màu nầy, còn có thể mang tên là lối nhìn của Quan Thế Âm. Lối nhìn nầy đã có mặt trên Quê Hương từ đời Lạc Long Quân. Tâm hồn Ngài bao la bát ngát như Đại Dương, dung nạp mọi con nước và dòng chảy phát xuất từ bốn phương thiên hạ.

4.- Ba nội dung của lối nhìn

Nhằm cụ thể hóa lối nhìn với trăm con mắt của Bồ Tát Quan Thế Âm, trong mỗi quan hệ tiếp xúc và trao đổi thường ngày, tôi muốn bàn đến nội dung của những câu chuyện qua lại giữa chúng ta hay là giữa người nầy với người khác.

Dù biến hình, biến dạng, câu chuyện trao đổi giữa hai hay nhiều người, chỉ xoay vần lui tới, chung quanh ba chủ đề then chốt :

Một                 -          Thực tại trong lối nhìn của tôi có trùng hợp với thực tại trong lối nhìn của bạn hay không ?

Hai                   -          Bản sắc hay là căn cước của tôi có được đánh giá một cách tích cực trong lối nhìn của bạn không ?

Ba                    -          Xúc động và tình cảm của tôi như sợ, lo, buồn, khổ có đáng được diễn tả ra ngoài, để bạn nhìn nhận đúng tầm quan trọng hay không?

Trong mỗi loại chủ đề, với cách ăn nói nào, tôi "xích lại gần" phong độ của Quán Thế Âm, nhìn người với trăm con mắt xuyên thấu và đồng cảm ?

Những cạm bẫy nào, trái lại, trói buộc tôi vào vòng xung đột và nhận chìm tôi xuống đáy ngục khổ đau ?

Như tôi đã nhấn mạnh lui tới nhiều lần, một cách cố ý cố tình, trong chương một, người quyết định làm Bồ Tát Quán Thế Âm là chính tôi. Người chọn lựa sa đọa trong đáy vực khổ đau cũng là tôi. Tôi là tác nhân nắm vững mọi chủ quyền trên bản thân và toàn thể cuộc đời của tôi. Không ai có thể làm thay, làm thế cho tôi. Tôi cũng không làm nạn nhân cho một ai, nếu tôi không ủy quyền, cho phép kẻ khác hành hung, đàn áp, bốc lột tôi. Người khác chỉ có thể trói tay, buộc chân tôi, ném tôi vào tù, hay là dùng khí giới sát hại tấm thân da bọc xương của tôi. Nhưng không một ai, trên trời hoặc dưới đất, có thể quyết định về số phận hạnh phúc hay bất hạnh của tôi, ngoài ý muốn và ý định của tôi. Con người tôi vượt ra ngoài khuôn khổ hạn hẹp của xác thân. Con người với những chiều kích được xác định như vậy, sẽ không có một ai hay một quyền bính nào có năng lực tiêu trừ. Con người ấy "đã vượt qua bờ bên kia". Con người ấy là một "Thần Linh".

 

*

*          *

 

Chủ đề thứ nhất :

Thực tại

 

Thực tại được bàn đến ở đây không phải là thực tại lạnh lùng khô khan như hai cọng với hai thành bốn. Thực tại trong câu chuyện có dính líu đến hai người. Thực tại nầy đang là chủ đề và vấn đề trong quan hệ tiếp xúc, trao đổi giữa hai hay nhiều người. Nó đang có mặt dưới ba câu hỏi cụ thể :

 

Câu hỏi số một : Thực tại và sự thật

Trong hai người, giữa tôi và anh ai đúng ai sai ? Ai có lý, ai vô lý ? Ai nói sự thật, ai nói dối ?

Câu hỏi số hai : Thực tại và ý định

Ý anh muốn làm hại tôi phải không?

Câu hỏi số ba : Thực tại và trách nhiệm

Một công việc của chúng ta không thành tựu, ai có lỗi ?

Lúc câu chuyện mới bắt đầu, lối xưng hô còn nhã nhặn, êm đềm : Anh và tôi, bạn và tôi... Đến hồi gây cấn, xung đột, lối xưng hô trở thành mày và tao. Lúc ban đầu của câu chuyện thể chế của thành viên trong quan hệ trao đổi là con người. Khi xung đột đã bùng nổ, con người bị hạ bệ và trở nên đồ vật :

"Đồ nói dối, đồ gian lận, đồ bất tài bất tướng. Đồ phản bội".

 

*

*          *

Về câu hỏi thứ nhất có liên hệ đến thực tại và sự thật, nhằm nuôi dưỡng quan hệ đồng cảm với tha nhân, chúng ta cần ý thức sáng suốt rằng : Thực tại và sự thật được nói tới ở đây là thực tại và sự thật ĐANG ĐƯỢC NHÌN VỚI HAI CON MẮT.

Cho nên lối nhìn ấy chỉ phiến diện. Tôi chỉ thấy một khía cạnh và tôi cẩn trọng khía cạnh của người anh chị em.

Thêm vào đó, lối nhìn của tôi đang ở trên một tiến trình. Và người bạn của tôi cũng đang đi, chưa tới nơi. Nếu muốn đi với nhau, chúng ta gọi nhau, chờ nhau, trao đổi, đối thoại với nhau :

"Này bạn ơi, tôi ở đây. Bạn ở đâu ? Tôi đi làm sao, chọn con đường nào, để hai chúng mình có thể gặp nhau ?".

Làm như vậy, theo lối nói hình tượng của Tổ Tiên, là xích lại gần Quan Thế Âm và giúp đỡ người anh chị em cũng trở thành Bồ Tát như chúng ta, với chúng ta, nhờ chúng ta.

 

*

*         *

Về câu hỏi thứ hai có liên hệ đến thực tại và ý định, để tránh bao nhiêu xung đột và hiểu lầm, tôi cần tôi luyện những cách làm cụ thể như sau :

* Duy mình tôi biết ý định của tôi.

* Nếu tôi muốn kẻ khác biết rõ ý định của tôi, tôi diễn tả ra ngoài với ngôn ngữ đơn sơ, trong sáng, ngang tầm nắm bắt của người nghe.

* Muốn chắc chắn rằng họ đã nghe, xin họ phản hồi :

- "Tôi còn phân vân,

- vì tôi không biết tôi đã trình bày ý định rõ ràng chưa.

- Vậy tôi xin bạn làm ơn nói lại ý định của tôi là gì !"

* Trường hợp tôi muốn biết ý định của người bạn, tôi yêu cầu họ nói ra cho tôi hay.

- "Bạn đến thăm, còn mang quà cho tôi một triệu đồng. Như vậy, bạn muốn tôi mua gì, làm gì cho bạn. Hay là bạn cho tôi tự do có sáng kiến ?"

*

*              *

* Khi người bạn cố tình úp mở, tôi có quyền phỏng đoán nhưng lập tức trình bày và tìm cách kiểm chứng.

"Bạn thấy tôi và tránh đi nơi khác, không tay bắt mặt mừng như thói thường của bạn. Tôi đoán rằng bạn có điều gì buồn về tôi và giận tôi, phải không ?

* Khi người bạn chỉ bói đoán vu vơ mà đã khẳng định chắc nịch như đinh đóng, thay vì tức giận hay là phủ nhận, tôi xin người ấy kiểm chứng, đưa ra dữ kiện dẫn khởi.

- "Bạn vừa nói tao biết mầy khinh khi tao ra mặt. Với ý nghĩ bị khinh khi, chắc hẳn bạn buồn lòng và khổ đau rất nhiều. Vậy xin bạn hãy chia sẻ, cho biết : Dựa vào đâu, bạn khẳng định về tôi như vậy ? Tôi đã nói hay làm gì, để bạn có ý kiến như thế ?"

 

*

*            *

 

Khi đón nhận "lời bói đoán" của người khác về bản thân tôi, tôi không bày tỏ thái độ đồng ý hay là phủ nhận. Tôi chỉ làm hai điều quan trọng :

Một là nhìn nhận xúc động đau buồn đang có mặt trong nội tâm của người bói đoán. Ý nghĩ của họ đang làm cho họ buồn đau. Và khi một người khổ đau, cho dù họ là ai, tôi lại gần, chia sẻ. Chia sẻ bằng thái độ nhìn nhận. Không chọn lựa đồng cảm như vậy, tôi sẽ tấn công, tố cáo ...

Hai là tìm cách kiểm chứng. Ý định là một thực tại nội tâm rất phức tạp. Ý định mang nhiều yếu tố vô thức có thể thoát khỏi tầm ý thức của tôi. Cho nên, khi tôi tìm cách kiểm chứng, tôi đánh sáng ý thức của tôi. Tôi cố gắng nhìn mình, với một con mắt thêm vào từ ngoài.

*

*            *

Về câu hỏi thứ ba có liên hệ đến thực tại và trách nhiệm, chúng ta cần phân biệt trách nhiệm và nguyên nhân.

Trước hết, như tôi đã trình bày trong chương một, với những minh họa cụ thể, nhân tố hay chủ thể nào phát sinh một thành quả, đó là nguyên nhân. Chẳng hạn tôi là nguyên nhân của lối nhìn. Chính tôi chọn lựa và quyết định lối nhìn và đi theo đường hướng nào. Tôi chủ động điều chỉnh, khi nhận thấy lối nhìn đi lệch ra ngoài con đường mà tôi sáng tạo, phác họa. Trong khuôn khổ của nội tâm hay tư duy, lối nhìn phát sinh và điều hướng mọi sinh hoạt tâm linh khác, như đời sống xúc động và tình cảm, hay là những quan hệ tiếp xúc, trao đổi với môi trường khách quan bên ngoài, trong đó có tha nhân.

Bao nhiêu yếu tố có mặt trong môi trường sinh hoạt, như các sự cố, hành vi và ngôn ngữ của tha nhân chỉ là DUYÊN hay là YẾU TỐ DẪN KHỞI, giới thiệu tạo điều kiện. Trong tiếng Pháp, từ thích hợp là élément délencheur, không thể lẫn lộn và đồng hóa với Cause, nguyên nhân.

Khi yếu tố dẫn khởi là một con người có ý thức và đang kết dệt những quan hệ tình cảm với tôi, người ấy góp phần, tham gia ít nhiều vào tất cả những điều tôi làm, tôi nói, vào những điều lầm lỡ, sơ sót của tôi. Vì những đóng góp như vậy, người ấy đang cùng chia sẻ với tôi một phần trách nhiệm. Hai lối nói được dùng đó đây, trong môi trường văn hóa Việt Nam, là liên đới, đồng trách nhiệm. Từ thường được sử dụng trong Tâm lý Phật học là tương tức. Sở dĩ cái nầy có là nhờ có cái kia. Không có mặt trời chẳng hạn, cây cỏ, lúa, bắp làm sao có thể mọc lên ?

Khi có một lầm lỡ, hư hỏng, thất bại, trong môi trường chung sống, hoạt động như gia đình, sở làm, khu phố ... Ai sẽ là người có lỗi, bị buộc tội ? Chẳng hạn, mẹ tôi đang khổ đau, buồn phiền. Là đứa con, phải chăng tôi là nguyên nhân gây ra tai họa ấy cho mẹ tôi ?

Có người điểm mặt, chỉ tay vào tôi mà tố cáo, phê phán, kết tội, "vì mầy !", tôi sẽ có thái độ, cách phản ứng hay là trả lời làm sao ?

Tác giả M.R. ROSENBERG, sau khi quan sát hành vi, lắng nghe ngôn ngữ của nhiều người, đã ghi nhận bốn loại phản ứng thông thường như sau :

Loại Một : Tôi nhận mình là nguyên nhân gây ra tình huống đau buồn ấy. Từ đó, tôi phê phán, tố cáo chính mình. Tôi giam hãm mình trong mặc cảm tội lỗi, mỗi lần kẻ khác khổ đau, bất hạnh.

Loại Hai : Tôi tố cáo những người khác trong họ hàng, bà con, bạn bè của mẹ tôi. Tôi phủi tay, cho mình là vô tội, trắng án.

Loại Ba : Dựa vào một vài kiến thức tâm lý "sách vở", tôi biết chính mẹ tôi là nguyên nhân trực tiếp gây ra cho mình những xúc động đau buồn, trầm cảm. Phần tôi, tôi chỉ là nguyên nhân tạo ra cho tôi những gì tôi khát vọng như đời sống hạnh phúc, thoải mái. Ngoài ra, tôi bất cần, "nhẹ như khí", thảnh thơi như ngọn gió, thổi về hướng nào tùy ý tôi chọn lựa. Tôi bịt tai không nghe, nhắm mắt không thấy. Tôi chỉ mưu cầu hạnh phúc cho đời tôi mà thôi. Ai khôn thì sống. Ai bống thì chết ! Mặc kệ họ ! Thái độ bất cần như vậy có nghĩa là VÔ TRÁCH NHIỆM.

Loại Bốn :Tôi liên đới, đồng trách nhiệm với những ai sống cuộc đời làm người như tôi, bắt đầu từ người thân trong gia đình đã nuôi nấng, đùm bọc tôi, từ ngày tôi còn tấm bé.

Vì liên đới, tôi coi trọng và đáp ứng tùy điều kiện hiện hữu của tôi, tất cả những yêu cầu và nhu cầu cơ bản của họ. Đồng thời, tôi biết cách khẳng định nhu cầu trọng yếu của bản thân và cuộc đời của tôi. Tôi không héo hon mòn mỏi vì bao nhiêu lệ thuộc tình cảm đang bủa vây tôi.

Nói khác đi, tôi lắng nghe coi trọng nhu cầu của người khác có quan hệ gần và xa. Nhưng tôi cũng có khả năng khẳng quyết nhu cầu cơ bản của bản thân tôi, trước mặt họ. Tôi biết xin và không đòi hỏi, áp đặt, cưỡng chế một ai, dù người ấy là đứa con còn non dại của tôi.

Trong tinh thần và lăng kính ấy, khi có người tấn công và đổ lỗi qui chụp, gán ghép, như trước đây tôi đã đề nghị, chúng ta bình tĩnh thực thi hai điều : Nhìn nhận xúc động của người đối diện và kiểm chứng ý nhìn của họ.

"Bạn vừa khẳng quyết tôi hoàn toàn có lỗi trong vấn đề nầy. Như vậy là bạn đang lo lắng, buồn bực vì dự án của chúng ta không thành tựu mỹ mãn đúng kỳ hạn. Vậy nếu tiện, bạn làm ơn chia sẻ những nỗi lòng của bạn. Sau đó, tôi xin trình bày vài ý kiến nhận định của tôi ...".

Khi làm như vậy, tôi vừa khẳng định mình, vừa tôn trọng ý kiến chủ quan của người phát biểu. Điểm quan trọng nhất là tôi tìm cách nhìn nhận xúc động của người ấy, để giải tỏa bao nhiêu bạo động và xung đột đang nung nấu, có thể bùng nổ, gây tổn hại cho tôi và bao nhiêu người khác. Đó là trọng tâm của tinh thần liên đới, đồng trách nhiệm.

 

 

*

*           *

 

 

Chủ đề thứ Hai :

Bản sắc hay là chân tướng

 

Khi cuộc sống diễn biến một cách bình thường yên ổn, ít người trong chúng ta đặt ra cho mình thắc mắc :"Tôi là ai ?". Trái lại, những lúc kinh qua một giai đoạn đầy thách đố, đòi hỏi ở chúng ta những quyết định khó khăn, hình như ai ai cũng có thái độ nhìn lại mình với những câu hỏi giao thoa chằng chịt vào nhau như :

-         Tôi có ngang tầm với thời cuộc không? Tôi có thành tựu công việc đang đợi chờ tôi không ?

-         Tôi sắp làm chồng, làm vợ, làm cha, làm mẹ, tôi là người như thế nào : bê bối, luộm thuộm, hay là tôi sẵn có những giá trị nội tại ?

-         Trong những cộng đồng mà tôi đang là thành viên, như sở làm, trường học, phải chăng tôi là người được mộ mến ? Hay tôi chỉ là một phần tử "vô danh tiểu tốt", "không mợ chợ cũng đông" ?

-         Tôi xấu hay tốt ? Tôi được mọi người thương hay ai ai cũng ghét và tẩy chay tôi khỏi vòng thân tín của họ ?

Nói tóm lại, về ba câu hỏi có liên hệ đến khả năng, giá trị và quan hệ tình cảm, tôi trả lời cho tôi thế nào ? Và người khác trong số bạn bè, cha mẹ, cộng sự viên cấp trên và cấp dưới ... đang nói thế nào về tôi ?

Lối nhìn của tôi về tôi thế nào ? Lối nhìn của kẻ khác về tôi đang có những ảnh hưởng tác dụng gì trên lòng tự tin và ý thức về mình của tôi ?

 

 

*

*            *

 

 

Lối nhìn của tôi về tôi

 

Tôi là người. Cho nên, tôi không phải là ác quỉ, cũng không phải là thần thánh, siêu nhân ...

Quên mất điều ấy, tôi sẽ ngày ngày đuổi bắt một cách vọng động một loại bản sắc cực đoan "Hoặc có hoặc không"; đương khi cuộc đời hay thực tế là một cầu vồng muôn màu muôn sắc, trắng đen vàng đỏ, tím xanh ... trộn lẫn vào nhau hay là nối đuôi nhau.

Nói một cách cụ thể, tôi không bao giờ có lý một trăm phần trăm. Đồng thời, tôi cũng không bao giờ vô lý hoàn toàn tuyệt đối. Trong quan hệ tình cảm, có người thương tôi, thậm chí khi họ khám phá nơi tôi những nút ruồi, những vết thẹo tâm linh. Trái lại, cũng có rất nhiều người bảo tôi là ăn nói vô duyên, cả những khi tôi đang "ngậm miệng mà nghe". Trong công việc, cũng vậy, chẳng bao giờ tôi có mọi kỹ năng siêu việt, tuyệt diệu, đạt mọi đỉnh cao của loài người. Nhưng tôi cũng không "vô tài, vô tướng, đụng vào đâu, hư hỏng có mặt ở đó". Tôi có thể mang đến cho đời một vài đóng góp độc đáo, quan trọng, hữu ích.

Nói đến bản sắc, tôi chọn lựa cho mình lối nhìn sau đây :

-         Những gì tôi chưa biết, tôi tìm cách học hỏi thêm.

-         Những gì tôi đã biết, tôi vẫn còn học hỏi, để bổ túc và kiện toàn.

-         Những gì tôi làm sai, tôi cũng học cho biết mình sai ở đâu, cách nào để chuyển biến điều sai lầm thành bài học và kinh nghiệm. Nhờ đó tôi không lặp lại mãi hoài một sai lầm, đến độ trở thành một nếp sống "phải sai, phải hỏng".

Chính vì những lý do ấy, khi nói đến bản sắc và lối nhìn, tổ tiên của chúng ta thường dùng cách diễn tả : Chúng ta là Bồ Tát Quan Thế Âm ĐANG thành và SẼ thành. Chúng ta đang học để trở thành. Bản sắc đã là con đường có sẵn từ ngày chúng ta sinh ra làm người độc đáo và độc bản. Nhưng con đường ấy chưa kết thúc, chưa hoàn thành mỹ mãn.

Ở Thụy Sĩ, những con đường đại lộ luôn luôn mới dưới con mắt của khách du lịch đến từ bốn phương địa cầu. Mới như vậy, không phải vì mới được xây cất. Nhưng nhờ được trùng tu, săn sóc, sửa sang, quét sạch mỗi ngày. Đó là ý nghĩa của lối nói "ĐANG thành và SẼ thành".

*

*            *

 

Lối nhìn của người khác về tôi

 

Khi một người đưa ra một nhận xét về tôi, thậm chí độc ác, xuyên tạc từ trắng thành đen, người ấy đang diễn tả rằng họ thực sự có quan hệ "chiếu cố", liên kết họ với tôi trên một bình diện cụ thể nào đó. Tuy nhiên, họ đang sợ, cho nên họ biến hóa nỗi sợ thành tố cáo, phê phán, xuyên tạc, hờn giận. Đàng sau vỏ cứng tự vệ ấy, họ là người cần được thương. Họ đang kêu cứu : "Hãy thương tôi. Tôi đang thiếu tình thương". Một cách trả lời đứng đắùn trong những hoàn cảnh tương tự, là đoái thương nhìn cuộc đời : bộc lộ bản sắc cơ bản và đích thực của chúng ta đang được kết dệt bằng chất liệu tình thương và tình người. Ngoài lối nhìn bao dung, cao thượng ấy, hai phản ứng hoàn toàn cực đoan có thể phát xuất từ một bản sắc hời hợt, quá nhạy cảm, lệ thuộc, thiếu tự tin.

 

Phản ứng thứ nhất đầy tự vệ :

Tôi gồng mình chối từ, phủ nhận mọi nhận xét. Trong đó, có một vài tin tức bổ ích, có thể mang đến cho con người của tôi những bài học, những đóng góp xây dựng. Bao lâu tôi còn ở trong điều kiện làm người, những ai làm người, dù đó là một em bé sơ sinh, có thể làm vị thầy, dạy cho tôi một bài học làm người. Cha ông chúng ta thường nói :"Nhất tự vi sư". Hẳn thực, ai dạy cho tôi một từ, một chữ duy nhất, đã là thầy của tôi trong cuộc đời.

Theo cách hiểu của cá nhân tôi, ai dạy cho tôi chữ "Nhất", có nghĩa là "một" - một gạch ngang trong chữ Nho - người ấy đã làm thầy cho tôi. Tâm lý đương đại, nhất là khi bàn về quan hệ giữa trẻ em và người lớn, cũng đang chú trọng đến phương thức "học với trẻ em, để có thể dạy chúng nó". Muốn dạy, chúng ta hãy biết học. Học và dạy giao hòa, bổ túc cho nhau. Một bà mẹ có khả năng làm Mẹ, khi bà mẹ ấy biết học với đứa con do mình sinh ra:  học cho biết nó khóc có nghĩa là gì, khi nó cần ăn, cần uống, cần đi dạo, cần chơi, cần ngủ ... nó diễn tả thế nào, theo cách của nó ? Bà mẹ nào chỉ áp đặt những kiến thức lý thuyết của sách vở, đứa bé sơ sinh sẽ phản đối. Bà có học, để hiểu nó đang phản đối bẵng những cách nào không ?

Phản ứng cực đoan thứ hai là tin tất cả những điều kẻ khác nói, nhất là khi họ phê bình, chỉ trích, kết án:

 

Nhiều người đã vượt qua tuổi hai mươi, vẫn còn lặp đi lặp lại nhễ nhãi trong nội tâm lời nhận xét của Mẹ phát biểu, khi mình còn ở lứa tuổi thiếu thời :

"Mày vô duyên. Mày h‡n láo. Mày độc ác với em mày".

Bà mẹ có ngờ rằng : lời mình nói ra một cách không suy nghĩ chín chắn, đã trở thành lời tiên tri, hay là một câu sấm đang trở thành hiện thực trong cuộc đời của đứa con.

Và khi đứa con cứ ngày ngày độc ác với đứa em của mình, nó có ngờ rằng nó đã làm công cụ nô lệ, thay vì thành người tự do, ngày ngày sống thức tỉnh, chọn lựa lại, quyết định lại, trước mỗi cử chỉ, hành vi làm người của mình. Sống làm người, tôi không thể suốt đời "dạ dạ, vâng vâng" hay là "ngựa chạy đường cũ". Để kiến dựng bản sắc, tôi không thể chối từ con đường "kiến tha lâu đầy tổ" : học lại một lối nhìn đơn sơ, nghe lại với vành tai xôn xao như nghe lần

*

*             *

 

Một bản sắc khỏe mạnh và cường tráng.

 

Kiến dựng một bản sắc cường tráng, khỏe mạnh, đó là một tiến trình đầy gian khổ, liên tục, kéo dài cả đời người. Trong khuôn khổ của chương và đoạn nầy, làm sao tát cạn hết đại dương. Tôi chỉ nhấn mạnh một số điểm trọng yếu sau đây :

Điểm Một : Khi tôi ý thức một cách can trường và sáng suốt về những điều còn mong manh, khiếm khuyết, những sức nặng ù lì đang còn ngỗn ngang, tôi không gồng mình làm ra vẻ, mang mặt nạ hay là chơi trò ngụy trang ... Thay vào đó tôi thú nhận một cách thành tâm, cho bạn bè người thân, để họ giúp đỡ, đùm bọc. Theo cách nói của người xưa, làm như vậy là "BIẾT MÌNH". Và khi biết mình, "trăm trận trăm thắng".

Khi đứng trước một cử tọa và cảm thấy mình sợ, nếu chúng ta thú nhận và diễn tả nỗi sợ ấy, một cách chính thức, chúng ta đã giải quyết hơn một nửa vấn đề của mình. Chúng ta không quan trọng hóa mình một cách giả tạo, cho nên chúng ta không tìm cách che giấu, ngụy tạo, để rốt cùng "cháy nhà ra mặt chuột". Những vụ động trời "lạm dụng trẻ em" đã bùng nỗ một cách thảm hại ở Mỹ cũng như ở Âu Châu ... là một minh họa cụ thể.

Theo Phân tâm học, bao nhiêu vấn đề xảy ra trong đáy sâu của nội tâm con người, có liên hệ đến TIỀN, DANH và SẮC. Nếu những vấn đề ấy không mượn con đường ngôn ngữ diễn tả, để đi ra ngoài vùng ánh sáng, chúng nó sẽ trở thành bạo động, bạo hành trong hành vi và tác phong, hay là tâm bệnh đột phát với những triệu chứng hoang tưởng, trầm cảm, phân liệt, hưng phấn xa rời thực tế ...

Điểm Hai : Vấn đề bản sắc làm người và vấn đề tiếp xúc, trao đổi giao thoa chằng chịt và chồng chéo lên nhau. Tuy nhiên, như trong đoạn trước tôi có nói tới, quan hệ là một thách đố lớn lao. Bao nhiêu bài học cao quí xuất phát từ địa hạt quan hệ. Cạm bẫy ngặt nghèo có thể bẽ gãy khả năng tự tin và tự lập, cũng nằm ở đây. Nhưng chính cạm bẫy cũng là bài học cao quí khả dĩ nâng cao chất lượng làm người của chúng ta. Theo lời dạy của Tổ tiên, trong nền văn hóa Việt Nam, chúng ta hãy có gan đi vào vùng bão tố. Nhờ bão tố, chúng ta tìm ra con đường hóa giải bão tố. Hẳn thực, khi mỗi người Việt Nam thấy mình mang tên hoặc Sơn Tinh, hoặc Thủy Tinh, đã góp phần gieo tai họa lụt lội, mất mùa, đói khổ cho quê hương đất nước, họa may khi ấy họ mới giật mình, dừng lại. Bao lâu chưa có ý thức về mình như vậy, họ còn đưa tay chỉ phía bên kia để tố cáo, kết án, đổ lỗi. Cách thấy vấn đề như vậy càng gây ra vấn đề, gia trọng vấn đề, kéo dài vấn đề. Và chúng ta sẽ chẳng bao giờ có cơ may và khả năng chuyển hóa bản sắc của chúng ta.

Điểm Ba : Để kiến dựng hay là chuyển hóa bản sắc của mình, chúng ta phải học, muốn học.

Ở đây tôi chỉ nói đến những bài học, trong địa hạt quan hệ qua lại giữa người với người. St. COVEY, tác giả người Mỹ, với lời lẽ vắn gọn, thực tiễn, đề nghị những bài học quan trọng sau đây :

1.- Nhắm cùng đích : luôn luôn cưu mang cùng đích trong nội tâm, khi hành động. Trước khi trao đổi và tiếp xúc, chẳng hạn, chúng ta tự hỏi mình : tôi trao đổi để hơn thua, chỉ trích, tố cáo ? Hay là để tạo quan hệ hài hòa, tôn trọng lẫn nhau ? Mục đích của quan hệ là gì ?

 

2.- Người thắng, tôi thắng

Thế nào là quan hệ hài hòa ?

St. COVEY đã trả lời : Người thắng, tôi thắng. Và chúng ta chỉ thắng, khi bạn cùng tôi, cả hai chúng ta "tương sinh, tương thành", chấp nhận khác nhau, nhưng bổ túc và kiện toàn cho nhau. Khi cùng nhau làm việc, chúng ta không phải cọng lại thành hai người. Chúng ta nhân nhau lên thành triệu triệu bộ óc, để giải quyết mọi vấn đề của chúng ta. Chúng ta sẽ đánh bại giặc nghèo, giặc đói, giặc chia rẽ và hận thù ... Đó mới là cuộc thắng lợi vĩ đại nhất trong cuộc sống làm người.

3.- Lắng nghe để tìm hiểu

Và câu hỏi thứ ba : "Học là gì ?". Tác giả đã trả lời :"lắng nghe để hiểu người", thay vì nói và tìm cách áp đặt ý kiến của mình.

Khi lắng nghe, tôi biết thêm một điều mới. Khi áp đặt ý kiến của mình, tôi làm cho kẻ khác bịt tai lại, không muốn bị tôi nuốt sống, "thực dân".

4.- Tinh thần trách nhiệm

Để chuyển hóa cuộc đời và mang lại những thành quả hòa bình giữa người với người, trong lòng nhân loại, tôi phải bắt đầu từ đâu ? Thay vì đòi hỏi một ai khác thay đổi, chính tôi là người có trách nhiệm phải bắt đầu với bản thân mình. Thay vì đứng hô hào một cuộc cách mạng toàn diện cho những người khác, tôi đốt một que diêm, xóa tan bóng đêm trong tâm hồn của tôi.

Với một ngôn ngữ chính xác, khoa học, St. COVEY đã tháo mở một phần nào công án "nhìn với trăm con mắt".

 

*

*            *

 

Để kết luận toàn bộ chương hai này mang chủ đề : Nhìn với trăm con mắt như Quan Thế Âm, tôi xin chọn làm của mình hai thái độ, hai nếp sống được các nhà tâm lý thường nhắc lui nhắc tới cho các sinh viên, để họ có thể "hội nhập" một cách nhuần nhuyễn trong suốt cuộc đời hành nghề sau nầy :

Thái độ thứ nhất là Hiếu Kỳ :

Nhìn đời như một trẻ thơ, chưa mang vào mình bất kỳ thành kiến nào. Đón nhận như mảnh đất trinh nguyên nhiều tin tức, từ nhiều xuất xứ khác nhau.

Thái độ thứ hai là Bao Dung :

Hẳn thực tôi có một lối nhìn, tôi khẳng định mình. Nhưng bạn cũng có một khung gian, một vị trí, một tiếng nói. Bạn khẳng định chính mình bạn.

Tôi có một câu chuyện của riêng tôi. Bạn có một câu chuyện của riêng bạn.

Nhưng hai chúng ta, tôi và bạn, dù phát xuất từ đâu, chúng ta cùng tiến đến một câu chuyện của chúng ta. Câu chuyện thứ ba nầy là câu chuyện của Bố Tát QuánThế Âm, mà chúng ta ĐANG THÀNH và SẼ THÀNH với nhau. Nhờ nhau. Và Cho nhau.

Nói tóm lại, thái độ bao dung là thái độ "vừa có bạn vừa có tôi". Chúng ta đồng hành cưu mang, sinh thành nhau. Không làm như vậy, chúng ta sẽ sa vào cạm bẫy :"Hoặc bạn, hoặc tôi". Lúc bấy giờ tai họa sẽ giáng xuống trên cuộc đời. Tôi trở thành địa ngục cho bạn. Bạn trở thành địa ngục cho tôi.

 

 

Chương Ba

Lắng nghe tiếng kêu trầm thống của nội tâm

 

- Lắng nghe xúc động,

- Tìm hiểu xúc động

- Nhìn nhận tầm quan trọng của xúc động

- Diễn tả xúc động

- Chuyển hóa xúc động

 

*

*           *

Trong chương hai vừa qua, tôi đã nêu lên ba nội dung khác nhau của lối nhìn : Thực tại, bản sắc và xúc động. Hai nội dung đầu đã được khảo sát. Một vài đường hướng đã được đề xuất, tùy theo địa hạt sinh hoạt của nội tâm. Nội dung thứ ba được đề cập trong chương nầy.

Cơ hồ một bộ máy vi tính, nội tâm bao gồm ba cấu trúc hay là ba thể thức tổ chức khác nhau : Cấu trúc thứ nhất là cửa vào. Xuyên qua năm giác quan, thực tại bên ngoài, có mặt trong môi trường sinh thái chung quanh, được ghi nhận và tiếp thu vào bên trong nội tâm.

Những dữ kiện nầy được "biến chế" trong cấu trúc thứ hai bằng hai con đường Tu duy và Xúc động. Những tin tức do các giác quan đưa vào cho nội tâm, được tư duy biến hóa, sáng tạo - hay là thuyên giải - để cuối cùng phát sinh một lối nhìn về thực tại. Lối nhìn sáng soi và hướng dẫn cho tôi về những điều cần làm, cần tránh khi tôi tiếp xúc, trao đổi với thực tại. Lối nhìn cũng phản chiếu cho tôi biết về con người của tôi :"Tôi là ai ?", bằng cách phát hiện, xác định những nhu cầu: "Hiện tại tôi cần gì ?". Đối mặt với những nhu cầu ấy, tôi cảm thức làm sao ? Nói khác đi, trong tình huống hiện tại, đứng trước những điều kiện của môi trường gồm có người, vật và sự cố, tôi phản ứng thế nào : hòa hợp hay thiếu thích nghi ? Nhu cầu của tôi có được toại nguyện không ?

Phản ứng xảy ra trong nội tâm còn mang tên là Xúc động và Tình cảm.

Phản ứng ấy không thể bị giam hãm ở bên trong hay là chối từ, coi như không có.

Điều kiện làm người đòi buộc tôi sử dụng phương tiện ngôn ngữ, để diễn tả xúc động, chia sẻ với người khác và yêu cầu họ đáp ứng nhu cầu của tôi.

Quan hệ tiếp xúc và trao đổi là cấu trúc thứ ba. Cấu trúc nầy mang tên là Cửa ra. Xuyên qua cấu trúc Quan hệ, nội tâm tác động, tạo ảnh hưởng trên thực tại bên ngoài.

Tóm lại, nội tâm có ba cấu trúc :

-         Cấu trúc thứ nhấtCửa vào bao gồm năm giác quan ghi nhận tin tức.

-         Cấu trúc thứ haiBiến chế. Xuyên qua cấu trúc nầy, nội tâm kiến dựng một lối nhìn về thực tại và đưa ra những phản ứng thoải mái hài hòa hay là khó chịu bất bình đối với những điều kiện sinh sống do môi trường cung ứng.

-         Cấu trúc thứ baCửa ra, có phần vụ diễn tả nội tâm, tổ chức quan hệ trao đổi và tiếp xúc với môi trường bên ngoài, để thực hiện mọi nguyện vọng và hoài bảo của con người.

*

*         *

Nói theo ngôn ngữ được dùng trong địa hạt Vi tính :

- Những gì tôi vừa trình bày về cơ cấu tổ chức của nội tâm  mang tên là Phần Cứng. Nội tâm của bất cứ một ai sinh ra trong trời đất nầy, ở Đông cũng như Tây, ở Bắc cũng như Nam, đều được tổ chức giống nhau, vì chúng ta ĐỒNG LOẠI, ai ai cũng có nhu cầu được yêu thương. Khả năng yêu thương thuộc bản sắc hay là căn cước làm người của mỗi thành viên trong nhân loại.

- Toàn bộ cuốn sách nầy giới thiệu những phương thức hoạt động nhằm nâng cao chất lượng của lối nhìn. Đó là những lối sống mang lại những quan hệ hài hòa giữa người với người. Nói được đây là Phần Mềm, những chương trình cần được ứng dụng trong cuộc sống làm người hằng ngày; để mỗi lần tiếp xúc và trao đổi, chúng ta thực sự làm người với nhau, đúng với lời nguyện ước của G.G. JAMPOLSKY :

"Bất kỳ một câu hỏi nào được nêu lên, yêu thương là câu trả lời.

"Bất kỳ một vấn đề gì xuất hiện, yêu thương là câu trả lời.

"Bất kỳ một cơn bệnh nào đang đe dọa, yêu thương là câu trả lời

"Bất kỳ một nỗi khổ nào đang tiến lại, yêu thương là câu trả lời..

"Bất kỳ một nỗi sợ hãi nào đang trào dâng, yêu thương là câu trả lời.

"Yêu thương luôn luôn là câu trả lời trong mọi tình huống, vì chỉ có yêu thương là tất cả".

Cách chúng ta hằng năm thế kỷ, trong lòng Quê hương Đại Việt, Nguyễn Trãi đã nh¡n gửi cho chúng ta những lời mời gọi tương tự :

"Lấùy Đại Nghĩa mà thắng Hung tàn,

"Lấy Chí Nhân mà thay Cường bạo".

Hẳn thực, nhân nghĩa hay là "Tình  anh em bốn biển một nhà" đã được nói tới rất nhiều trong nền văn hóa Trung Hoa. Nhân danh Nhân Nghĩa, Nhà Hán, Nhà Tống, Nhà Nguyên, Nhà Minh, Nhà Thanh ... đã xua quân xuống Miền Nam, áp đặt ách nô lệ một cách tàn bạo và dã man. Thứ nhân nghĩa, trong miệng lưỡi của quân đội xâm lược và thực dân, xuất phát từ bất cứ nơi đâu, ngày xưa hay là hôm nay, ở ngoài biên giới hay là nằm giữa tâm hồn chúng ta, đều được đồng hóa với hung tàn và cường bạo.

Đối với Nguyễn Trãi, trái lại, tình yêu thương thực sự phải trọng đại và cao cả như bầu trời của Mẹ Âu Cơ. Đồng thời, tình yêu thương ấy không phải là khẩu hiệu tuyên truyền láo khoét. Tình yêu thương ấy "chí công vô tư", đi cho cùng, đến cho tận, như lòng Đại Dương của Lạc Long Quân. Mọi người được đón nhận. Không một ai bị bỏ rơi bên lề đường. Không một người anh chị em nào bị khai trừ, loại thải, thủ tiêu, lãng quên ... để rồi cuối cùng phải đi ăn xin, ngủ trên lề đường.

Tình yêu thương trong lối nhìn như vậy, không nữa vời, chung chung, "khẩu phật tâm xà". Nhưng đáp ứng nhu cầu làm người của mỗi người. Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đồng hóa với chánh tâm. "Chánh" được hiểu là có phương pháp khoa học, chính xác, khách quan, cụ thể, chứng minh bằng hành động. Chứ không phải chỉ được "tuyên xưng, rao giảng" ở đầu môi chót lưỡi.

Nói khác đi, Tình yêu thương cần song hành với hiểu biết khoa học, mới có thể trở nên hiện thực. Hiểu biết nào không phục vụ con người và dẫn đến con đường yêu thương sẽ biến thành bom đạn, chiến tranh, thù hận, bạo động. Vậy con đường đi của chúng ta trong lòng nhân loại là con đường hiểu biết và thương yêu, là chánh tâm.

 

*

*            *

Trong tinh thần và lăng kính ấy, chúng ta sẽ lần lượt khảo sát :

1.- Quan hệ giữa lối nhìn và xúc động,

2.- Quan hệ giữa xúc động và đời sống tiếp xúc với tha nhân.

Trong chương nầy, chúng ta chỉ nói đến những xúc động của chính mình.

Trong chương sau, chúng ta sẽ bàn đến cần có thái độ như thế nào, khi đối diện với những xúc động của kẻ khác ?

 

*

*         *

 

Xúc Động Và Lối Nhìn

 

Ngoài năm loại cảm giác thông thường do mắt, tai, mũi, lưỡi và làn da, cung cấp cho, chúng ta còn có những xúc giác phát xuất từ bên trong cơ thể, do các cơ quan nội tạng, như cảm giác đau đầu, khó chịu, choáng váng, chóng mặt ...

Những xúc giác nội thân như vậy có những giao điểm với xúc động, nhưng không phải hay chưa phải là những xúc động. Xúc giác là những phản ứng của một cơ phận thể lý. Xúc động trái lại là phản ứng của toàn diện nội tâm, như sợ, lo, buồn, giận, chán nản, thất vọng, bất mãn ...

Trong cách sử dụng ngôn ngữ, chúng ta thường ghép lại với nhau xúc động và tình cảm. Cả hai đều là những sinh hoạt của nội tâm. Khi những sinh hoạt tâm linh nầy còn là những phản ứng bột phát, chưa được tư duy điều hướng và điều động, để trở thành ý thức, đó là những xúc động. Tình cảm, trái lại,  cũng là những sinh hoạt nội tâm, nhưng ở đây tư duy đã bắt đầu có mặt để sáng soi và hướng dẫn. Tôi cố ý dùng lối nói "đã bắt đầu", bởi vì trong nhiều trường hợp, chúng ta chưa thể phân biệt đâu là ý thức, đâu là vô thức. Đâu là phản ứng tự động vô thức, đâu là chọn lựa và quyết định có ý thức và can thiệp của tư duy ? Thể lý và Tâm lý đang chồng chéo lên nhau.

Thêm vào đó, khi nói đến tình cảm, chúng ta đã bắt đầu nói đến quan hệ giữa người với người. Xúc động, trái lại, đang còn là sinh hoạt của từng cá nhân riêng rẽ.

Tất cả những phân biệt ấy không rõ ràng và chính xác, vì cả ba sinh hoạt xúc giác, xúc động và Tình cảm đều thuộc về một chủ thể. Cả ba đều có thể thuộc về một tiến trình chuyển hóa từ vô thức thành ý thức, từ một thực thể cá nhân thành một thực thể được chia sẻ trao đổi.

 

Để ý thức hóa một xúc động

 

Thay vì sống trong tình trạng mơ hồ, bấp bênh, không biết mình là ai, ở đâu, làm gì ... chúng ta hãy quyết định và chọn lựa ý thức hóa những gì chúng ta đang sống trong nội tâm của mình.

Như tôi đã trình bày cách sơ lược trước đây, tác giả N.R. ROSENBERG đề nghị chúng ta đi qua bốn giai đoạn, trong tiến trình ý thức hóa nầy :

Giai đoạn thứ nhất là mô tả một cách khách quan, cụ thể và chính xác được chừng nào hay chừng ấy, môi trường hay là điều kiện sinh hoạt hiện tại, trong đó một xúc động đang xuất hiện.

* Để bắt đầu, chúng ta nêu lên những sự kiện thuộc hai giác quan Thị và Thính: " Tôi thấy ... Tôi nghe ...".

Ví dụ :

1.- "Tôi vừa nghe ông A nói là bạn rất bất bình về tôi".

2.- "Khi tôi đến lớp sáng nay, lúc 9 giờ sáng, bạn đã có mặt. Bạn ngồi úp mặt xuống và khóc, có phải vậy không ?"

* Nếu sự kiện chưa hoàn toàn rõ ràng một trăm phần trăm, chúng ta đặt câu hỏi, để xin tha nhân kiểm chứng, bổ túc, điều chỉnh, sửa sai ...

- "Có phải vậy không ? ...

- "Nếu tôi không lầm ...

- "Hình như bạn đang khóc ...

* Môi trường hóa tin tức, bằng cách trả lời cho những câu hỏi : ở đâu, khi nào, thế nào, điều gì, bao lâu ...

* Tránh tối đa những từ bất định như : có người, nhiều, đa số, ai ai ...

* Dùng "Tôi thấy, tôi nghe", thay vì những cách nói mơ hồ như : "Tôi tưởng, tôi biết, tôi đoán ...". Khi chúng ta còn mơ hồ ở một điểm, chúng ta thú nhận một cách chính thức hay là bộc lộ ra ngoài.

            "Trong vấn đề này, ý nghĩ chủ quan của tôi là ...

            "Theo cách nhận xét của tôi ...".

*

*             *

Giai đoạn thứ hai là gọi tên xúc động đang chớm nở, thành hình trong nội tâm.

"Tôi cảm thấy ... "

-         Dùng sứ điệp ngôi thứ nhất, số ít "Tôi", để diễn tả mình là chủ thể, là tác giả. Không một ai đã áp đặt cho tôi một xúc động. Chính tôi đã chọn lựa và quyết định. Từ bên ngoài, người khác chỉ có thể tạo ra cơ hội, điều kiện "dẫn khởi" mà thôi.

-         Tôi có thể cảm nhận cùng một lúc hai hay nhiều xúc động. "Tôi vừa tức, vừa buồn".

-         Trong tiếng Việt, động từ "cảm" có thể gây ngộ nhận. Nhiều khi cách phát biểu "tôi cảm thấy" đồng nghĩa với "tôi đoán". Lối nói "cảm thấy", do đó, chưa hẳn diễn tả một xúc động thuộc trách nhiệm của tôi. Ví dụ:  Tôi cảm thấy bị tổn thương. Câu nói nầy ngụ ý: có một người khác làm cho tôi tổn thương. Khi phát biểu, diễn tả xúc động như thế, tôi đã manh nha phê phán, tố cáo, qui lỗi, vì tưởng rằng người khác là nguyên nhân gây nên vấn đề cho tôi.

-         Như tôi đã đưa ra nhận xét, trong cùng một lúc, tôi có thể cảm nghiệm trong nội tâm hai hoặc ba xúc động, có khi mâu thuẫn với nhau, có khi gia tăng cường độ cho nhau. Chính vì lý do nầy, khi kêu tên hay gọi ra ngoài vùng ý thức những xúc động, chúng ta đừng lo ngại mình sai lầm, thiếu chính xác. Xúc động là một thực thể đa phức có thể mang nhiều bộ mặt vừa sợ, vừa lo, vừa buồn, vừa giận ... Thêm vào đó, xúc động đang chuyển biến, trước khi xuất hiện một cách rõ ràng trong vùng ý thức.

-         Công việc gọi tên xúc động cần được tôi luyện và thực tập trước khi trở thành dễ dàng, thuần thục.

-         Trong những trao đổi, tiếp xúc thường ngày, cha mẹ, người giáo viên nên khuyến khích con cái, học sinh diễn tả những xúc động của mình, càng nhiều càng tốt.

"Bạn A vừa đánh con. Con cảm thấy trong mình thế nào ? Con đang khóc, có nghĩa là gì ? Con buồn hay con sợ?  Con sợ hay là con giận ?".

 

*

*           *

 

Giai đoạn thứ ba là phát hiện nhu cầu ở đằng sau, ở bên dưới mỗi xúc động.

"Tôi buồn vì tôi cần có người trao đổi và tiếp xúc (nhưng không có trong thực tế).

-         Giai đoạn thứ ba nầy có liên hệ mật thiết với giai đoạn thứ nhất. Chính điều kiện sinh hoạt cụ thể và khách quan soi sáng cho tôi về nhu cầu ở bên dưới mỗi xúc động. Nhu cầu được phát sinh trong nội tâm, khi tôi ở giữa một môi trường nhất định.

Tuy nhiên, tôi muốn lặp lại rằng : chính tôi là nguyên nhân của xúc động. Tôi là tác giả đã chọn lựa và quyết định, cho nên tôi cũng có khả năng quyết định lại, chọn lựa lại, nếu tôi có một lý do chính đáng hơn trước đây.

Nói cách khác, nhu cầu thuộc về trách nhiệm và bản sắc của tôi. Nhu cầu nhằm trả lời những câu hỏi "tôi là ai, tôi cần gì?  Cho nên nó thuộc quyền điều hướng và điều động của lối nhìn.

- Để minh họa những điều rất cơ bản vừa được trình bày, tôi xin đưa ra một ví dụ :

- Môi trường :"Bạn vừa tố cáo tôi trước đội ngũ giáo viên, sáng nay là tôi lơ là, không chăm sóc đúng mức em học sinh X. So với năm học vừa rồi, khi X còn ở trong lớp của bạn, nó đã thoái hóa, có nhiều tác phong bệnh hoạn trầm cảm, khép kín ..."

- Gọi tên :        "Tôi vừa buồn, vừa kính phục bạn. Tôi tiếc là đã không có dịp trao đổi với bạn sớm hơn".

- Nhu cầu :       "Tôi buồn vì tôi chưa có dịp trao đổi với bạn về em X. Đàng khác, tôi kính phục bạn vì bạn đã và còn đầu tư nhiều lao lực cho em X".

- Yêu cầu :       "Vậy, chiều nay khi tan sở, bạn cho tôi gặp bạn nửa tiếng, để chia sẻ về bao nhiêu khó khăn của em X : bị ba đánh, ăn uống thất thường, mẹ bỏ nhà ra đi...".

Trước những lời tố cáo của một bạn đồng nghiệp, lối nhìn của tôi có thể bị lung lạc trong nhiều chiều hướng. Thế nhưng, trong trường hợp nầy, vì tình thương, tình người có mặt trong lối nhìn, tôi đã chọn lựa thái độ tôn trọng và chia sẻ đối với người bạn đồng nghiệp. Người bạn đã đầu tư nhiều cho em X, trong quá khứ. Nay em X đang trải qua những khủng hoảng khách quan trầm trọng, người bạn cảm thấy nhức nhối khổ đau. Tôi có trách nhiệm đồng cảm với bao nhiêu niềm đau ấy; và khám phá ở dưới những lời tố cáo hằn học, một con tim bị tổn thương.

Sở dĩ làm được điều ấy, vì tôi đã khổ đau trong cuộc đời. Và tôi cũng đã có những hành vi tố cáo nhiều người, trước đây, vì thiếu hiểu biết, vì "vô minh" tràn ngập tâm hồn. Tôi đồng cảm với người bạn, vì tôi nhận thấy được tôi và người bạn ĐỒNG NHAU, cùng cưu mang những chất liệu làm người giống nhau. Giống nhau thì thu hút nhau, "tương ứng tương cầu".

Trái lại, khi khác nhau, thì bổ túc cho nhau. Theo cách trình bày của thần thoại Hy Lạp, khi sinh ra làm người, mỗi người trong chúng ta đã đánh mất "một phần nửa bản thân của mình". Suốt đời, bạn và tôi, chúng ta không ngừng đi tìm lại "một phần nửa của mình". Cho nên, khi hai nửa gặp nhau, tình yêu xuất hiện. Và chúng ta có sức ép phải gọi người yêu là "Mình ơi !", myself  trong tiếng Anh.

Theo ý kiến riêng của tôi, chúng ta gặp lại "Mình", không những trong tình yêu đôi lứa vợ chồng mà thôi. Khi hai người biết đồng hành, chia sẻ, họ đã giúp nhau làm mới, đánh sáng lại bản sắc làm người đích thực hay là mặt mũi uyên nguyên của mình.

 

*

*          *

 

Phát hiện nhu cầu

Nhằm giúp phát hiện một cách hữu hiệu nhu cầu có mặt trong mỗi xúc động. Phương pháp "chương trình sinh hoạt thần ngữ"  (Neuro-linguistic Programming, viết tắt là PNL) đề nghị chúng ta hãy học tập lắng nghe và cẩn trọng tiếng nói "vô thanh" của xúc động. Đó là những người bạn thân thương muốn mang đến cho chúng ta những sứ điệp xây dựng, thậm chí khi chúng ta bị xáo trộn, mất quân bình và thiếu an lạc nội tâm. Trong lăng kính nầy, không có phân biệt xúc động xấu và tốt. Mỗi xúc động là một tiếng nói cần lắng nghe một cách cẩn trọng.

Xúc động giống như một em bé dưới ba tuổi. Chúng nó chưa có khả năng sử dụng ngôn ngữ. Chúng nó chỉ thét gào, khóc la. Nếu chúng ta biết lại gần, có mặt lắng nghe ... dần dần chúng ta sẽ có khả năng hiểu biết chúng nó muốn chúng ta làm gì cho chúng nó. Theo lối nói của phương pháp PNL, mỗi xúc động cho dù đang gây nhiều rối loạn, vẫn chứa đựng một phần vụ tích cực. Mỗi xúc động đang kêu mời chúng ta điều chỉnh lại lối nhìn, tác phong, đổi mới những quan hệ với môi trường sinh sống. Mỗi xúc động đang nhắn nhủ chúng ta rằng : Bản sắc của bạn là Yêu thương, hạnh phúc. Cho nên bạn hãy tìm cách trở về con đường hiểu biết, tình thương và kết dệt những quan hệ hài hòa với những anh chị em cùng chung sống hai bên cạnh. Sau đây, chúng ta hãy lược khảo nhu cầu của một vài xúc động :

Tức giận cho chúng ta biết rằng : một trong những giá trị cơ bản của cuộc đời không được tôn trọng đúng tầm. Thay vì bùng nổ, bạo động trong ngôn ngữ và hành động, chúng ta cần bình tỉnh, sáng suốt để khám phá giá trị nào đang bị tổn thương, ai có thể giúp chúng ta thành đạt mục tiêu. Nếu có nhiều đường hướng và giá trị cần chọn lựa, ưu tiên số một trong hoàn cảnh hiện tại là gì ?

Buồn phiền hay trầm cảm xảy đến, khi chúng ta không thành đạt một mục tiêu hay là khi phải giả từ một người hay một vật rất quí hóa. Cho nên xét lại tầm cỡ của mục tiêu, chấp nhận sự được-mất là một tất yếu trong cuộc đời. Vừa biết khóc thương một người đã ra đi vĩnh viễn, vừa biết trân trọng người thân yêu đang còn có mặt ...Đó là ba lối nhìn cần nuôi dưỡng, để chuyển hóa nỗi buồn phiền đang tràn ngập tâm tư.

Khi chúng ta lo âu, sợ hãi về những biến cố sắp xảy đến, trong tương lai gần và xa, nhu cầu là chuẩn bị và trang bị mình, để sẵn sàng đối phó với những điều bất trắc, bất định.

Mỗi khi quá bề bộn, tràn ngập đến độ bê bối, lộn xộn, kiệt quệ trước những đóng công việc càng ngày càng gia tăng, khẩn trương, điều cần thực hiện là xếp đặt công việc theo thứ tự ưu tiên 1, 2, 3 .

Thêm vào đó, chúng ta cần phân biệt cái gì là quan trọng thiết yếu, cái gì là khẩn trương. Có những điều khẩn trương nhưng không thiết yếu.

Ghen tương xuất hiện khi có một sự đe dọa hay là xung đột về vị trí tình cảm của mình. Vậy ở đâu có giá trị đích thực, nội tại, ở đó không thể có thỏa hiệp hoặc thinh lặng đồng lõa.

Tiếc nuối đề nghị chúng ta hãy điều chỉnh, thay đổi cách làm của chúng ta trong quá khứ.

Hối hận báo động cho chúng ta hay biết, chúng ta đã vượt qua những giới hạn. Có thể đó chỉ là những giới hạn do tưởng tượng tạo nên mà thôi.

Chán nản kêu mời chúng ta hãy tìm ra những động cơ đổi mới hay là đánh sáng lại cách làm và cách sống của chúng ta.

Thất vọng thúc giục chúng ta thay đổi đối tượng hay là đổi mới cách làm, cách nhìn. Giữa đổ nát và hoang tàn, chúng ta vẫn hy vọng, vì "thấy được những điều vô hình".

Bất mãn có nghĩa là một kết quả khác đã đến, thay vào một điều mà chính mình đã ước nguyện, mong đợi. Vậy mục tiêu chính yếu là gì ?  Mục tiêu nào thuộc thực tế ?

Khổ đau xuất hiện khi một vết thương đang lỡ lói, rướm máu mà chưa được ai băng bó. Vết thương có thể được hiểu về mặt tâm lý như một tình cảm bị cắt đứt, sự ra đi đột ngột của một người thân, hay là một ước mơ trọng đại, nhưng xa rời thực tế. Để hàn gắn vết thương khổ đau, chỉ có một toa thuốc : Yêu thương. Và Yêu thương đích thực là CHO.

Khi một người cảm thấy mình thiếu khả năng, bất kham, họ không có những xác tín vững chắc rằng mình làm được, mình sẽ thành đạt kết quả. Họ phân vân, lo ngại, thiếu tự tin. Trong những điều kiện như vậy, học là một nhu cầu. Học để biết mình và phát huy lòng tự tin.

Hỗn độn, mơ màng là tình trạng nội tâm của một người đang lạc loài quanh quẫn trong một vòng mê cung rối ren, và không tìm được lối ra.

Khi không làm chủ tình hình như vậy, chúng ta cần tìm cách, tìm người, tìm kiến thức, để trả lời những câu hỏi sau đây :

- Tôi khởi sự ở đâu ?

- Tôi kết thúc khi nào ?

- Hiện tại tôi đang ở đâu ?

- Tôi cần tiếp tục đi tới hay là đổi hướng?

- Cái gì là điểm mốc, là tiêu chuẩn khách quan giúp tôi định hướng ?

 

*

*          *

 

 

Giai đoạn thứ bốn : Đáp ứng lời kêu xin của xúc động

Sau khi đã khảo sát điều kiện sinh hoạt, do môi trường cung cấp, chúng ta lắng nghe tiếng nói của xúc động và phát hiện những điều chúng ta đang cần. Giai đoạn cuối cùng là tìm ra những phương tiện, để đáp ứng những nhu cầu ấy.

Những phương tiện có thể đã có sẵn trong bản thân và cuộc đời của chúng ta. Lúc bấy giờ chúng ta bắt tay vào làm, không hẹn rày hẹn mai, không mong cầu một ai làm thay làm thế chúng ta, cho dù đó là thần, phật, tiên, thánh có mọi quyền năng.

Trái lại, khi phương tiện ấy tùy thuộc vào quan hệ trao đổi giữa chúng ta và những người khác có mặt trong môi trường, chúng ta trình bày cho họ lời yêu cầu, một cách rõ ràng, đơn sơ, trực tiếp, không úp mở. Duy chúng ta mới hiểu rõ ý định của mình.

Nếu lời yêu cầu có một tầm mức hệ trọng, chúng ta xin họ phản hồi, nghĩa là nói lại cho chúng ta họ nghe gì, họ hiểu làm sao, đúng với ý định của chúng ta hay là họ đã xuyên tạc.

"Tôi đã trình bày lời yêu cầu của tôi. Vì tôi muốn được bạn hiểu một cách tường tận, tôi xin bạn vui lòng nói lại bạn đã hiểu thế nào ?"

Trường hợp họ hiểu sai hay là cắt xén và xuyên tạc, chúng ta bình tĩnh trình bày lại, không trách móc, tố cáo :

"Tôi xin lỗi đã phát biểu không rõ ràng, cho nên bạn đã không hiểu tôi, như ý tôi muốn. Vậy tôi xin phép trình bày lại".

Nếu vì tự ái hay một lý do khác, họ không muốn phản hồi :

"Tôi đâu phải là học sinh mẫu giáo  ngu ngơ, không hiểu gì cả ...".

Chúng ta cũng hãy bình tĩnh tôn trọng ý kiến của họ :

-"Bạn không bằng lòng về thái độ yêu cầu phản hồi của tôi. Nếu đúng như vậy, tôi xin lỗi về thái độ ấy. Tôi tôn trọng ý kiến của bạn."

Nói cách chung, mỗi lần chúng ta yêu cầu, có nghĩa là "xin" :

"Xin bạn làm ơn ...

Xin bạn vui lòng ...

Hãy ...".

Chúng ta cần có thái độ thanh thản chấp nhận và đón nhận lời từ chối của kẻ khác.

Trong một quan hệ thực sự đồng cảm, yêu cầu không thể bị đồng hóa với đòi hỏi, chờ đợi, tạo áp lực hay là cưỡng chế; đưa ra điều kiện.

Trong những quan hệ giáo dục, nếu người lớn, như cha mẹ, giáo viên, người lãnh đạo lạm dụng vị trí và quyền lực để đàn áp, cưỡng chế, trừng phạt ... họ nên ý thức một cách sáng suốt và chân thành rằng : họ đang gieo vãi hạt mầm bạo động trong lòng nhân loại hay là trên cánh đồng của quê hương. Vài chục năm sau, một Néron, một Hitler có thể châm lửa đốt cháy cả một thủ đô hay là xây lên những lò hơi ngạt, để tận diệt người đồng loại, đồng bào ...

Bạo động đang tràn ra đường, nhất là trên những đô thị tráng lệ và xa hoa, văn minh và tràn đầy tiện nghi vật chất. Dùng bạo động để giải quyết vấn đề bạo động, đó là một vòng luẩn quẫn và bế tắc đang có mặt ở khắp nơi : chúng ta chỉ sản xuất những lớp người bị động hay là phản loạn với cách hành xử nầy.

Duy con đường hiểu biết, tình thương và đồng cảm mới có thể hàn gắn những vết thương lở lói, những đau khổ tràn ngập. Bạo động chỉ là bộ mặt bên ngoài của vết thương khổ đau đang có mặt trong tâm hồn của mỗi người.

Trước khi đồng cảm với người khác trong môi trường, mỗi người hãy bắt đầu đồng cảm với chính mình. Lắng nghe mình một cách cẩn trọng. Khám phá nhu cầu của chính mình. Và tìm cách đáp ứng một cách hữu hiệu.

Bao lâu chưa băng bó vết thương khổ đau của lòng mình, làm sao tôi có thể "tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", nghĩa là băng bó vết thương trong lòng nhân loại ?

 

 

*

*          *

 

Nhiều người đang bi quan, chán nản, kiệt quệ với lý luận : Con gà mái đẻ ra trứng hay là cái trứng nở ra gà ? Cái gì trước, cái gì sau ? Tôi kiến dựng hạnh phúc cho mình trước khi mang hạnh phúc đến cho anh chị em ?

Sau một đời người, chàng thanh niên Augustinô, với bao nhiêu háo hức của tư duy đã trở thành một cụ già. Mắt đã mờ. Lưng đã mõi. Hai chân bắt đầu khấp khiểng. Hai tay run rẩy. Nhưng quả tim còn đập.

Cụ già ấy đang là một hiền nhân, một vị thánh. Nhớ lại tình thương của mẹ là bà Monica, Augustinô trối trăn lại cho những ai đang trăn trở về số phận của nhân loại :

"Ama et fac quod vis"

Hãy yêu thương rồi hãy làm những gì bạn muốn.

Yêu thương là câu trả lời cho mọi vấn đề, ở trước, ở sau, ở trên, ở dưới. Ở ngoài, ở trong. Nơi mình, nơi người.

Tình yêu thương không có to hay nhỏ. Cao thượng hay thấp hèn.

Hãy đốt lên một que diêm yêu thương. Nhân loại sẽ được chiếu sáng. Thay vì chờ đợi, đòi hỏi kẻ khác phải thay đổi, bạn hãy làm một con én. Một con én duy nhất đã tạo nên mùa xuân "ở đây và bây giờ", chừng nào nó biết yêu thương và hiểu biết.

Khi mang trong mình một quả tim như vậy, bạn cũng như tôi, chúng ta không còn khắc khoải, trầm cảm. Lăng xăng, vọng động. Tình yêu thương sẽ dạy cho bạn cần làm những gì. Làm nhưng không chờ đợi, mong cầu. Muốn nhưng không đòi hỏi, ép buộc, cưỡng chế, đặt điều kiện.

Bạn không có gì để sợ. Vô úy !

Yêu thương là động cơ thúc đẩy.

Hiểu biết là ánh sáng soi đường, chỉ lối.

Khi yêu thương, có hiểu biết hướng dẫn, theo lời của triết gia người Pháp Gabriel MARCEL, bạn đang nói với mình và những người chung sống với bạn :"Em không bao giờ chết. Em bất diệt !"

Hẳn thực, ai có thể giết chúng ta, vì chúng ta mang bản sắc bất diệt và bất tử ?

Trái lại, khi chúng ta sợ, chúng ta trở nên bạo động, bạo hành và tìm cách sát hại người anh chị em, người đồng bào, đồng loại. Khi sợ, chúng ta thấy kẻ thù ở khắp nơi, trên mặt mọi người. Nhưng kỳ thực, chỉ có kẻ thù ở giữa cõi lòng chúng ta. Trong đáy mắt của một tâm hồn đầy lo sợ.

 

 

Chương bốn

Lắng nghe với trăm lỗ tai

 

Chương ba vừa qua cho phép chúng ta ghi nhận những điểm quan trọng sau đây :

1.- Xúc động là một tiếng kêu trầm thống của nội tâm.

2.- Tiếng kêu ấy cần được lắng nghe, tìm hiểu, cẩn trọng và diễn tả.

3.- Khi xúc động được ý thức hóa như vậy, chúng ta sẽ rõ ràng về bản sắc làm người của mình : Tôi là ai ? Cùng đích của đời tôi, nhất là trong mọi quan hệ tiếp xúc, trao đổi, là gì ? Hiện tại tôi cần gì ? Để đáp ứng nhu cầu ấy, tôi làm những gì ?

4.- Ngược lại, khi xúc động bị dồn nén, che giấu, không được lắng nghe và coi trọng đúng tầm, chính bản sắc làm người của tôi bị tổn hại. Tôi không có đủ tự tin để nhận diện và đối diện bao nhiêu vấn đề có mặt trong cuộc đời. Một cách đặc biệt, khi tôi không có khả năng lắng nghe nhu cầu cơ bản của chính mình, làm sao tôi có thể lắng nghe, đồng cảm với người khác trong những gặp gỡ hằng ngày.

5.- Đành rằng mỗi xúc động chứa đựng một nhu cầu đặc biệt và độc đáo. Tuy nhiên, nền tảng của mọi nhu cầu, trong địa hạt xúc động và tình cảm là nhu cầu làm người, nhu cầu kết dệt những quan hệ hài hòa, hạnh phúc giữa người với người. Đó là nhu cầu "Thương yêu và được thương yêu".

Nói tóm lại, chương ba đã khảo sát những quan hệ giữa lối nhìn và xúc động.

Chương bốn nầy nêu lên vấn đề : trong quan hệ trao đổi hằng ngày, chúng ta làm những gì, để người khác trở thành người anh chị em đồng hành và chia sẻ.

 

*

*       *

Xúc động và quan hệ

Khi thiết lập và phát huy quan hệ tình cảm với một người, chúng ta đang khẳng định trong cùng một lúc ba lối nhìn :

Một : Người ấy với tôi có những điểm giống nhau. Họ là người có giá trị và quyền lợi ngang hàng tôi. Cho nên, thái độ tôi cần nuôi dưỡng trong mỗi lời nói và việc làm là cẩn trọng tính người của họ. Đồng thời, tôi tạo ra mọi điều kiện thuận lợi, cho phép hoặc kêu mời người ấy "thành người" với tôi.

Hai : Người ấy khác tôi, nhất là trong lối nhìn về thực tại, trong ý định ở dưới mỗi hành động và trong thể thức đóng góp và đảm nhiệm vai trò của mình, đối với những chương trình thực hiện có mặt trong môi trường.

Nhận chân được tính khác biệt ấy, tôi cần phát huy ba thái độ : tôn trọng, tìm hiểu hay là học hỏi, yêu cầu người ấy bổ túc và kiện toàn cho mình mỗi khi hợp tác, làm việc với nhau.

Ba : Người ấy và tôi cần nhau. Cả hai cùng liên đới đồng trách nhiệm trong những việc nhỏ cũng như trong những chương trình sống còn của nhân loại. Trên cùng một chuyến tàu làm người, không ai có quyền thấy mình chỉ là "một kẻ ăn cơm nguội nằm nhà ngoài", hay là "không mợ chợ cũng đông".

Người khác cũng như tôi, cả hai cần "THƯƠNG VÀ ĐƯỢC THƯƠNG" để có thể làm người.

Trong lăng kính ấy, tôi có khả năng ĐỒNG CẢM, khi nào tôi ý thức và cảm nhận được rằng : người ở trước mặt tôi đang cần lòng thương yêu của tôi.

Hẳn thực, trên bình diện bề mặt của tác phong, họ có thể bạo động, hận thù. Nhưng trong đáy sâu tâm hồn, những người ấy đang sợ. Có lẽ trong suốt cuộc đời cho đến giây phút nầy, họ chưa bao giờ có cơ hội cảm nghiệm một cách cụ thể thế nào là Thương yêu. Tôi là cơ may đầu tiên, nếu không phải là cuối cùng, để người ấy có thể chuyển hóa nỗi niềm lo sợ của mình.

Khi đồng cảm, tôi có mặt, lắng nghe, tìm hiểu, chia sẻ, nhìn nhận, tôn trọng. Tôi sống một cách tròn đầy giây phút hiện tại "ở đây và bây giờ".

Trong khuôn khổ hạn hẹp của chương nầy, tôi chỉ bàn đến những kỹ thuật như lắng nghe, đặt câu hỏi, phản hồi, nhìn nhận.

 

*

*          *

1.- Lắng nghe

Lắng nghe trong tinh thần đồng cảm là có mặt với người đang trình bày, diễn tả, phát biểu một ý kiến.

Nhiều khi chúng ta có mặt, nhưng "xa lòng".

Đương khi lắng nghe, chúng ta đã chuẩn bị cách đối đáp. Chúng ta tìm ra những thiếu sót, lên mặt mô phạm, tố cáo, khuyên bảo, giải thích, an ủi ... chúng ta muốn can thiệp, để thay đổi, cải hóa ...

Trong tinh thần đồng cảm trái lại, lắng nghe chỉ có một ý hướng: Tìm hiểu những gì người đối diện muốn trình bày trao đổi với chúng ta. Tìm hiểu như vậy là cố gắng đặt mình vào vị trí của người đang diễn tả. Hiểu họ như chính họ đang hiểu về mình. Theo cách nói của tâm lý đương đại, khi chúng ta tìm hiểu một người, chúng ta chọn làm của mình toàn bộ khung qui chiếu của họ, bao gồm :

- lối nhìn của họ về thực tại

- những ý định cá biệt, riêng tư, độc đáo

- những ước mong, nhu cầu của họ.

Điều khó khăn lớn lao, trong công việc lắng nghe là đón nhận xúc động và tình cảm của người đang nói, nhất là khi họ phê phán, tố cáo, qui chụp. Chính khi họ có thái độ tấn công, bạo động trong ngôn ngữ và hành vi, điệu bộ và nét mặt, giọng nói và liếc nhìn ... họ đang lo sợ. Bao lâu chúng ta không biết lắng nghe nỗi niềm lo sợ đang len lỏi, nằm vùng, ngụy trang ở khắp nơi, chúng ta chưa thể nào tìm cách bắc nối nhịp cầu đồng cảm, tạo cho họ an tâm và tin tưởng, để họ trao đổi và chia sẻ với chúng ta.

Nói tóm lại, khi họ khẳng định những dị điểm, chúng ta nêu ra những đồng điểm. Khi họ đặt trọng tâm vào tính khác biệt, chúng ta giúp họ thấy rõ họ đang được thương. Họ có thể cho, vì họ có rất nhiều vốn liếng quí hóa trong con người của họ.

Khi lắng nghe và diễn tả những quan hệ tương tức và liên đới như vừa được trình bày, điều cốt yếu là lòng trung thực. Chúng ta tin vào tính người đang có mặt trong họ. Và chúng ta động viên họ phát huy tình người trong cuộc sống. Chúng ta là cơ may, là yếu tố xúc tác, để họ làm người, thay vì thả mình trôi theo những phản ứng muông thú tự nhiên, bốc đồng, hoang dại, rừng rú.

Trung thực, được nói tới ở đây, vừa là nếp sống, vừa là lối nhìn. Vừa là thái độ cần tôi luyện. Vừa là kỹ năng khoa học cần đánh sáng trong mỗi quan hệ hằng ngày. Bằng nếp sống trung thực, chúng ta trình bày một sứ điệp: "tôi đang sống trọn vẹn tính người và tình người với bạn. Bạn hãy làm người với tôi". Lời nói bên ngoài và thái độ bên trong hòa đồng với nhau.

Lẽ đương nhiên, người đối diện có thể lạm dụng tình huống "không tự vệ, không đề phòng" ấy; để hành hung, cướp bóc, chiếm đoạt. Nhưng như tôi đã nhấn mạnh nhiều lần trước đây, trung thực còn mang tên là vô úy, không sợ chết. Đó là thái độ của Bồ Tát Quan Thế Âm, sẵn sàng chết, để cho người anh chị em của mình có thể thành người.

 

*

*        *

2.- Đặt câu hỏi

Lắng nghe, trong quan hệ đồng cảm và trung thực, không phải là "im lìm, bất động" như gỗ đá. Lắng nghe nhằm mục tiêu tìm hiểu những gì người đối diện đang trình bày, phát biểu. Thái độ của chúng ta được thu gọn trong câu nói : "Hãy giúp tôi. Tôi muốn hiểu bạn, như bạn hiểu chính mình".

Trong tinh thần và lăng kính ấy, chúng ta đặt ra những câu hỏi, để họ có thể ĐÀO SÂU và MỞ RỘNG hơn nữa tiến trình ý thức về mình.

Chẳng hạn, mỗi lần họ nói về thực tại khách quan bên ngoài, chúng ta giúp họ phân biệt một cách rốt ráo cái gì là sự kiện, cái gì là những giả thuyết, cái gì là những suy diễn cá biệt, cái gì là những dư luận đồn thổi, thiếu nền tảng dẫn chứng.

Trước đây, khi đề cập kỹ thuật trình bày xúc động, chúng ta đã nêu rõ bốn bước diễn tả: mô tả môi trường, gọi tên xúc động, phát hiện nhu cầu và trình bày yêu cầu. Bây giờ đây, khi người đối diện diễn tả nội tâm của mình, chúng ta cũng lần lượt nêu lên những câu hỏi, để họ đi qua bốn giai đoạn ấy, giống như chúng ta.

Một cách đặc biệt, khi nào họ sử dụng ngôn ngữ phê phán, tố cáo, đổ lỗi, gắn nhãn hiệu; với những câu hỏi, chúng ta yêu cầu họ bộc lộ những xúc động của mình.

-         Bạn vừa nói : bà B đi nói xấu về bạn ở khắp nơi. Khi bị nói xấu như vậy, bạn cảm thấy trong mình thế nào ?

-         Chị vừa nói vừa khóc ... theo tôi hiểu, chị có những điều buồn trong lòng, phải không ?

-         Ngoài những bực tức ấy, theo bà, bà còn có những xúc động nào khác, khi đứa con bà bỏ nhà ra đi ?

 

*

*        *

 

Những câu hỏi chúng ta đưa ra không nhằm mục tiêu điều tra, phỏng vấn, hạch xách... Chúng ta chỉ bắc nối những nhịp cầu đồng cảm. Chúng ta tạo điều kiện thuận lợi, để người đối diện lắng nghe mình, thấy mình, khám phá nhiều phương diện khác nhau trong bản sắc của mình đang còn ẩn núp trong bóng tối vô thức.

Cho nên, cách đặt câu hỏi đi theo những đường hướng cơ bản sau đây :

Thứ nhất, chúng ta dùng những câu hỏi mở : ai, ở đâu, khi nào ... nhất là khi người đối diện sử dụng những lối nói tổng quát, mơ hồ, đưa ra những dữ kiện không chính xác.

Thứ hai, chúng ta chú trọng vào bốn giai đoạn trong tiến trình ý thức hóa xúc động đã được nói tới trước đây.

Thứ ba, chúng ta xoáy lui xoáy tới ba loại nội dung có mặt trong mỗi câu chuyện trao đổi : Thực tại, bản sắc và xúc động. Tuy nhiên, nội dung thứ ba là trọng tâm cần được khảo sát một cách tường tận trong mỗi quan hệ tạo đồng cảm.

Nói tóm lại, mỗi câu hỏi là một lời kêu mời :

"Bạn là người quan trọng đối với tôi

Tôi muốn hiểu bạn.

Xin hãy giúp tôi !"

 

3.- Phản hồi

Phản hồi được sử dụng trong nhiều địa hạt khác nhau, với nhiều mục đích không đồng nhất với nhau. Trong lãnh vực quan  hệ tiếp xúc và trao đổi, nhất là trong những câu chuyện giữa hai người, khi tôi phản hồi, tôi muốn chia sẻ cho người đối diện những nội dung sau đây :

1.      Tôi đã lắng nghe, khi bạn nói.

2.      Tôi đã tìm hiểu những điều bạn trình bày.

3.      Tôi muốn hiểu bạn như chính bạn hiểu mình.

4.      Khi làm công việc lắng nghe tìm hiểu như vậy, tôi ý thức đến khoảng cách khó lấp đầy giữa điều tôi muốn và những thành tựu thực sự của tôi.

5.      Cho nên, vừa nghe, tôi vừa nói lại cho bạn điều tôi ghi nhận. Khi làm công việc phản hồi như vậy, tôi nhắm hai mục tiêu chủ yếu :

-          Một là tôi đã lắng nghe bạn, với tất cả con người của tôi.

-                                 Hai là tôi yêu cầu bạn điều chỉnh những sai lệch có thể xảy ra, khi tôi tìm hiểu bạn.

Trong cách làm cụ thể, tùy trường hợp, tùy mức độ quan trọng của câu chuyện, tùy mức độ thiết thân giữa hai người, hay là tùy thói quen đón nhận của người nghe, chúng ta đi từ những lớp bề mặt, rồi dần dần đi vào nội dung thâm sâu, phát hiện những xúc động, những nhu cầu.

-         "Tôi đã lắng nghe, bạn đã nói rằng, ông A đang ghét bạn. Có phải đúng vậy không ?

-         "Qua lời bạn nói, ông A đang có những ý định nói xấu bạn.

Ban đầu, chúng ta phản ảnh thực tại do người bạn trình bày. Sau đó, chúng ta từ từ đi vào lãnh vực bản sắc. Trong một quan hệ đồng cảm, chúng ta xoáy tới xoáy lui để mang ra ánh sáng những xúc động còn bị ngụy trang ở bên dưới những lời tố cáo, trách móc, đổ lỗi, kết án ...

Đối với những người quá nhạy cảm, còn xa lạ với cách phản hồi, chúng ta hãy báo trước hay là xin phép giải thích ý định của chúng ta.

"Trước khi bắt đầu câu chuyện, tôi xin phép nói trước cho bạn hiểu cách trao đổi của tôi. Trong khi lắng nghe bạn, một đôi khi tôi cần nói lại lời của bạn, trình bày lại ý kiến của bạn. Tôi hiểu làm sao, tôi xin nói ra. Nếu có điều thiếu sót hay sai lệch, xin bạn vui lòng bổ túc, điều chỉnh ...".

Có người tỏ ra bực bội, bất bình, muốn đi nhanh, không muốn "mất thì giờ". Chúng ta hãy nhìn nhận, nghĩa là coi trọng phản ứng xúc động của họ :

-"Bạn tỏ ra bực bội, có những dấu hiệu bất bình, vì tôi nói lại, tôi muốn phản ảnh. Theo lời bạn phát biểu, bạn sợ mất thời giờ với cách làm ấy. Có đúng như vậy không ?

Theo ý bạn, nên làm thế nào để tỏ ra chúng ta đã hiểu rõ ý kiến của người khác, khi họ trình bày vấn đề của mình ?"

 

*

*        *

 

4.- Nhìn nhận, đón nhận và chấp nhận

Khi một người trình bày một vấn đề hay là phát biểu một ý kiến, người ấy đang nêu lên hai tầng lớp ý nghĩa :

Tầng thứ nhất : họ đề cập một nội dung. Đó là thực tại đang được họ khảo sát.

Tầng thứ hai :   họ đang nói về con người của họ, bao gồm bản sắc và xúc động.

Thông thường trong những trao đổi, chúng ta chỉ quan tâm tầng lớp nội dung, bằng cách tán đồng hay là đả kích quan điểm của người phát biểu. Ít khi chúng ta chú trọng vào tầng lớp bản sắc và xúc động. Không ai trình bày một ý kiến hay là đề xuất một lập trường mà họ không TIN vào tầm quan trọng của lối nhìn được đưa ra. Cũng vậy, khi họ tố cáo, đổ lỗi, họ đang nói về chính mình họ. Họ đang trình bày một nhu cầu cơ bản trong cuộc đời của họ.

Chính vì lý do nầy, bao lâu chúng ta chưa phát hiện tần số bản sắc và nhu cầu của người đang diễn tả, bộc lộ, chúng ta chưa lắng nghe, tìm hiểu và đồng cảm.

Nhìn nhận ai là coi trọng con người của họ.

Nhìn nhận ai là đánh giá cao khía cạnh tích cực, xây dựng trong những điều họ nói và trao đổi, cho dù đó đang là những lời mạt sát, chưởi bới. Bên ngoài, họ đang la ó, nhưng thực sự ở bên trong, ở bên dưới, ở đằng sau họ đang khẩn khoản :"Tôi thiếu tình thương. Tôi cần tình thương".

Không có khả năng lắng nghe tiếng kêu trầm thống nầy, ở bên dưới mọi tiếng súng ống, bom đạn, hận thù và chiến tranh, chúng ta làm sao có thể tìm ra con đường Hóa giải. Không có dòng máu yêu thương và tha thứ sẵn sàng đổ ra một cách can trường không tính toán, không so đo, không sợ, làm sao nhân loại giải trừ được những dòng máu bạo động và hận thù ở trong tâm hồn của mình ?

Trở lại với vấn đề nhìn nhận, trong những quan hệ đồng cảm, chúng ta thực thi những động tác cụ thể nào ?

Về mặt tiêu cực, nhìn nhận không phải là đồng ý, không phải là đơn phương áp đặt những cách giải quyết vấn đề một cách lý thuyết và lý tưởng.

Về mặt tích cực, chúng ta trả lời một cách cụ thể và trung thực cho ba câu hỏi mà người phát biểu đang đặt ra bằng cách nầy hoặc cách khác :

1.- Tôi có quyền diễn tả những nhu cầu cơ bản của tôi không ?

2.- Bạn có lắng nghe và tìm hiểu những nhu cầu ấy không ?

3.- Tôi còn là người có giá trị trong quả tim của bạn không, sau khi đặt lên bàn, trước đôi mắt của bạn, những tâm sự ngỗn ngang của lòng tôi ?

Câu trả lời của chúng ta vừa tích cực vừa trung thực, khi chúng ta lắng nghe và phản hồi một cách đứng đắùn tình cảm, xúc động cũng như nhu cầu của họ.

ĐỒNG CẢM với tha nhân có nghĩa là đón nhận nhu cầu thâm sâu của họ.

Thế nhưng, đồng cảm như vậy, không bao giờ là điểm tới nơi. Đó là một chuyến hành trình kéo dài suốt cuộc sống làm người và thành người của chúng ta. Nó đòi hỏi ở chúng ta một thái độ tỉnh thức và một lòng khao khát học hỏi, không ngừng tôi luyện bản thân mình.

 

*

*         *

Vì lý do sư phạm, tôi đã phân biệt một cách rành mạch bốn động tác : lắng nghe, đặt câu hỏi, phản hồi và nhìn nhận. Trong thực tế cụ thể, tất cả đều giao thoa chằng chịt, chồng chéo lên nhau. Chúng ta vừa phản hồi vừa đặt câu hỏi, để đi tới. Nhằm nhìn nhận, lắm khi chúng ta chỉ cần lắng nghe, thinh lặng, nhìn vào đôi mắt. Khi có mặt thực sự với ai, chúng ta đã cho họ thời gian và không gian vượt ra ngoài mọi biên cương bờ cõi của ngôn ngữ và điều kiện làm người. Khi chúng ta làm và sống được bấy nhiêu điều, người khác - đang khác  biệt chúng ta trên nhiều bình diện - theo nền văn hóa Việt Nam, người ấy đang trở nên một VỊ THẦN, trong lối nhìn và quả tim của chúng ta. Người ấy trở thành TRỜI ĐẤT, NÚI SÔNG bất diệt. Như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp theo, người ấy vừa là cha mẹ, vừa là người con, vừa là người bạn đồng hành ngang hàng với chúng ta. Họ ở trên tôi, dưới tôi và thậm chí trong tâm hồn và xương thịt của tôi.

 

 

 

Chương Năm

Học làm người trong

từng giây phút của cuộc sống.

( Một trăm đôi tay và đôi chân )

 

Học có nghĩa là gì ? Nếu chúng ta khởi đầu với ba câu hỏi :"Ai có lý ? Ai đúng ai sai ? Ai có lỗi ?" Việc học của chúng ta bị bế tắc ngay lập tức.

Những câu hỏi như vậy đang ám ảnh và đầu độc con người ở khắp nơi, trên mặt địa cầu nầy, từ thời nguyên thủy cho đến hôm nay, trong mỗi câu chuyện hằng ngày. Cũng vì những câu hỏi ấy, chúng ta đang loại trừ tố cáo, phê phán và kết án lẫn nhau, trên bình diện tôn giáo cũng như trong địa hạt chính trị, xã hội, gia đình ...

Trong lòng Đất Nước, Lạc Long Quân đã đề xuất một phương hướng trả lời hữu hiệu hơn:  Chúng ta khác nhau như nước và non, như núi và sông. Nhờ vậy, chúng ta mới có khả năng làm nên Núi Sông và Nước Non. Câu nói thật giản đơn, nhưng hàm chứa ở bên trong cả một chương trình "học  làm người" sâu sắc vô tận. Đó là một kế sách "DỰNG NƯỚC và GIỮ NƯỚC" !

 

*

*        *

 

1.- Chân lý xuất hiện khi chúng ta đồng hành chia sẻ. Thay vì bắt đầu với câu hỏi hoàn toàn lý thuyết :"ai có chân lý ? Ai nắm sự thật trong tay ?", chúng ta hãy xuất phát từ một thực tế hiển nhiên, tất yếu, thường hằng: "chúng ta khác nhau".

Chúng ta làm gì với sự khác biệt ấy, để chân lý có mặt với chúng ta, giữa chúng ta ?

Trong tinh thần "liên đới, đồng trách nhiệm" chân lý chỉ xuất hiện, khi chúng ta đồng hành và chia sẻ. Khi chúng ta cùng nhau vun trồng, tưới tẩm những quan hệ hài hòa, bổ túc và kiện toàn cho nhau. Con đường hiểu biết đồng hóa với con đường yêu thương.

Theo lối nhìn của Nguyễn Trãi, chân lý của quê hương chỉ xuất hiện khi chúng ta "nhất tâm" : Trăm người như một, một người như trăm. Chân lý ấy không phải là sự thật viễn mơ, những khẩu hiệu về "nhân nghĩa đại đồng, tình anh em bốn biển một nhà", ở ÇÀu môi miệng của Quân Minh xâm lược. Chân lý của Quê hương mang nhiều tên tuổi rất cụ thể:  no cơm ấm áo. Một mái nhà để trở về lúc chiều tối. Một mảnh chiếu để qua đêm. Một công việc có đồng lương cho phép tôi sống một cách lương thiện và chứng minh cho tôi : tôi là một thành viên hữu ích, có giá trị trong lòng quê hương và nhân loại.

-         Chỗ nào con người chưa sống tư cách làm người của mình,

-         Chỗ nào con người chưa được cư xử và đãi ngộ một cách tương ứng với giá trị làm người của mình,

-         Chỗ nào người nghèo đói chưa được tôn trọng và nâng đỡ, để có thể sống một cách xứng đáng "tối thiểu" cuộc sống làm người,

-         Chỗ nào, còn có người bốc lột, đàn áp con người,

-         Chỗ nào hòa bình chưa có mặt trong tâm tư và hành động của chúng ta, ... chỗ ấy chân lý hoặc sự thật dù được trình bày dưới bất kỳ hình thức ngôn ngữ nào, đều là tuyên truyền, láo khoét, bịp bợm, công cụ của thực dân xâm lược hay là của giai cấp thống trị nhằm phục vụ một thiểu số ăn trên ngồi trước, nắm mọi quyŠn lực trong tay.

2.- Chân lý là một lối nhìn, một nhu cầu, trước khi được diễn tả thành ngôn ngữ.

Trước đây, trong chương Ba, tôi đã phân biệt ba cấu trúc của nội tâm : Cửa vào, Biến chế và Cửa ra. Biến chế là cấu trúc cốt lõi của nội tâm bao gồm Lối Nhìn và Xúc Động. Cửa vào chỉ cung cấp cho tôi những dữ kiện hạn chế về thực tại bên ngoài. Đó không phải là toàn diện thực tại khách quan. Cửa ra, trái lại, có phần vụ diễn tả những gì đang có mặt trong nội tâm. Tuy nhiên, con người là con vật "biết nói láo". Tôi có thể che giấu, ngụy trang những gì đang có mặt thực sự trong cõi lòng. Thêm vào đó, trong thân phận và điều kiện làm người, khi tôi nói, tôi không ý thức một trăm phần trăm về những điều tôi phát biểu. Vô thức len lỏi trong tất cả. Tôi không có ý làm tổn thương bạn. Nhưng có thể bạn đang đau buồn, bất mãn khi đón nhận ý kiến của tôi, ngôn ngữ của tôi.

Trong lăng kính ấy, khi nói đến sự thật, chúng ta nói đến Lối Nhìn và tiếp theo lối nhìn là Nhu Cầu của Xúc Động.

Khi nói đến sự thật, giữa lời nói và lối nhìn bên trong nội tâm của người ấy, không có những hiện tượng tương phản hay là mâu thuẫn. Khi người ấy bày tỏ nhu cầu của mình, người ấy "Cần" thực sự, chứ không bịa đặt, giả vờ hay là tham lam vô đáy.

Chính vì lý do đó, khi tin vào ai, tôi tin rằng sự thật ở trong họ. Đó là lối nhìn và nhu cầu của họ.

Trái lại, khi tôi không tin ai, và nhất là khi phê phán, tố cáo họ là người nói dối, tôi đang tự đặt mình vào mối quan hệ xung đột. Phản ứng của họ sẽ là tự vệ, bênh vực mình hay là tấn công trở lại. Đó là đầu dây mối nhợ của mọi hành vi bạo động, hận thù, chiến tranh và xung đột.

Hiểu được những qui luật tâm lý ấy đang có mặt trong mọi quan hệ trao đổi và tiếp xúc, chúng ta biết dừng lại, không góp phần vào công việc bồi đắp con đường bạo động. Làm như vậy, về mặt tích cực, chúng ta là những tay thợ lành nghề đang kiến dựng những chiếc cầu đồng cảm và hòa bình, trên những nẻo đường xuôi ngược của Nhân Loại.

 

3.- Mỗi sự thật làm bằng ba sự thật : Sự thật của tôi, sự thật của bạn, sự thật của chúng ta.

Xuyên qua những nhận định được trình bày trong đoạn hai trên đây, khi hai người thiết lập một quan hệ tiếp xúc và trao đổi, ba sự thật sẽ từ từ xuất hiện trong câu chuyện. Trong câu chuyện của tôi, tôi trình bày sự thật của riêng tôi. Người bạn cũng có một sự thật trong lối nhìn của mình.

Thay vì khai trừ, loại thải nhau trong những quan hệ nhị nguyên hơn thua, đúng sai.... hai chân lý khác nhau và phiến diện tìm cách bổ túc và kiện toàn nhau để lập thành một chân lý toàn diện, thứ ba : Đó là chân lý của chúng ta. Chân lý nầy chỉ xuất hiện khi tôi có điều kiện khẳng định mình và người bạn cũng có điều kiện diễn tả chân lý của mình, giống như tôi. Trái lại, khi một trong hai người, tự cho mình có mọi quyền năng và nắm độc quyền về chân lý toàn bích, toàn diện, cho dù thuộc địa hạt nào, người ấy đang là chướng ngại cho mọi công cuộc tìm kiếm chân lý, trong lòng Nhân loại.

Bất kể chúng ta là ai, ở vị trí nào, trong lãnh vực nào, chúng ta đều là những người trên đường tìm kiếm chân lý, chúng ta phải học, bằng cách đón nhận, tôn trọng chân lý của người anh chị em đang cùng chúng ta làm người : Càng đón nhận chân lý của họ, họ càng tìm kiếm chân lý. Càng coi trọng tư cách làm người của họ, họ càng vươn lên, phát huy mọi chiều kích làm người.

4.- Thế nào là học ? Đâu là những động tác cụ thể cần thực thi mỗi ngày ?

Khi chúng ta coi trọng sự khác biệt của người anh chị em đang chung sống và làm việc với chúng ta, chính sự khác biệt ấy là đối tượng học hỏi, là đề tài nghiên cứu của chúng ta suốt cuộc sống làm người. Cách chúng ta độ chừng không hơn một thế kỷ, trẻ em chậm trí, chậm phát triển còn được gọi là khuyết tật tâm thần, được đồng hóa với những bệnh nhân tâm trí. Nhờ sáng kiến của một vài nhà tiên phong, những trẻ em ấy dần dần được xem là trẻ em như bao nhiêu trẻ em khác, có quyền đi học. Có quyền được giáo dục, được học làm người. Từ đó, ngành sư phạm đặc biệt đã khám phá "một sự thật mới" : Các em ấy vẫn có khả năng học và phát triển như mọi em khác. Nhưng cách học của các em có những nét riêng biệt, đặc thù, độc đáo cần được nghiên cứu, phát hiện.

Điều đáng chúng ta lưu tâm là khi ngành sư phạm đặc biệt biết tôn trọng sự khác biệt của những trẻ em khuyết tật, thì ngành sư phạm "bình thường", cổ điển không còn vòng vo, luẩn quẩn trong những con đường mòn đã có sẵn từ bao nhiêu đời. Dạy không phải là từ trên, từ ngoài "rót" xuống, "rót" vào cho đầy. Khi một học sinh thất bại, không tiến bộ, chưa hẳn "vì nó dốt, nó làm biếng, vì dòng họ nó như vậy". Ngày hôm nay, khi một vấn đề xảy đến cho một học sinh, chính người giáo viên phải bắt đầu đặt mình thành vấn đề : tôi đã dạy làm sao ? Lối nhìn của tôi về em ấy đã tạo nên những ảnh hưởng gì ? Quan hệ tình cảm đóng vai trò như thế nào ? Ngôn ngữ tôi sử dụng có thích hợp với "kế hoạch học tập" của học sinh ấy không ? Không "nhìn mình" một cách thành tâm và khiêm cung, chúng ta tự tôn phong mình thành "giai cấp thống trị", tự cho mình "có mọi chân lý". Và phía bên kia, phía "hạ tầng" dưới kia có bổn phận "dựa cột mà nghe" hay là "câm miệng lại như hến" mà vâng lời, tuân hành ... một cách ngoan đạo. Tệ hại hơn nữa là chúng ta dùng roi đòn để giáo dục.

5.- Trên bình diện khoa học kỹ thuật, học là thường xuyên đặt ra cho mình ba câu hỏi, và tìm cách trả lời một cách "liêm chính", không thỏa hiệp, không đồng lõa. Không lượn lẹo, đút lót để có thể dễ dàng bước qua cửa khẩu với những hành lý "quốc cấm".

Câu hỏi thứ nhất : Tôi bắt đầu tiến trình tư duy với những sự kiện nào ? Sự kiện tôi đề xuất có phải thực sự là sự kiện hay là tiếng đồn thổi ? Phải chăng tôi chỉ lặp lại một tin tưởng được nhai đi nhai lại, được cha truyền con nối từ bao nhiêu đời, và chưa bao giờ được kiểm chứng ?

Câu hỏi thứ hai : Giả thuyết tôi muốn chứng minh là gì ? Có một giả thuyết thứ hai nào cần khảo sát không ? Ở vào địa vị của tôi, người thương tôi sẽ có giả thuyết nào ? Người ghét tôi sẽ đề xuất gì ? Người quan sát hoàn toàn khách quan, không có quan hệ tình cảm với tôi sẽ nói gì ?

Câu hỏi thứ ba : Kết luận có khả năng điều hướng hành động, gồm có những trọng điểm nào ? Những lợi ích ngắn và dài hạn là gì? Kết luận của tôi có gây thiệt hại cho người nào không ? Nếu có, tôi đền bù làm sao, với tư cách làm người và lòng tôn trọng con người của tôi?

 

*

*        *

 

Sau khi tôi trình bày , người đối diện cũng có một không gian tình cảm và một thời gian cần thiết để diễn tả lối nhìn và nhu cầu của mình, tôi tạo mọi điều kiện thuận lợi với phương pháp phản hồi và đặt câu hỏi, để mọi người có mặt có thể đi qua ba nấc thang trong tiến trình tư duy của mình ; sự kiện, giả thuyết và kết luận :

-         Bạn dựa vào sự kiện nào để khẳng định ý kiến ?

-         Bạn đưa ra giả thuyết nào, khi kể lại sự cố ấy ?

-         Bạn rút ra kết luận nào để hành động?

 

*

*         *

Sau khi mọi thành viên diễn tả "chân lý cá nhân" của mình, tập thể đi qua giai đoạn tổng hợp "chúng ta". Đồng điểm cơ bản và dị điểm chủ yếu giữa chúng ta là gì ? Chúng ta làm gì với những khác biệt hiện tại ?

Nói đến tập thể là nói đến một cộng đồng bao gồm những thành viên bình đẳng về giá trị làm người. Tuy nhiên, trong mỗi tổ chức, luôn luôn có những trách nhiệm khác nhau. Có những quyết định và chọn lựa cuối cùng. Những quyết định nầy không bao giờ có tính vĩnh viễn. Chúng ta có bổn phận đổi mới bổ túc và kiện toàn, vì đó là điều kiện và thân phận làm người. Tôi nhận làm của mình lối nhìn của người Latinh ; Humanitas semper eadem et semper reformanda est. Nhân loại vừa đồng nhất từ nguyên thủy cho tới ngày nay; nhưng đồng thời cũng luôn luôn đổi mới từng ngày. Phủ nhận một trong hai nhu cầu nầy của nhân loại, chúng ta đang phản bội chính bản sắc làm người của chúng ta.

 

*

*        *

 

6.- Trong địa hạt giáo dục, để giúp trẻ em vừa có một lối nhìn tự lập, độc lập, vừa có khả năng lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhiều người khác trong môi trường, chúng ta - người làm cha mẹ cũng như giáo viên ở trường học - hãy biết lắng nghe trẻ em, kêu mời, khuyến khích cho phép trẻ em bình tỉnh và lễ phép nói ra ý kiến của mình. Sau đó, chúng ta tạo điều kiện cho các em có thói quen đi tham khảo kẻ khác, người quen, người lạ, kẻ dưới người trên :

-         "Con hãy đi hỏi bạn con, mẹ con ... Bạn con nói gì ? Cô giáo nói gì ? ...

-         "Sau khi hỏi ý kiến như vậy, con thấy việc con đánh em con đúng hay sai, nên làm hay nên tránh ...

-         "Bây giờ con phải làm gì ?

Vào giai đoạn nầy với tư cách là người có trách nhiệm cuối cùng, chúng ta mới đưa ra lối nhìn phải - trái của mình. Không được soi sáng và hướng dẫn ở giai đoạn quyết định nầy, trẻ em sẽ thiếu kỹ luật, nghĩa là không có thứ tự và cơ cấu tổ chức trong nội tâm của mình. Đàng khác, nếu chúng ta đốt giai đoạn, đề xuất ý kiến quá sớm, không tôn trọng tiến trình đi lên từng bước, chúng ta sẽ áp đặt một cách đơn phương, độc tài từ ngoài. Con cái "bị" giáo dục như vậy, sẽ lớn lên và chỉ có hai con đường để chọn lựa : bị động, thiếu sáng kiến, thiếu bản lãnh, hay là phản động, chối từ tất cả, một cách có hệ thống : vì kẻ khác nói trắng cho nên tôi phải nói đen. Đó là loại người chỉ biết phản ứng, thay vì có khả năng đáp ứng, sáng tạo, quyết định, chọn lựa, lắng nghe.

Thêm vào đó, nếu con người bị đe dọa, cưỡng chế, đàn áp, trừng phạt để thay đổi, họ sẽ không bao giờ thay đổi lối nhìn và nhu cầu của mình. Thay vì đào tạo, giáo dục những con người tự do, chúng ta chỉ chế tạo hàng loạt thế hệ nô lệ, công cụ, giả tạo và giả dối. Mọi đổi mới thực sự, trái lại, phát xuất từ bên trong nội tâm. Một trẻ em chỉ học, chừng nào nội dung học tập vừa thuộc thực tế của nó, để nó có thể sử dụng; vừa thuộc vui thích, hứng thú để nó hội nhập, nghĩa là chuyển biến bài học thành bản sắc hay là nhu cầu, động cơ thúc đẩy từ bên trong.

 

7.- Ba nội dung

Học trong tinh thần và chiều hướng vừa được trình bày bao gồm ba nội dung :

Thứ nhất, tôi học làm cha mẹ để sáng soi, hướng dẫn và nâng đỡ kẻ khác trên đường đời.

Thứ hai, tôi học làm bạn đồng hành, chia sẻ. Một cây làm chẳng nên non, ba cây họp lại thành hòn núi cao. Với điều kiện nầy, chúng ta mới có khả năng khẳng định "bàn tay ta làm nên tất cả. Với sức người, sỏi cũng thành cơm".

Thứ ba, tôi học làm một đứa con hạnh phúc trong lòng Quê hương. Tôi vừa biết cho vừa biết nhận. Vừa được thương yêu đùm bọc, nuôi nấng; vừa có khả năng nuôi lại cha mẹ và những người khác : bằng liếc nhìn, tiếng nói bi bô, những nụ hôn nồng thắm, những tâm sự thỏ thẻ dịu ngọt. Nói tóm lại, khi hạnh phúc, tự nhiên tôi đồng cảm. Khi biết đồng cảm, tự nhiên tôi hạnh phúc.

Trái lại, khi nào tôi đàn áp kẻ khác, sống xé lẻ hay là bị khổ đau xoi mòn, ô nhiễm tôi đang gieo vãi những hạt mầm bạo động trong bản thân tôi và trong lòng nhân loại.

Lúc bấy giờ, thay vì làm cha mẹ kỹ cương và từ tâm, có khả năng soi sáng và nâng đỡ, tôi chỉ có tác phong cưỡng chế, trừng phạt hay là buông xuôi, cho phép tất cả ... Với cách làm nầy, chúng ta đang sản chế trong lòng nhân loại những lớp người hoặc bị động, hoặc làm ông trời con chỉ biết hành hạ, đàn áp kẻ khác. Báo chí, truyền thanh, truyền hình đang nói đến những hiện tượng nầy mỗi ngày, nhất là trên các đô thị đông dân cư và đại công nghiệp. Những hiện tượng ấy cũng đang có mặt trong cõi lòng của chúng ta !

*

*        *

Trở lại với bài học của Lạc Long Quân về sự khác biệt giữa chúng ta, chúng ta đừng quên vế thứ hai :

"Khi có việc cần, hãy gọi nhau về".

Chúng ta khác nhau như Rồng và Tiên, như Trời và Bể. Nhờ khác nhau, chúng ta có khả năng bổ túc kiện toàn cho nhau. "Hãy gọi nhau về", để cùng nhau trở thành Bồ Tát : có trăm cánh tay để làm, có trăm đôi chân để đi đến với từng người anh chị em đồng bào.

Cho đến bao giờ, người Việt Nam mới hội nhập và nhuần nhuyễn bài học làm người ấy ? Phải chăng đó là chiếc nõ thần bão quốc mà chúng ta đã lãng quên trong đáy sâu u tối của tâm hồn, từ bao nhiêu đời ? Ai có khả năng lặn sâu xuống đó, tìm lại gia bảo và trả lại cho anh chị em đồng bào ? Người ấy không là ai khác, ngoài Em và Tôi. Tất cả chúng ta là những vị thần Kim Qui đang thành và sẽ thành trong lòng Quê hương và Đất Nước.

Chúng ta hãy "gọi nhau về", để cùng nhau tìm cách tận diệt "ngư tinh, hồ tinh và mộc tinh" trong lòng Quê hương, Đất Nước. Ngư tinh là những của ăn tinh thần bị đầu độc, ô nhiễm ... Hồ tinh là những hang động u tối, tanh hôi trong cõi lòng của mỗi người. Mộc tinh là những loại cây văn hóa mất gốc, không còn phục vụ và tôn trọng con người.

Không gọi nhau về để hóa giải ba loại vấn đề ấy, chúng ta sẽ trối lại cho con cháu một gia tài đổ nát và tang thương. Ngư tinh, Hồ tinh và Mộc tinh sẽ biến con cháu Rồng Tiên thành tinh yêu ma quái. Nước non sẽ đẻ ra những thế hệ "Sơn tinh và Thủy tinh" suốt đời "làm gà một nhà bôi mặt đá nhau".

 

Chương Sáu

Quan hệ hài hòa, đồng cảm

( Một trăm quả tim )

 

Trong chương nầy tôi muốn thu tóm hoặc tổng lược tất cả những điều chúng ta đã cùng nhau khảo sát, khi bàn về quan hệ đồng cảm và hài hòa giữa người với người. Đồng cảm là viên đá tảng để kiến dựng an bình nội tâm và hòa bình thế giới. Khi chúng ta không biết sống đồng cảm với người khác, bắt đầu từ vợ chồng, con cái, anh chị em trong gia đình, làm sao chúng ta có thể kiến dựng một quê hương ấm no, hạnh phúc ? Khi người anh chị em đồng hương, đồng bào chưa được tôn trọng một cách nghiêm minh, và đãi ngộ một cách xứng đáng với phẩm giá làm người, hô hào những nghĩa vụ quốc tế, tình anh em bốn biển một nhà ... chỉ là trò hề bịp bợm, láo khoét !

1.- Bốn động tác cơ bản

Để đồng cảm không bị đồng hóa với một quan niệm trừu tượng, viễn mơ, chúng ta cần thực thi trong cuộc sống hằng ngày những động tác cụ thể sau đây:

Động tác một : Chủ động kiến dựng trong nội tâm một lối nhìn tích cực về mình và về người khác trong mỗi quan hệ tiếp xúc và trao đổi hằng ngay :

- Lối nhìn về tôi : Tôi là chủ thể, là tác giả. Chính tôi sáng tạo cuộc đời của mình, lúc hăng say hứng khởi cũng như lúc chán nản và thất vọng. Tôi không bao giờ làm nạn nhân cho một ai, nếu chính tôi không quyết định, chọn lựa dấn bước vào con đường ấy.

- Lối nhìn về người khác có mặt với tôi trong cuộc đời. Dù ở trong hoàn cảnh nào, dù với bất cứ hành vi sai trái, hỗn loạn đến đâu, họ vẫn là con người có phẩm giá như tôi, cần được tôi tôn trọng, yêu thương, nâng đỡ, hướng dẫn.

- Mục đích tối hậu trong mọi quan hệ trao đổi giữa người với người, không phải là phân biệt minh thị ai hơn-ai thua, ai thắng- ai bại, ai tốt-ai xấu. Chúng ta có mặt với nhau để sinh thành, tác tạo cho nhau, giúp nhau "thành người". Yêu thương và hiểu biết là con đường đi của chúng ta. Khi vui có nhau. Khi buồn nâng đỡ nhau. Khi thành cũng như lúc bại, chúng ta tất cả đều góp phần năng động của mình, tùy theo khả năng và vị trí của mỗi người, trong cùng một cơ cấu tổ chức sinh hoạt thuộc đời sống "làm người".

Động tác hai : Khi hai người bắt đầu chung sống, trao đổi hoạt động, hiện tượng "bá nhân, bá tánh", hay là trăm người trăm ý kiến khác nhau sẽ xuất hiện. Đối diện với sự khác biệt tất yếu ấy, thay vì loại thải, khai trừ nhau, chúng ta cần thực thi những động tác thường nhật như :

- Tôn trọng sự khác biệt, không tìm cách thay đổi, cưỡng bức, đàn áp,

- Lắng nghe và có mặt,

- Tìm hiểu người đối diện, nhận làm của mình khung qui chiếu của họ bao gồm lối nhìn, ý định, nhu cầu và sở thích riêng tư, độc đáo.

- Nhìn nhận, nghĩa là coi trọng, đánh giá một cách tích cực những quan điểm cơ bản, những nét đặc thù thuộc bản sắc của họ.

Động tác thứ ba : Sau khi tìm hiểu nét khác biệt độc đáo của người đối diện, tôi không tìm cách thanh trừng, đàn áp, hủy diệt. Trái lại, tôi tạo điều kiện thuận lợi, tốt hảo, tùy theo khả năng hiện hữu của mình, để người anh chị em có thể khẳng định bản sắc của mình và thỏa mãn mọi nhu cầu xúc động chính đáng. Đồng thời, tôi cũng CẦN sự nâng đỡ của họ, để có thể thực hiện những nhu cầu thuộc thân phận và điều kiện làm người của mình.

Nói tóm lại, sở dĩ tôi có khả năng làm người, bởi vì tôi đang có những quan hệ với người khác. Họ đang làm người "với tôi, cho tôi, nhờ tôi".

Động tác bốn : Trong quan hệ trao đổi qua lại giữa người và tôi, tôi là nguyên nhân, tôi có chủ quyền trên bản thân và cuộc đời của tôi. Không làm nạn nhân cho ai, tôi cũng không thể coi ai khác là công cụ, do tôi chỉ đạo, lèo lái, kiểm soát. Thay vào đó, tôi có trách nhiệm, đóng góp phần mình, để kẻ khác cũng có điều kiện thăng tiến bản thân và phát huy mọi chiều kích làm người.

Giữa tôi và người không có quan hệ lệ thuộc. Trái lại cả hai là thành viên toàn phần trực thuộc một cộng đồng, một cơ cấu tổ chức. Cho nên, tôi có trách nhiệm về người anh chị em đang có mặt và chung sống với tôi trong lòng quê hương và trên mọi nẻo đường ngược xuôi của nhân loại. Bao lâu chưa có ý thức liên đới, đồng trách nhiệm, chúng ta chưa đảm nhận vai trò làm người của mình một cách thực sự và trọn vẹn.

 

*

*        *

 

2.- Quan hệ hài hòa : bổ túc và kiện toàn

 

Tác giả J. GRAY trong hầu hết mọi tác phẩm của mình đã áp dụng bốn phương hướng hoạt động trên đây, khi nói đến quan hệ nam nữ, vợ chồng. Thể theo lối nói hình tượng của tác giả nầy, người Nam có sinh quán ở trên sao Hỏa Tinh. Quê hương thứ nhất của người Nữ, trái lại, là sao Kim Tinh. Và hai người đã gặp nhau, yêu nhau và cùng nhau lập gia cư trên mặt Địa cầu nầy.

Dù đã yêu nhau, hai người Nam và Nữ vẫn giữ nguyên bản sắc gốc gác với bao nhiêu nhu cầu cá biệt và độc đáo của mình. Không khám phá và nhìn nhận những nét khác biệt của nhau, để bổ túc và kiện toàn nhau, tình yêu lúc bấy giờ không còn là một cuộc gặp gỡ, "gọi nhau về", để băng bó vết thương lòng cho nhau :

"Anh gọi Em về,

Khi Anh lung lạc, thiếu lòng tự tin.

Em gọi Anh về,

Vì Em là hoa, cần được ngắm nhìn.

Anh gọi Em về,

Giữa cuộc đời, Anh bơ vơ lạc lõng.

Em gọi Anh về,

Em ước mơ được lắng nghe trân trọng ..."

Thay vào đó vì thiếu tỉnh thức, và hiểu biết, cuộc sống chung, ngày xưa đầy màu sắc, ý vị.... hôm nay đã trở thành xung đột, đổ nát và tang thương.

Chính vì những lý do ấy, theo nhận xét của J. GRAY, để có thể yêu chồng, người vợ cần phát hiện ba lời yêu cầu của chàng :

-         Hãy chấp nhận con người của chồng với tất cả ưu và khuyết điểm trộn lẫn vào nhau; không so sánh chồng với một người khác.

-         Hãy chớp mọi thời cơ để đánh giá cao và khen thưởng, thay vì phàn nàn, vạch lá tìm sâu, nhấn mạnh những thiếu sót.

-         Hãy tin tưởng vào khả năng và giá trị của chồng, để củng cố và động viên, thậm chí khi chồng thất bại, thiếu tự tin.

Người chồng, trái lại, cần khám phá ba nhu cầu cơ bản của nàng :

-         Nhu cầu được ân cần hỏi han, chăm sóc, phục vụ, giúp đỡ.

-         Nhu cầu được lắng nghe, hiểu biết, bộc lộ tâm tư, chia sẻ nỗi lòng.

-         Nhu cầu được tôn trọng, nhất là trong địa hạt giá trị thuộc quyền lợi của người phụ nữ.

 

*

*              *

 

3.- Khi bạo động bùng nổ

Trong lãnh vực gia đình cũng như trên chính trường của một xứ sở hay là toàn diện địa cầu, khi bạo động bùng nổ giữa hai người, hai phe, hay là hai dân tộc, chúng ta thường chứng kiến cảnh tượng : bên nầy đưa tay chỉ phía bên kia để tố cáo, phê phán, đổ lỗi. Không một ai nhận lỗi về phía mình.

Mặt bì phu, bạo động là phương tiện giải quyết vấn đề tranh chấp, bất đồng và xung đột. Nhưng kỳ thực, bạo động chỉ gia trọng vấn đề và làm cho vấn đề càng ngày càng bế tắc nhiều hơn trước. Chúng ta chỉ cần nhìn khu vực Trung Đông và Bắc Ái Nhĩ Lan, để chứng nghiệm một phần nào tình huống không lối thoát do bạo động gây ra, trong quan hệ giữa người với người, từ bao nhiêu năm qua cho đến ngày hôm nay.

Theo cách thuyên giải của Tâm lý đương đại, trong một tiến trình bao gồm nhiều giai đoạn tiếp nối nhau trong thời gian như A, B, C và D ..., khi có một vấn đề bùng nổ ở giai đoạn C; chúng ta thường lầm tưởng rằng : nguyên nhân của vấn đề chỉ có mặt ở C; và chúng ta chỉ giải quyết vấn đề ở C mà thôi.

Cách làm ấy không bao giờ mang lại thành quả khả quan mong muốn. Trước khi bùng nổ ở giai đoạn C, một cách rõ ràng, minh bạch, có đôi mắt chứng kiến của nhiều người, kỳ thực bạo động đã có mặt một cách ngấm ngầm, tiềm tàng trong các giai đoạn khác, bắt đầu từ A trở đi.

Khi hai vợ chồng bất hòa, bất thuận đang la mắng, chưởi bới nhau, trước con mắt của mọi người hàng xóm, họ đã bất hòa, bất thuận, trong nội tâm và lối nhìn của mình.

Chính vì vậy, để giải quyết bao nhiêu vấn đề liên hệ đến tranh chấp, xung đột và bạo động, chúng ta hãy bắt đầu hóa giải lối nhìn của mình. Tại nơi đây, tính khác biệt của người khác không được trân trọng, chấp nhận và nhìn nhận. Phải chăng chúng ta đang học hỏi tìm hiểu tính khác biệt của nhau, để bổ túc và kiện toàn ? Để thỏa mãn, đáp ứng nhu cầu của nhau?

Nói một cách vắn gọn, khi có một cuộc thay đổi cần thực hiện, người cần đổi thay, trước tất cả mọi người khác là chính TÔI . Và trong tôi, tôi có trách nhiệm đổi thay LỐI NHÌN, còn mang tên là quan điểm, lập trường, thành kiến ...

4.- Tức giận, lo sợ là hai tiếng còi báo động : Hãy dừng lại, biết "tri chỉ".

Khi bạo động bùng nổ như trái bom nguyên tử, chúng ta đã mất quyền làm chủ, mất tự do. Mất tư cách làm người.

Trái lại, khi bạo động mới được cưu mang, thành hình trong lối nhìn của nội tâm, của tư duy, chúng ta đang có mọi khả năng để thay đổi chính mình. Những xúc động tức giận, lo sợ đối với người khác, như tôi đã nhấn mạnh, đó là những lời nhắn nhủ thân thương. Đó là tiếng còi báo động đang đánh thức chúng ta : Nhu cầu không được thỏa mãn, toại nguyện. Chính lúc ấy, chúng ta hãy tiếp xúc trao đổi, diễn tả lối nhìn ra bên ngoài :"Tôi cần thương và được thương. Hãy giúp tôi !".

Không làm như vậy, nghĩa là dùng ngôn ngữ để diễn tả mình một cách chính thức và khách quan, chúng ta sẽ mất quyền làm chủ. Lúc bấy giờ xúc động tràn ra ngoài, qua con đường tay chân đấm đá, lỗ miệng thét gào, nét mặt bừng bừng đỏ lửa. Khi bạo động bùng nổ, chúng ta trở thành nạn nhân. Khi còn ở trong khuôn khổ của nội tâm, hai xúc động tức giận và lo sợ phục vụ tư cách làm người của chúng ta. Đó là hai tiếng chuông đánh thức báo động.

Trái lại, khi giận và sợ đã thoát ra ngoài với tiếng thét gào, la mắng, chưởi bới, ma lị, đe dọa, thanh trừng ... chúng ta đánh mất mình với những hành vi bạo động, hận thù, chiến tranh. Quan hệ giữa người với người bị tổn thương trầm trọng.

Nói tóm lại :

1.- Khi xúc động được diễn tả bằng ngôn ngữ, chúng ta đang làm người.

2.- Khi xúc động được "tác hành", nghĩa là trở thành hành vi bạo động - ACTING OUT trong tiếng Anh - Chúng ta mất tư cách làm người. Chúng ta biến thành muông thú và cư xử người anh chị em như công cụ, đồ vật, một bộ phận sinh dục.

 

 

Chương Bảy

Tuyên dương và Khen thưởng những bước đi làm người

(Cha mẹ là Bồ Tát Quán Thế Âm cho đứa con )

 

 

Nhằm đánh dấu một cách cụ thể và khách quan những thành tựu có chất lượng của người anh chị em, chúng ta thường tổ chức những buổi lễ khen thưởng, tán dương công trạng, trao tặng những văn bằng hoặc huy chương chứng minh. Trong thân phận và điều kiện làm người, tất cả chúng ta không loại trừ một ai, trẻ em cũng như người già cả, chúng ta cần được kẻ khác khen ngợi, để tiếp tục vươn mình lên, vượt qua những chặng đường gian khổ trong cuộc đời. Tuy nhiên, vì cách làm của chúng ta không đáp ứng những chuẩn mực của khoa học kỹ thuật, chúng ta chỉ tạo nên những tình huống tùy tiện, thiên vị, luộm thuộm, nhá nhem. Vì thiếu tinh thần "vô công, vô tư", được Lão Tử đề cao và nhấn mạnh, chúng ta chỉ gặt hái những thành quả ngược chiều : Bình bầu, khen thưởng chỉ đào sâu thêm hố chia rẻ giữa người với người. Cuối cùng, bình bầu, khen thưởng trở thành một trò hề, một nghi thức "lấy lệ", không còn một giá trị có khả năng đánh dấu, một cách khách quan nỗ lực phấn đấu và vươn lên, vượt thắng những trở ngại trong cuộc sống làm người.

 

*

*           *

 

1.- Khen thưởng chỉ có giá trị, khi đáp ứng nhu cầu đồng cảm giữa người và người

Khi tôi khen ai, việc làm cơ bản là chứng minh cho người ấy ý thức được rằng : họ đã thỏa mãn một nhu cầu chính đáng của tôi.

Người được khen như vậy sẽ đánh sáng bản sắc làm người của mình :"Tôi là người quan trọng. Tôi có khả năng mang lại hạnh phúc cho một người đang chung sống với tôi".

Khi khen như vậy, tôi đang áp dụng sơ đồ với bốn giai đoạn của tác giả Marshall B. ROSENBERG :

Giai đoạn một  : mô tả môi trường

Giai đoạn hai    : trình bày nhu cầu

Giai đoạn ba    : nhu cầu được đáp ứng

Giai đoạn bốn  : diễn tả tình cảm bằng lòng, sung sướng, hạnh phúc của mình.

Thứ tự trước sau có thể thay đổi. Nhưng cấu trúc và tiến trình vẫn giống nhau.

Ví dụ :

1.- Từ nhỏ đến ngày hôm nay, tôi cứ vòng vo, luẩn quẩn trong quan hệ với Mẹ tôi. Tôi không biết phải ăn nói làm sao, để cho mẹ tôi hạnh phúc, thanh thản trong cuộc đời.

2.- Tôi cần có ai chỉ bày một cách làm vừa đơn sơ dễ hiểu, vừa có tác dụng.

3.- Hôm nay, sau khi đọc cuốn sách "Đồng cảm" của Anh, tôi cảm thấy câu hỏi của tôi đã có câu trả lời.

4.- Vậy tôi hoan hô Anh. Công việc của Anh ít nhất đã mang đến cho tôi một tia nắng ấm trong cuộc đời.

Khi đón nhận những lời chân tình ấy, người nghe sẽ không tự hào, kiêu căng. Đàng khác người ấy cũng sẽ không giả vờ khiêm tốn chối từ lời khen. Trái lại, lời khen ấy sẽ tạo ra một bàn đạp, một điểm tựa, để tác giả cuốn sách có đầy đủ nhiệt huyết cống hiến nhiều hơn nữa cho quê hương và anh chị em đồng bào.

Khi biết khen, theo phương pháp của M.B. ROSENBERG, chúng ta đã lắng nghe lời nói của Tổ Tiên vọng về :

"Lời nói chẳng mất tiền mua,

"Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau".

 

*

*           *

 

2.- Khi cám ơn ai, chúng ta cũng chọn làm của mình "tiến trình đồng cảm ấy".

Để cho lời cám ơn của chúng ta thành một viên gạch đóng góp vào công việc xây dựng ngôi nhà "bản sắc" của người "làm ơn", chúng ta cũng dùng kỹ thuật "đồng cảm".

Ví dụ :

1-     Mấy ngày nầy con cái của chị đi nghỉ hè với ba chúng nó ở Vũng Tàu. Ở nhà một mình, chị cảm thấy cô đơn, lạc lỏng.

2-     Thoảng hoạt trong ngày, chị thèm nghe một tiếng nói của bạn bè ngày xưa, lúc còn là nữ sinh Trường Hùng Vương ...

3-     Bổng nhiên hôm nay em gọi điện thoại đề nghị đến dùng cơm trưa và đi sở thú với chị.

4-     Chị quá sung sướng, vừa ngồi đợi em, vừa tạ ơn đời đã ban cho chị tình bạn của Em đã nhớ đến chị. Em bao giờ cũng giàu lòng thương như hồi nào.

Với những lời lẽ "chính xác và khoa học" như vậy, cám ơn không còn là một thói quen tầm thường. Lời cám ơn đã làm cho hai người ý thức mình "đang làm đẹp cuộc đời" cho nhau.

 

3.- Khen thưởng trong ngành sư phạm giáo dục

Khi trẻ em thành tựu một động tác, chẳng hạn như nở nụ cười, phát âm "Ba, Ba ... Ma ma...", hay là đưa tay vịn thành ghế để đứng lên ... chưa hẳn nó ý thức đến kết quả của mình. Thử xong điều nầy, nó nhảy qua chuyện khác, tựa hồ một cánh bướm nhởn nhơ bay lượn từ cánh hoa nầy qua cánh hoa khác, không dừng lại ở đâu cả.

Sư phạm ngày nay kêu mời, khuyến khích cha mẹ hay là giáo viên :

-         hãy có mặt thực sự và năng động với trẻ em,

-         ghi nhận một cách bén nhạy mỗi một thành tựu khách quan, do trẻ em thực hiện, có khi do tình cờ,

-         phản ảnh, nối dài, lặp lại thành quả của trẻ em vừa bằng ngôn ngữ, vừa bằng hành vi,

-         Vừa làm vừa khen thưởng.

Khi người lớn biết "khen thưởng" trẻ em, theo cách làm "phản ảnh và nối dài" như vậy, họ đang củng cố một thành tựu bộc phát, tình cờ của trẻ em. Họ tạo cơ hội và điều kiện, để trẻ em ý thức đến khả năng của mình. Chính nhờ ý thức nầy càng ngày càng mở rộng và bền vững, trẻ em sẽ phát huy bản sắc của mình. Khả năng và bản sắc tác động qua lại và kích thích việc học tập của trẻ em.

Để mang lại những kết quả khách quan như vậy, việc khen thưởng không phải chỉ là những công thức "hời hợt" như : hoan hô, em giỏi lắm, lại đây cô hôn một cái ... Khen hời hợt như vậy chỉ tạo nên tình trạng lệ thuộc tình cảm. Trẻ em thèm khát được khen, nhưng không ý thức : mình được khen vì lý do gì !

Theo nhà sư phạm người Do Thái, R. FEUERSTEIN, lời khen là một tiến trình gây ý thức :

Bước một       : nêu lên một sự kiện

Bước hai : nhấn mạnh rằng : sự kiện      ấy là một khả năng

Bước ba   : Giải thích tại sao trẻ em thành tựu

Bước bốn       : Diễn tả nỗi vui mừng và lời khen.

Ví dụ :

1.      Thu ơi ! Em vừa làm với miệng của em : Ma-ma ( một hành vi )

2.      Ma-ma.

Em bắt chước mẹ, Em gọi mẹ.

Em nói được ( một khả năng )

3.      Nhìn miệng cô nầy : Ma-ma - Ma - Mẹ. Bắt chước cô : Ma-ma (cách làm )

4.      Em giỏi quá. Hoan hô.

mừng vì em bắt đầu nói ( quan hệ)

Với thời gian, cách khen thưởng nầy sẽ từ từ gây ý thức cho bé Thu về ba điều :

-         Nó đang vận dụng môi miệng để nói,

-         càng bắt chước, nó càng biết nói.

-         Việc nó nói tạo vui mừng cho người khác.

 

*

*              *

4.- Tư vấn trong lãnh vực can thiệp sớm

Khi một trẻ em "có nguy cơ chậm phát triển" xuất hiện trong gia đình, câu hỏi "tại sao", cũng đồng thời được cha mẹ lặp đi lặp lại mỗi khi họ có dịp tiếp xúc với những người có chuyên môn về trẻ em. "Tại sao" là một câu hỏi vô tận "rút dây động rừng":Tại sao nó? Tại sao chúng tôi ? Tại lỗi lầm gì ? Tại sao chúng tôi vô phúc như vậy ? Và không ai có thể trả lời cho câu hỏi "dài thòng lọng" ấy. Nhằm giúp đỡ người cha mẹ thoát ra ngoài vòng mê cung độc hại như thế, văn phòng tư vấn có nhiệm vụ chuyển hóa câu hỏi "tại sao" thành câu hỏi : "chúng ta cần tức khắc làm gì cho đứa bé sơ sinh ?". Làm cho nĩ cũng còn có nghĩa là làm với nó. Làm một cách vui thích. Vừa làm vừa chơi. Thêm vào đó, làm cho đứa con cũng có nghĩa là làm cho chính mình.

 

*

*            *

Văn phòng Tư vấn "cổ điển" từ trước tới nay có thói quen áp dụng sơ đồ sau đây :

1.- Ghi nhận những sự kiện cụ thể, khách quan,

2.- Định bệnh hay là thuyên giải vấn đề

3.- Xác định đường hướng hay là phương thức hành động

4.- Chuyển biến đường hướng tổng quát thành công tác cụ thể cần thực thi mỗi ngày.

Trong bốn giai đoạn, giai đoạn hai có tính quyết định. Chúng ta lầm tưởng rằng : khi đã xác định bệnh trạng một cách rõ ràng và chính xác, chúng ta sẽ biết đi về đâu, cần làm gì ? Đó là cách làm của các bác sĩ đối với những bệnh tình thể lý. Trong lãnh vực chậm phát triển, công việc không giản đơn như thế. Khi gắn cho trẻ em một nhãn hiệu nào, chúng ta có nguy cơ tạo ra thực tế đã có sẵn trong nhãn hiệu ấy.

Tâm lý đương đại đề phòng chúng ta, bằng cách nhấn mạnh một qui luật : "Bạn tin tưởng gì, thì bạn sẽ biến điều tin thành hiện thực". Nói cách khác, "Tin tưởng làm sao thì thấy thực tại y như vậy".

 

*

*         *

Trong tinh thần và đường hướng tư vấn ngày nay, chúng ta khởi đầu với lối nhìn tích cực và năng động về trẻ em :

-         Mỗi trẻ em là một con người, có giá trị làm người.

-         Dù với bất cứ nguy cơ nào chăng nữa, khả năng học tập của trẻ em vẫn có mặt.

-         Nếu chúng ta phát hiện được cách học, chúng ta sẽ có khả năng sáng tạo cách dạy thích hợp với chúng nó.

-         Trẻ em nào cũng có mắt để thấy, có tai để nghe, có làn da để tiếp xúc.

Dạy học là bắt đầu với ba cửa vào ấy : tạo điều kiện cho trẻ em thấy, nghe và cảm.

-  Trẻ em nào cũng có những xúc động. Với quan hệ đồng cảm, chúng ta phát hiện nhu cầu của trẻ em ở dưới mỗi xúc động, để đáp ứng và thỏa mãn.

Khi làm việc với cha mẹ, mục tiêu chúng ta đeo đuổi là giúp họ "làm" trong ba chiều hướng sau đây :

-         kiến dựng một lối nhìn tích cực về đứa con của mình,

-         phát hiện những khả năng hiện hữu của đứa con trong ba lãnh vực Thấy,  nghe và cảm. Từ đó, ngày ngày giúp đứa con mở rộng và kéo dài khả năng của mình.

-         Lưu tâm đến nhu cầu của đứa con, để đáp ứng một cách thích hợp với thực tế của nó. Từ đó, thiết lập và phát huy những quan hệ hài hòa, với nó trong những lúc nó tỉnh thức, vui chơi, chủ động.

Trong những ngày tháng làm việc và tiếp xúc với văn phòng Tư vấn, nếu cha mẹ biết sống hạnh phúc và sung sướng với đứa con, đồng thời biết sáng tạo những trò chơi nho nhỏ để tiếp xúc, trao đổi với đứa con, công việc can thiệp sớm từ 2, 3 tháng đến 18 tháng đã thâu đạt nhiều thành quả tốt đẹp.

Thực ra, khi làm bao nhiêu điều ấy cho đứa con của mình, theo ngành sư phạm đặc biệt, người cha mẹ chỉ làm một điều một cách tinh nhuệ và khoa học : Đó là khen đứa con mình, khi họ đang chứng kiến và ghi nhận những bước đi nho nhỏ của nó, trên con đường làm người. Khi cha mẹ "học" khen đứa con một cách khoa học, họ đã "dạy" đứa con biết làm người, mặc dù bao nhiêu đe dọa đang ồ ạt kéo tới, không biết từ nơi đâu ...

 

 

 

 

Thay lời cuối

Ông Đồ Sộ

 

Tôi không biết tên thực của Ông là gì. Trẻ em quanh vùng gọi ông là "Ông Đồ Sộ".

Kỳ thực nhà cửa ông ở thật đồ sộ. Khu vườn bao quanh cũng đồ sộ. Mặt mũi, tay chân, áo quần, cái gì có liên hệ tới cuộc đời của ông  đều nhất loạt đồ sộ. Bên cạnh Ông Đồ Sộ, người vật đều nhỏ bé, tí hon, không đáng được ai chú ý. Và Ông Đồ Sộ cũng không thèm lưu tâm đến ai.

Trẻ em quanh vùng đồn thổi với nhau : Ông Đồ Sộ ăn những con gà đồ sộ, uống những ly rượu đồ sộ. Đi những bước đi đồ sộ. Nói những lời nói đồ sộ. Cho nên, hôm ấy, chúng nó đánh bạo rủ nhau đến thăm ông tại nhà, để ít nhất một lần hiểu được thế nào là cuộc đời đồ sộ của một con người đồ sộ, với bộ óc đồ sộ, trong một thân xác đồ sộ.

Rủi thay, khi trẻ em tập hợp đông đủ, xô cổng bước vào, ông Đồ Sộ không có mặt ở nhà. Qua một hàng chữ đồ sộ, được yết thị trước cửa nhà, trẻ em đọc được bản tin : Ông Đồ Sộ đi thăm một người bạn Đồ Sộ, tại xứ Đồ Sộ. Chừng nào cuộc thăm viếng kết thúc, ông Đồ Sộ sẽ lấy chuyến bay đồ sộ để trở về Nhà Độ Sộ của mình.

Lợi dụng cơ hội, trẻ em tuôn nhau ra vườn, nhặt hoa, hái trái. Ổi, cam, mít ... trái cây đủ mọi loại. Trẻ em tha hồ vừa ăn vừa nhặt bỏ túi mang về nhà. Hôm sau, và những ngày kế tiếp, trẻ em kéo nhau đến đông hơn. Có những đứa không thèm về nhà. Vì là trời hè nóng ấm, chúng nó ngủ lại, trên những thảm cỏ xanh tươi, mịn màng, thơm mát ...

Vào cuối mùa hè năm ấy, với những bước chân đồ sộ, ông Đồ Sộ trở về ... Nhìn thấy khu vườn bị vùi dập, tan nát, cây cối xác xơ, Ông Đồ Sộ thét lên một tiếng đồ sộ vang trời lở đất. Hoảng sợ, trẻ em tìm cách ẩn núp sau các lùm cây rồi chạy thoát ra ngoài, về nhà không dám ngoảnh mặt nhìn lui.

Ông Đồ Sộ đi ra, khóa chặt hai cánh cổng đồ sộ, ngăn cách khu vườn và ngôi nhà với các vùng lân cận. Vào trong nhà, ông đi tìm chìa khóa, khóa lại mọi cánh cửa thông ra vườn. Thêm vào đó, ông còn hạ màn, che kín mọi cửa sổ đằng trước và đằng sau, ở trên và ở dưới.

Chính lúc ấy, trời bắt đầu sẩm tối. Mưa rới tí tách bên ngoài.

Hôm sau, lúc thức dậy, Ông Đồ Sộ cảm thấy lạnh trong mình. Ông lẩm bẩm :

-         Quái dị thật, bây giờ mới cuối hè. Những năm trước đây khí lạnh chỉ thổi tới trước lễ Giáng Sinh, một vài ba tuần. Có lẽ cơn lạnh nầy chỉ là một biệt lệ mà thôi. Ngày mai, thế nào mặt trời cũng trở lại.

Đêm ấy, thay vào trời mưa, tuyết lại rơi bay tầm tả.

-         Kỳ dị không làm sao hiểu được. Tuyết rơi vào mùa hè ! Những ngày sau ... tuần sau và tháng sau ... Tuyết rơi nhiều hơn. Trời càng lạnh hơn. Nhiệt độ tuột xuống chung quanh ba mươi độ âm. Rồi bốn mươi. Rồi năm mươi ...

Ông Đồ Sộ đốt lò sưởi trong phòng khách. Trời vẫn lạnh. Ông đốt thêm lò sưởi trong phòng ngủ. Trời vẫn lạnh. Mọi lò sưởi còn lại được tìm ra và đốt lên ... Ông Đồ Sộ vẫn ngồi run rẩy như chiếc lá khô, khi ngọn gió đông ồ ạt thổi tới, từ những miền Bắc Băng dương. Bao nhiêu chăn mền được lấy xuống từ các ngăn tủ. Nhưng mùa đông vẫn gan lì, tiếp tục lan tràn vào trong mọi xó xỉnh của ngôi nhà mênh mông đồ sộ. Cuối cùng mùa đông lẻn vào trong xương da máu thịt. Các khớp xương trở thành đông đặc, cương phòng lên và nhức nhối. Quả tim thoi thóp rên la ...

Sau bao nhiêu toan tính đều thất bại, Ông Đồ Sộ không còn sức chịu đựng được cơn lạnh càng lúc càng trở nên khốc liệt. Ông lẩm bẩm :

- Thà rằng ta chết khô, giữa trời đất vũ trụ, hơn là ngột ngạt trong xó xỉnh âm u.

Nói xong, ông cố gắng hết mình, đứng dậy, lại gần chiếc cửa sổ của phòng khách, mở toang ra : Mặt trời từ từ mọc lên sau rặng cây.

Ông mở toang cánh cửa sổ thứ hai : bông hoa đua nhau nở rộ, trong cả khu vườn chung quanh.

Ông mở rộng cánh cửa sổ trong phòng ngủ : chim chóc ca hát líu lo trên các cành cây, ở ngay trước mặt ông.

Ông đến gần cánh cửa sổ thứ tư : Khi Ông vừa đưa tay mở ra, từ phía cổng chính trẻ em đã đua nhau gọi vào ầm ỉ :

"Ông Đồ Sộ ơi, chúng con quá đói. Mở cửa cho chúng con vào ăn trái cây !"

Không chút ngần ngại. Ông Đồ Sộ đi lấy khóa, mở toang cổng vào. Và suốt ngày hôm ấy, Ông Đồ Sộ đi theo bầy trẻ, nhặt hoa quả giùm cho những đứa nhỏ dại, cho phép những đứa mới tập đi ngồi trên vai mình.

Gió lạnh vẫn còn thổi. Trời chưa hoàn toàn nóng ấm. Nhưng suốt ngày đi theo bầy trẻ, bồng đứa nầy, ẳm đứa nọ, trả lời bao nhiêu câu hỏi líu lo, non dại ... Ông Đồ Sộ cảm thấy ấm áp trong tâm hồn. Một vài đứa đã lở miệng thay đổi tên ông. Chúng bắt đầu gọi ông là "Ông Nội". Mà kỳ thực, ông đã thương chúng nó như cháu chắt nội ngoại của mình, từ ngày "hôm nay".

*

*          *

Hỡi Người Em Việt Nam,

Chỉ cần can đảm ĐỨNG DẬY, mở ra những cánh cửa của tâm hồn ... Ông Đồ Sộ trong chúng ta sẽ tức khắc trở thành một vị Bồ Tát Quan Thế Âm cho Anh Chị Em đồng bào.

 

 

Lausanne, Mùa Xuân 2003

 

 

Bài Tập

Dựa vào chương ba, hãy đánh giá từng câu : Câu nào đúng tiêu chuẩn ấn định ?

 

1- Mô tả môi trường sinh hoạt

1.- Sáng nay ba tôi đã nổi cơn thịnh nộ chưởi mắng tôi một cách phi lý.

2.- Tối qua, đứa con gái tôi vừa xem tivi vừa làm bài toán ở trường đem về.

3.- Trong buổi họp sáng nay, bạn A đã phát biểu ý kiến 10 lần.

4.- Mẹ tôi là người phụ nữ rất đảm đang

5.- Chồng tôi tận tâm một cách quá đáng vào chuyện ở trường học

6.- Anh C hay tấn công người khác khi phát biểu.

7.- Tuần nay, Cô giáo K là người đầu tiên đến trường mỗi buổi sáng.

8.- Con tôi thường hay đi ngủ mà không chịu đánh răng sạch sẽ

9.- Theo ý của Mẹ tôi, màu đỏ không hợp với tôi.

10.- Mỗi lần tôi lên đường trở về nhà sau kỳ hè, chị tôi đều khóc.

 

 

2- Xúc động & Tình cảm

Gọi tên

1.- Hồi tôi còn bé tôi có xúc cảm rằng bạn bè không thương yêu tôi.

2.- Tôi cảm thấy buồn rủ rượi khi mẹ đi ra khỏi nhà.

3.- Sau khi nghe bạn kể chuyện về tai nạn xe hơi của bạn, tôi lo lắng sợ hãi.

4.- Khi bạn đi qua mà không nhìn tôi, tôi cảm thấy bị bạn bỏ rơi.

5.- Hôm nay em đến thăm, chị sung sướng.

6.- Con bé nầy khó chịu ghê.

7.- Thấy nó tôi muốn tát tai

8.- Tôi cảm thấy không có ai hiểu tôi trong trường nầy.

9.- Tôi thấy dễ chịu sau khi nghe bạn nói lời an ủi.

10.- Tôi cảm thấy không có khả năng để nhận công việc ấy.

 

3- Xác định nhu cầu

1.- Bạn làm tôi bực bội khi bày ra áo quần bừa bãi trên giường ngủ của tôi.

2.- Tôi tức giận khi nghe bạn phát biểu và la mắng rộn ràng, vì tôi cần những lời nói dịu ngọt.

3.- Tôi bực bội vì bạn đến trễ 10 phút

4.- Tối qua bạn không đến dùng cơm, tôi cảm thấy buồn và cô đơn, vì tôi cần chia sẻ một tin tức về chồng tôi cho bạn nghe.

5.- Tôi thất vọng vì bạn không giữ lời hứa.

6.- Tôi đang lo toan vì tôi muốn hoàn tất bài luận văn chiều nay, nhưng tôi đang bế tắc ở chương nầy.

7.- Bạn bè đưa ra những nhận xét bần tiện làm tôi khó chịu.

8.- Tôi sung sướng vì được nghe bạn đã tốt nghiệp cử nhân.

9.- Tôi sợ hãi khi bạn la to như vậy.

10.- Chị cảm thấy thoải mái và sung sướng được em đề nghị đưa chị về nhà, vì như vậy chị sẽ có mặt trước khi hai cháu bé từ trường mẫu giáo về.

 

 

4- Diễn tả yêu cầu

( 1 điều làm cụ thể )

1.- Chị muốn em hiểu chị hơn.

2.- Chị muốn em nói ra cho chị nghe là chị có duyên ở chỗ nào ... mà em cứ mãi khen chị có duyên.

3.- Thầy muốn em tự tin hơn.

4.- Em xin anh từ nay hãy thôi không còn rượu chè.

5.- Con muốn mẹ kính trọng con hơn.

6.- Về buổi họp chiều hôm qua chị muốn em nói cho chị biết ý kiến thành thực của em.

7.- Ở đây có học sinh qua lại, em xin anh giảm tốc độ xuống 50 km.

8.- Em muốn hiểu chị hơn, để dễ làm việc với chị.

9.- Tôi muốn bạn hãy tôn trọng đời tư của tôi.

10.- Anh muốn em cho anh ăn bún bò Huế nhiều hơn.

 

 

Sách Tham Khảo

 

1.- Tara BENNET - GOLEMAN - Emotional Alchemy - Rider, London 2001, 340 p.

2.- Stephen N.COVEY - The 7 habits of Highly Effective people -Simon & Schuster, London 1989,  350 p.

3.- J. GRAY - Men and Women Relationships - Bey W. Publishing,  U.S.A 1993,  225 p.

4.- Gerald G. JAMPOLSKY - Change your mind, change your life .Bantam Books, New-York, 1991, p.285

5.- Paul RICOEUR - L'Interprétation -Seuil, Paris 1965, 575 p.

6.- Marshall B. ROSENBERG - Nonviolent communication -Pudle Dancer press,Encinitas CA 2001, 200 p.

7.- D. STONE - Difficult conversations : how to discuss what matters most. Ed. Michael Joseph, London 1999, 248 p.

8.- R. FEURSTEIN - Instrumental Enrichment - Un. Park press 1982.

9.- NGUYỄN Văn Thành - Le Projet pédago-éducatif - Tình Người, Lausanne 1997, 179 p.

10.- NGUYỄN Văn Thành - Comment gérer les émotions - SCES, Lausanne 1991, 110 p.

11.- NGUYỄN Văn Thành - L'Enseignement médiatisé - Texte inédit, 106 p.

 

 

Phụ Trương Một

Khổ đau và hạnh phúc

Ước mơ hạnh phúc có mặt trong tâm hồn của tất cả chúng ta, dù mỗi người có một lối nhìn riêng biệt và độc đáo về bản sắc của hạnh phúc và con đường thực hiện. Trong lòng cuộc đời nầy, khổ đau cũng có mặt khắp muôn nơi, trong mọi hang cùng ngõ hẻm của nhân loại.

Theo giáo lý của đạo Bụt, "phiền não tạo bồ đề". Cây giải thoát chỉ nảy mầm đâm mộng trong lòng đất khổ đau. Hoa sen nở ra, cống hiến hương sắc cho đời, sau khi đã vươn mình lên, vượt khỏi lớp bùn lầy nước đọng. Tin Mừng của Đức Kitô cũng kêu mời chúng ta ngày ngày thực hiện cuộc "VƯỢT QUA" ấy. Phục Sinh phải chăng là hoa trái ngọt ngào, chỉ xuất hiện ở cuối chặng đường khốn khổ và gian truân ? Con đường nầy là một tất yếu (từ Hy lạp là ananké) thuộc thân phận và điều kiện làm người.

Trong khoảng mười năm gần đây, với những khám phá mới mẻ về vai trò và tầm quan trọng của xúc cảm trong đời sống con người, tâm lý học đương đại cũng đang nhấn mạnh và làm nổi bật mối liên hệ mật thiết giữa hạnh phúc và đau khổ. Nói cách khác, khổ đau không thể không có mặt trong lòng cuộc đời. Trong những cuốn sách đã được phát hành, tôi thường dùng lối nói ví von, rằng "khổ đau là rác, là phế liệu, do con người làm ra". Chỗ nào có con người chung sống, hợp tác, đồng hành và chia sẻ, trong bất cứ địa hạt nào, chỗ ấy thế nào cũng có "rác" dần dần xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Rác ấy sẽ biến thành khổ đau, nếu nó tạo nên tình trạng xung đột, kỳ thị, hận thù, chiến tranh giữa người với người. Trái lại, chừng nào con người có khả năng "chuyển luân" rác thành vật tư hay là phương tiện phục vụ con người, lúc ấy HẠNH PHÚC thuộc tầm tay thực hiện của con người. Thuộc chủ quyền của chúng ta.

Nhằm quảng khai những tư tưởng nói trên, bài nói chuyện nầy sẽ lần lượt trình bày hai phần sau đây :

Trong phần đầu, tôi sẽ liệt kê một vài dấu hiệu cụ thể và khách quan nhằm phát hiện tình trạng khổ đau, đang có mặt trong chúng ta và giữa chúng ta. Trong phần hai, tôi sẽ khẳng quyết thêm rằng : hạnh phúc toàn mãn và trọn vẹn không bao giờ hiện hữu trên đời này. Trái lại, đó là một tiến trình liên lỉ do tôi chọn lựa và quyết định. "Có công mài sắt có ngày nên kim". Nói khác đi, hạnh phúc là mùa màng, do chính tôi gieo và gặt hái, bằng cách chấp nhận những nhu cầu của chính mình và tôn trọng nhu cầu làm người của mỗi anh chị em đang sống chung quanh chúng ta. Trong lời kết luận, tôi sẽ nhấn mạnh rằng : hạnh phúc vừa là một quyền lợi của mỗi người sinh ra trong trời đất nầy. Đồng thời, đó cũng là trách nhiệm làm người của chúng ta tất cả, đối với từng anh chị em, trong lòng xã hội, quê hương và nhân loại. Hẳn thực, bao lâu còn có một người đang bị áp bức bóc lột, tôi có trách nhiệm giải thoát người anh chị em ấy, bằng bàn tay và tấm lòng của tôi. Bao lâu còn có người đi ăn xin, nằm lê lết qua đêm trên hè phố, trách nhiệm làm người của tôi là làm m¶t ÇiŠu gì cụ thể thuộc tầm tay của mình, để chia sẻ niềm "ưu tư và ước vọng" của người ấy.

Trên con đường tìm kiếm và thực hiện hạnh phúc, với tư cách làm người, chúng ta không thể tiến bước lẻ loi, một mình. Chúng ta đồng hành và chia sẻ. Tôi chỉ có thể gặt hái mùa màng hạnh phúc chừng nào tôi biết gieo vãi hạt giống hạnh phúc trong vườn lòng của mỗi người anh chị em hai bên cạnh tôi.

1.- Làm sao phát hiện những dấu hiệu khổ đau nơi chính mình và nơi kẻ khác ?

Sơ đồ sau đây trình bày bốn thành tố với bốn phần vụ khác nhau của nội tâm :

Khi khổ đau xâm chiếm và tràn ngập tâm hồn, bốn loại triệu chứng khách quan sẽ từ từ xuất hiện trong bốn lãnh vực của nội tâm.

Loại 1 nằm ở cửa vào. Thay vì ghi nhận thực tại một cách khách quan cụ thể, nghĩa là có sao nói vậy, cố gẳng phản ảnh thực tại bên ngoài, một cách trung thực toàn diện, chúng ta thường có khuynh hướng xuyên tạc bóp méo sự kiện, bằng ba cách sau đây :

(a)                vơ đũa cả nắm, nghĩa là biến hóa một sự kiện cụ thể thành một qui luật tổng quát và thường hằng;

(b)               gạn lọc, nghĩa là ghi nhận những sự kiện thuận lợi và thích hợp cho hệ thống tin tưởng của chúng ta. Khi đã ghét ai, chúng ta chỉ thấy nơi người ấy những khía cạnh tiêu cực và bỏ quên những đặc điểm tích cực năng động;

(c)                chủ quan hóa hay là xuyên tạc, nghĩa là chỉ lưu tâm nhấn mạnh đến ý kiến riêng tư của bản thân mình mà không tôn trọng lối nhìn của những người khác, nhất là những ai không cùng chia sẻ quan điểm và lập trường của chúng ta.

Loại hai nằm trong địa hạt thuyên giải. Thay vì trình bày ý kiến và ý nghĩa của mình cũng như tôn trọng, lắng nghe quan điểm của kẻ khác, chúng ta thường có xu thế phân biệt hai phe đối lập với nhau :

tao tốt - mày xấu

tao có lý - mày vô lý

tao đúng - mày sai

tao có ý ngay lành - mày có ý đồ gian ác, lưu manh

Lối suy nghĩ nhị nguyên ấy, với bao nhiêu lời tố cáo, phê phán, đổ lỗi, chụp mũ, gắn nhãn hiệu ... là triệu chứng khách quan bên ngoài của một tâm hồn đang bị khổ đau bủa vây và làm tê liệt một cách trầm trọng những sinh hoạt hằng ngày.

Loại ba nằm trong địa hạt xúc động và tình cảm. Một cách đặc biệt và rõ ràng, trong địa hạt xúc động và tình cảm, khi nào ai đau khổ thì người ấy sẽ bị bế tắc, phong tỏa hay là tràn ngập, đắm đuối. Họ mất khả năng làm chủ bản thân và cuộc đời. Họ cảm thấy mình là nạn nhân của bao nhiêu người khác, trong đời sống gia đình và xã hội. Theo ngôn ngữ của Daniel GOLEMAN, tình trạng nầy của nội tâm được so sánh như một cuộc đảo chánh, trong đó chính phủ bị lật đổ, nghĩa là lý trí không còn hoạt động một cách sáng suốt. Bao nhiêu quyết định và chọn lựa đều mang sắc thái của dục vọng mù quáng, bốc đồng và hỗn độn.

Sống trong những tình huống như thế, con người - phàm là ai, cho dù ở địa vị hoặc chức vụ nào, có trình độ học thức cao hay thấp... - sẽ dần dần đánh mất ý thức về bản sắc hoặc căn cước đích thực của mình. Họ không còn nhận biết mình là ai, có những nhu cầu cơ bản như thế nào. Cũng vậy, họ không nhận biết anh chị em mình là ai, có những nhu cầu cơ bản như thế nào ... Rốt cuộc, chúng ta là ai trong lòng quê hương, đất nước ? Chỉ là nồi da nấu thịt ! Hay là gà một nhà bôi mặt đá nhau, từ đời nầy sang đời khác.

Loại thứ bốn nằm trong lãnh vực quan hệ tiếp xúc và trao đổi. Trong một đất nước hoặc xã hội hạnh phúc, không có kẻ thắng người thua. Không có chủ nhân và nô lệ. Không có phân biệt bạn và thù, trắng đen rõ rệt. Theo truyền thống văn hóa của Lạc Long Quân và Âu Cơ, chúng ta tất cả là anh chị em đồng bào, mang dòng máu Rồng Tiên trong huyết quản. Trái lại, khi quả tim chúng ta là sào huyệt của khổ đau, đam mê và dục vọng, chính chúng ta làm nên những con sông Nhật Lệ, Bến Hải, những hàng rào kẻm gai giữa người với người.

Nhiều khi chính chúng ta đã đào hầm chôn sống những người anh chị em của chúng ta, cơ hồ Trần Thủ Độ - vị công thần khai nguyên nhà Trần - đã làm cách đây hơn bảy thế kỷ, đối với tôn thất nhà Lý. Cũng vậy, để thiết lập triều đại nhà Hồ, Hồ Quý Ly đã truất phế đứa con rể của mình là vua Trần Huệ Tông, nhốt ngài vào một ngôi chùa heo hút, xa cách thủ đô Thăng Long. Thế vẫn còn chưa đủ. Ông còn sai bộ hạ đem dây đến thắt cổ vị vua cuối cùng của nhà Trần. Sở dĩ như vậy là vì ông chủ trương "nhổ cỏ phải nhổ tận gốc".

Lịch sử Việt Nam cho chúng ta thấy rõ : từ cổ chí kim, phần lớn những triều đại hay chính thể luôn luôn khởi đầu bằng những cuộc thanh trừng đổ máu. Và cuối mỗi thời đại, thường có những người sẵn sàng bán đứng quê hương, sụp lạy trước ngoại bang để xin xỏ, cầu viện hay là "rước voi chà mả tổ".

II.- Làm sao xây dựng hạnh phúc cho bản thân và cuộc đời ?

Để hiểu rõ thế nào là hạnh phúc, chúng ta hãy lắng nghe câu chuyện sau đây của C. STEINER :

Ngày xửa ngày xưa, vào thời nguyên thủy, con người khắp nơi trên mặt đất đã sống với nhau những chuỗi ngày rất hạnh phúc và hòa bình. Chúng ta hãy đến viếng thăm họ và tìm cách học hỏi nơi họ đâu là bí quyết của một đời hạnh phúc. Thuở ấy, mỗi người vừa sinh ra đã có hai chiếc bị nằm sẵn ở trước ngực và sau lưng của mình. Với chiếc bị nằm sau lưng, tôi nhận lãnh tất cả mọi quà tặng do cha mẹ, họ hàng bà con xa gần mang đến. Nào là lương thực, trò chơi, kiến thức, áo quần, vật tư xây nhà cửa và dụng cụ sản xuất, lao động. Mỗi lần có người cần một vật dụng, tức khắc có một người khác sẵn sàng xuất hiện và biếu tặng món quà cần thiết cho người ấy.

Cũng vào thời kỳ vàng son nầy, khi tôi nhận thấy có người đang cần một món đồ, bất kỳ thuộc địa hạt nào, tôi chỉ cần đưa tay vào chiếc bị ở đằng trước ngực, tức thì tôi kiếm ra được món đồ mà người kia đang cần cho bản thân và cuộc sống của mình. Ngày ngày lớn lên, tôi thấy mọi người đều làm như vậy. Và tôi đã học sống quảng đại, giống như mọi người. Cuộc sống thuở ấy thật là phong phú, sung mãn cho mọi người và cho từng người, không trừ sót một ai.

Thế rồi, một hôm, bỗng xuất hiện một bà phù thủy. Không ai biết bà đến từ hành tinh nào. Ngày ngày, bà cứ đi rỉ tai từng người, già trẻ lớn bé :"Con hãy khôn ngoan, lựa người mà cho. Hãy giữ lại cho mình một đôi điều cần thiết. Thời buổi khó khăn sẽ ùa đến. Lúc bấy giờ con sẽ thiếu thốn mọi sự".

Cũng từ đấy, con người bắt đầu lo sợ. Nhiều lần, khi thấy bạn bè bà con thiếu một vật dụng, theo thói quen, họ đưa tay vào chiếc bị ở đằng trước. Nhưng nhớ lại lời khuyên của bà phù thủy, người ấy lập tức rút tay ra, không còn muốn cho đi một cách dễ dàng, đơn sơ như trước đây.

Vì thái độ dè sẻn và tự vệ của mỗi người, cuộc sống làm người đã thay đổi bộ mặt : từ bấy giờ, ai ai cũng trở nên nghi kỵ, lo sợ. Và cuộc sống càng ngày càng trở nên thiếu thốn, bất hạnh.

Nhận thấy tình hình càng ngày càng thoái hóa, một cách tai hại và trở thành bế tắc, các bô lão đã có sáng kiến họp nhau lại, khảo sát một cách tỉ mỉ nguyên nhân của vấn đề. Họ khám phá rằng đầu dây mối nhợ là sự có mặt của bà phù thủy, và họ đã cầm gậy gộc xua đuổi bà ra khỏi xóm làng.

Oái oăm làm sao, bà phù thủy bằng xương bằng thịt đã đi xa rồi. Nhưng lời rỉ tai của bà vẫn còn xẩn vẩn đâu đó, trong tư duy và quả tim của mỗi người. Bà phù thủy vẫn còn nằm vùng, trong mỗi chúng ta và ở giữa chúng ta.

Nếu mỗi ngày, mỗi người không quyết định thay đổi niềm lo sợ của mình thành yêu thương, tha thứ và tin tưởng nhau, chúng ta sẽ suốt đời làm nạn nhân tự nguyện của bà phù thủy đang tìm mọi cách để làm ô nhiễm mối quan hệ giữa người với người. Tên tuổi của bà phù thủy ấy là thiên kiến, hận thù, chia rẽ, bạo động và chiến tranh. Nói tắt một lời, đó là tư duy nhị nguyên phát sinh ra mọi khổ đau cho con người trong lòng cuộc đời và trên từng mảnh đất của quê hương.

Sào huyệt hay là chiến khu của bà phù thủy là đời sống xúc động và tình cảm.

 

*

*   *

Để hóa giải bao nhiêu vấn đề chung quanh đời sống xúc động và tình cảm, nghĩa là:

Ngày ngày biến Không thành Có,

Chuyển luân Rác nuôi sống những cánh đồng,

Giữa Sa mạc làm tuôn chảy dòng sông,

Trong Chết chóc vun trồng hạt mầm Sống,

Gieo Thứ tha và xây đáp Đường Hy Vọng...

Chúng ta có thể sử dụng kỹ thuật tâm lý, với bốn bước như sau :

(1)               Xác định môi trường chung quanh hay là nhận diện hoàn cảnh hiện hữu. Để làm công việc nầy, chúng ta cần sử dụng những lối phát biểu càng khách quan chừng nào, càng hay bấy nhiêu : "Tôi thấy ...", "Tôi nghe ...". Ví dụ: "Tôi nghe bạn phàn nàn và phê phán thái độ của tôi ..."

(2)               Đặt tên, hay gọi tên xúc động vừa đang chớm nở và xuất hiện trong nội tâm. Bốn xúc động đầu đàn là Lo, Sợ, Buồn và Giận. Lối phát biểu cần sử dụng trong giai đoạn nầy là : "Tôi cảm ...".

(3)               Khám phá, phát hiện nhu cầu cơ bản của mình đang có mặt hay là ẩn nấp, ngụy trang ở bên dưới mỗi xúc động. Sở dĩ tôi buồn, là vì tôi đang cần được nâng đỡ, ủy lạo.

Tôi sợ, là vì tôi cần được an toàn. Tôi lo, là vì tôi cần có phương tiện cụ thể, hữu hiệu để đối phó với những biến cố bất trắc, bất ngờ.

Tôi giận, là vì tôi cần được tôn trọng. Những giá trị và xác tính của tôi cần được người khác nhìn nhận.

(4)               Nêu rõ lời yêu cầu tích cực, cụ thể, nói lên nguyện vọng chính đáng của mình. Thay vì đòi hỏi, cưỡng bức, áp đặt từ bên ngoài, hay là lạm dụng vị trí quyền lực của mình, chúng ta chỉ thỉnh cầu, nghĩa là XIN với một thái độ hài hòa, đồng hành, chia sẻ. Mỗi lần xin, chúng ta biết rằng : kẻ khác có quyền từ chối, tùy vào thực tế và thực tại hiện hữu của họ.

Khi có nhiệm vụ nâng đỡ ai, giúp họ hóa giải xúc động và tình cảm của mình, chúng ta cùng với họ kinh qua bốn giai đoạn vừa trình bày. Từ từ đi tới từng bước một, trong tinh thần cởi mở và trung thực. Thêm vào đó, mỗi lần nói về MÌNH, chúng ta hãy tự xưng là TÔI. Không dùng sứ điệp ngôi thứ nhất, chúng ta sẽ có xu thế phê phán, tố cáo, đổ lỗi cho người khác đang đối diện.

Với điều kiện diễn tả nầy, cơ hồ một dòng sông lưu nhuận, luân chuyển từ cội nguồn đi ra biển cả ... đời sống tình cảm và xúc động sẽ được thoáng thoát, chuyển biến một cách hài hòa tự nhiên, không còn bị ứ đọng, ối đọng và ô nhiễm.

 

*

 *        *

 

Trong một cộng đồng, khi mỗi thành viên biết diễn tả rõ ràng nhu cầu của bản thân mình, và đồng thời tôn trọng nhu cầu làm người của mọi thành viên khác, cộng đồng ấy đang dấn bước trên con đường yêu thương và hạnh phúc, hiểu biết và tha thứ. Thiếu lòng thứ tha, bất cứ cộng động nào - tôn giáo, đất nước, xã hội, gia đình ... - sẽ không đúng vững, sẽ không có ngày mai. Thứ tha phải bắt đầu bằng lối nhìn của mỗi người về giá trị tự tại của người anh chị em hai bên cạnh. Dù họ có những hành vi sai trái đến độ nào chăng nữa, dù khuyết điểm đang tràn lan trong tác phong của họ, họ vẫn đáng yêu và cần tôi yêu thương, để họ biết vươn lên làm người. Tôi là Đức Bụt đại trí và đại bi, mang đến cho người ấy con đường giải thoát làm bằng Hiểu Biết và Tình Thương. Tôi cũng là Đức Kitô đang đồng hành với người ấy, để họ có thể SỐNG LẠI, trở thành bất tử và bất diệt.

 

*

*        *

Hạnh phúc không phải là quả sung từ trên trời cao đột nhiên rơi vào miệng của tôi. Hạnh phúc chẳng bao giờ là tận điểm, có sẵn đó rồi, hoàn toàn, viên mãn. Bao lâu còn mang thân phận và điều kiện làm người, chúng ta còn phải tạo dựng hạnh phúc cho mình và cho người khác. Hạnh phúc là một tiến trình liên tục, do tôi làm nên, với hai bàn tay, nước mắt và xương máu cụ thể, trong mỗi phút giây của cuộc đời. Hẳn thực, khi tôi tạo điều kiện cho kẻ khác hạnh phúc, chính tôi cũng gặt hái mùa màng hạnh phúc, cho bản thân và cho cuộc đời.

Khi phân tích những quan hệ tiếp xúc và trao đổi giữa hai người, nhà tâm lý Eric BERNE đã khám phá ra sự hiện hữu của ba bộ mặt trong mỗi con người chúng ta :

Bộ mặt thứ nhất là NGƯỜI CHA MẸ, có phần vụ hướng dẫn và soi sáng, nâng đỡ và ủy lạo những ai cùng chung sống trong môi trường;

Bộ mặt thứ hai là NGƯỜI TRẺ EM, có phần vụ học hỏi thường xuyên và sống hạnh phúc với những người đang cùng có mặt trong xã hội;

Bộ mặt thứ ba là NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH, có phần vụ đồng hành và chia sẻ với mọi người anh chị em đồng bào, đồng hương, đồng loại.

Bên cạnh ba bộ mặt tích cực và xây dựng ấy, ba bộ mặt tiêu cực khác cũng đang đe dọa, khống chế con người và quả tim của chúng ta :

Thứ nhất là NGƯỜI CHA MẸ áp chế, hay là bao che quá đáng ;

Thứ hai là NGƯỜI TRẺ EM phản loạn hay là lệ thuộc và bị động ;

Thứ ba là NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH quá duy lý, khô khan lạnh lùng như cái máy vô hồn.

Sơ đồ của E. BERNE sau đây (trang tiếp) cho chúng ta hiểu rõ, và ngày ngày đánh thức chúng ta : Hai con người ÁNH SÁNG và BÓNG TỐI đang tranh giành ảnh hưởng trong chính quả tim mỗi người. Trong tinh thần và chiều hướng ấy, hạnh phúc là CHO. Khi cho bất kỳ một cái gì, chúng ta nhận lại hạnh phúc trong lòng mình. CHO là một quyết định, một chọn lựa, cần được thực thi từng ngày, từng giờ.

Làm người, chúng ta, tự bản chất, là một sinh vật rất giàu có. Chúng ta có rất nhiều điều để trao tặng cho người khác, bắt đầu từ một nụ cười, một liếc nhìn đầy yêu thương, một bàn tay tiếp xúc, hỏi han, xoa dịu, một lời nói nâng đỡ an ủi, khích lệ.

 

"Ánh mắt em là cả một Bầu Trời,

Bàn tay em huyền nhiệm thấu tầng mây,

Bước chân em gieo hạnh phúc mỗi ngày,

Quả tim em: Nguồn suối không cạn vơi!"

*

*        *

Em trọng đại, vì em là tất cả :

Là Mẹ, là mảnh đất của Quê Hương,

Một Khu vườn ương lại giống Tình thương,

Xây non sông làm tươi đẹp khóm phường

*

*        *

Em là Nước tưới Ngày Mai, Tuổi Trẻ,

Đem rừng Xanh phủ hết Đất Tang Thương,

Mang Mặt Trời chiếu rạng vùng tăm tối,

Hạt Tình Người gieo vãi khắp mười phương"

 

Để kết thúc, tôi xin chia sẻ một câu chuyện. Hôm ấy, trong lúc soạn bài nói chuyện nầy, tôi đã trải qua một giấc mơ êm dịu. Trước mặt tôi, từ trên cao rơi xuống bốn con búp bê hoàn toàn giống nhau, trong mọi chi tiết. Mỗi con đều có mũ đỏ, áo trắng, quần xanh, đôi dép màu vàng mặt trời. Bỗng có một tiếng nói từ trên vọng xuống :"Này con, hãy phân biệt cho bằng được cái gì làm nên nét khác biệt cơ bản, giữa bốn con búp bê ở trước mặt con".

Tôi có sáng kiến đi ra vườn, kiếm một cọng cỏ vừa dài, vừa dẻo. Rồi tôi đút cọng cỏ vào lỗ tai của con búp bê thứ nhất. Tôi nhích, nhích, và nhích ... Cọng cỏ thoát ra khỏi lỗ tai phía bên kia. Tôi cũng làm như thế với con búp bê thứ hai. Lần nầy cọng cỏ thoát ra khỏi lỗ miệng của nó. Với con thứ ba, cọng cỏ đi xuống quả tim, bị bế tắc và dừng lại ở đó. Với con sau cùng, tôi nhích lui nhích tới cọng cỏ, một cách rất tế vi và ý nhị. Thế rồi, quả tim nó bắt đầu thổn thức, phập phồng. Tôi tiếp tục nhích thêm. Đôi mắt nó lóe sáng như hai đốm lửa. Tôi vẫn tiếp tục nhích cọng cỏ. Hai tay búp bê bắt đầu cử động. Đôi chân di chuyển về phía trước. Con búp bê đứng dậy, bước tới. Nó Làm Người.

Nếu tôi được phép đem cọng cỏ nhích vào tai các bạn, các bạn sẽ đáp ứng thế nào ... giống con búp bê nào đây ?

 

Chú thích

1.                  BERNE E. Analyse transactionnelle et Psychothérapie, Paris 1971.

2.                  STEINER C. Le conte chaud et doux des chaudoudoux, Illustré par PEF, InterEditions, Paris 1984.

3.                  GOLEMAN D. Emotional Intelligence - Bantam Books, New York, 2 tomes 1995, 1998, 880 tr.

4.                  NGUYỄN Văn Thành - Trao Đổi và tiếp xúc - Tài liệu in Rônêo. Hè 1994, 147 tr.

 

 

Phụ Trương Hai

 

Khi chúng ta tiếp xúc

và trao đổi

1.- Ba thành phần trong mỗi con người.

Mỗi người trong chúng ta là một tổng hợp bao gồm ba nhân vật :

I : Nhân vật CHA MẸ (CM)

1. Định nghĩa : Nhân vật CM là tất cả những điều chúng ta đã tiếp thu, học hỏi và ghi nhận suốt tuổi thời thơ ấu, mỗi lần chúng ta tiếp xúc với người khác trong hoàn cảnh gia đình cũng như trong đời sống xã hội.

Hiện tại chúng ta phát ra những gì ngày trước chúng ta thu nhận.

Chính vì vậy, nội dung tạo nên nhân vật CM là Truyền thống, hệ thống giáo dục gia đình và trường học, những giá trị và qui tắc hành động cũng như những tin tưởng và lề lối nhìn đời.

2. Những biểu hiện của nhân vật CM

2.1. Ngôn ngữ CM

Người CM sử dụng ngôn ngữ "truyền lệnh", khẳng định những "nguyên tắc", trích dẫn thánh hiền hay là ca dao tục ngữ.

Những từ như "phải, hãy, nên, không được ..." luôn luôn ở đầu môi lưỡi của nhân vật CM nầy.

2.2. Thái độ CM

Thái độ CM là trịch thượng dạy đời, điều khiển, lèo lái hay là phê phán, chỉ trích.

2.3. Điệu bộ CM

-         Chỉ tay ra trước để cấm đoán, ra lệnh, dọa nạt.

-         Hay là vỗ vai để ủy lạo và nâng đỡ.

-         Liếc nhìn sắt đá.

-         Giọng nói vững vàng như "đinh đóng", hay là hiền hậu, nâng đỡ, bao che ...

 

 

II. Nhân vật TRẺ EM (TE)

1. Định nghĩa : Bản chất cơ bản của nhân vật TE là tình cảm và xúc động : vui, buồn, giận, ghét, thương, lo, sợ ... tạo nên những động lực thúc đẩy đi tới trong cuộc sống của con người.

2. Những biểu tượng thông thường của nhân vật TE là :

2.1. Ngôn ngữ mang tính chất hồ hởi, thất vọng, bực bội, chửi bới, thề nguyền.

2.2. Thái độ : lăng xăng, hiếu động, co rút, tươi cười hay là chán nản bất động.

2.3. Điệu bộ của nhân vật TE : ồn ào, náo động, liếc nhìn van nài, cầu khẩn, hay là tránh né, lẩn trốn.

III. Nhân vật Trưởng Thành (TT)

1. Định nghĩa : Cơ bản của nhân vật thứ ba nầy là lý luận, suy nghĩ, kiểm chứng, phân tích, tổ chức và quyết định.

Hình ảnh thường được sử dụng để biểu lộ đặc điểm của loại người nầy là bộ máy vi tính có khả năng và thái độ sẵn sàng để giải quyết những khó khăn và xung đột trong cuộc sống.

Kinh nghiệm, thí nghiệm và chứng nghiệm là ba yếu tố tạo nên bản chất của nhân vật TT.

2. Những biểu hiện :

2.1. Ngôn ngữ của loại người nầy bao gồm nhiều câu hỏi tra vấn : ai, cái gì, ở đâu, thế nào, tại sao ...

Họ luôn luôn phân biệt, đắn đo lợi hại.

2.2. Thái độ của nhân vật TT là nghe ngóng, quan sát, tìm hiểu, phân tích....

2.3. Điệu bộ thông thường là :

Thoải mái nhưng chăm chú, hiện diện bình tỉnh, trực tiếp, hai tay cởi mở, đón tiếp.

2. Chức năng của các nhân vật

1. Nhân vật CM : có hai chức năng khác nhau :

1.1.            Chức năng thứ nhất là hướng dẫn bằng cách trình bày những nguyên tắc rõ ràng, hợp lý, hữu ích và uyển chuyển.

Đây là loại người CM+ mẫu mực.

Trái lại người CM- áp chế đề xuất những nguyên tắc quá khắt khe, không hợp lý và không thể nào áp dụng. Thay vì hướng dẫn, loại người nầy chỉ hạn chế, trấn áp và đè nén hoặc đàn áp.

1.2.            Chức năng thứ hai là nâng đỡ. Nhưng nâng đỡ cũng có hai ý hướng khác nhau :

- Nâng đỡ một cách tích cực, bằng cách tạo điều kiện thuận lợi, để người khác có thể chủ động cuộc đời của mình. Đây là loại người CM+ từ nhân.

- Nâng đỡ một cách tiêu cực, bằng cách ôm đồm tất cả, bao che từ đầu tới cuối và rốt cuộc tạo nên tình trạng lệ thuộc hoàn toàn cho người khác. Đây là loại người CM- cứu vãn. Có khuynh hướng xâm lo vào việc người để can thiệp và lèo lái

Nói tóm lại, có 4 loại người cha mẹ:

Hai loại tích cực :

CM+ mẫu mực, kỹ cương

CM+ từ ái, từ tâm

Hai loại tiêu cực :

CM- áp chế, cưỡng bức

CM- bao che, cứu vãn, xâm lo và can thiệp

2. Nhân vật TE cũng có hai chức năng đặc biệt : sống thích ứng với xã hội hay là sống một cách hồn nhiên thoải mái.

Tùy vào hai phương diện tích cực và tiêu cực, chúng ta có thể phân biệt bốn loại nhân vật TE :

2.1.            TE+ thích nghi : Thoải mái và tuân phục là hai đặc điểm của loại người nầy.

2.2.            TE- lệ thuộc : thiếu tự tin, lo sợ và dễ bị ảnh hưởng, hay phàn nàn một mình và không dám bộc lộ tâm tư trước người khác.

2.3.            TE+ phóng khoáng : hồn nhiên, yêu đời, độc lập, sáng tạo, có nhiều ý thích và liên hệ nồng nhiệt.

2.4.            TE- phản kháng : khiêu khích, chống đối, phá hoại, vụng về, bốc đồng và từ chối mọi trao đổi.

Sơ đồ sau đây tóm lược tất cả những yếu tố đã được trình bày :

 

Sau đây là những mục tiêu cần đeo đuổi :

1.      Vận dụng tối đa con người TT+ trong mỗi hoàn cảnh.

2.      Cho phép con người TE+ phát biểu, trong những điều kiện thích ứng với hoàn cảnh.

3.      Cập nhật hóa thường xuyên con người CM+ : Thường xuyên xét lại những nguyên tắc, qui luật.

4.      Biết tìm cách vô hiệu hóa tức khắc tiếng nói lải nhải của con người CM- trong bản thân mình.

5.      Tìm cách hạ giảm tối đa ảnh hưởng của con người CM- nơi kẻ khác

 

 

 

3. Những đường hướng trao đổi

Khi hai tổng hợp (CM-TT-TE) gặp gỡ và chung sống với nhau, những điều chúng ta cần tìm hiểu bao gồm những câu hỏi sau đây :

Trong ba nhân vật, ai xuất đầu lộ diện ?

Ai đóng vai thượng thắng ?

Nhân vật nào trao đổi với nhân vật nào ?

Họ trao đổi theo những thể thức và đường hướng nào ?

Ở đây chúng ta đề cập đến những hình thức trao đổi bằng lời nói. Tuy nhiên chúng ta có thể ứng dụng vào lãnh vực trao đổi bằng điệu bộ và tác phong.

Chúng ta có thể phân biệt những hình thức trao đổi sau đây :

1.      Trao đổi song hành và bổ túc.

2.      Trao đổi theo đường chéo.

3.      Trao đổi du kích hay là ném đá giấu tay.

4.      Trao đổi tránh né hay là đánh trống lảng.

Thứ nhất : Trao đổi song hành và bổ túc.

Hai điều kiện cơ bản xác định loại trao đổi nầy :

-         Thành phần phát và thành phần tiếp nhận được đề xuất một cách rõ ràng minh bạch.

-         Trong giai đoạn trả lời, người nhận trở thành người phát và người phát trở thành người nhận.

Ví dụ 1 : bây giờ là mấy giờ ?

TT+ ---->        TT+

 

Bây giờ là 7 giờ chiều.

TT+ ---->        TT+

Ví dụ 2 : Em thích chơi với chị. Chị thật dễ thương

TE+ ---->        TE+

Chị cũng thích chới với em. Hai đứa mình thật hợp nhau !

TE+ ---->        TE+

Ví dụ 3 : Bạn hãy tôn trọng chỉ thị : văn phòng đang chờ phiếu đăng ký của bạn.

CM+ ---->      TE+

 

- Vâng, tôi sẽ mang tới chiều nay.

TE+ ---->        CM+

 

- Bạn làm gì tôi, nếu tôi không đăng ký ?

TE_ ---->        CM_

Đây là loại trao đổi có thể tiếp diễn lâu dài và ổn định. Tuy nhiên, xét về hiệu năng, loại trao đổi nầy có thể tích cực hoặc tiêu cực tùy vào yếu tố mục tiêu thành đạt hay là không thành đạt.

Thứ hai : Trao đổi theo đường chéo

Loại trao đổi nầy xảy ra khi nhân vật phát và thu không trùng hợp với nhau.

Ví dụ 1 : Bây giờ mấy giờ ?

TT+ ---->        TT

 

Anh không có tiền mua đồng hồ à !

CM_ ---->      TE_

Ví dụ 2 : Tôi không cần nghe những lời vô nghĩa của bạn !

CM_ ---->      TE_

 

Tôi cũng vậy, chả thèm nghe những lời lố lăng của bạn.

CM_ ---->      TE_

Ví dụ 3 : Bạn làm xong bản báo cáo chưa?

TT+ ---->        TT

 

Tôi lo quá, không biết viết cái gì !

Làm ơn, giúp tôi đẻ ra một cái.

TE_ ---->        CM

Loại trao đổi đường chéo này sẽ có hiệu năng tiêu cực, nếu đường chéo trên phát xuất từ một nhân vật CM hay TE tiêu cực. Trái lại, nếu điểm xuất phát là thành phần tích cực, thể thức trao đổi sẽ trở nên tích cực.

Ví dụ 1 : Bài thuyết giảng của anh thật tuyệt vời !

CM+ ---->      TE+

 

Anh dựa vào tiêu chuẩn nào mà đánh giá tôi một cách tích cực như vây ?

TT+ ---->        TT

Ví dụ 2 : Cái áo này đắt quá, mẹ ạ !

CM_ ---->      TE_

Theo con, đắt là bao nhiêu ?

TT+ ---->        TT

Thứ ba : Trao đổi du kích.

Trao đổi du kích còn gọi là ném đá giấu tay sẽ xảy ra khi lời nói hoặc cơ cấu bề mặt không trùng hợp với ý nghĩa đích thực hay là cơ cấu chiều sâu.

Ví dụ :

- Bạn có hiểu không ? = Mầy ngớ ngẩn

TT ---->          TT       = CM_ ----> TE_

 

Vâng, hiểu        = Anh cho tôi là đồ ngu !

TT ---->          TT       = TE_ ----> CM_

 

- Bà đã dọn xong nhà cửa chưa ? = Chưa xong à, thật là chậm !

TT ---->          TT       = CM_ ----> TE_

 

Vâng, thưa anh yêu quý, em đang còn làm suốt buổi sáng ! = Giúp cho em một tay

TT ---->          TT       = TE_ ----> CM_

Thông thường những loại trao đổi du kích chỉ làm cho cuộc đời oái oăm và phức tạp, vì "nói một đường và yêu cầu người khác hiểu một nẻo" là cơ bản loại trao đổi này.

Trong những trường hợp bạn bè thân tín, thể thức trao đổi này thường được sử dụng để trêu chọc một cách tế nhị và duyên dáng. Tuy nhiên vượt quá mức độ nào đó, nó sẽ làm tổn thương những quan hệ bạn bè hay là đôi lứa.

Tệ hại hơn nữa là chúng ta có thể sử dụng loại trao đổi du kích này một cách vô thức, để tạo nên những căng thẳng, xung đột trong những quan hệ gia đình, nghề nghiệp và xã hội.

Thứ bốn : Trao đổi loanh quanh

Khi trao đổi loanh quanh, đánh trống lảng, chúng ta không dám đi thẳng vào đề, sợ đụng chạm, đương đầu hay là vướng mắc vào một thế kẹt. Cho nên chúng ta đi vòng vo, luẩn quẩn.

Ví dụ : Bạn nghĩ thế nào về ý kiến của bà giám đốc ?

TT ---->          TT

Khi phát biểu về lập trường của một người, chúng ta nên suy nghĩ, "đánh lưỡi bảy lần trước khi nói" như cha ông chúng ta thường dạy ...

CM_ ---->      TE

 

Nói tóm lại, sau đây là năm định luật :

1)      Để duy trì và kéo dài những cuộc trao đổi, loại trao đổi đồng hành, bổ túc là dụng cụ hữu hiệu.

2)      Những trao đổi theo đường chéo thường làm gián đoạn những tương quan liên lạc, hay là thay đổi những quan hệ thông thường.

3)      Khi có hai hình thức trao đổi tranh giành ảnh hưởng, loại chiều sâu có tầm quan trọng hơn là loại bề mặt.

4)      Để tìm hiểu người, chúng ta cố gắng tối đa khám phá những trao đổi du kích.

5)      Nhưng để làm cho người khác hiểu mình, chúng ta cố gắng diễn tả mình một cách rõ ràng và trực tiếp, đồng thời tìm cách loại bỏ những hình thức trao đổi ẩn dụ, úp mở, loanh quanh. Đi thẳng vào đề là dụng cụ hữu hiệu !

4. Những cái "vuốt ve tâm lý"

1.- Định nghĩa :

Trẻ sơ sinh từ lúc sinh ra đến lứa tuổi 6 hoặc 7 tháng, cần được người mẹ tiếp xúc, vuốt ve, vỗ về để sống còn và phát triển liên tục.

Bàn tay mơn trớn vuốt ve của bà mẹ cũng quan trọng ngang hàng với hai bầu sữa cung cấp lương thực hằng ngày.

Khi vuốt ve làn da và thớ thịt của đứa con, người mẹ đã sử dụng một loại ngôn ngữ không lời để nói cho đứa con từ từ hiểu biết rằng :"Con là một giá trị độc đáo. Con là một con người quan trọng trong cuộc sống của mẹ con ".

Ngày ngày lớn lên, đứa con sẽ cảm nghiệm  những loại vuốt ve khác : liếc nhìn của mẹ, giọng nói của me, nụ hôn ngon lành của mẹ, bàn tay ấm áp của mẹ. Những loại vuốt ve ấy đều mang một ý nghĩa : mẹ có mặt với mình, mẹ lưu tâm đến mình. Mẹ chấp nhận sự có mặt của mình trong toàn thể cuộc sống của mẹ. Tôi là một người quan trọng, cuộc đời thật đáng sống !

Theo những khám phá tâm lý, nhu cầu được vuốt ve ấy không biến mất khi đứa bé lên 7 tháng. Trái lại, nhu cầu ấy vẫn mãi hoài tồn tại trong cuộc sống của mỗi người, mặc dù nó thay hình đổi dạng, đôi khi được ngụy trang hay là bị bóp méo dưới nhiều hình thể khác nhau. Nói cách chung, khi thiết lập những quan hệ với một người, dù ý thức hoặc vô thức chúng ta đang đợi chờ khao khát từ phía người ấy những cái vuốt ve tâm lý và tình cảm; nghĩa là tất cả những dấu hiệu tỏ ra cho ta biết: "Người ấy đang lưu tâm đến chúng ta". Nếu vì một lý do nào đó, những dấu hiệu ấy không xuất hiện, chúng ta sẽ tạo nên mọi cơ hội, thậm chí những cơ hội không thích hợp, để nhận lãnh đầy đủ liều lượng vuốt ve mà chúng ta khao khát mong mỏi. Trầm mình trong tình trạng bệnh hoạn, suy nhược hay là những xung đột căng thẳng trong đời sống gia đình hoặc nghề nghiệp ... có thể là những kế hoạch vô thức nhằm thu lượm một vài "vuốt ve" mặc dù chúng ta phải trả những giá rất đắùt đỏ, khả dĩ làm cho toàn thể cuộc sống chúng ta phải "tàn gia bại sản".

2.- Những loại vuốt  ve tâm lý

Chúng ta có thể phân biệt nhiều loại vuốt ve khác nhau sau đây :

2.1. Những vuốt ve tích cực : Là những thể thức trao đổi nhằm chấp nhận và nhìn nhận những giá trị đích thực của một người. Theo ngôn ngữ thông thường, đây là những lời tán dương và khen thưởng.

Để một lời vuốt ve trở thành tích cực, nó phải đáp ứng 5 điều kiện hoặc đặc điểm sau đây :

-         Thích hợp với giá trị được nêu tên.

-         Đúng liều lượng của cá nhân.

-         Thành thật, trung thực.

-         Thực tế hay là dựa vào những lý chứng khách quan.

-         Tôn trọng cá tính của con người cụ thể: tôi cố gắng nhận chân giá trị của cô A thay vì khen thưởng người phụ nữ Việt Nam một cách tổng quát.

2.2. Những vuốt ve tiêu cực nhằm nhấn mạnh một khuyết điểm, một thiếu sót, một lỗi lầm nơi người khác. Đây là những lời khiển trách hoặc nhận xét phê bình.

2.3. Những vuốt ve tuyệt đối : có tính toàn diện, vô điều kiện và không đưa ra những đòi hỏi đáp lễ.

2.4. Những vuốt ve tương đối : hạn chế vào một địa hạt, một thời gian hay là tùy thuộc những điều kiện được đề xuất.

Ví dụ : Loại 2/3 :

Tôi thích làm việc với bạn.

Tôi tin vào bạn và khả năng của bạn.

Loại 2/4 - Năm nay trong học kỳ I, học lực của con đã giảm sút từ điểm A xuống C.

-         Sáng nay, bạn đến trễ 15 phút.

-         Bản báo cáo này thiếu chứng minh chính xác và khách quan ở phần thứ ba.

3.- Những qui luật ấn định thể thức vuốt ve tâm lý.

3.1. Vuốt ve là một loại sinh tố cần thiết cho cuộc sống mỗi người. Cho nên để sống hòa hợp với mọi người, chúng ta phải ý thức và phát huy hai khả năng cho và nhận những vuốt ve tâm lý.

3.2. Vuốt ve tích cực quan trọng hơn vuốt ve tiêu cực. Vuốt ve tiêu cực quan trọng hơn là sự lãnh đạm tình cảm.

3.3. Mỗi người có những sở thích cá biệt và độc đáo.

-         Người nầy thích được nhìn.

-         Người kia thích nghe.

-         Kẻ khác thích được ôm choàng

-         Một số người co rút, khi được đụng chạm.

Tôn trọng con người là lưu tâm đặc biệt đến sở thích cá biệt ấy.

3.4. Để vuốt ve có hiệu năng thực sự, chúng ta phải tôn trọng liều lượng của từng cá nhân. Vuốt ve bất cập hoặc vuốt ve thái quá có thể tạo nên những hậu quả đối nghịch.

3.5. Vuốt ve là một món ăn phải dùng khi còn nóng. Cho nên để tạo nên những thành quả mong đợi, chúng ta phải chọn lựa thời điểm thuận lợi. Thông thường, "khen chê tại trận", vuốt ve "bắt được tay vay được cánh" có giá trị gấp bội lần hơn là lặp đi lặp lại đến mức độ quen nhàm, nguội lạnh một điệp khúc tán dương đã lỗi thời, cũ kỹ hay là hoàn toàn sáo cưởng.

3.6. Giá trị của những vuốt ve không hệ tại vào số lượng. Không cần phải món ăn cao lương mỹ vị. Nhưng là đến đúng lúc, đúng giờ. Nó đã được chuẩn bị ngày ngày trong cuộc sống, bởi những bàn tay ấm áp và những con mắt gặp được đáy sâu của lòng người.

3.7. Sau hết, trong vấn đề quản lý những vuốt ve, có những con người tỏ ra rất dè sẻn, tiện tặn.

Tuy nhiên, chúng ta càng ban phát một cách đại lượng, kho tàng của chúng ta càng trở nên vô tận và vô biên.

4. Xây dựng Quê Hương bằng những cái vuốt ve cụ thể và bình thường.

Khi nghĩ đến Quê Hương, tôi lắng nghe vang vọng trong đáy sâu của lòng mình lời nhắn nhủ thâm tình :

"Tôi có rất nhiều vốn liếng tự nhiên : hai bàn tay của tôi, hai con mắt của tôi, giọng nói của tôi ... và nhất là quả tim của tôi".

Trên mọi nẻo đường của Đất Nước, người anh chị em đang cần những vuốt ve đạm bạc, đơn thuần của tôi, để ngày ngày vác cuốc ra đồng, gieo vải cho vụ mùa sắp tới, với những điều kiện cụ thể, sẵn có của môi trường Việt Nam hiện tại.

-         Mỗi người chúng ta phải chăng là một TRÌ ĐỊA chuyên môn đi nối lại những con đường hư, làm gián đoạn giao thông và liên lạc ? Bạn và tôi, chung ta hãy cố quyết dốc toàn lực, để nối lại khắp đó đây những nhịp cầu hiểu biết và cảm thông : giữa người với người, giữa chúng ta với nhau, những người con của mẹ.

-         Mỗi người trong chúng ta là QUAN THẾ ÂM : tìm tới với khổ đau không ngần ngại. Không e sợ một trở lực nào. Lắng nghe tiếng kêu đau thương của thế nhân, của anh chị em đồng bào để sẵn sàng tới với họ bằng mọi cách. Tìm tới trong bất cứ một hình dáng nào thích hợp với chính mình : một bác sĩ, một kỹ sư, một nhà văn, một em bé, một nhà làm chính trị ... một phụ nữ, một bà mẹ nội trợ.

-         Anh và tôi, chúng ta là ĐỊA TẠNG : muốn có mặt khắp muôn nơi. Ở những chốn nhiều khổ đau nhất của nhân loại. Chừng nào địa ngục chưa trống không, chúng ta còn phải ở lại đó, để đồng cảm và hoạt động. Dấn thân một cách thành tâm, phải chăng đó là sứ mệnh đang muôn đời đeo đuổi mỗi người. Bởi vì, ở đâu có những người như Địa Tạng, ở đấy bầu khí sẽ hân hoan, tràn đầy lòng tin tưởng. Dù ở địa ngục ! Dù ở bất cứ địa ngục trần gian nào ! Chỗ nào có con người cỡ Địa Tạng, chỗ ấy không có khổ đau. Và cho dù có khổ đau đi nữa, khổ đau ấy là biểu tượng một lòng thương bao la và huyền nhiệm, đại lượng và cao cả.

-         Sau hết, mỗi người Việt Nam là Bồ Tát Thường BẤT KINH : Trên mọi nẻo đường của quê hương, gieo rắc niềm tin, tinh thần tự trọng, tự lực, tự cường. Đi đâu cũng rỉ tai cho mọi người : Bạn và tôi có đủ khả năng để bước tới. Hãy tin ở sức mình. Giải trừ những mặc cảm tự ti, bất lực. Đừng bị động. Cùng nhau thắp lên một que diêm, trước khi chuẩn bị một rừng lửa. Đổ một giọt mồ hôi ! Thay vì thúc đẩy kẻ khác hiến thân ngoài trận địa ! Gởi cho anh chị em, bà con thôn xóm một nụ cười, trước khi hô hào Công Bình và Bác Ái.

 

 

 

Nội Dung

 

Lời Mở đầu : Đồng cảm để đồng hành

                                                                                                                 

Chương Một : Đoái thương nhìn cuộc đời                                             

            1.- Ghi nhận và phản ảnh                                            

            2.- Thuyên giải                                                           

3.- Lối nhìn và yêu thương                                          

4.- Những động tác cụ thể                                         

5.- Khoa học kỹ thuật tạo đồng cảm               

6.- Tên Em Mẹ Từ Tâm                     

                       

Chương Hai : Nhìn đời với trăm con mắt                                               

            1.- Nhìn nhận giới hạn                                    

            2.- Nhìn nhiều lần                                                       

            3.- Hiểm họa                                                             

            4.- Ba nội dung : Thực tại , Bản sắc, Xúc động

                                                                                                                 

Chương Ba :   Lắng nghe xúc động                         

                        Xúc động và lối nhìn                           

                        Để ý thức hóa                         

                        Giai đoạn 1                 

                        Giai đoạn 2                 

                        Giai đoạn 3                 

                        Giai đoạn 4

                                                                                                                 

Chương Bốn : Trăm lỗ tai                            

            Xúc động và quan hệ                          

            1.- Lắng nghe                         

            2.- Đặt câu hỏi                       

            3.- Phản hồi                            

            4.- Nhìn nhận

                                                                                                                 

Chương Năm :   Học làm Người                                                            

1.- Chân lý xuất hiện khi đồng  hành, chia sẻ                2.- Một lối nhìn, một nhu cầu  

3.- Ba sự thật                                     

4.- Thế nào là học ?                           

5.- Khoa học kỹ thuật             

6.- Địa hạt giáo dục                            

7.- Ba nội dung                       

                       

Chương Sáu Quan hệ                                                                          

            1.- Bốn động tác hài hòa                    

                           Động tác Một : Chủ động    

                           Động tác Hai : Sự khác biệt 

                           Động tác Ba : Tạo điều kiện 

                           Động tác Bốn : Liên đới                   

            2.- Bổ túc và kiện toàn           

            3.- Khi bạo động bùng nổ                   

            4.- Tức giận, Lo sợ 

                                                                                                                 

Chương Bảy : Tuyên dương, khen thưởng                                            

            1.- Khen thưởng                                 

            2.- Cám ơn                                        

            3.- Trong sư phạm giáo dục    

            4.- Tư vấn và can thiệp sớm

                                                                                                                 

Thay lời cuối : Ông Đồ Sộ                            

Bài tập                                                                                  

Sách tham khảo                                                       

Phụ Trương Một : Khổ đau và Hạnh phúc      

Phụ Trương Hai  : Khi chúng ta tiếp xúc và  trao đổi.                                      

 _________________________________________

 

 

Tủ Sách Tình Người

Lausanne, mùa Xuân 2003

 

© Nguyễn Văn  Thành

Tủ sách Tình Người

Lausanne, Mùa Xuân 2003

I.S.B.N. 2-9700230-4-0

 

Món quà này làm bằng nước mắt

và khổ đau, cũng như nụ cười và an lạc ...

Con kính dâng lên Mẹ Quê hương,

để làm hành trang

trên những đoạn đường mưa bảo lụt lội ...

 

Nguyễn Văn Thành