Nội Dung
Lời mở đường: « Tôi nh́n
tôi trên vách
Chương Một:
Nguồn gốc Rồng Tiên
Chương Hai:
Khi Mặt Hồ nổi sóng, Thần Kim Qui xuất hiện
Chương Ba:
Thánh Gióng và con đường « đi lên » của con Rồng cháu Tiên
Chương Bốn:
Sơn Tinh và Thủy Tinh : Hai con Đường, Một Nước Non
Chương Năm: "Tấm và Cám"
trong nội tâm của Chúng ta
Chương Sáu: « Thằng Bờm » trong
cơi ḷng của Người Việt Nam
Chương Bảy:
Đối Thoại : Bắc lại Nhịp Cầu Hiểu Biết và T́nh Thương
Chương Tám: Con
Đường Luyện Vàng
Chương Chín:
Xây dựng Quan Hệ và Quan Hệ Xây Dựng
Chương Mười: Hạnh Phúc và
Khổ Đau
Trong ḷng Cuộc đời
Chương Mười Một: Khi nào
một cơ cấu tổ chức trở nên bệnh hoạn ?
Chương Mười Hai:
Chuyển hóa thực trạng ngày hôm nay ? (Sẽ phổ
biến ở một trang riêng)
Thay lời Kết Luận: Chiếc Bè
để qua sông
Cùng một tác giả
Lời mở đường
«
Tôi nh́n tôi trên vách
»
Một trong những cuốn sách của nữ văn sĩ Túy Hồng mang tựa đề là : «
Tôi nh́n tôi trên vách ». Hẳn thực, phóng ḿnh lên trên một màn ảnh để
nh́n xem ḿnh, lắng nghe ḿnh ăn nói làm sao, cư xử và đăi ngộ thế nào
với người anh chị em đồng bào, trong cuộc sống thường ngày... phải chăng
đó là một khả năng đă giúp Túy Hồng xác định ḿnh là ai, không thả
ḿnh cuốn trôi theo ḍng thác lũ, như một ngọn lá bấp bênh và vô hồn,
vô giá trị và vô nghĩa ?
Tâm lư học đương đại đặt tên cho khả năng « thấy ḿnh đang sống » như
vậy, là PHẢN TỈNH, có nghĩa là thức tỉnh, sáng suốt về những ǵ chúng
ta đang làm, đang nói và đang suy tư. Theo lối nói của Thiền học, khi
ăn tôi biết tôi đang ăn. Khi làm tôi biết tôi đang làm. Khi đi, tôi
biết tôi đang đi. Khi dừng lại, tôi biết tôi đang dừng lại. Làm được
những điều ấy, tôi sẽ là một con người có ư thức, chứ không phải là
chiếc máy tự động và vô hồn, ngày ngày nhai đi nhai lại, những ǵ mà
người khác đă lên kế hoạch hay là lập sẵn những chương tŕnh cho tôi,
từ trên hoặc từ ngoài.
Một
cách cụ thể, mỗi lần tôi tiếp xúc và trao đổi với anh chị em đồng bào,
phải chăng khi nói, tôi biết tôi ĐANG NÓI với tư cách là một chủ thể
toàn phần, đang có những quan hệ năng động và hài ḥa với bao nhiêu
chủ thể khác ? Tôi t́m cách diễn tả, chia sẻ con người trung thực của
tôi, thay v́ lên tiếng tố cáo, mạ lị, đàn áp và bốc lột con người ở
trước mặt tôi ? Tôi cố quyết làm người và đồng thời tôi tôn trọng
quyền làm người của những ai đang chung sống với tôi, trong môi trường
xă hội và Quê Hương. Tôi cố quyết tạo cho họ, bằng cách này hoặc cách
khác, tùy vào thực tế cụ thể của ḿnh, những điều kiện thuận lợi, khả
dĩ giúp đỡ, kêu mời họ cũng ngày ngày vươn ḿnh lên, làm người với tôi.
Ai c̣n bị ức hiếp, mà ḷng tôi không quặn đau ? Ai c̣n vất vă, lam lũ,
chưa thể kiếm ra được mỗi ngày một loong gạo, mà ḷng tôi không cảm
thấy trăn trở và bồi hồi ? Bao lâu tôi c̣n « bịt tai, bịt mắt, đóng
kín cửa ḷng » trước t́nh trạng «người bốc lột người», trong ḷng Quê
Hương và Đất Nước, sau hơn «bốn ngh́n năm văn hiến...», liệu tôi có
biết rơ « tôi thực sự là ai » hay chưa ? Phải chăng tôi đang dám nh́n
ḿnh hiện nguyên h́nh một cách rơ rệt, trên một màn ảnh ở trước mặt ?
Đồng
cảm và đồng hành với anh chị em đồng bào, như tôi vừa giới thiệu một
vài đường nét chấm phá, phải chăng đó là những chủ đề được xoáy lui
xoáy tới, trong những câu chuyện Huyền Sử, mà Tổ Tiên và Cha Ông đă
trối trăng lại cho chúng ta, từ đời nầy qua đời khác, cho đến ngày hôm
nay ? Một cách nào đó, các vị đang kêu mời chúng ta hăy làm người, bằng
cách đặt ra những câu hỏi sau đây :
-
Con là ai ?
-
Con đang
mang trong ḿnh những giá trị nào ?
-
Sở trường
mà con cần phát huy, vun tưới là ǵ ?
-
Sở đoản mà
con cần khắc phục và hóa giải bao gồm những điều nào ?
-
Con đang
thực thi trách nhiệm thế nào, với mỗi người anh chị em đồng bào, nhất
là với những thế hệ của ngày mai đang từ từ lớn lên ?
-
Nói tóm
lại, bao nhiêu THÁCH ĐỐ đang đợi chờ con là ǵ, trên mỗi tấc đất của
Quê Hương ?
Thách
đố có nghĩa là những vấn đề ắt có, tất yếu thuộc thân phâïn và điều
kiện làm người. Nếu chúng ta biết đối diện và nhận diện, bằng cách
chuyển biến hoặc hóa giải, chúng ta sẽ có rất nhiều cơ may, để vươn
ḿnh lên, thăng tiến trên con đường làm người. Trái lại, nếu chúng ta
ù ĺ, bị động, xuôi tay hay đầu hàng, chính chúng ta đang chuốc vào
ḿnh thân phận làm nạn nhân, đồ vật hay là công cụ của người khác. Lúc
bấy giờ, thay v́ sáng tạo ḿnh, với tư cách là một chủ thể biết đảm
nhiệm bản thân và cuộc đời, chúng ta chỉ PHẢN ỨNG, với những thái độ
chua cay, phàn nàn, trách móc, hận đời. Hay là chúng ta trở nên con người
phản động, chống đối, phá hoại, bạo động... xây dựng cuộc đời của ḿnh,
với hai bàn tay thấm máu, luôn luôn hành hạ, sát hại, thủ tiêu hay là
lạm dụng kẻ khác, cho dù đó là những trẻ em non dại hay là những người
dân đơn sơ, mộc mạc, vô tội...
Trong
một số bài chia sẻ, được đăng tải đó đây trên nhiều Tờ Báo trong và
ngoài Nước, tôi đă khảo sát những vấn đề được đặt ra trên đây, với tất
cả thực chất, thực hữu và bao nhiêu giới hạn ắt có thuộc con người xương
máu và cụ thể của tôi. Hôm nay, sau một cuộc đời nghiên cứu và học hỏi,
tham khảo và lắng nghe nhiều vị thầy ở Đông cũng như ở Tây, trên Bắc
cũng như dưới Nam, tôi tạm thời đúc kết, góp lại thành một cuốn sách,
với tựa đề : « Huyền Sử Việt Nam : Con đường LUYỆN VÀNG của Con Rồng
Cháu Tiên ».
Xuyên
qua tác phẩm nầy, tôi muốn nhấn mạnh những trọng điểm sau đây :
-
Thứ nhất,
trong ḷng Quê Hương, từ Ải Nam Quan cho đến Mũi Cà Mau, tất cả
chúng ta không trừ sót một ai, đều là anh chị em đồng bào, phát xuất
từ một Cha và một Mẹ. Chúng ta tất cả mang hai ḍng máu Lạc Hồng,
trong quả tim.
-
Thứ hai,
tuy là anh chị em, chúng ta khác nhau, trong nhiều địa hạt. Không có
hai người hoàn toàn giống nhau, như hai hạt nước. Mặc dù vậy, chúng ta
đang cần nhau. Chúng ta có thể bổ túc, kiện toàn và xây dựng cho nhau.
-
Thứ ba,
thách đố lớn lao và kỳ hùng, đang có mặt trong con tim và cuộc đời của
mỗi người, là con đường Đối Thoại, làm bằng chất liệu T́nh Thương và
Hiểu Biết, Đồng Cảm và Đồng Hành, Thức Tỉnh và Tha Thứ. Một cách cụ
thể, quan hệ Đối thoại là ngày ngày ngồi lại với nhau, trao đổi qua
lại hai chiều, biết cho và biết nhận, biết xin và biết từ chối một
cách sáng suốt và tự do, vừa có t́nh và vừa có lư. Để xây dựng và bồi
đắp con đường ấy, mỗi người diễn tả thực tế của chính ḿnh, đồng thời
tôn trọng tư cách làm chủ thể của người anh chị em đang chung sống hai
bên cạnh.
-
Thứ bốn,
con đường trao đổi và chia sẻ ấy là một tiến tŕnh liên tục bao gồm ba
chiều kích « ngày qua, hôm nay và ngày mai », và sẽ chẳng bao giờ chấm
dứt. Mỗi người có trách nhiệm đóng góp phần ḿnh, để không ngừng xây
dựng, củng cố, đổi mới con đường đang đi.
-
Thứ năm,
nếu chúng ta thiếu Tỉnh Thức và Ḷng Tha Thứ, mỗi giây mỗi phút, con
đường Đối Thoại ấy có thể lập tức trở thành « Một Đại Lộ Kinh Hoàng »,
làm bằng chết chóc, kỳ thị, hận thù và chiến tranh... đang chạy xuyên
qua quả tim của từng người trong chúng ta, và đang xé nát Quê Hương
thành nhiều mảnh vụn. Lúc bấy giờ, chúng ta sẽ phản bội Tổ Tiên và Cha
Ông. Đồng thời, chúng ta chỉ có một gia tài đổ nát và tang thương, để
trối trăng lại cho các thế hệ con cái và cháu chắt sau này.
Năm điều
tâm niệm trên đây đă được kết tinh và kết tụ, trong quả tim của tôi,
sau môït cuộc đời học hỏi, nghiên cứu, khổ đau và tu luyện. Tuy nhiên,
phải chăng đó cũng là thực tế và thực tại của mỗi người đang mang ḍng
máu Rồng Tiên, trong từng huyết quản, giống như tôi ? Tôi thắp hương
khấn vái Tổ Tiên và chờ đợi câu trả lời của mỗi người anh chị em đồng
hương, đồng bào, bất phân nguồn gốc xă hội, chủng tộc, địa phương,
chính kiến và Đức Tin Tôn Giáo.
Mùa Hè năm 2004
Chương Một
Nguồn gốc Rồng Tiên
Con
thân thương, hỡi con cháu Lạc Hồng,
Làn
da con màu vàng đồng lúa chín,
Mái
tóc con nhắc lại những ḍng sông :
Sông Hồng, Sông Hương, Cửu Long cuồn cuộn,
Mang phù sa nuôi sống những mầm non,
Chuyên chở nước tưới mát những cánh đồng.
***
Quên sao được : Bàn tay con huyền nhiệm,
Tay
Bà Trưng, Bà Triệu cứu Non Sông,
Tay
sáng tạo bao chiến công xán lạn,
Tay
Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Quang Trung…
Tay
oanh liệt của cháu chắt Vua Hùng,
Mang ḍng máu Rồng Tiên trong huyết quản.
***
Con
thân thương, hỡi con cháu Lạc Hồng,
Hăy
đứng thẳng, cho ḷng người cường tráng,
Giữa ḍng đời, ôm măi vững niềm tin,
Đường
con đi, hy vọng ở đáy ḷng.
Trong đêm tối, ánh mắt tràn ánh sáng,
Người
phản bội, mở rộng ḷng tha thứ,
Dù
té ngă, vẫn bước trọn con đường,
Giờ
truân chiên, nở nụ cười tỏa rạng.
***
Con
trọng đại, v́ con là tất cả :
Là
mảnh đất mầu mỡ của Quê Hương,
Một
khu vườn ươm lại giống T́nh Thương,
Xây
Non Sông, làm tươi đẹp khóm phường.
Con
bồi đắp cho ngày mai, tuổi trẻ,
Trồng rừng xanh phủ hết đất tang thương,
Cưu
mang Trời, chiếu rạng vùng tăm tối,
Hạt
T́nh Người gieo văi khắp mười phương.
***
Mục đích
của chương nầy khai sáng một số vấn đề cụ thể như sau :
Xuyên
qua những câu chuyện huyền sử về “nguồn gốc Rồng Tiên” của người Việt
Nam, Tổ Tiên muốn nhắn lại cho chúng ta và con cháu sau này những điều
ǵ quan trọng ? Sứ điệp của các vị bao gồm những nội dung như thế nào
? Giá trị của các sứ điệp ấy, trong những điều kiện sinh sống của
chúng ta ngày hôm nay, c̣n mang tính hiện thực và thời sự nữa hay
không ? Hay đó chỉ là những chiếc áo đă lỗi thời, cũ kỹ, không c̣n
thích hợp với con nguời có tinh thần khoa học, thuộc thời đại Ngh́n
Năm Thứ Ba
Để
tháo mở một phần nào bao nhiêu vấn nạn ấy, chúng ta sẽ lần lượt khảo
sát hai loại trọng điểm sau đây :
Trong
phần Một, với kỹ thuật “Sáu chiếc Mũ” của tác giả Ed. De Bono, chúng
ta sẽ khám phá sáu tầng lớp ư nghĩa khác nhau của mỗi câu chuyện huyền
sử.
Trong
phần Hai, xuyên qua những thành quả được phát hiện, chúng ta sẽ ư thức
được rằng : mỗi câu chuyện huyền sử có mục đích đáp ứng và thỏa măn
bốn nhu cầu làm người có mặt trong bản thân của chúng ta. Đồng thời,
những kết quả ấy cũng làm nổi bật ba chiều kích trọng yếu có mặt trong
bản sắc làm người của chúng ta.
Phần Một
Sáu tầng lớp ư nghĩa của Huyền sử
Để tránh những ngộ nhận và sai lầm, trong cách sửû dụng từ ngữ, tôi
xin đưa ra một số phân biệt quan trọng sau đây :
-
Thứ
nhất, Huyền sử không phải là lịch sử. Khi tôi chép lịch sử của một dân
tộc hay xứ sở, tôi ghi lại những sự kiện và biến cố, một cách khách
quan và xác thực được chừng nào hay chừng ấy. Những sự kiện và biến cố
ấy được chính tôi chứng kiến, mục kích trực tiếp. Hay là tôi đă tham
khảo và trích dẫn những tài liệu có giá trị, được các nhà chép sử khác
công nhận. Tuy nhiên, với bao nhiêu nỗ lực có tính khoa học ấy, tôi
c̣n phải thú nhận rằng : không bao giờ và không có chi là hoàn toàn
khách quan một trăm phần trăm. Khi sao chép, ghi nhận một sự kiện, tôi
đă làm công việc chọn lựa, chắt lọc, cân nhắc, nghĩa là tôi đă vận
dụng bao nhiêu ư kiến và lập trường chủ quan của tôi. Sau khi ghi nhận
những sự kiện, tôi c̣n phải “thuyên giải”, nghĩa là xếp đặt lại, t́m
ra ư nghĩa và xác định phương hướng hành động. Riêng trong hoàn cảnh
Việt Nam, công việc chép sử chỉ mới khai sinh ở dưới Triều Lư
(1010-1225), được kiện toàn ở dưới Triều Trần (1225-1400), và tương đối
hoàn chỉnh ở dưới triều Lê (1418-1527). Tuy nhiên, v́ chiến tranh xảy
ra liên miên, nhiều tài liệu lịch sử đă bị tiêu hủy, đốt cháy và thất
lạc. Từ Triều Lư trở lên về trước, trong ṿng gần bốn ngàn năm, lịch
sử của đất nước tuyệt đối không được ghi chép thành văn bản. Thay vào
đó, chúng ta có những lời truyền tụng, những di tích và những hiện vật
như cung tên, khí giới, trống đồng, đồ gốm… Những phương tiện nầy cho
phép các sử gia thiết lập một số điểm mốc quan trọng, khả dĩ đánh dấu
những giai đoạn phát triển của dân tộc Việt Nam từ thời Hồng Bàng
(2879-258 trước công nguyên) cho đến ngày hôm nay.
-
Khác
với lịch sử, như chúng ta vừa tŕnh bày ư nghĩa, Huyền sử bao gồm
nhiều câu chuyện vừa thực vừa mơ, “bàn về” nguồn gốc của Đất Nước và
Dân tộc, do tổ tiên và cha ông chúng ta thừa kế từ đời trước và truyền
lại cho các đời sau, qua bao nhiêu tầng lớp thế hệ nối đuôi nhau. Tác
giả Trần Thế Pháp là người đầu tiên, vào cuối thế kỷ 14, dưới thời
Trần Nghệ Tông làm Thượng Hoàng, đă lượm lặt, sưu tầm những câu chuyện
ấy và chép lại thành văn bản, với tựa đề “Lĩnh Nam Chích Quái”. Tác phẩm
nầy, gần 100 năm sau, vào cuối thế kỷ 15, chung quanh thời điểm là năm
1492, đă được tác giả Vũ Quỳnh sắp xếp lại, thay đổi thứ tự và lập
thành một văn bản mới. Phải đợi đến năm 1973, chúng ta mới có được một
tác phẩm bằng quốc ngữ, do “Tiếng Đông Phương” xuất bản tại Sài g̣n và
“Sống Mới” phát hành. Sách dày 665 trang, mang tựa đề là
“Việt Nam Văn Học Toàn Thư, thần thoại, cổ tích”. Tác giả là Hoàng
Trọng Miên đă sưu tầm, bổ túc bằng cách thêm vào nhiều câu chuyện của
các dân tộc thiểu số.
-
Thông
thường, khi nói đến nguồn gốc “Rồng-Tiên” của người Việt Nam, rất
nhiều tác giả chỉ đề cập đến câu chuyện “Lạc Long Quân thuộc giống
Rồng kết hôn với Bà Âu Cơ thuộc giống Tiên. Từ liên hệ vợ chồng nầy,
một trăm đứa con được sinh ra cùng một lúc, trong cùng một bọc trứng.
Cho nên bây giờ, chúng ta gọi nhau là ĐỒNG BÀO, có nghĩa là anh chị em
cùng chia sẻ với nhau một bào thai”. V́ vô t́nh hay hữu ư, khi quá nhấn
mạnh câu chuyện nầy, các tác giả ấy đă bỏ quên vai tṛ và ư nghĩa của
nhiều câu chuyện khác không kém phần quan trọng, như :
o
Ba
công tŕnh vĩ đại của Lạc Long Quân là diệt tan Ngư tinh, Mộc tinh và
Hồ tinh,
o
Thánh
Gióng đi đánh giặc Ân, lúc lên ba tuổi,
o
Bánh
dày và bánh chưng của Lang Liệu,
o
Cuộc
tranh chấp sống mái giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh,
o
Thần
Kim Qui giúp Vua An Dương Vương xây dựng Thành Cổ Loa,
o
Trọng
Thủy lấy Mỵ Châu làm vợ và cướp mất chiếc nỏ thần bảo quốc đem về Tàu.
-
Cũng
v́ lư do thiếu khả năng phân biệt một cách rơ ràng giữa lịch sử và
huyền sử, nhiều cuộc trao đổi giữa chúng ta, chung quanh vấn đề Huyền
sử, đă dễ dàng thoái hóa thành những vụ tranh chấp, xung đột, mang đầy
tính chất bạo động và nhị nguyên như :
o
Tôi đúng-kẻ
khác sai,
o
Tôi
có lư-kẻ khác vô lư,
o
Tôi
hơn-kẻ khác thua,
o
Tôi
có óc khoa học-kẻ khác vô học.
Và khi tinh
thần nhị nguyên đă khống chế tâm tư và cuộc đời, với những nhu cầu
phân biệt trắng-đen rơ rệt, bạn-thù quang minh, chúng ta trở nên mù
quáng. Vô minh tràn ngập mọi hang cùng ngơ hẻm của tâm hồn. Đôi mắt
chúng ta không c̣n có đầy đủ ánh sáng, để nhận ra khuôn mặt thân thương
của người anh chị em. Ḍng máu luân chuyển trong cơ thể của họ, phải
chăng cũng là ḍng máu Rồng Tiên đang đập nhịp trong quả tim của chúng
ta .
Thế mà trong
lịch sử của nước nhà, cứ mỗi lần một triều đại mới lên nắm chính quyền,
lại xảy ra quang cảnh thanh trừng, đổ máu, thịt nát, xương rơi, nồi da
xáo thịt. Đă một thời, Trần Thủ Độ, vị công thần khai nguyên Nhà Trần,
đào hầm, gài bẫy, chôn sống nhiều con cháu của Nhà Lư. Vào cuối đời
Trần, Hồ Quí Ly lại t́m cách tận diệt những viên chức trung tín với
Nhà Trần. Nhà Nguyễn, sau khi đánh thắng Tây Sơn, đă đào mồ, quật mă,
mạ lị hài cốt của tổ tiên họ. Vào những năm 1940, nhiều người cũng đă
bị thủ tiêu, khi chưa có án lệnh rơ rệt..
Cho đến bao giờ,
người Việt Nam, trong cũng như ngoài Nước, mới có khả năng lắng nghe
sứ điệp của Tổ Tiên và Cha Ông ? Qua các câu chuyện huyền sử, phải chăng
các vị hôm nay vẫn đang c̣n nhắn nhủ chúng ta rằng : hai người Việt
Nam có thể khác nhau như Trời và Biển, như Rồng và Tiên. Vâng, chúng
ta đang bộc lộ những sắc thái khác nhau, trên nhiều phương diện. Nhưng
khác mà không khai trừ, loại thải nhau. Khác, mới có thể bổ túc, kiện
toàn cho nhau, cùng nhau làm nên những kỳ công trọng đại cho quê hương
và anh chị em đồng bào, giống như Lạc Long Quân đă làm, cách đây hơn
bốn ngàn năm về trước.
Có người đ̣i
hỏi những sự kiện cụ thể, khách quan trong các câu chuyện huyền sử ?
Chúng ta chỉ cần can đảm nh́n ḿnh, nh́n cuộc sống hai bên cạnh, chúng
ta sẽ khám phá một cách dễ dàng: những hiện tượng xung đột giữa Sơn
Tinh và Thủy Tinh không phải là những câu chuyện hoang tưởng, bịa đặt.
Nhưng đó là những hiện thực hoàn toàn khách quan, đang xảy ra hôm nay,
ở đây và bây giờ, trước mắt chứng kiến của chúng ta. Ngay cả trong tâm
hồn và cuộc đời của chúng ta.
Câu nói của
Thần Kim Qui, trả lời cho Vua An Dương Vương : “Kẻ thù đang ngồi ở sau
lưng Nhà Vua” c̣n mang rất nhiều tính thời sự, trong hoàn cảnh của Đất
Nước, ngày hôm nay.
Nói tóm lại,
con đường tư duy độc lộ chỉ dẫn đưa chúng ta đến một ngơ cụt : đó là
t́nh trạng bạo động hận thù, kỳ thị chiến tranh, chết chóc và lầm than.
Thay vào đó, tác giả Ed. De Bono đề nghị chúng ta học hỏi và tôi luyện
một lối nh́n đa năng đa diện, mang tên là “kỹ thuật SÁU CHIẾC MŨ”. Mỗi
lần nói về ḿnh, về người khác, hay là cùng nhau khảo sát một vấn đề –
chẳng hạn như t́m hiểu ư nghĩa của Nguồn gốc Rồng Tiên – chúng ta hăy
lần lượt đội lên đầu sáu chiếc mũ Trắng, Đen, Vàng, Đỏ, Xanh da trời
và Xanh lá cây.
Với chiếc mũ
màu trắng, chúng ta làm công việc ghi nhận sự kiện cụ thể và khách
quan, được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Chúng ta nghe làm sao, chúng ta
nói lại y nguyên, không thêm không bớt. Chúng ta thấy ǵ, chúng ta
tŕnh bày lại, một cách trung thực, cơ hồ tấm gương soi phản ảnh tất
cả những ǵ đang xảy ra ở đằng trước.
Với chiếc mũ
màu đen, chúng ta rút ra một cách có ư thức những sự kiện, mà
chúng ta đánh giá là tiêu cực, có những hạn chế rơ rệt. Tuy nhiên,
chúng ta phải có can đảm nêu lên những lư do giải thích thể thức đánh
giá của chúng ta. Sau đó, chúng ta lắng nghe và cho phép kẻ khác phát
biểu, biện hộ, nêu lên những thắc mắc của ḿnh.
Với chiếc mũ
màu vàng mặt trời, chúng ta cố gắng phát hiện những khía cạnh tích
cực, năng động… – nếu t́m, thế nào cũng có – trong bao nhiêu ư kiến mà
chúng ta vừa phê b́nh và đánh giá.
Với chiếc mũ
màu đỏ, chúng ta diễn tả những xúc động hoàn toàn chủ quan của
ḿnh, như buồn, lo, tức giận, sợ hăi. V́ đây là những phản ứng hoàn
toàn chủ quan, chúng ta hăy dùng sứ điệp ngôi thứ nhất TÔI, để phát
biểu và đảm nhận ư kiến của ḿnh, một cách chân thành và sáng suốt.
Không ném đá giấu tay. Không vơ đũa cả nắm. Không giận cá chém thớt.
Chúng ta bộc lộ nhu cầu và nguyện vọng của ḿnh. Đồng thời chúng ta
cho phép kẻ khác từ chối, không thỏa măn chúng ta, v́ đó cũng là quyền
lợi riêng tư của họ.
Với chiếc mũ
màu xanh da trời, chúng ta đúc kết, rút ra ư nghĩa từ những
sự kiện, mà chúng ta đă thu lượm, với bốn chiếc mũ trước đây. Giai
đoạn nầy mang tên là THUYÊN GIẢI, bao gồm ba công việc khác nhau nhưng
bổ túc cho nhau. Thứ nhất là tóm lược quá khứ, rút ra những kết
luận, sau khi đề xuất và kiểm chứng một cách nghiêm chỉnh những giả
thuyết hay là những hướng đi giả định. Công việc thứ hai là xác định
những công việc cần thực hiện, trong hiện tại. Thứ ba là dự
phóng, tiên liệu hay là chuẩn bị con đường cho tương lai.
Khi nhiều ư nghĩa được đề xuất cùng một lúc, chúng ta phải xếp đặt
thành thứ tự ưu tiên. Và chương tŕnh nào quan trọng nhất, phải được
chúng ta giải quyết và thực hiện, truớc tất cả mọi dự phóng khác được
đề xuất, nhưng hiện thời, đó chưa phải là những điều cấp thiết và khẩn
trương.
Nói tóm lại,
chiếc mũ xanh da trời kêu mời, thúc giục chúng ta đi lên, mở rộng tầm
nh́n, đúng như câu thơ của Thi sĩ Trụ Vũ đă diễn tả :
“ Bởi v́ mắt
thấy trời xanh,
“ Cho nên mắt cũng long lanh màu trời.
“ Bởi v́ mắt thấy bể khơi,
“ Cho nên mắt cũng xa vời đại dương ”.
Sau cùng, với
chiếc mũ màu xanh lá cây, chúng ta bắt tay vào việc, “làm
nên mùa xuân” trong ḷng đất nước, thực hiện những ǵ đă được đề
xuất, thay v́ chỉ hô hào, tuyên truyền láo khoét. Hơn ai hết, chính
Nguyễn Trăi đă yêu cầu chúng ta, cách đây hơn năm thế kỷ :
“ Lấy Đại Nghĩa
mà thắng hung tàn,
“ Lấy Chí Nhân mà thay cường bạo ”.
Nếu mỗi người trong chúng ta, ai ai cũng có khả năng sử dụng sáu chiếc
mũ, để nh́n lại, ngẫm lại nguồn gốc RỒNG TIÊN của ḿnh và dạy lại cho
con cái biết làm như chúng ta, tôi chăéc chắn rằng : bản thân chúng ta
ĐĂ và SẼ viết được những trang sử kỳ hùng cho quê hương và anh chị em
đồng bào, giống như Lư Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Hoàng hậu Ỷ Lan,
cách đây hơn 10 thế kỷ.
Phần Ha
Bốn NNHU CẦU sinh hoạt
và Ba chiều kích làm người của chúng ta
Dựa vào kỹ thuật « Sáu chiếc mũ » của Ed. de Bono, mỗi người có thể
phát hiện trong những câu chuyện huyền sử, những hướng đi, những ư nghĩa
độc đáo cho cuộc sống làm người. Điều cốt yếu cần ghi nhận trong
cách làm nầy, là chúng ta tạo ra những cơ hội, để chia sẻ với người
khác những khám phá riêng tư của ḿnh. Và đồng thời, chúng ta lắng
nghe kẻ khác một cách cẩn trọng – nhất là những ai thuộc giới trẻ –
khuyến khích và kêu mời họ diễn tả ư kiến của ḿnh, cho phép họ nói về
bản thân, quê hương và anh chị em đồng bào, một cách chân thành và cởi
mở. Trong ḷng đất nước, mỗi người trong chúng ta – bất kể là ai,
thuộc thành phần nào – đều là một Thánh Gióng, hay là một Phù Đổng
Thiên vương. Trước ba tuổi, chúng ta chỉ là một đứa bé khuyết tật,
không biết đi, không biết nói. Nhờ bà con họ hàng cho ăn, cho mặc, cho
ngựa, cho gươm, Thánh Gióng ba tuổi trở thành một chiến sĩ 30 tuổi, có
khả năng lên đường, dẹp tan giặc Ân, đem lại thanh b́nh cho quê hương
và xứ sở. Sau cuộc chiến thắng, Thánh Gióng, 30 tuổi, đă trở thành một
thần linh của Đất Nước có tầm cỡ 3.000 tuổi và có khả năng tự ḿnh bay
lên trời, trở về với Mẹ Âu Cơ. Câu chuyêïn về Thánh Gióng được tŕnh
bày như vậy không phải là hoàn toàn hoang tưởng và bịa đặt. Trái lại,
qua cách nói đầy h́nh tượng ấy, Tổ Tiên muốn gây ư thức rằng :
trong tâm hồn của mỗi người, có một Thánh Gióng nho nhỏ đang c̣n nằm
ngủ, chờ đợi chúng ta đánh thức dậy, cho ăn, cho mặc – về mặt
vật chất cũng như tinh thần – để có thể đứng dậy, lên đường, nghe theo
tiếng gọi của quê hương.
Thay v́ đồng
hóa với Thánh Gióng, chúng ta có thể đội chiếc mũ ĐEN lên đầu, để thấy
ḿnh mang da thịt và tâm hồn của Mỵ Châu. Trong một phút giây điên dại
và mất tỉnh thức, chúng ta đă tạo ra cơ hội, để cho ngoaiï bang phương
Bắc đánh cắp chiếc nỏ thần bảo quốc mà Tổ Tiên đă trối trăng lại, từ
bao nhiêu đời. Câu chuyện « Sơn Tinh và Thủy Tinh » cũng có một ư nghĩa
tương tự : chính chúng ta đă tạo nên những tai ương hoạn nạn cho đất
nước của chúng ta. Chúng ta làm « gà một nhà bôi mặt đá nhau ». Ngược
lại, nếu Sơn và Thủy biết chấp nhận và nh́n nhận nhau, họ có dư
thừa mọi tài năng, khả dĩ làm cho Nước Non vui hưởng thanh b́nh và Núi
Sông trở nên thịnh vượng.
Trong khuôn khổ
của phần nầy, thay v́ tŕnh bày quá nhiều chi tiết, tôi chỉ mạo muội
khảo sát hai vấùn đề thiết yếu được nêu ra trong câu chuyện huyền sử
về nguồn gốc Rồng Tiên của người Việt Nam.
Thứ nhất, đâu
là vấn đề muôn thuở, người Việt Nam phải đương đầu, nhận diện qua các
thời đại khác nhau ?
Thứ hai, Tổ
Tiên đề nghị cho chúng ta những phương hướng hóa giải như thế nào ?
Tất cả cốt lơi
của vấn đề và phương cách giải quyết được thu tóm trong câu nói trao đổi
giữa Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ như sau :
« Ta thuộc giống Rồng, nàng là giống Tiên, thủy hỏa khác nhau, người
thích ở cạn, người ưa ở nước, tính t́nh đôi bên khác nhau… không cùng
ở chung với nhau một nơi lâu được. Bây giờ một nửa các con theo tôi về
Thủy phủ, c̣n một nửa th́ ở lại với mẹ. Tuy đôi bên, kẻ ở rừng, người
ở biển, song đến khi có việc ǵ, th́ tin cho nhau, không được bỏ nhau ».
***
Sứ điệp nầy
chuyển tải ở bên trong rất nhiều h́nh tượng, cô động lại với nhau và
chồng chéo lên nhau, thậm chí mang nhiều chi tiết mâu thuẫn với nhau.
Tuy nhiên, khi dùng kỹ thuật « Sáu chiếc mũ », để nghiên cứu, khảo sát
và nghiền ngẫm sứ điệp ấy, chúng ta có thể khám phá ít nhất ba tầng
lớp ư nghĩa sau đây :
Tầng thứ nhất,
KHÁC BIỆT là nét đặc trưng nổi bật nhất của người Việt Nam. Hẳn thực,
khi người Việt Nam có dịp chung sống với một người khác, điều đầu tiên
được họ khẳng định một cách nhanh chóng và quyết liệt, trong mọi quan
hệ tiếp xúc và trao đổi, là : Tôi khác bạn, bạn khác tôi. Chính nhờ tư
cách đặc biệt nầy, người Việt Nam đă có khả năng xua đuổi quân Hán,
quân Tống, quân Nguyên, quân Minh và quân Thanh ra khỏi đất nước của
ḿnh. Thêm vào đó, sau một ngàn năm bị ngoại bang đô hộ, chúng ta vẫn
duy tŕ tiếng nói, y phục, phong tục và văn hóa độc đáo của ḿnh. Khi
khẳng định nét khác biệt như vậy, người Việt Nam khẳng định chính bản
sắc hay là chân tướng của ḿnh.
Tầng thứ hai,
chính nét KHÁC BIỆT ấy cũng là đầu dây mối nhợ phát sinh mọi xung đột
và hận thù, chia rẽ và chiến tranh, trong ḷng quê hương đất nước.
Chính v́ nét khác biệt ấy, đă bao nhiêu lần, chúng ta không chấp nhận
ngồi lại với nhau. Thay vào đó, chúng ta đă tạo nên những con sông
Gianh, những vĩ tuyến chia cắt, trong quả tim của chúng ta.
Tầng thứ ba, khi nào người Việt Nam thấy được nét KHÁC BIỆT ấy là một
THÁCH ĐỐ kỳ hùng, một TÀI NGUYÊN phong phú và một CƠ MAY diệu
vợi, họ có thể thực hiện những kỳ công trọng đại cho đất nước và anh
chị em đồng bào. Lúc bấy giờ, họ sẽ trở nên như Hai Bà Trưng, Ngô
Quyền, Lư Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo và Nguyễn Trăi… có khả năng
« biến không thành có, chuyển luân Rác nuôi sống những cánh đồng, giữa
sa mạc làm tuôn chảy ḍng sông, trong chết chóc vun trồng hạt mầm sống ».
Nói khác đi, NHỜ khác biệt, chúng ta có thể bổ túc, kiện toàn cho nhau.
Làm phong phú cho nhau. Sinh thành nhau. Chúng ta trở thành « NHẤT TÂM »,
theo lối nói của Nguyễn Trăi, nghĩa là mang trong ḿnh một quả tim có
khả năng tác động cơ hồ trăm quả tim. Và một trăm quả tim kết hợp nhau
lại làm nên một quả tim duy nhất.
Để thu gặt những thành quả ấy, điều kiện tiên quyết là chúng ta phải
hội nhập một cách nhuần nhuyễn ba bài học trên đây, trong bốn sinh
hoạt khác nhau của đời sống tâm lư :
-
Sinh hoạt thứ nhất là Hành Động thực tiển : chấp nhận sự khác biệt
giữa ta và người là một thực thể tất yếu. Từ đó, chúng ta cho phép kẻ
khác có quyền khác chúng ta, thay v́ đàn áp, thanh trừng, loại thải…
thậm chí kẻ khác đó đang là một trẻ em hay là con cái của chúng ta.
-
Sinh hoạt thứ hai là phát huy một lối nh́n tích cực về người anh chị
em đồng hương, đồng bào. Dù với bất cứ nét khác biệt nào, trong lănh
vực chính trị cũng như tôn giáo, họ có quyền được chúng ta lắng nghe,
t́m hiểu và tôn trọng. V́ một lư do nào đó, họ có thể sai lầm, vi phạm
những hành vi bán nước hại dân. Nhưng chúng ta không có quyền truất phế
phẩm giá làm người của họ. Nói theo ngôn ngữ của tổ tiên và cha ông
chúng ta, họ vẫn « mang ḍng máu RỒNG TIÊN trong huyết quản ».
-
Sinh hoạt thứ ba là t́m mọi cách sẵn có trong tầm tay, để hóa giải và
chuyển biến những xúc động đau buồn và tiêu cực, đang thúc ép, cưỡng
chế chúng ta dấn bước vào con đường bạo động, hận thù, chia rẽ
và chiến tranh.
-
Sinh hoạt thứ tư là học tập, tôi luyện những quan hệ hài ḥa, lúc tiếp
xúc và trao đổi. Chúng ta chọn lựa con đường giáo dục và đối thoại,
thay v́ thanh trừng, đe dọa, đàn áp, thủ tiêu và ám sát, khi có người
không đồng ư với chúng ta. Con đường giáo dục và đối thoại nầy phải
bắt đầu được sử dụng trong khuôn khổ gia đ́nh, giữa vợ chồng, cha mẹ
và con cái, mới có thể trở nên một phương thức hành động hữu hiệu
trong địa hạt xă hội, chính trị và phục vụ đất nước. Nói tóm lại,
trong ḷng đất nước và quê hương, không có kẻ thắng người thua. Không
có chủ ông và người nô lệ. Chúng ta là anh chị em. Khi hai người Việt
Nam hợp tác với nhau, họ có khả năngï làm nên Đại dương bao la và Bầu
Trời cao cả.
Đó là bốn con đường thể hiện bản sắc « Làm con Rồng cháu Tiên » của
chúng ta. Không làm và sống như vậy, chúng ta chỉ là con nộm đa ngôn,
hay là con vẹt lặp lại lời nói của người khác, mà không biết ḿnh đang
nói ǵ, không ư thức ḿnh là ai.
***
Xuyên qua tất cả những phân tích và nhận định trên đây, khi chúng ta
nhắc lại hay nhớ lại nguồn gốc Rồng Tiên của chúng ta, chúng ta không
chỉ làm công việc hồi tưởng một quá khứ xa xưa mà thôi. Chúng ta c̣n
có bổn phận trở về với chính ḿnh, bằng cách chuyển biến sứ điệp của
Tổ Tiên thành hiện thực hay là thực tế « ở đây và bây giờ », trong
chính con người xương máu của chúng ta
Nói theo ngôn ngữ của tác giả E. Berne, chúng ta đang thể hiện ba
chiều kích kết tạo nên bản sắc của con người chúng ta
Thứ nhất là chiều dọc : Mỗi người trong chúng ta vừa là đứa con
đang thừa kế từ Tổ Tiên một gia tài phong phú. Đó là một giang sơn gấm
vóc chạy dài từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau. Đồng thời, chúng ta cũng
là người cha mẹ, có bổn phận trối trăng lại cho các thế hệ sau này,
một quê hương toàn vẹn và một nền văn hóa đặt nền móng trên T́nh Thương,
Thứ Tha và Ḷng Bao dung. Không nhớ kẻ trồng cây, lúc ăn quả, và không
tiếp tục mở mang những vườn cây mới, liệu chúng ta c̣n là những người
có tinh thần trách nhiệm không ?
Thứ hai là chiều ngang : Chúng ta tất cả đều là anh chị em cùng
sinh ra từ một cha và một mẹ, là Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ. Cho nên
“Đồng Hành và Chia sẻ” là con đường tất yếu, chúng ta cần xây đắp và
can đảm dấn bước mỗi ngày, cùng với anh chị em đồng bào trên khắp mọi
nẻo đường của quê hương.
Thứ ba là chiều sâu của nội tâm : Hai chất liệu kết tạo nên tâm
hồn của người Việt Nam, theo truyền thống Rồng Tiên, là Trọng Đại, Cao
Cả như Bầu Trời của Bà Âu Cơ, và Bao Dung, Cởi Mở, Đón Nhận mọi người
trong ḷng Đại Dương bao la giống như Lạc Long Quân. Hơn ai hết, chính
Nguyễn Trăi đă nhận thức được chiều sâu nầy, trong lời dạy sau đây:
“ Mở rộng cửa NHÂN, mời khách đến,
Vun trồng cây ĐỨC, nuôi con ăn ”.
Trong tinh thần và ư nghĩa ấy, chúng ta hăy lắng nghe một cách cẩn
trọng và đón nhận làm của ḿnh những lời trăn trối sau đây của Tổ Tiên và
Cha Ôâng chúng ta:
Con hăy lấy Hạnh của Đất mà sống : Bị người người khạc nhổ, nhưng vẫn
kết sinh hoa lợi, cho người người ấm no.
Con hăy lấy Hạnh
của Nước mà sống : Chấp nhận mang vào ḿnh vết nhơ của bao nhiêu bàn
tay, để đem về tẩy luyện trong ḷng Biển Mặn.
Con hăy lấy Hạnh
của Khí mà sống : Đi vào bên trong ḷng mỗi người, để mang dưỡng sinh
cho từng tế bào, từng hạt máu, không quên sót một ai.
Con hăy lấy Hạnh
của Trời mà sống : Ở trên cao thật cao. Nhưng đồng thời, ở dưới thấp
thật thấp. Không có Trời, Con không có chi hết. Nhưng Trời cũng không
có chi hết. Trống Không.
Con hăy lấy Hạnh
của Lửa mà sống : Ai ấm áp cho bằng Lửa ? Nhưng ai khinh thường Lửa,
tự khắc người ấy rước họa vào ḿnh. Lửa không phải là Trời. Nhưng Lửa
thay thế Trời, khi Con ở trong đêm tối, và trải qua những ngày đông lạnh
lẽo.
Con hăy lấy Hạnh của Đêm mà sống : Nhờ Đêm, một ngày mới bắt đầu trở
lại, sau khi nhọc lụy được giấc mơ ủi an, ấp ủ và chuyển hóa. Nhờ Đêm,
mắt Con mới thấy được rằng : Tên Con đă được viết sẵn, bằng ánh sao
lấp lánh, giữa Đại Dương Ngân Hà của Vũ Trụ.
***
Sách tham khảo
1.-
Ed. DE BONO – Six thinking hats – Penguin Books, London 1986.
2.-
HOÀNG TRỌNG MIÊN – Việt
Nam Văn Học
toàn thư : Thần thoại và Cổ tích –
Tiếng Đông Phương, Saigon 1973.
3.-
NGUYỄN ĐĂNG TRÚC – Bách
Nam là Thủy Tổ
của Bách Việt
– TT Nguyễn Trường Tộ, 1998.
4.-
TRẦN TRỌNG KIM – Việt
Nam sử lược
– Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội 1999.
5.-
MỘT NHÓM GÍAO SƯ – Việt Sử – Inst.
De l’Asie du Sud-Est Paris,
1983, tome 1 và 2.
6.-
NGUYỄN VĂN THÀNH – Phát Huy Nhân Lực – Tủ Sách T́nh Người,
Lausanne 1998.
7.-
NGUYỄN VĂN THÀNH – Nguyễn Trăi – Định Hướng 2001.
8.-
E. BERNE – Analyse transactionnelle et Psychothérapie –
PB Payot, Paris 1971.
9.- NGUYỄN VĂN THÀNH – Sơn Tinh và
Thủy Tinh : Hai con đường, MỘT Nước Non – T́nh Người,
Lausanne 2003.
Chương Hai
Khi Mặt Hồ nổi sóng,
Thần Kim Qui xuất hiện
Trong kho tàng
Huyền Sử Việt Nam, h́nh tượng « Thần Kim Qui » xuất hiện nhiều lần,
xuyên qua nhiều câu chuyện khác nhau :
-
Lần
thứ nhất, với danh hiệu là sứ giả Thanh Giang
–
xuất phát từ Ḍng Sông Xanh
–
Thần đă hiện ra, giúp Vua An Dương Vương xây dựng Đền Tháp Cổ Loa.
-
Lần thứ hai, sau khi hoàn tất công tŕnh xây
cất, Thần lại hiện nguyên h́nh là con rùa vàng rất lớn. Thần rút một
cái móng chân của ḿnh, trao cho Vua An Dương Vương, và dặn rằng :
« Nhà Vua giữ lấy móng chân nầy để làm lẫy nỏ. Khi có giặc,
hăy đem ra bắn. Mỗi một phát có thể tiêu diệt được hằng ngh́n quân
giặc ».
-
Lần thứ ba, sự việc xảy ra, sau khi Trọng Thủy,
con trai của Triệu Đà, đă dùng kế cầu hôn, để đánh cắp chiếc nỏ thần đem
về Tàu. Nhờ đó, Phương Bắc lập tức xua quân sang chiếm cứ Nước Âu Lạc.
Nhận thấy phương tiện đề pḥng thành lũy đă trở thành vô hiệu, Vua An
Dương Vương vội vàng lên ngựa, đèo sau lưng đứa con gái của ḿnh là Mỵ
Châu, trốn thoát ra ngoài, bằng cửa sau. Trên đường chạy loạn, Vua An
Dương Vương đă mở lời khấn vái, cầu xin trời đất phù hộ. Thần Kim Qui
lại xuất hiện và bảo Nhà Vua rằng : « Giặc
ở đằng sau lưng ». Vua An Dương Vương giật ḿnh, rút thanh gươm
chém Mỵ Châu, rồi nhảy xuống biển tự vẫn.
-
Từ lần thứ tư trở lui, dưới hai triều Lư và Lê,
sau khi đă hoàn tất công việc b́nh định đất nước Đại Việt, ở phía bắc
cũng như ở phía nam, các Nhà Vua thường lập đàn tế thần trên Hồ Tây ở
Thăng Long. Mỗi lần có những cuộc lễ như vậy, Thần Kim Qui đều hiện ra
và thu hồi chiếc gươm « bảo quốc », mà Thần đă trao ban cho các ngài,
trước khi họ lên đường dẹp loạn.
Chính v́ lư do nầy, Hồ Tây c̣n mang một danh hiệu khác là Hồ Gươm hay
là Hồ Hoàn Kiếm có nghĩa là Nơi Hoàn Trả Thanh Gươm Cứu Nước cho Thần
Kim Qui.
Mỗi câu chuyện
Huyền sử, vừa được kể lại như vậy, cơ hồ một giấc chiêm bao hiện về
vào lúc ban đêm, chỉ tŕnh bày cho chúng ta một vài đường nét chấm phá
hay là một vài tin tức rất thô thiển và mơ hồ. Dựa vào đó, làm sao
chúng ta có thể giải đáp một cách rốt ráo, những thắc mắc chính đáng
và quan trọng do những câu chuyện nêu lên ?
-
Thứ
nhất, Thần Kim Qui là ai, mang ư nghĩa ǵ, trong ḷng Đất Nước Việt
Nam xưa và nay ? Tại sao Thần xuất hiện dưới h́nh hài của một con rùa
vàng ? Nguồn gốc của Thần là nơi đâu ?
-
Thứ
hai, vai tṛ của Thần là ǵ, trong môi trường sinh hoạt hằng ngày của
chúng ta ?
-
Thứ
ba, qua những câu chuyện Huyền sử, được kể lại đó đây về Thần Kim Qui,
Tổâ Tiên và Cha Ông muốn trao gửi cho chúng ta những sứ điệp
quan trọng như thế nào ?
Nhằm tháo mở và
soi sáng những loại vấn đề như vậy, chương nầy sẽ lần lượt khảo sát và
tŕnh bày những đề mục sau đây:
-
Trong
phần Một, Phân Tâm Học của Freud đề nghị cho chúng ta những ch́a
khóa nào, có hiệu năng « THUYÊN GIẢI » những giấc mơ, trong đời sống
cá nhân của mỗi người, cũng như những câu chuyện Huyền sử có liên hệ
đến vận mệnh của cả một dân tộc ?
-
Trong
phần Hai, làm sao chúng ta có thể xác định nguồn gốc của Thần Kim
Qui : Thần đến từ nơi đâu ? Thần đi về chỗ nào, sau khi hoàn thành
nhiệm vụ của ḿnh ? Nói cách khác, Thần Kim Qui là ai, đối với chúng
ta ? Giữa Thần và những ai mang trong ḿnh ḍng máu Rồng Tiên, có
những quan hệ như thế nào ?
-
Trong
phần Ba, chiếc Nỏ Thần hay là Thanh Kiếm của Thần Kim Qui có chức năng
và phần vụ nào, trong đời sống hằng ngày của mỗi người ?
-
Trong
phần Bốn, kỹ năng « Luyện Vàng » mà Thần Kim Qui trao gửi cho chúng
ta, bao gồm những bước đi lên như thế nào, trên tiến tŕnh hóa giải
những tâm trạng lo âu, khắc khoải và khổ đau đang khống chế bản thân
và cuộc đời ?
Phần Một
Phương Pháp THUYÊN GIẢI những câu chuyện Huyền sử, theo Phân Tâm Học
Trong cuộc sống hằng ngày, khi chúng ta có những vấn đề như đau đầu,
khó tiêu hóa, nhức mỏi, bần thần trong cơ thể... chúng ta có xu thế
coi thường, xem như không có, hay là cố t́nh dồn nén, d́m xuống trong
đáy sâu của quên lăng và vô thức, những t́nh huống hay là hiện tượng
ấy. Chúng ta lầm tưởng rằng : những vấn đề có mặt trong cuộc sống cũng
giống như những đám mây đen trên bầu trời, đă t́nh cờ xuất hiện và rồi
sẽ t́nh cờ biến đi, không chờ đợi, đ̣i hỏi chúng ta đưa ra những quyết
định chuyển hóa thích ứng và sáng suốt. T́nh trạng này kéo dài cho đến
một hôm sẽ trở nên nghiêm trọng và tràn ngập. Lúc bấy giờ, không c̣n
có một lối giải quyết nào hữu hiệu, khả dĩ giúp chúng ta trở về với
t́nh trạng sức khỏe lúc ban đầu.
Đối với những giấc chiêm bao hay là những câu chuyện Huyền sử, chúng
ta cũng thường nuôi dưỡng những thái độ tương tự như vậy. Chúng ta xem
đó là những mẫu chuyện hoang đường, bịa đặt, dành cho trẻ con. Vừa
nghe xong, chúng ta đă bỏ qua, lăng quên, KHÔNG tôn trọng, lắng nghe,
t́m hiểu một cách đứng đắn và nghiêm chỉnh. Cho nên, những vấn đề xảy
ra trong ḷng cuộc sống, vẫn luôn luôn tồn tại, từ thế hệ nầy qua thế
hệ khác. Chẳng hạn, v́ không biết rút tỉa và chắt lọc những bài học
làm người, từ câu chuyện Huyền sử Sơn Tinh và Thủy Tinh, cho nên trong
« suốt bốn ngh́n năm văn hiến », chúng ta măi hoài làm « gà một nhà
bôi mặt đá nhau ». Từ kiếp nầy qua kiếp nọ, chúng ta luôn luôn ṿng vo
luẩn quẩn trong khôû đau, hận thù, bạo động, thanh trừng và đổ máu..
Cũng vậy, v́ không biết lắng nghe Thần Kim Qui, từ đời An Dương Vương
cho đến ngày hôm nay, thuộc thời đại Ngh́n Năm Thứ Ba, chúng ta vẫn chưa
có kế sách xây dựng MỘT ĐỀN THÁP CỔ LOA kiên cường và bất diệt, trong
ḷng Đất Nước và trong tâm hồn của mỗi người.
Những con yêu tinh ma quái vẫn c̣n ngang tàng ngự trị và lan tràn khắp
mọi nơi, trên mỗi nẻo đường của Quê Hương, Đất Nước, giống như vào
thời nguyên thủy của Lạc Long Quân :
-
Hồ Tinh, với những chiêu bài « yêu Nước, thương dân », đang chà đạp và
ức hiếp con Hồng cháu Lạc, nhất là những người anh chị em ngày ngày
lam lũ trên những cánh đồng của cả ba miền Đất Nước. Hối lộ, tham tàn,
mua chức, bán tước... đang len lỏi, nằm vùng, trong mọi quan hệ giữa
người với người...
-
Mộc Tinh đang làm cho con cháu chúng ta càng ngày càng trở nên vong
thân, vong bản, với những loại văn hóa lai căng, mất gốc, nhập khẩu từ
Nga, Tàu, Mỹ và Pháp... trước khi chưa được một ai t́m cách tiêu hóa,
hội nhập, biến thành của ăn nuôi sống anh chị em đồng bào.
-
Ngư Tinh đang đầu độc giới trẻ, với những chất liệu xi-đa, x́ ke, ma
túy, pḥng trà, cà phê ôm... và bao nhiêu tệ hại buôn bán chữ nghĩa,
bằng cấp, tiểu luận ra trường, ở mọi cấp bậc trung học cũng như Đại
học.
-
Sơn Tinh và Thủy Tinh đang phân chia và xếp hàng dân tộc thành hai phe,
hai chiến tuyến trắng đen rơ rệt... bằng cách ngày ngày lải nhải những
khẩu hiệu nặc mùi hận thù, kỳ thị, bạo động như « Tao hơn, mày
thua, Tao yêu Nước, mày bán Nước, Tao chánh, mày tà... ».
Những khổ đau lai láng, tràn trề ấy phải chăng đang có khả năng làm
nên một tiếng c̣i báo động, để mỗi người trong chúng ta biết « tri chỉ »,
dừng lại, cùng ngồi lại với nhau, lắng nghe nhau? Phải chăng hôm nay
đă là thời điểm thuận lợi, khả dĩ thúc giục chúng ta t́m hiểu những
câu chuyện Huyền sử, do Tổ Tiên trối trăng lại, từ những ngày xa xưa ?
Chúng ta hăy cùng nhau chắt lọc những bài học cho ḿnh và cho đời. Cho
tiền đồ của Quê Hương và con cháu của chúng ta. Một cách đặc biệt,
chúng ta hăy đánh thức và thắp sáng trở lại ngọn đèn lương tri của Dân
tộc Việt Nam : Đó là Tiếng Nói của Thần Kim Qui đang có mặt và thầm
th́, trong cơi ḷng của mỗi người.
Để có khả năng thuyên giải những sứ điệp, mà Thần đă chia sẻ cho chúng
ta, nghĩa là t́m ra những đường hướng xây dựng Quê Hương và cuộc đời
làm người, chúng ta hăy sử dụng những ch́a khóa, mà Freud đă đề xuất,
khi sáng tạo Khoa Phân Tâm Học, vào đầu Thế Kỷ 2O.
Ch́a khóa thứ nhất
là ngôn ngữ h́nh tượng, không lời.
Cũng giống như trong giấc chiêm bao, mỗi câu chuyện Huyền sử chỉ tŕnh
bày cho chúng ta những h́nh ảnh tiếp nối với nhau. Theo thuật ngữ của
Tâm lư đương đại, đó là một loại ngôn ngữ h́nh tượng, không lời. Chúng
ta chỉ thấy những h́nh ảnh diễn biến và di động trước mắt chúng ta, cơ
hồ từ trên một ngọn đồi nh́n xuống, chúng ta đang chứng kiến trước
mắt, quang cảnh một ngày làm việc của người nông dân, giữa một cánh đồng
bao la, bát ngát. Hai người cùng đứng nh́n với nhau, có thể ghi nhận
hai bức tranh hoàn toàn khác nhau.
Cho nên, khi kể lại một giấc chiêm bao, cũng như khi chia sẻ một câu
chuyện Huyền sử, mỗi người trong chúng ta đă « thêm mắm, thêm muối,
thêm chanh, thêm đường » có sẵn trong kho tàng tâm hồn và kinh nghiệm
riêng tư của ḿnh.
Một cách cụ thể, trong những câu chuyện về Thần Kim Qui, nhiều người
đă gán cho Thần những câu nói, những nhận xét, những lời phát biểu,
những cách đánh giá, thậm chí những ư đồ và tác phong bạo động... Nhưng
thực ra, chính cá nhân chúng ta đề xuất những ư nghĩa chủ quan ấy, tùy
vào tâm trạng vui buồn, hạnh phúc hay khổ đau hiện tại của chúng ta,
cũng như tùy vào bao nhiêu tin tưởng, tập tục và kinh nghiệm, mà chúng
ta đă tiếp thu, ghi nhận suốt thời kỳ thơ ấu.
Nói khác đi, khi kể lại một câu chuyện huyền sử, dù muốn dù không, mỗi
người đă bắt đầu THUYÊN GIẢI, nghĩa là gán vào đó những ư nghĩa chủ
quan, do chính họ sáng tạo, với bao nhiêu nguyên liệu có sẵn trong
cuộc đời làm người. Mỗi h́nh tượng không bao giờ CHỈ có một ư nghĩa.
Cho nên, h́nh tượng là một loại ngôn ngữ đa năng, đa diện, cưu mang
nhiều ư nghĩa cùng một lúc. Ngôn ngữ độc lộ, trái lại, được chúng ta
sử dụng trong những quan hệ trao đổi hằng ngày, thường thường chỉ có
một ư nghĩa mà thôi.
Trong tinh thần và ư nghĩa ấy, Huyền sử không phải là sở hữu riêng tư
của một người. Trái lại, đó là gia bảo của tất cả những ai mang trong
ḿnh ḍng máu Rồng Tiên. Cho nên, mỗi câu chuyện phải được tŕnh bày,
kể ra và chia sẻ với anh chị em từ đời nầy qua đời khác. Nói khác đi,
mỗi câu chuyện Huyền sử bao gồm ba loại câu chuyện khác nhau :
-
câu chuyện của TÔI,
-
câu chuyện của BẠN, là người đang nói chuyện với tôi,
-
và câu chuyện của CHÚNG TA, trong đó có ít nhất hai ba người đang cùng
nhau ĐI chung một con đường. Đang cùng nhau chọn lựa và quyết định một
thực tế hoặc thực tại sinh sống. Vàø nhất là đang cùng nhau chia sẻ
một mối t́nh yêu thương và gắn bó. ĐANG LÀM NÊN và TRỰC THUỘC MỘT QUÊ
HƯƠNG. Nhờ vào quan hệ gắn bó nầy, hai chúng ta
-
Tôi và Bạn
-
đang THƯƠNG nhau khi gần nhau, và NHỚ nhau khi xa nhau. Chính mối t́nh
thương nhớ nầy làm cho chúng ta CÓ MẶT với nhau, thậm chí cả những lúc
chúng ta VẮNG MẶT. Nói một cách vắn gọn, trong giai đoạn và câu chuyện
CHÚNG TA, thực tại và ư nghĩa chủ quan hẹp ḥi, một chiều... nhường bước
cho ư nghĩa liên chủ quan càng ngày càng mở rộng trong nhiều chiều
kích và đường hướng. Cái Tôi ích kỷ, nhỏ bé
từ từ biến tan, nhường chỗ, nhường lời cho cái Chúng Ta cao cả và
trọng đại, vượt ra ngoài mọi biên cương, bờ cơi của cá nhân chủ nghĩa.
Trong những câu chuyện Huyền sử, những lối nói như Trời và Đại dương,
diễn tả con đường thuyên giải mở rộng, vượt ra ngoài mọi biên cương,
giới hạn chủ quan ấy. Phải chăng Thần Kim Qui luôn luôn xuất phát từ
ḷng Đại dương và trở về trong ḷng Đại dương, mỗi lần được con cháu
Lạc Hồng khấn vái kêu cầu, trong một t́nh huống khẩn trương và nghiêm
trọng ? Thêm vào đó, Trời và Đại Dương không phải là những thực tại Ở
TRÊN hay là Ở NGOÀI. Những thực tại bao la, kỳ hùng nầy đang có mặt
TRONG tâm hồn của mỗi người Việt Nam, v́ họ mang ḍng máu Rồng Tiên
trong huyết quản.
***
Ch́a khóa thứ hai
là ba cơ chế kết cấu và h́nh thành, có mặt trong mỗi h́nh tượng của
câu chuyện Huyền sử.
Mỗi h́nh tượng như Con Rùa Vàng, Đền Tháp Cổ Loa... cưu mang và tập
trung trong ḿnh, nhiều h́nh ảnh và ư nghĩa, có khi rất khác biệt và
mâu thuẫn với nhau. Đó là cơ chế Cô Đọng. Chẳng hạn, cái MU trên lưng
của Thần Kim Qui vừa tượng trưng Bầu Trời luôn luôn có mặt, trong đời
sống và quả tim của Thần. Cái MU ấy cũng là dấu hiệu bên ngoài diễn tả
hai loại quan hệ trực thuộc và máu mủ giữa con người của Thần và Mẹ Âu
Cơ.
Thêm vào đó, khi cưu mang Trời trong quả tim và cuộc đời, giống như
Thần Kim Qui, chúng ta sẽ có hai khả năng « làm người » : một là
chuyển hóa mọi yêu tinh ma quái đang tung hoành ngang dọc, trong đời
sống xúc động và t́nh cảm của chúng ta. Khả năng thứ hai là xây dựng
Ngôi Nhà Tâm linh, giống như Đền Tháp Cổ Loa, trên mỗi chặng đường tiến
hóa của Quê Hương. Ngược lại, khi không có Trời, trong lối nh́n và quả
tim, chúng ta sẽ làm cho Đất Nước lạc hậu, thoái trào, trở lui với
thời kỳ đồ đá. Không cưu mang Trời trong ḷng, chúng ta sẽ hối lộ,
tham tàn, ức hiếp anh chị em đồng bào. Hay là chúng ta bán đứng Quê Hưông
cho ngoại bang, để lănh nhận áo quần, vàng bạc, đô la, chức tước, súng
ống, bom đạn, kèm theo những tước hiệu đánh giá như « côn đồ, mất dạy,
thiếu lương tâm », từ miệng lưỡi của những người đă thực dân và sử
dụng chúng ta như con múa rối, trên chính trường quốc tế.
Cơ chế thứ hai, được sử dụng trong ngôn ngữ h́nh tượng là DỜI CHỖ. Ư
nghĩa có mặt trong h́nh ảnh nầy được di chuyển qua chỗ khác, áp dụng
cho một h́nh ảnh khác. Chẳng hạn Vàng là một kim loại quí giá và được
trọng dụng, trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Ngoài ra, màu vàng
trong truyền thống văn hóa của Việt Nam là màu của Trời. Màu của Ánh
Sáng. Màu của Nguồn Gốc Sự Sống. Màu của Thời đại Hoàng Kim an b́nh và
thịnh vượng.
Trong tinh thần và lăng kính ấy, Con Rùa Vàng hay là Thần Kim Qui
không phải là ai xa lạ hay là một tin tưởng dị đoan, một h́nh ảnh
hoang tưởng bịa đặt. Đó là h́nh tượng của một con người đích thực. Đó
cũng là một viễn tượng kỳ hùng, một lư tưởng cao đẹp, để kêu mời chúng
ta cần vươn tới.
Hẳn thực, khi mỗi người trong chúng ta sống thức tỉnh và ư thức ḿnh đang
mang ḍng máu của Âu Cơ và Lạc Long Quân, tự khắc chúng ta động viên
ḿnh để vươn tới. Chúng ta hóa thân thành Thần Kim Qui, mang Bầu Trời
trong tâm hồn và cuộc đời. Đồng thời, chúng ta có khả năng bơi lội
trong Ḍng Sông Xanh phản chiếu bầu trời, hay là trong ḷng Đại
Dương bao la, hùng vĩ...
Trong đời sống nội tâm, Trời tượng trưng cho Lối Nh́n của Tư Duy có khả
năng soi sáng con đường t́m sự thật, khám phá lẽ phải. Nước, ḍng sông
hay Đại Dương, trái lại, tượng trưng cho đời sống Xúc Động và T́nh
Cảm. Chính v́ lư do nầy, khi làm chủ hay là hóa giải được đời sống
t́nh cảm, giống như Lạc Long Quân và Thần Kim Qui, chúng ta có khả năng
làm nơi nương tựa an toàn cho anh chị em đồng bào. Trái lại, khi bị
tràn ngập và tê liệt, trong đời sống xúc động và t́nh cảm, chính chúng
ta sẽ trở nên những ngư tinh, mộc tinh và hồ tinh gây tai ương, hoạn
nạn cho mọi người, thậm chí cho những ai mà chúng ta có trách nhiệm
nuôi dưỡng, phục vụ, nâng đỡ và hướng dẫn...
Cũng vậy, khi nói đến nỏ thần, hay là thanh kiếm cứu nước, cứu nhà...
một cách h́nh tượng, Huyền sử đă nói đến những khả năng khám phá sự
thật và chuyển hóa những khổ đau, trong ḷng cuộc đời. Thiếu những kỹ
năng nầy, làm sao chúng ta xây dựng Quê Hương, phục vụ anh chị em đồng
bào ?
Ngoài hai cơ chế Cô Đọng và Dời Chỗ vừa được tŕnh bày và giải thích,
một cơ chế quan trọng thứ ba là Diễn Kịch một cách câm điếc, c̣n mang
tên là Diễn Xuất vô ngôn, không lời. Trong lịch sử của Đất Nước Việt
Nam, những thiền sư hay là những nhân vật kỳ lạ mang tên là Ông Trạng
thường sử dụng những cách diễn tả không lời nầy. Họ chỉ làm một bộ điệu
hay một tác phong bên ngoài, khi có người đến tŕnh bày một vấn đề hay
là thỉnh cầu một lời khuyên bảo.
Chẳng hạn, trên đường chạy trốn, Vua An Dương mở lời khấn vái, cầu
Trời. Và Thần Kim Qui đă xuất hiện, đứng đối diện với Nhà Vua, không
nói, đưa tay chỉ ra đằng trước, hướng về Nhà Vua.
Tức th́ sau đó, trong một t́nh huống hoảng loạn, lo sợ, nghi kỵ, Nhà
vua đă sử dụng bạo động với đứa con gái của ḿnh là Mỵ Châu. Ở giữa
t́nh huống bị khổ đau tràn ngập và khống chế tâm hồn, Vua An Dương Vương
cũng như chúng ta, có khuynh hướng phản ứng bốc đồng, máy móc, tự động,
tuân theo những sức thúc ép của Vô thức, như tố cáo, t́m nạn nhân, qui
lỗi, trừng phạt, loại trừ...
Trong câu chuyện Huyền sử, cũng giống như trong một giấc chiêm bao,
những nhân vật chỉ diễn xuất. Sau nầy, khi viết lại thành văn bản, các
tác giả đă đưa ra những lối thuyên giải riêng tư của ḿnh. Và khi giết
đứa con thân yêu của ḿnh, Vua An Dương cũng đă thuyên giải cử chỉ của
Thần Kim Qui, theo tâm trạng và lối nh́n của một người đang đánh mất
tâm hồn an lạc.
Tôi không phải là tên phù thủy toàn năng, để tự cho ḿnh có khả năng
xác định ư nghĩa đích thực trong cử chỉ của Thần Kim Qui lúc ấy. Tôi
chỉ khiêm cung đưa ra những câu hỏi gợi ư:
-
Việc ǵ sẽ xảy ra, nếu Vua An Dương thay đổi lộ tŕnh, trở lui Đằng
Sau, để đối đầu với Trọng Thủy, đứa con rể của ḿnh, sau phút gặp gỡ
với Thần Kim Qui ? Chắc hẳn, khi gặp lại được Mỵ Châu trên đường t́m
kiếm, Trọng Thủy sẽ không tự tử, như đă xảy ra trong thực tế của câu
chuyện.
-
Việc ǵ sẽ xảy ra, nếu Vua An Dương Vương thuyên giải cử chỉ của Thần
Kim Qui, như một lối gợi ư « Hăy nh́n chính ḿnh » ? Hẳn thực, khi có
một sự việc xảy ra, tất cả những người có mặt trong cuộc, đều đồng
trách nhiệm, trong đó có Vua An Dương Vương.
-
Việc ǵ sẽ xảy ra, nếu chính Vua An Dương Vương đảm nhận trách nhiệm
của ḿnh, không lơ là, xao lăng, bỏ bê khả năng thức tỉnh và tin vào
kẻ khác, một cách vô điều kiện, để rồi Trọng Thủy đă có cơ hội đánh
cắp chiếc nỏ thần ?
-
Sau cùng, việc ǵ sẽ xảy ra, nếu chính khi Thần Kim Qui làm cử điệu « chỉ
tay về phía Nhà Vua », thay v́ có phản ứng bạo động bốc đồng bột phát,
Vua An Dương Vương dừng lại suy nghĩ và hỏi Thần : « Vậy, kính thưa
Thần, Trẫm phải làm ǵ cụ thể ? ». Trước đây, Vua đă hỏi Thần một cách
cặn kẻ về việc xây đắp Đền Tháp Cổ Loa, và Thần đă trả lời. Hôm nay,
trước một t́nh thế mới, chắc hẳn Thần cũng sẽ trả lời, hướng dẫn, soi
sáng... với tất cả tấm ḷng, như trước đây.
Tất cả bao nhiêu nhận xét ấy muốn nhấn mạnh một ư nghĩa, do câu chuyện
Huyền sử đề xuất : Thần Kim Qui đang có mặt trong tâm hồn của chúng
ta. Nếu chúng ta gọi, Thần sẽ xuất hiện. Nếu chúng ta hỏi, Thần sẽ trả
lời. Nếu chúng ta tŕnh bày nhu cầu, Thần sẽ đáp ứng. Thần Kim Qui
không phải là ai khác, ngoài con người thức tỉnh, có khả năng nh́n
thấu suốt, với trăm con mắt, đang hiện diện trong chúng ta, với chúng
ta. Thần là Biển. Thần là Trời. Thần là người bạn. Và Thần cũng là Vị
Thầy, nếu chúng ta muốn học. Thần là Ánh Sáng, nếu chúng ta muốn t́m
con đường giải thoát.
« Hăy gọi Biển về, ḷng ai thao thức sóng vỗ.
« Hăy lắng nghe Trời, khi cuộc đời đầy giông tố.
« Giữa băo táp, hồn Đại Dương vẫn lặng.
« Ngày sương mù, ḷng Trời cao cứ nắng ».
***
Ch́a khóa thứ ba
là BA CHUẨN MỰC, trong vấn đề thuyên giải những câu chuyện Huyền sử.
Trong nhiều tác phẩm đă được xuất bản, từ năm 1994,
như « Khung Trời Mở Rộng , Đồng Cảm để Đồng Hành, Sơn Tinh và Thủy
Tinh : hai con đường, một Nước Non »... tôi đă tŕnh bày ba tiêu chuẩn
hay là ba chuẩn mực do Phân Tâm Học đề nghị, nhằm thuyên giải mọi giấc
chiêm bao hay là những câu chuyện Huyền sử.
o
Chuẩn mực thứ nhất là EROS, T́nh Thương Vô Điều Kiện trong lối nh́n về
ḿnh và về người khác.
o
Chuẩn mực thứ hai là ANANKÉ, Thực tế tất yếu là qui luật, là con đường
cần khám phá và noi theo, mỗi khi chúng ta cần đánh giá một hoàn cảnh,
một t́nh huống.
o
Chuẩn mực thứ ba là THANATOS, từ bỏ những con đường vong thân vong
bản, sau khi đă chọn lựa con đường tất yếu kết dệt bằng T́nh Anh Em đồng
bào, T́nh Nước t́nh Non.
Đó là những tiêu chuẩn của câu chuyện CHÚNG TA
-
mà tôi đă nói tới trên đây
-
có khả năng nối kết những chủ thể biết ngồi lại với nhau, lắng nghe
nhau, t́m hiểu nhau và đồng cảm với nhau, để có thể đồng hành, trên
những nẻo đường xuôi ngược của Quê Hương. Nói khác đi, khi đă chọn lựa
con đường Yêu Thương, chúng ta không c̣n lo sợ. Con đường tất yếu của
những ai mang ḍng máu Rồng Tiên là cùng nhau xây dựng những quan hệ
hài ḥa và bổ túc « Tôi thắng, Bạn thắng, Chúng Ta cùng thắng với nhau.
Chúng ta sinh thành, xây dựng, nuôi dưỡng nhau ». Và khi đă NHẤT TÂM,
một ḷng như vậy, chúng ta không thể không từ bỏ những tư duy độc lộ,
những lối nh́n một chiều, những quan hệ thống trị Tao hơn-Mày thua.
Phần Hai
Thần Kim Qui là ai ?
Trong phần vừa qua, tôi đă dựa vào phương pháp Phân Tâm Học, để thuyên
giải một số yếu tố trong các câu chuyện Huyền sử. Xuyên qua tất cả
những nhận định đă được khám phá và tŕnh bày, Nhân Vật Thần Kim Qui
cưu mang trong ḿnh những tư cách và đặc điểm quan trọng sau đây :
-
Thứ nhất : Thần Kim Qui luôn luôn có mặt và xuất hiện, trong mọi t́nh
huống của cuộc đời, mỗi lần chúng ta biết dừng lại, gọi Thần trở về.
-
Thứ hai : Nơi xuất phát của Thần là Ḍng Sông Xanh hay là Biển Cả bao
la, không bến bờ. Đó cũng là quê hương muôn thuở của Lạc Long Quân, Người
Cha của toàn thể con Hồng cháu Lạc. Thần là sứ giả được sai phái, mỗi
lần chúng ta lâm nguy, cần cứu giúp.
-
Thứ ba : Mỗi lần đến thăm viếng chúng ta, hành trang Thần mang theo
trên ḿnh, là Bầu Trời của Mẹ Âu Cơ. Thần đến, để che chở, đùm bọc. Nhưng
đồng thời, Thần cũng có phần vụ soi sáng, chỉ đường, để chúng ta biết
mở mắt để nh́n, mở tai để nghe, mở ḷng để đón nhận, chuẩn bị hai chân
để bước tới, giăng hai tay để đón nhận, tha thứ. Thiếu Bầu Trời trong
cuộc đời và tâm hồn, chúng ta sẽ có xu thế thao tác bạo hành và bạo động
trên bản thân ḿnh hay là trên cơ thể của người khác. Phải chăng đóù
là con đường tất yếu
-
là Ananké
-
của những ai mang ḍng máu Rồng Tiên trong huyết quản, giống như Thần
Kim Qui ?
-
Thứ bốn : Với một ngôn ngữ không lời như « đưa tay chỉ vào quả tim của
Vua An Dương Vương », Thần kêu mời mỗi người trong chúng ta hăy nh́n
vào tấm ḷng của ḿnh. Đó là nơi xuất phát của mọi chương tŕnh, mọi
dự phóng, mọi kế hoạch, mọi toan tính. Trời của Bà Âu Cơ và Đại Dương
của Lạc Long Quân đang có mặt ở đó. Cho nên mọi con đường, chúng ta
chọn lựa và quyết định, trong bất cứ t́nh huống nào, không thể không
mang tính chất trọng đại và cao cả, bát ngát và bao la.
-
Thứ năm : Thần Kim Qui không mang đến từ ngoài hoặc từ trên, một bài
học, một ánh sáng, một con đường hay là một kế sách... Thần chỉ gợi ư,
để chúng ta thấy được rằng : chúng ta đang cưu mang Trời và Đại Dương
trong tâm hồn. Và khi vun trồng, tưới tẩm T́nh Yêu Thương trong lối
nh́n cũng như trong đời sống quan hệ và t́nh cảm, chúng ta sẽ có mọi
kỹ năng « biết sống, biết làm và biết cảm ».
« Con là ai ? Hạt bụi giữa trời đất, vũ trụ.
« Nhưng đời con gây động chuyển hằng ngàn tinh tú.
« Ánh mắt con là cả một bầu trời...
« Quả tim con : nguồn suối không cạn vơi.
« Con là nước tưới ngày mai tuổi trẻ,
« Trồng rừng xanh, phủ hết đất tang thương,
« Mang mặt trời chiếu rạng vùng tăm tối,
« Hạt T́nh Người gieo văi khắp mười phương. »
-
Thứ sáu : Khi Thần Kim Qui đưa tay chỉ vào Vua An Dương Vương, Thần đang
gây ư thức cho Nhà Vua cũng như cho mỗi người chúng ta thấy được rằng :
« Ḿnh với Ta, tuy hai mà một, Ta với Ḿnh sao một mà hai ». Nói cách
khác, mỗi người trong chúng ta đều là Thần Kim Qui cho người khác, cho
mỗi anh chị em đồng bào. Chúng ta hăy đến với họ, như là một Thần Kim
Qui, khi họ kêu cứu và cần sự giúp đỡ của chúng ta. Chúng ta cũng là
sứ giả « Thanh Giang » mang hơi ấm, ánh sáng và con đường cho mỗi anh
chị em đồng bào, trên khắp mọi nẻo đường của quê hương.
Chỗ nào đang có hận thù, chúng ta mang đến yêu thương và hiểu biết.
Chỗ nào đang c̣n nghèo đói, chúng ta tạo ra công ăn và việc làm.
Chỗ nào đang c̣n những hiện tượng đàn áp, bốc lột, hối lộ, tham tàn,
chúng ta mang đến những quan hệ đồng cảm và đồng hành.
Chỗ nào chỉ có ngôn từ quảng cáo và tuyên truyền láo khoét, chúng ta
chia sẻ một miếng cơm, manh áo, giống như Thần Kim Qui đă trao ban « một
móng chân ». Nhưng móng chân ấy sẽ trở nên chiếc nỏ thần, có khả năng
cứu Nước và độ dân.
Một cách đặc biệt, chỗ nào tâm hồn của anh chị em đồng bào c̣n loạn động,
xao xuyến, bất an, bất ổn và bất hạnh, mặc dù của cải vật chất lan
tràn, tích tụ và chất đống... hăy cùng với họ « xây đắp Đền Tháp Cổ
Loa » hay là một Ngôi Nhà T́nh Thương và Ḥa B́nh, trong tâm hồn và
cuộc đời.
Trong tinh thần và lăng kính ấy, không một ai trong chúng ta có thể tự
hào rằng : Tôi là Thần Kim Qui, một cách đơn thương độc mả. Chúng ta
tất cả, không loại trừ một ai, họp nhau lại, làm nên một Thần Kim Qui
duy nhất, « có trăm con mắt để thấy, có trăm đôi tai để lắng nghe, có
trăm cánh tay để làm, có trăm đôi chân để bước tới, và nhất là có một
trăm quả tim để yêu thương, đùm bọc anh chị em đồng bào ». Chúng ta
cùng nhau xây dựng một Quê Hương Thanh B́nh và Hạnh Phúc. Chúng ta là
những viên gạch xây dựng Đền Tháp Cổ Loa. Và công tŕnh kiến trúc ấy
không bao giờ chấm dứt và hoàn thành, bao lâu chúng ta c̣n mang thân
phận và điều kiện làm người.
« Con là điệu nhạc làm nên bản hoan ca,
« Con là trang sách đắp bồi nên tác phẩm,
« Con là bếp lửa tặng cho đời hơi ấm,
« Con là viên gạch dựng xây lại ngôi nhà.
« Con là ché lúa đưa tin mùa gặt mới,
« Con là ḍng suối gọi ḷng người tắm gội,
« Con là hạt nước trở về nuôi Đại Dương,
« Con là ngón tay chỉ hướng ngả ba đường ».
Phần Ba
Công tŕnh của Thần Kim Qui là Hóa Giải những con Yêu Tinh Ma Quái và
xây dựng Đền Tháp Cổ Loa.
Tất cả những câu chuyện Huyền sử có liên hệ xa gần với Thần Kim Qui, đều
trao gửi và nhấn mạnh lui tới những sứ điệp cơ bản sau đây :
o
Sứ điệp thứ nhất : Tâm hồn và cuộc sống của chúng ta tất cả, không trừ
sót một ai, luôn luôn bị những con yêu tinh ma quái ŕnh rập và đe dọa.
Con yêu tinh thứ nhất là Ngư Tinh. Khi bị con yêu tinh nầy khống chế,
tâm hồn chúng ta bị đầu độc. Lúc bấy giờ, mọi quan hệ giữa chúng ta và
người anh chị em hai bên cạnh đều bị ô nhiễm. Ngư Tinh là những xúc động
có khả năng tàn phá và làm băng hoại tâm hồn an lạc của chúng ta, như
giận hờn, lo sợ, buồn chán, thất vọng, thù hận... Chính những con ngư
tinh độc hại nầy tạo nên khổ đau và tiêu diệt mọi năng lực cũng như
sức sống vươn lên của chúng ta.
Con yêu tinh thứ hai là Mộc Tinh. Khi con yêu tinh nầy tung hoành và
trấn ngự nội tâm, chúng ta không c̣n có một lối nh́n đứng đắn và khách
quan về thực tế bao quanh chúng ta. Trong đó có thực tế về người khác
và về mọi sự cố xảy ra trong môi trường. Chúng ta có xu thế bóp méo
hoặc xuyên tạc tất cả. Chúng ta bắt râu ông nọ đặt cằm bà kia. Có ít,
chúng ta xít ra cho nhiều. Chúng ta vơ đũa cả nắm. Chúng ta giận cá,
chém thớt...
Con yêu tinh thứ ba là Hồ Tinh. Khi cưu mang con Hồâ Tinh trong cơi
ḷng, chúng ta sẽ dùng nhiều chiêu bài khác nhau, để bốc lột, đàn áp
anh chị em đồng bào, như hối lộ, độc tài, lạm dụng chức quyền, chạy
theo ngoại bang...
Con yêu tinh sau cùng là Sơn Tinh và Thủy Tinh. Chúng nó đội lốt những
tư duy độc lộ, những lối nh́n kỳ thị, phe phái, hận thù và chiến
tranh... để làm băng hoại mọi t́nh tự dân tộc hay là quan hệ giữa anh
chị em đồng bào.
Bao lâu chúng ta không học cách hóa giải hay là chuyển biến bốn loại
yêu tinh ma quái nầy, những câu nói như « yêu Nước, xây dựng Quê
Hương, phục vụ đồng bào » chỉ là tuyên truyền láo khoét, bịp bợm mà
thôi.
o
Sứ điệp thứ hai : Xây dựng Đền Tháp Cổ Loa có nghĩa là học hỏi, thực
tập, tôi luyện cho bản thân và cuộc đời của ḿnh một khả năng THỨC
TỈNH. Với khả năng nầy, khi ăn, tôi biết tôi đang ăn. Khi làm, tôi
biết tôi đang làm. Khi phục vụ đồng bào, tôi biết phục vụ ở đâu, làm
ǵ, cách nào. Tôi không ba hoa chích cḥe, nói láo ăn tiền, hay là chỉ
phục vụ ở đầu môi chót lưỡi mà thôi.
Có khả năng xây dựng Đền Tháp Cổ Loa, những ai biết trả lời cho ḿnh
những câu hỏi thiết yếu và quan trọng sau đây :
-
Một : Tôi là ai ? Bản sắc của tôi là ǵ ? (Who ?).
-
Hai : Mục đích tối hậu của đời tôi là ǵ ? Những giá trị soi sáng cuộc
đời bao gồm những điểm nào ? Giấc mơ trọng đại điều hướng và thúc đẩy
tôi can trường bước tới mỗi ngày, hệ tại vào đâu ? (Why ?).
-
Ba : Tôi có những kỹ năng, những cách biết làm nào, để chuyển biến lư
tưởng hoặc giấc mơ thành hiện thực ? (How ?).
-
Bốn : Chính ngày hôm nay tôi thực hiện những động tác cụ thể nào, để
khoảng cách giữa lư tưởng và thực tế càng ngày càng thu gọn và rút
ngắn lại ? (What next ?).
-
Năm : tôi làm với ai ? Ai là bạn đồng hành, trên con đường vươn tới lư
tưởng ? (With whom ?).
Nói một cách vắn gọn, con người Thức Tỉnh, đằng sau những xúc động
đang hiện h́nh trong tâm hồn, nhận biết một cách sáng suốt đâu là nhu
cầu cơ bản và chính đáng của ḿnh. Đồng thời, trong quan hệ với tha
nhân, con người Tỉnh Thức cũng biết khám phá nhu cầu của người đối
diện, để đáp ứng một cách hữu hiệu, tùy vào thực tại của ḿnh. Nhờ vào
một lối nh́n sáng suốt và toàn diện như vậy, con người Thức Tỉnh biết
ḿnh hiện tại đang ở đâu ? Hướng đến đích điểm nào ? Sử dụng con đường
nào ? Khi nào dừng lại ? Khi nào chuyển đổi hướng đi ?
o
Sứ điệp thứ ba : Con người Thức Tỉnh không bao giờ mê muội, mất khả
năng cảnh giác và đề pḥng. Trong một phút giây lăng quên của chúng
ta, bốn con yêu tinh ma quái có thể trở về, phá hoại Ngôi Nhà An Lạc
và Đền Tháp T́nh Thương. Chiếc Nỏ Thần hay là Thanh Gươm Thức Tỉnh có
thể bị đánh mất, bất kỳ vào lúc nào. Thần Kim Qui luôn luôn nhắc nhủ
chúng ta về hiểm họa « Mót củi ba năm, thiêu trong một giờ ».
o
Sứ điệp sau cùng của Thần Kim Qui có liên hệ trực tiếp với Hận thù,
Bạo động. Đó là những dấu hiệu rơ ràng và cụ thể nhất, cho phép chúng
ta nhận thấy rằng : những ai dấn bước vào con đường nầy, đối với bản
thân ḿnh cũng như đối với anh chị em đồng bào, không c̣n là con người
Thức Tỉnh, theo mẫu thức của Thần Kim Qui. V́ thiếu tỉnh thức, Vua An
Dương đă không c̣n hiểu ngôn ngữ không lời của Thần Kim Qui. Cho nên
Nhà Vua đă rút kiếm, giết đứa con gái của ḿnh là Mỵ Châu, và cuối
cùng nhảy vào ḷng Biển, để tự vẫn.
Hơn ai hết, Nguyễn Trăi đă thấm nhuần bài học ấy. Sau khi Lê Lợi b́nh
định Sơn Hà, chính ông đă can đảm thỉnh nguyện vị lănh đạo nầy « dừng
lại, biết tri chỉ », cung cấp thuyền bè và lương thực, để những tướng
tá, binh lính c̣n sống sót thuộc quân Minh, có thể trở về quê nhà của
ḿnh, trong an b́nh và tự do. Nguyễn Trăi cũng như Thần Kim Qui không
bao giờ chỉa súng bắn vào lưng một người đă bị trói tay...
Trên đây, tôi đă phân biệt hai công tŕnh của Thân Kim Qui : Một là
chuyển biến và hóa giải những xúc động, trước khi chúng nó tràn ngập,
tung hoành ngang dọc, làm băng hoại đời sống an lạc. Hai là ngày ngày,
không ngừng xây dựng, phát huy và bảo vệ khả năng thức tỉnh, trong đời
sống nội tâm. Nhưng thực ra, đó chỉ là hai bộ mặt thuộc về một công
tŕnh duy nhất mà thôi.
Hẳn thực, chừng nào chúng ta sống an lạc, lúc bấy giờ chúng ta cũng có
khả năng tỉnh thức, biết hóa giải những xúc động tiêu cực, vừa đang
thành h́nh trong nội tâm.
Ngược lại, khi chúng ta biết hóa giải mọi t́nh huống dao động vừa hiện
h́nh trong nội tâm, trước khi chúng nó dẫn đến t́nh trạng rối loạn,
mất quân b́nh, đó là dấu hiệu chứng tỏ: chúng ta đang tỉnh thức và an
lạc.
Theo lối nói của văn hào Paulo Cuelho, khi thành tựu hai khả năng ấy,
chúng ta đang là người LUYỆN VÀNG. Đồng, ch́, sắt, thép... đụng đến
Nhân Vật Thần Kim Qui có mặt trong chúng ta, tự khắc sẽ biến thành
VÀNG nguyên chất. Trong những quan hệ tiếp xúc và trao đổi hằng ngày,
nhờ khả năng luyện vàng ấy đang sáng soi và tác động, chúng ta có thể
mang đến cho anh chị em đồng bào, những con đường ánh sáng, cũng như
một cuộc sống an b́nh và sung măn.
Phần Bốn
Kỹ Thuật « LUYỆN VÀNG », theo tinh thần
của Thần Kim Qui
Nhằm cung ứng cho anh chị em đồng bào những kỹ năng hóa giải đời sống
xúc động, sau đây tôi xin giới thiệu con đường LUYỆN VÀNG, theo tinh
thần của Thần Kim Qui.
Con đường nầy cần được thực tập và tôi luyện, mỗi ngày hai lần.
Một cách đặc biệt, khi có một xúc động đang hiện h́nh, khả dĩ mang đến
t́nh trạng hỗn loạn, trong đời sống nội tâm, lập tức chúng ta dừng
lại, khởi động Con Đường Luyện Vàng, với Bước Một.
Chúng ta thực tập mỗi ngày tất cả năm bước đi lên, cho đến lúc trở nên
dễ dàng, thoải mái, hồn nhiên và trôi chảy. Lúc bấy giờ, con đường
Luyện Vàng sẽ trở thành một nhu cầu tâm linh. Sau khi thành tựu kỹ
năng đến độ nhuần nhuyễn, tự nhiên, chúng ta chỉ cần chọn lựa một
trong năm bước đi lên. Khi ấy, chúng ta đă có thể tái lập t́nh trạng
an lạc, cho toàn thể đời sống nội tâm. Cơ hồ, chỉ cần đụng đến một dây
leo nho nhỏ, chúng ta đă có thể tác động trên toàn diện khu rừng lớn
lao.
Sau đây tôi xin lần lượt tŕnh bày, một cách súc tích và vắn gọn, năm
bước đi lên của con đường Luyện Vàng :
o
Bước Một :
Chấp hai tay thành h́nh chéo, chữ X, đằng trước ngực, tôi làm nên một
MU RÙA. Đó là một h́nh tượng nhắc nhủ tôi ư thức rằng : « Tôi
đang cưu mang Bầu Trời, trong con tim ». Hẳn thực, hiện giờ tôi đang
có một vài triệu chứng xao xuyến, trầm cảm, bực bội, khổ đau... Cho
nên tôi trở về nương tựa dưới mái nhà thân yêu, ấm áp, che chở của Mẹ
Âu Cơ.
Khi thở ra, tôi theo dơi hơi thở và đồng thời tôi ư thức rằng : tôi
đang thở ra.
Khi thở vào, tôi cũng theo dơi hơi thở và ư thức rằng : tôi đang thở
vào.
Khi thở ra, tôi gửi cho Mẹ những ǵ đang làm cho ḷng tôi xao xuyến,
vọng động.
Khi thở vào, tôi đón nhận và sở hữu hóa tấm ḷng đồng cảm và cao cả
của Mẹ.
Khi làm bấy nhiêu động tác thở và ư thức, tôi chú niệm câu thơ :
« Hăy gọi Biển về, ḷng ai thao thức sóng vỗ.
« Hay lắng nghe Trời, khi cuộc đời đầy giông tố.
« Giữa băo táp, Hồn Đại Dương vẫn lặng,
« Ngày sương mù, Ḷng Trời Cao cứ nắng ».
o
Bước Hai :
Tôi đưa hai bàn tay lên ngang tầm lỗ tai, làm thành hai chiếc loa. Tôi
lắng nghe tiếng gọi vươn lên, hướng thượng của Bầu Trời.
Vừa thực thi những động tác ấy, tôi vừa chú niệm một trong những câu
thơ sau đây :
« Con là ai ?
-
Hạt bụi, giữa Đất Trời, Vũ Trụ.
« Nhưng đời con gây động chuyển hằng ngàn tinh tú.
« Con trọng đại, v́ con là tất cả :
« Là Mẹ, là mảnh đất của Quê Hương,
« Một khu vườn ươm lại giống T́nh Thương,
« Xây Non Sông, làm tươi đẹp khóm phường ».
o
Bước Ba :
Tôi đưa hai ngón tay trỏ lên ngang tầm đôi mắt. Tôi mở mắt nh́n Đất,
cũng như tất cả những ǵ bao quanh tôi. Tôi nhận ra rằng : Nhiều người
đang khổ đau và mong chờ tôi mang tới một chút ít niềm vui và lương
thực tâm linh.
« Ánh mắt con là cả một bầu trời,
« Bàn tay con huyền nhiệm thấu tầng mây,
« Bước chân con gieo hạnh phúc cho Đời,
« Quả tim con : nguồn suối không cạn vơi ».
o
Bước Bốn :
Tôi đưa hai tay ra phía trước, làm một cử chỉ đón nhận. Tôi muốn ôm
vào ḷng tất cả những ai đang ngă quị dưới gánh nặng khổ đau, trong
cuộc đời.
« Con là Nước tưới ngày mai tuổi trẻ,
« Trồng Rừng Xanh phủ hết đất tang thương,
« Mang Mặt Trời chiếu rạng vùng tăm tối,
« Hạt T́nh Người gieo văi khắp mười phương ».
o
Bước Năm :
Tôi dùng hai tay làm cử chỉ bơi lội, trở về trong ḷng Đại Dương, cùng
với Thần Kim Qui. Nơi đó, tôi gặp lại Người Cha của Quê Hương là Lạc
Long Quân. Cùng với Người, tôi đi ra thăm viếng mọi nẻo đường của Đất
Nước.
« Từng bước đi, đường Non Sông diệu vợi,
« Quyết ấn mạnh dấu chân Con Người Mới,
« Lo băng bó vết thương c̣n lở lói,
« Gieo An Lạc vào ḷng ai ṃn mỏi,
« Ngày ngày cưu mang Biển Trời cao cả,
« Thở gió mát, biến đời thành phép lạ...
« Con đi ra, mở rộng nhiều chân trời T́nh Bạn,
« Con mang về Hạnh Phúc tṛn đầy và viên măn ».
Đối với trẻ em, chúng ta sử dụng phương thức rút gọn sau đây:
o
Một : Ṿng tay chéo h́nh chữ X trước ngực. Cùng với Thần Kim Qui,
chúng ta trở về nương tựa dưới mái nhà thân yêu, an b́nh và
thinh lặng của Bà Âu Cơ.
o
Hai : Với hai bàn tay làm thành hai chiếc loa nối dài hai lỗ tai.
Chúng ta lắng nghe Trời đang gọi mời, nhắn nhủ chúng ta : Hăy trở nên
cao cả và trọng đại.
o
Ba : Đưa hai ngón tay trỏ lên ngang tầm hai con mắt. Chúng ta đoái
thương nh́n cuộc đời tràn đầy những người đang khổ đau và bất hạnh.
o
Bốn : Hai tay ôm choàng anh chị em đồng bào, đồng loại. Chúng ta
bao bọc, che chở cho những ai bị đàn áp và bốc lột...
o
Năm : Với hai tay làm cử điệu bơi lội. Chúng ta ra đi, mang hơi ấm
t́nh người, cho anh chị em đồng bào, trên khắp mọi nẻo đường của Quê
Hương.
Để kết thúc những giây phút « Thực tập Luyện Vàng », chúng ta có thể
chú niệm :
« Con là Hạt Nước hay Đại Dương ?
« Cả hai làm một, T̀NH THƯƠNG nối liền,
« Con là bùn đất hay Thần Tiên ?
« Chính con chọn lựa : Vươn lên hay trầm ḿnh.
« Trầm ḿnh dẫn đến Vô Minh,
« Vươn lên thắp sáng Thần Linh cho Đời. ».
Chương Ba
Thánh Gióng và con đường « đi lên »
của con Rồng cháu Tiên
Xuyên qua nhiều
câu chuyện Huyền Sử, Tổâ Tiên và Cha Ông từ đời các Vua Hùng, đă trối
trăng lại cho chúng ta những sứ điệp LÀM NGƯỜI. Với một thái độ khiêm
cung và lắng nghe, học hỏi và t́m kiếm, chúng ta có thể rút tỉa từ
những sứ điệp nầy, những bài học giữ Nước và dựng Nước, nhất là khi có
những hiểm họa trầm trọng xảy ra trong ḷng Quê Hương và khả dĩ làm
băng hoại tiền đồ của dân tộc.
Trong các bài
chia sẻ, được đăng tải đó đây, trên nhiều tờ báo ở trong và ngoài
Nước, tôi đă lần lượt tŕnh bày và khảo sát một số sự việc quan
trọng như sau :
-
Thứ
nhất, nguồn gốc rồng tiên của người Việt Nam đă được đề cập, trong câu
chuyện kết duyên giữa Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ. Từ đó, một trăm đứa
con được cưu mang trong cùng một bọc trứng. Cho nên ngày hôm nay,
chúng ta có tập tục gọi nhau là anh chị em ĐỒNG BÀO, bất chấp những
nét khác biệt giữa người ở Bắc và kẻ ở Nam, giữa người làm ăn ở vùng
sơn cước và kẻ sinh sống ở miền đồng bằng...
-
Thứ
hai, vào những ngày tháng đầu tiên của dân tộc, Lạc Long Quân đă đích
thân thực hiện ba công tŕnh kỳ vĩ là diệt tan Ngư Tinh, Mộc Tinh và
Hồ Tinh, để cho con cháu có thể an cư lạc nghiệp, trên mọi vùng trời,
vùng biển và vùng đất của Quê Hương. Tuy nhiên, ba con yêu tinh ma
quái ấy vẫn luôn luôn tồn đọng và t́m cách tái sinh trong quả tim của
từng người, từ đời nầy qua đời nọ, dưới nhiều h́nh thức ngụy trang
khác nhau.
-
Thứ
ba, mỗi lần con cái, cháu chắt đối diện một vấn đề và lên tiếng cầu
cứu, nếu Lạc Long Quân không đích thân xuất hiện, Ngài thường sai phái
Thần Kim Qui, đến hỗ trợ những công tŕnh xây dựng và bảo vệ Non Sông.
-
Thứ
tư, chừng nào con Hồng cháu Lạc đoàn kết và nhất tâm với nhau, họ có
khả năng vượt thắng mọi trở ngại và đánh tan mọi kẻ thù, cho dù xuất
phát từ phương bắc, phương nam hoặc phương tây. Trái lại, t́nh trạng
« nồi da xáo thịt » hay là « gà một nhà bội mặt đá nhau » là tên nội
thù độc ác và nguy hiểm, đă từng làm băng hoại Non Sông, trong nhiều
giai đoạn lịch sử khác nhau. Mặc dù câu chuyện Sơn Tinh và Thủy Tinh
đă cảnh tỉnh về tai ương hoạn nạn ấy, ngày hôm nay, vào thời đại Ngh́n
Năm Thứ Ba, chúng ta vẫn c̣n duy tŕ thái độ « bịt tai nhắm mắt, đóng
kín mọi cửa ḷng », nghĩa là ngoan cố, tiếp tục xếp hàng thành hai
phe, tố cáo và kết án lẫn nhau. Chính v́ lư do nầy, bạo động và hận
thù đang c̣n bám trụ trong tâm tư và ngôn ngữ hằng ngày của mỗi người
Việt Nam.
Câu chuyện về
Thánh Gióng bổ túc và kiện toàn những bài học « giữ Nước và dựng
Nước » trên đây, bằng cách thêm vào ba chi tiết mới lạ
-
Thánh
Gióng là người thần dân của Nước Trời. Ngài được sai phái đến đầu thai
ở Làng Phù Đổng thuộc Quận Vũ Ninh, trong tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Khi
lên ba tuổi, Ngài đă đi ra chiến trận, đánh tan giặc Ân và mang lại
thanh b́nh cho Đất Nước, vào một giai đoạn rất đen tối và ngặt nghèo
của lịch sử Nước Nhà.
-
Sở dĩ
Thánh Gióng đă thành công một cách nhanh chóng và dễ dàng, là v́ nhờ
được bà con xa gần trong xóm làng đă tích cực nuôi nấng và đóng góp :
cho ăn cho mặc, cho ngựa cho gươm... cho T́nh Thương và Ḷng Hiểu
Biết.
-
Sau
khi hoàn tất công việc « dẹp loạn giặc Ân », Thánh Gióng đă tức khắc
và can đảm t́m đường trở về trời, chỉ để lại một vài dấu chân đậm nét
trên vùng đất sơn cước và c̣n tồn tại cho đến ngày hôm na
Câu chuyện nầy
được kết cấu một cách rất đơn sơ, với vài ba chi tiết thô thiển và mộc
mạc. Bộ mặt bên ngoài xem ra có vẽ hoang đường và loạn tưởng, theo
kiểu « bắt râu ông nọ đặt cằm bà kia », cơ hồ một giấc chiêm bao
thoáng qua và vô nghĩa, xuất hiện và biến tan, trong tâm tư của mỗi
người. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết dừng lại, đào bới, lắng
nghe, t́m hiểu một cách khiêm cung và cẩn trọng... Hồn Nước, Hồn Non
sẽ từ từ hiện về, trong cơi ḷng của những ai đang sẵn sàng chờ đợi và
đón nhận, biết nh́n và biết nghe
Trong khuôn khổ
của bài chia sẻ nầy, tôi sẽ lần lượt tŕnh bày con đường khám phá mà
tôi đă đi qua, những vấn nạn mà tôi đă cưu mang ấp ủ, trong bao nhiêu
ngày tháng, cũng như những câu trả lời mà tôi đă thừa kế, từ khi bước
vào tuổi đời « lục thập nhi nhĩ thuận », có nghĩa là biết thức tỉnh và
lắng nghe những loại ngôn ngữ không lời và h́nh tượng của các bậc tiền
bối.
Nói cách khác,
ba câu hỏi sẽ được đề cập và khảo sát một cách tường tận, trong các
phần sau đây :
-
Thứ
nhất, giặc ÂN là ai ? Là ǵ ? Phát xuất từ nơi đâu ? Ở vào giai đoạn
nào ?
-
Thứ
hai, Thánh Gióng đă đối ứng và khắc phục tên địch thù nầy, với những
hành trang và khí giới nào ?
-
Bí
quyết thành công của Thánh Gióng bắt nguồn từ những động cơ và
khả năng nào ?
1. Giặc
ÂN trong tác phong và ngôn ngữ hằng ngày của chúng t
Từ đời các Vua
Hùng cho đến những triều đại cuối cùng của Nhà Nguyễn, Đất Nước Việt
Nam đă phải đối đầu với nhiều loại giặc khác nhau, xuất phát từ phương
Bắc. Đó là giặc Hán, giặc Tống, giặc Nguyên, giặc Minh và giặc Thanh.
Không một lần, sử sách chính thức nói đến sự kiện giặc Ân tràn vào xâm
chiếm Đất Nước của chúng ta, tuy dù trong lịch sử của Trung Hoa, theo
ư kiến của Đào Duy Anh, vào những năm 700 sau Công Nguyên, có một đời
Vua mang tên là ÂN
Sau nhiều năm
nghiên cứu, học hỏi và t́m kiếm, tôi nhận thấy rằng : những câu chuyện
Huyền Sử, cho dù được sáng tác trong nhiều hoàn cảnh và giai đoạn hoàn
toàn khác nhau, vẫn có liên hệ chặt chẽ và mật thiết với nhau. Câu
chuyện đến trước có thể chỉ nêu lên vấn đề một cách sơ phác. Những câu
chuyện đến sau, sẽ bổ túc và soi sáng hay là từ từ đề nghị những lề
lối giải quyết, thích ứng với từng hoàn cảnh cụ thể. Tuy nhiên, lề lối
thuyên giải
-
nghĩa là khám phá ư nghĩa và hướng đi trong cuộc đời
-
vẫn tùy thuộc cảm nghiệm của mỗi người, nhất là sau khi họ biết ngồi
lại, lắng nghe, trao đổi, đón nhận những ư kiến đóng góp của kẻ khác.
Trong tinh thần
và lăng kính vừa được đề xuất như vậïy, câu chuyện về Thánh Gióng được
xem là một tia nắng mặt trời đang từ từ xóa tan những đám mây mù ảm
đạm, phát xuất từ những xung đột sống mái giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh.
Đàng khác, chúng ta cũng c̣n có thể mạnh dạn khẳng quyết thêm rằng :
Thánh Gióng là người thừa kế trực tiếp công tŕnh của Lạc Long Quân.
Công việc của Ngài là ngày ngày tiếp tục dẹp tan Ngư Tinh, Mộc Tinh và
Hồ Tinh, trên những vùng đất khô cằn của Quê Hương cũng như trong cơi
ḷng sỏi đá của mỗi người. Chính trong giờ phút hiện tại nầy, phải
chăng Thánh Gióng cũng như Thần Kim Qui đang hiện h́nh trở về với
chúng ta, để giúp chúng ta « dẹp tan giặc ÂN », trong những quan hệ
giữa chúng ta và anh chị em đồng bào
Nói khác đi,
giặc ÂN là « giặc T̀NH », « giặc NGHĨA » hay là « giặc QUAN HỆ » giữa
cha mẹ và con cái. Giữa vợ và chồng. Giữa anh và em. Giữa những người
đă cùng nhau chia sẻ những nỗi niềm ưu tư và hy vọng, cũng như những
đắng cay và trăn trở hoàn toàn giống nhau. Hẳn thực, khi giặc ÂN len
lỏi nằm vùng trong tâm tư và thái độ, tác phong và ngôn ngữ hằng ngày,
tự khắc bầu khí quan hệ giữa những người cùng chung sống trong môi
trường, sẽ bị đầu độc và ô nhiễm. Họ đánh mất khả năng đồng hành và
đồng cảm trên con đường giữ Nước và dựng Nước. T́nh đồng bào cũng do
đó, bị hoen ố, chà đạp và phản bội.
Trước đây, như
người xưa thường dạy bảo, « bên ướt mẹ nằm, bên ráo con nằm ». Bây giờ
đây, trong một số trường hợp, những câu nói trao đổi giữa hai mẹ con
đă trở thành « tên bay đạn lửa » có đầu ng̣i tự động, đi t́m đường sát
hại lẫn nhau. Trước đây, khi chưa cưới nhau, hai anh chị đă cùng nhau
thề thốt : « chúng ta yêu nhau, từ kiếp nầy qua kiếp khác ». Không
ngờ, sau khi đă trở thành vợ chồng, chính hai người ấy lại lên tiếng
nguyền rủa nhau : « mầy và tao không thể nào đội trời chung », hay là
« mày phải chết, để cho tao sống ».
Tệ hại biết
chừng nào cho Đất Nước và Dân Tộc, nếu từ hai hay ba tuổi trở lên, khi
con cái, cháu chắt chúng ta bắt đầu học nói, chúng nó đă ngày ngày
ngụp lặn trong những quan hệ chưởi bới, tố cáo và mạt sát lẫn nhau
trong thế giới của người lớn. Làm sao chúng nó có thể trở thành những
thế hệ Thánh Gióng, luôn luôn « COI DÂN LÀ TRỌNG » nếu trước mặt và
chung quanh chỉ được tŕnh bày những bài học đàn áp, bốc lột, hối lộ,
tham tàn, hống hách và quan liêu
Hẳn thực, với
câu chuyện Huyền Sử về Thánh Gióng, Tổ Tiên và Cha Ông đang nêu ra cho
chúng ta duy một câu hỏi chính yếu : chúng ta đang dạy con cái thế
nào, xuyên qua tác phong và ngôn ngữ hằng ngày của chúng ta ? Có lẽ
chúng ta có xu thế ta thán về một số hiện tượng đau buồn đang có mặt
trong ḷng Quê Hương, như bụi đời, xi đa, x́ ke, ma túy của giới trẻ ?
Thế nhưng, mấy người ư thức được một cách sáng suốt rằng : Không ai
ngoài chúng ta là nguyên nhân đă tạo sinh giặc ÂN trong môi trường gia
đ́nh và học đường. Do đó, phải chăng chính chúng ta là người đầu tiên
có trách nhiệm và sứ mệnh dẹp tan giặc ÂN đang khống chế tâm tư và đời
sống t́nh cảm, bằng cách ngày ngày thay đổi lối nh́n của ḿnh ?
Không cố gắng tôi luyện lại lời ăn tiếng nói, khi tiếp xúc và trao đổi
với con cái, cũng như khi làm việc với bạn bè xa gần, chính chúng ta
đang phản bội Đất Nước và bôi nhọ nguồn gốc Rồng Tiên của chúng ta.
***
2. Từ bỏ những phản ứng máy móc tự động và sáng tạo những kỹ
năng tương sinh, tương thành
Trong phần sau
đây, chúng ta sẽ cùng nhau lần lượt phát hiện những điểm tiêu cực cần
đề pḥng, cũng như những điểm tích cực cần phát huy và học tập, trong
mỗi quan hệ hằng ngày giữa người với người.
2.1.
Những tập tục phá hoại
Trong khuôn khổ
của chương nầy, thay v́ tŕnh bày và giải thích dài ḍng, tôi chỉ liệt
kê một cách vắn gọn những tập tục tiêu cực và phá hoại, cần được đề
pḥng và xa lánh, trong những t́nh huống tiếp xúc và trao đổi hằng
ngày.
-
Tập
tục tai hại đầu tiên là sử dụng tư tưởng nhị nguyên « Tao đúng mày
sai, tao có lư, mày vô lư, tao tốt mày xấu », trong các h́nh thức giao
tế với anh chị em đồng bào.
-
Chính
v́ tư tưởng nhị nguyên nầy, chúng ta cố quyết áp đặt cho kẻ khác lối
nh́n, quan điểm, cách nhận thức của chúng ta. Với sứ điệp « ngôi thứ
hai », cũng như với những loại động từ như « phải, nên, cần... »,
chúng ta rót ra những mệnh lệnh từ trên và từ ngoài, đ̣i buộc kẻ khác
tuân hành hay là xa lánh. Ví dụ : « Mày phải câm miệng lại và nghe tao
nói », hay là « mày không được trả lời với tao như thế »...
-
Trong
những cách truyền lệnh hay là áp đặt một lối cư xử và hành động, như
vừa được tŕnh bày, ư đồ sâu xa của chúng ta là « THAY ĐỔI kẻ khác tận
gốc rễ, từ đen qua trắng », phủ nhận quyền tự quyết và quyền làm chủ
thể cũng như tính khác biệt và độc đáo của họ. Bằng cách này hay cách
nọ, chúng ta không cho phép kẻ khác « khẳng định bản sắc làm người của
ḿnh ». Họ chỉ là công cụ, đồ vật, phương tiện, trong tầm tay sử dụng
và ảnh hưởng của chúng ta.
-
Trường hợp họ chống đối, phản động, không tuân phục, nghĩa là từ khước
trở thành lệ thuộc... chúng ta sẽ có phản ứng như tố cáo, phê phán, la
mắng, chửi rủa, kết án, qui lỗi và loại trừ ...
-
Với
những ai đă kết dệt những quan hệ gắn bó và thân t́nh, như con cái, vợ
chồng, bạn bè thiết cốt... chúng ta sẽ sử dụng t́nh cảm để tạo áp lực,
như khóc la, tuyệt thực, ngă bệnh, cắt đứt liên lạc, đóng kín cửa
pḥng, hay là cố thủ trong một thái độ câm nín suốt ngày, với bất kỳ
ai...
-
Một
cách đặc biệt, khi nói về kẻ khác, chúng ta dễ dàng sa vào ba loại cạm
bẫy máy móc và tự động. Thứ nhất là xu thế tổng quát hóa, c̣n được gọi
là cường điệu, có ít xít ra cho nhiều. Thứ hai là xu thế gạn lọc,
nghĩa là chỉ giữ lại những tin tức có khả năng củng cố lập trường có
sẵn của chúng ta. Đồng thời, chúng ta loại trừ, không ghi nhận những
tin tức không có lợi cho chúng ta. Thứ ba là xu thế bóp méo và xuyên
tạc. Chúng ta giải thích thực tế, theo lối nh́n chủ quan hay là những
định kiến đă có sẵn từ bao nhiêu đời, trong nội tâm và ḷng tin tưởng
của chúng ta. Chính v́ những lư do nầy, khi phê phán và kết án kẻ
khác, chúng ta dễ dàng gán cho họ những nhăn hiệu rất hồ đồ. Ví dụ :
« Người Nam của các ông th́ luôn luôn ba hoa chích cḥe. C̣n người
Trung của chúng tôi th́ không bao giờ tiêu xài phung phí... ». Có bao
giờ chúng ta biết dừng lại, lắng nghe ḿnh, để đặt ra những câu hỏi
phản tỉnh : « Người Nam » là ai ? « Người Trung » ở vùng nào ? Cách
nói « Luôn luôn » phải hiểu như thế nào ? « Không bao giờ » có ư nghĩa
làm sao ? Có những ngoại lệ hay là không, khi bạn dùng lối nói « Không
bao giờ » ?
-
Ở bên dưới bao nhiêu thái độ, tác phong và lời nói, mà tôi vừa liệt kê
và khảo sát trên đây, tư duy quá khích « HOẶC CÓ HOẶC KHÔNG » là
nguyên tắc và động cơ nền tảng, khả dĩ lèo lái mọi đường đi nẻo về của
chúng ta, khi tiếp xúc và trao đổi với kẻ khác, nhất là với giới trẻ.
Thực tế cụ thể, trái lại, trong bất cứ hoàn cảnh nào, luôn luôn là một
hiện tượng « VỪA CÓ VỪA KHÔNG ». Giữa trắng và đen, giữa tốt và xấu,
giữa sự thật và gian dối... c̣n có bao nhiêu sắc độ từ mạnh xuống yếu,
đang ở chung với nhau, ở sát cạnh nhau, ḥa trộn vào nhau, trong thân
phận và điều kiện làm người của chúng ta, cũng như trong tác phong và
ư định của kẻ khác. Hiểu được điều cơ bản nầy, chúng ta sẽ biết thức
tỉnh, không cho phép ḿnh « nói về, nói thay hoặc nói thế » kẻ khác,
theo kiểu « cả vú lấp miệng em ». Thay vào đó, chúng ta sẽ tôi luyện
kỹ năng sử dụng sứ điệp « TÔI », để nói về ḿnh. Diễn tả con người của
ḿnh. Sẵn sàng chia sẻ lối nh́n, quan điểm và lập trường chủ quan đang
có mặt trong tâm hồn.
Trung thực và
liêm chính phải chăng là hành trang của Thánh Gióng, và tất cả những
ai có kế sách xây dựng và phát huy những quan hệ đồng hành và đồng
cảm, trong ḷng Quê Hương và Dân Tộc ?
2.2. Những kỹ năng và động tác cụ thể cần phát huy, khi thiết
lập những quan hệ tôn trọng và hài ḥa với anh chị em đồng bào
Những loại giặc từ Trung Hoa, Pháp quốc và Bắc Mỹ đă nhất loạt nêu cao
ngọn cờ Nhân Nghĩa, để xâm lăng Đất Nước của chúng ta và áp đặt cho
anh chị em đồng bào những h́nh thức nô lệ kiểu cũ và kiểu mới. Với khí
thế hào hùng và tinh thần đoàn kết, dân tộc chúng ta đă sử dụng mọi
loại khí giới, để thủ tiêu, tàn sát và ép buộc họ rút ra khỏi biên
thùy. Sau một ngàn năm « nô lệ giặc Tàu », sau một trăm năm « đô hộ
giặc Tây », chúng ta vẫn có thể vùng đứng lên, lật đổ chế độ thực dân
xâm lược.
Tuy nhiên, khi cha mẹ, anh chị em, bà con xa gần... là giặc ÂN, giặc
T̀NH, giặc NGHĨA, giặc QUAN HỆ... đang áp đặt cho chúng ta lối nh́n,
quan điểm, lập trường của họ, chúng ta sẽ có những con đường đi như
thế nào ? Xung đột, hận thù... như Sơn Tinh và Thủy Tinh đă từng chọn
lựa ? Với cách làm nầy, chúng ta chỉ trối lại cho con cái và cháu chắt
một gia tài đổ nát và tang thương. Nếu Tổ Tiên và Cha Ông hiện về và
hỏi chúng ta : chúng ta đang làm ǵ với « ḍng máu Rồng Tiên trong
huyết quản », câu trả lời của chúng ta sẽ như thế nào ?
Chính Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ đă gặp những khó khăn tương tự, trong
địa hạt quan hệ, từ ngày lập Nước và khai Quốc. Hai vị đă chọn lựa con
đường « VỪA ra đi mỗi người một ngả, VỪA trở về với nhau », trong mỗi
giây mỗi phút của cuộc đời.
Trong nền văn hóa Âu Tây ngày nay, nhan nhản khắp nơi, theo thiển ư
của tôi, h́nh như đó cũng là con đường có xu thế tậâp hợp nhiều người.
Chẳng hạn, trong lănh vực vợ chồng, họ ra ṭa ly dị. Nhưng họ vẫn duy
tŕ quan hệ bạn bè với nhau. V́ lợi ích của con cái, họ vẫn trao đổi
và tiếp xúc với nhau.
Trong lănh vực chính trị, từ hai vị trí đối lập Tả và Hữu, họ dùng
ngôn ngữ, để mạt sát lẫn nhau một cách thậm tệ. Nhưng họ biết tri chỉ,
dừng lại, không đâm đầu vào con đường bạo động hay là thủ tiêu, ám sát
và khủng bố. Họ tôn trọng luật pháp và chọn lựa con đường luật pháp,
với những chuẩn mực khách quan và công b́nh, đối với mọi người.
Trong câu chuyện Huyền Sử, Thánh Gióng đă đề nghị và giới thiệu cho
chúng ta một con đường hoàn toàn mới lạ và độc đáo, không hẳn hoàn
toàn đồng ư với cách hành động của Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ. Đó là
con đường « can thiệp sớm », trong địa hạt giáo dục.
Hẳn thực, trên một tiến tŕnh làm người, bao gồm nhiều giai đoạn khác
nhau như A, B, C, D, E... Khi có một vấn đề trầm trọng xảy ra ở giai
đoạn C hoặc D, nếu chúng ta chỉ giải quyết vấn đề ở C hoặc D mà thôi,
cách giải quyết vấn đề của chúng ta sẽ bị thui chột, không hoàn toàn
hữu hiệu, nếu không nói là đă và sẽ thất bại hoàn toàn.
Lư do là khi một vấn đề bùng nổ, xuất hiện ra bên ngoài ở giai đoạn C,
trước đôi mắt chứng kiến của mọi người có mặt, chính vấn đề ấy đă được
cưu mang thai nghén, dưới thể hạt mầm, trong các giai đoạn sớm hơn,
như ở A và B chẳng hạn. Không can thiệp từ đầu và t́m cách giải quyết
vấn đề, khi c̣n ở trong thể trạng trứng nước, chúng ta chỉ hoài công :
« Tiếc công đan giỏ bỏ cà, giỏ thưa, cà lọt, công đà uổng công »
Trở về với câu chuyện Thánh Gióng, chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy
rằng : Khi vừa lên ba tuổi, Thánh Gióng đă được Mẹ và bà con xa gần
« cho ăn, cho mặc... cho ngựa, cho gươm... » Không được nuôi dưỡng, cư
xử và đăi ngộ như một Thần Dân của Nước Trời, từ khi đầu thai trong
ḷng Mẹ, không được lắng nghe, kính trọng, trả lời... lúc lên ba tuổi,
Thánh Gióng sẽ suốt đời chỉ là « một đứa bé khuyết tật, không biết đi,
không biết nói... ».
Th theo lối nh́n của tác giả Donald Winnicott, nhờ được bồng bế thương
yêu (Holding), nhờ được cư xử và đối đăi như một con người quan trọng,
có giá trị (Handling), cũng như nhờ được nuôi nấng, dạy dỗ theo từng
cấp độ phát triển và tăng trưởng (Object presenting), một đứa bé mới
có khả năng từ từ trở thành một con người TỰ TIN. Khi lớn khôn, nó sẽ
ư thức ḿnh là con người có giá trị, được thương yêu và kính trọng.
Đồng thời, tùy vào những giai đọan học tập và phát triển, nó sẽ hội
nhập những kỹ năng, nghĩa là biết làm, biết sống, biết tiếp xúc và
trao đổi, biết thích ứng với mỗi người và mỗi hoàn cảnh, trong đời
sống giao tế.
Trong lăng kính ấy, khi tự tin, tôi biết : Tôi là ai ? Tôi xuất phát
từ đâu ? Tận điểm của cuộc đời tôi là ǵ ? Ở vào vị trí hiện tại, tôi
có những khả năng và khuyết điểm nào ? Tôi có những ước mơ và hoài bảo
như thế nào ? Để biến ước mơ thành hiện thực, tôi cần thực hiện những
động tác cụ thể nào ? Và khi hoạt động, tôi biết đánh giá những thành
quả khách quan theo ba chiều hướng : Trường hợp tôi thành công, tôi
biết rơ con đường cần tiếp tục đi tới là đâu. Khi thất bại, tôi biết
chuyển hướng như thế nào. Khi sai lầm, tôi biết can đảm dừng lại, rút
tỉa những bài học và kinh nghiệm.
Nói tóm lại, trong quan hệ giữa người với người, tôi chỉ lo tập luyện
làm người về phía tôi. Tôi không đánh mất tính người và t́nh người,
cho dù người bên kia chưa làm người. Thậm chí, họ c̣n làm muông thú, ở
một khía cạnh nào đó, đối với tôi
Nhằm sáng tạo và xây dựng những « quan hệ tốt đẹp và hài ḥa » với anh
chị em đồng bào, trong môi trường sinh sống và hoạt động thường nhật,
tôi cần ngày ngày học tập, tôi luyện và thực hiện những động tác cơ
bản sau đây :
-
Động tác một, tôi dùng sứ điệp ngôi thứ nhất, để nói về những thực tại
đang có mặt trong nội tâm : Lối nh́n, xúc động, nhu cầu, sở thích và
yêu cầu. Tôi nói về tôi, một cách trung thực, thay v́ bói đoán, tưởng
tượng ư định và ư kiến của kẻ khác. Nói cách khác, tôi không nói thay,
nói thế, nhất là áp đặt cho kẻ khác những ư đồ chủ quan của tôi.
-
Động tác hai, khi tŕnh bày lối nh́n, tôi nêu rơ những sự kiện cụ thể
và khách quan được dùng làm cứ điểm cho những kết luận của tôi. Sự
kiện có nghĩa là những điều chính tôi thấy và nghe, chứ không phải là
những dư luận hay là lời đồn thổi.
-
Động tác ba, khi nói về xúc động, tôi phân biệt một cách rành mạch :
hoàn cảnh khách quan, nhu cầu, tên gọi của xúc động, và lời yêu cầu
của tôi xuất phát từ xúc động ấy. Tôi không lẫn lộn yêu cầu với đ̣i
hỏi, ép buộc. Ngoài ra, nhu cầu là một điều chính yếu cho sự sống c̣n
của tôi. Trái lại, sở thích hay là nguyện vọng có thể được hoán
chuyển, thay đổi và tŕ hoăn hay là không bao giờ được thỏa măn và
thực hiện.
-
Động tác bốn : Khi thiết lập và xây dựng quan hệ, tôi di chuyển, một
cách linh động và thoáng thoát, tùy trường hợp, giữa bốn hướng chọn
lựa sau đây : Cho, Nhận, Xin và Từ Chối. Cho có nghĩa là hiến tặng,
chứ không phải là ép buộc, áp đặt. Nhận là đón lấy từ tay của người
khác, một cách thanh thản, sung sướng và tự do, chứ không phải là tước
đoạt hay là chịu đựng, lệ thuộc. Xin là cầu mong một ân huệ, chứ không
phải là đ̣i hỏi hay là cướp lấy trên tay của người khác. Trường hợp
điều người khác trao tặng cho tôi, nếu không thích hợp với nhu cầu của
tôi, hay là khi điều họ xin tôi, tôi c̣n cần dùng và muốn giữ lại...
tôi có khả năng từ chối, một cách tự do và an lạc, thanh thản và hài
ḥa. Một cách đặc biệt, khi kẻ khác áp đặt cho tôi một nhăn hiệu, một
lời tố cáo, một cách làm không thích hợp... thay v́ phản công hoặc
chống đối, giận hờn hay là trầm cảm, đặt ḿnh trong t́nh huống xung
đột, tôi chỉ cần thanh thản TRẢ LUI cho tác giả « tác phẩm » của họ.
Ví dụ : « Tôi vừa nghe bạn nói : tôi là "thằng nói láo". Nhăn hiệu ấy
không đúng và không thích hợp với con người thực sự của tôi. Vậy tôi
trả về cho bạn lời bạn nói. Tôi không nhận quà tặng đă bị đầu độc và ô
nhiễm như vậy ».
-
Động tác năm : Khi chọn cách làm « Trả lui » ấy, tôi chỉ nhắm khẳng
định chính ḿnh, thay v́ có thái độ tấn công hoặc phản kích hay là
đánh mất an lạc của ḷng ḿnh. Tôi đang cố quyết LÀM NGƯỜI về phía
tôi.
-
Động tác sáu : Khẳng định ḿnh mà thôi chưa đủ. Khi trao đổi với người
đối diện, tôi c̣n phải kêu mời và tạo mọi điều kiện thuận lợi, để giúp
họ cũng khẳng định ḿnh, như tôi, với tôi, bằng cách lắng nghe, t́m
hiểu thực tại, lối nh́n, quan điểm, khung qui chiếu của họ.
-
Động tác bảy : Tôi nêu lên những nhận xét « phản hồi » và những câu
hỏi mở, để thúc giục họ diễn tả con người của ḿnh, một cách sâu sát
và cởi mở, trong sáng và toàn diện. Nói khác đi, tôi giúp họ bổ
túc và kiện toàn, đào sâu và mở rộng những điều chỉ mới hàm tiếu,
trong lời phát biểu của họ. Công việc khai sáng và mở đường nầy đ̣i
hỏi ở chúng ta nhiều tỉnh thức và kiên nhẫn, bởi v́ vô thức hay là vô
minh đang len lỏi nằm vùng trong nội tâm của mỗi người. Thêm vào đó,
khi khổ đau tràn ngập và khống chế tư duy, chúng ta « có mắt nhưng
không thấy, có tai nhưng không nghe ».
-
Động tác tám : Ở đây tôi nhắc lại điều mà tôi đă tŕnh bày trước đây.
Khi người đối diện nêu ra những nhận xét hoàn toàn tiêu cực và vô bổ,
có tính xúc phạm đến bản sắc làm người của tôi, tôi chỉ cần sử dụng kỹ
thuật « Trả Lui », một cách b́nh tĩnh và hồn nhiên, thông suốt và trôi
chảy, cơ hồ một con sông uốn ḿnh giữa đồng cỏ xanh.
-
Động tác chín : Con người
-
hay là chủ thể trao đổi
-
có giá trị và tầm mức quan trọng HƠN đối tượng hoặc nội dung được
tŕnh bày. Cho nên, khi lắng nghe và t́m hiểu ai, chúng ta đặt trọng
tâm vào chính con người của họ. Qua lời nói bên ngoài của họ, có lẽ
chúng ta đang bị tấn công, kết án, tố cáo, xuyên tạc, mạ lị, khinh
thường... Nhưng nếu chúng ta sáng suốt ư thức rằng : người ấy đang khổ
đau, người ấy chưa bao giờ có cơ may học như chúng ta đă học... chúng
ta sẽ thương hơn là loại trừ. C̣n hơn thế nữa, nếu người ấy là « ĐỒNG
BÀO », phát xuất từ một cung ḷng của Mẹ như chúng ta, chúng ta chỉ có
một câu trả lời : T́nh Thương vô điều kiện. Với một tấm ḷng bao la
như Đại Dương của Lạc Long Quân, với một lối nh́n cao cả như Bầu Trời
của Mẹ Âu Cơ, cho dù người đồng bào là ǵ ǵ chăng nữa, họ là « Một
mảnh đất của QUÊ HƯƠNG ».
-
Cho nên, sau đây là động tác mười. Lắng nghe ai là NH̀N NHẬN vô điều
kiện. Đằng sau một bộ mặt hống hách, ở bên dưới những lời tuyên bố sắc
nhọn, gai gốc và độc ác, nếu chúng ta biết lắng nghe và có một lối
nh́n xuyên thấu, chúng ta sẽ dễ dàng khám phá trong con người ấy, một
vết thương ḷng đang rướm máu và chưa bao giờ được ai băng bó, thoa
dịu. Có lẽ chúng ta là người đầu tiên đang mang đến cho họ một chút
hơi ấm t́nh người... Người ấy đang cần được NH̀N NHẬN, với những câu
nói phản hồi như : « Qua những lời anh vừa phát biểu, tôi ghi nhận
rằng : anh đang tức bực và lo buồn... anh đang gợi lại một thời thơ ấu
mồ côi mẹ... anh đang lo sợ trong môi trường sinh hoạt ngày nay, giới
trẻ đang phanh phui mọi chuyện trong đời tư của anh... »
***
3. Bí quyết thành công của Thánh Gióng
Như trước đây tôi đă gợi ư, câu chuyện Huyền Sử về Thánh Gióng có một
« bề mặt » hoang đường và vô tưởng. Những chiến công oanh liệt của
Ngài « xem ra » chỉ là điều bịa đặt dành cho trẻ con. Tuy nhiên, đối
với những ai biết lắng nghe ngôn ngữ h́nh tượng của Tổ Tiên, Thánh
Gióng không phải là ai xa lạ. Thánh Gióng là tôi, là anh, là chị, là
em... đang trực diện với những vấn đề sôi bỏng của thế giới ngày hôm
nay. Giặc quan hệ đang bủa vây chúng ta, ở khắp nơi, trong cũng như
ngoài Nước. Tại một số gia đ́nh, chẳng hạn, cha mẹ và con cái vào lứa
tuổi mười sáu, đôi mươi... là hai đường song song vạn kiếp, không bao
giờ có điểm hội tụ. Trong các đô thị đại công nghiệp, mái ấm gia đ́nh
đă trở thành một quán trọ, một nơi để qua đêm, không hơn không kém. Có
dịp chứng kiến cảnh tượng cha mẹ và con cái trao đổi với nhau, tôi có
cảm tưởng rằng họ là hai vị dân biểu thuộc phe tả và phe hữu đang chửi
rủa lẫn nhau một cách thậm tệ, thiếu văn minh, trước mặt toàn dân có
tiếng là văn minh và tiến bộ.
Với điều kiện và hành trang nào, chúng ta có thể xây dựng lại Ngôi Đền
Cổ Loa, trong địa hạt quan hệ giữa người với người, giữa anh chị em
đồng bào ?
Câu chuyện Huyền Sử về Thánh Gióng đă đề nghị câu trả lời trong ba
chiều hướng khác nhau :
Thứ nhất, bài học về Quan Hệ phải được học và phải được dạy cho trẻ
em, từ khi chúng nó lọt ḷng mẹ. Trên đây, trong phần 2, tôi đă mạo
muội sơ phác những ǵ nên tránh và những động tác nào cần tôi luyện.
Bài học này cần trở nên một kế sách « giữ Nước và dựng Nước » của toàn
dân. Khi người lớn ư thức ḿnh cần phải dạy, họ sẽ học một cách chu
đáo hơn. Dạy phải chăng có giá trị tương đương như ba lần học ?
Thứ hai, duy những ai có « CHẤT TRỜI » trong ḷng ḿnh, giống như
Thánh Gióng, mới có khả năng thấm nhuần bài học về quan hệ. Hẳn thực,
không ư thức về t́nh Anh em, t́nh đồng bào, làm sao chúng ta có thểâ
« ĐI LÊN », hướng thượng ? Làm sao chúng ta có thể NH̀N NHẬN vô điều
kiện « chủ thể làm người » của anh chị em đồng bào, trong ḷng Quê
Hương, thậm chí khi họ có những hành vi sai trái, phản bội... Chia sẻ,
đối thoại, giáo dục là con đường duy nhất tất yếu phải đi, nếu Con
Rồng Cháu Lạc muốn tồn tại. Mỗi người, cho dù là tội phạm, vẫn mang
« chất Trời » trong ḷng ḿnh. Cho nên, hướng đi lên vẫn luôn luôn ở
trong tầm tay của mỗi người được cư xử là người anh chị em.
Thứ ba, « lưỡi gươm » hay là dụng cụ tác động của chúng ta, trong lănh
vực xây dựng và phát huy quan hệ, có thể cùn ṃn và găy đổ. Nhưng sáng
tạo là gia tài và gia sản của chúng ta, trong mọi t́nh huống. Sau khi
lưỡi gươm đă trở thành vô hiệu, phải chăng Thánh Gióng đă nhổ bứt lên
cả một bụi tre vàng, để xua đuổi địch thù ra khỏi Đất Nước ?
Cái ǵ Thánh Gióng đă làm được, tôi cũng có khả năng làm như Ngài ngày
hôm nay
Sách tham khảo
1. NGUYỄN VĂN THÀNH - Sơn Tinh và Thủy Tinh : hai con đường, một
Nước Non - T́nh Người, Lausanne 2003.
2. STONES D. - Difficult conversations - Michael Joseph, London
1999.
3. SALOMÉ J. - Pour ne plus vivre sur la planète Taire : Une
méthode pour mieux communiquer - Albin Michel, Paris
2003.
4. NGUYỄN LANG - Văn Lang Dị Sử - Lá Bối, Sunnyvale CA
1982.
5. HOÀNG TRỌNG MIÊN - Thần thoại Cổ tích - Tiếng Phương Đông,
Sàigon 1973.
6. THÁI ĐẮC XUÂN - 100 truyện cổ tích Việt Nam - Nhà XB Hà Nội
2000.
7. WINNICOTT D. W.
- L'enfant et sa famille - Petite Bibl.
Payot, Paris 1957.
**
Chương Bốn
Sơn Tinh và Thủy Tinh :
Hai con Đường, Một Nước Non
« Ra đi, biết
đó biết đây,
« Ở Nhà với Mẹ,
biết ngày nào khôn ? »
« Ra đi ngó
trước, ngó sau,
« Ngó Nhà mấy
cột, ngó cau mấy buồng ? »
Một đàng, ra đi
để thu hoạch một vài « mớ » khôn, trên những con đường xuôi ngược,
thuộc năm châu bốn bể..
Nhưng đồng
thời, chúng ta phải ở lại, để trông nom Nhà Cửa và khai khẩn ruộng
vườn.
Phải chăng đó
là hai điệp khúc, thường được nhắc đi nhắc lại, trong kho tàng ca dao,
tục ngữ, cũng như trong nhiều câu chuyện huyền sử, được tổ tiên và cha
ông trối trăng lại, từ đời các Vua Hùng. Và qua mỗi thời, càng được
sáng tạo thêm và phong phú hóa, một cách đặc biệt, dưới ba triều đại
phồn vinh của Đất Nước là Lư, Trần và Lê.
Thường xuyên ra
đi, như Lạc Long Quân và Thủy Tinh, cơ hồ những ḍng sông và con nước
không ngừng chảy ra Biển Đông. Ở lại như Mẹ Âu Cơ và Sơn Tinh, trên
Đỉnh Núi Tản Viên, thuộc khu vực Sơn Tây Ba V́, để ngăn chận mọi hiểm
họa tấn công và xâm lược, từ phía bắc cũng như từ phía tây na
Vào thời khai
nguyên, khi Cha Mẹ c̣n có mặt, hai vị này đă sống xa nhau, người ở
núi, kẻ ở biển. Một đàng v́ nhu cầu làm ăn, phát triển, tiến bộ. Nhưng
đàng khác, v́ hai ông bà có nguồn gốc khác nhau. Có tính t́nh khác
nhau. Có những sở thích, nguyện vọng và nhu cầu khác nhau. Theo lối
dùng từ ngữ, ngày hôm nay, chúng ta có thể khẳng định, mà không sợ
xuyên tạc hoặc sai lầm : hai nguyên tổ của chúng ta đă có những « lối
nh́n » khác nhau. Có « quan điểm » khác nhau. Có « cách thế ở đời »
khác nhau. Có « chiều nhạy cảm » khác nhau. Thực tế « khác biệt » ấy
đă được nhận diện và đối diện, một cách can trường, trung thực, không
bao giờ bị ém nhẹm và xuyên tạc, cho dù với mục đích
Thế nhưng, nhờ
quả tim và trí óc của người nầy tràn đầy và thấm nhuần chất lượng
« Cao Cả », giống như bầu trời, tấm ḷng của người kia th́ « Bát Ngát,
Bao La », như đại dương... cho nên, hai vị biết « gọi nhau về », khi
bên nầy có vấn đề, và khi bên kia gặp hiểm nguy, trắc trở.
Cái biết của
các vị vừa có t́nh, vừa có lư. Vừa có tài, vừa có đức. Cho nên, khi
những nét khác biệt nhau tạo nên vấn đề, họ biết bổ túc, kiện toàn,
hay là sáng tạo con đường ở giữa, « trung dung ». Khi quá giống nhau,
họ cũng biết ra đi, tiếp xúc và chia sẻ với những người ngoài gia
đ́nh, ngoài biên thùy, nhất là với những bộ lạc và dân tộc không có
nhiều cơ may, như chúng ta
Trái lại, khi hai người cần nhau, họ có « những bước chân vạn dặm »,
để về lại với nhau. Khi sự sống c̣n của con cái bị đe dọa, họ có kỹ
năng giống như « một trăm cánh tay » biết làm. Cho nên, bao nhiêu nguy
cơ trầm trọng, như « Ngư tinh, Mộc tinh và Hồ tinh », đều được giải
quyết, một cách gọn nhẹ và êm thắm, tuy dù đ̣i hỏi nhiều hy sinh xương
máu, cũng như nhiều hiểu biết và t́nh thương...
o
Ngư
tinh là những vấn đề xúc động và t́nh cảm bị tràn ngập, thiếu khả năng
tự chủ và hóa giải những gây hấn nội tâm.
o
Mộc
tinh bắt nguồn từ những loại cây « văn hóa mất gốc », tinh thần « vọng
ngoại », hay là khuynh hướng « đua đ̣i vật chất », và « phủ nhận nguồn
gốc TRỜI », trong ḍng máu Rồng Tiên.
o
Hồ
tinh bao gồm những chất độc làm ô nhiễm cuộc sống, phát xuất từ « Dục
vọng mù quáng ». Lúc bấy giờ, trong lối nh́n và cách cư xử của chúng
ta, người anh chị em đồng bào « bị biến thành công cụ, đồ vật tiêu
xài, bị vắt chanh bỏ vỏ, hay c̣n tệ hại hơn nữa, là bị đồng hóa với bộ
phận sinh dục ». Theo quan điểm của Phân Tâm Học, thuộc trường phái
của Freud, nguy cơ Hồ tinh xảy ra, khi « Vô Thức khống chế Ư Thức ».
Khi dục vọng thay thế t́nh yêu chân chính. Khi hiểm họa « vô minh »
hay là « ư đồ ngu xuẩn » chỉ đạo tư duy, cũng như mọi đường đi nẻo về,
thuộc cuộc sống làm người, nhất là trong lănh vực quan hệ giữa người
với người.
Oái oăm làm
sao, vừa khi Âu Cơ và Lạc Long Quân khuất bóng, đi vào một kiếp khác,
không c̣n « có mặt » bằng cách này hay cách khác, trong ḷng Đất Nước
Lạc Việt, chính hai đứa con của các vị, phát xuất từ một bào thai duy
nhất, mang tên là Sơn và Thủy, đă đối đăi, cư xử với nhau như « YÊU
TINH, MA QUÁI ». Cho nên, người đời sau gọi họ là Sơn Tinh và Thủy
Tinh, có nghĩa là một con yêu tinh ở núi, một con khác ở biển, giống
hệt ba con Yêu Tinh ác độc, vào thời khai nguyên.
***
Theo lối giáo
dục của các Thiền sư, nhất là những vị đă đóng góp phần ḿnh, một cách
năng động, vào guồng máy lănh đạo Đất Nước, ở dưới ba triều đại Lư,
Trần và Lê, mỗi câu chuyện huyền sử là một bài học tâm lư, được tŕnh
bày dưới h́nh thức « một CÔNG ÁN », trong tầm tay của con cháu và các
thế hệ tiếp nối nhau, từ thời nguyên thủy cho đến ngày hôm nay và
trong tương lai. Xuyên qua mỗi công án, thay v́ giải thích một cách
dài ḍng, với đầy đủ chi tiết, các vị chỉ nêu lên một vài nét chấm phá
mà thôi. Thay v́ « thuyên giải », nghĩa là đưa ra những ư nghĩa và
hướng đi của câu chuyện, các vị « chỉ kể chuyện », với niềm hy vọng và
xác tín rằng : câu chuyện sẽ lan chảy, như vết dầu loang, từ Ải Nam
Quan đến Mũi Cà Mau, từ đồi núi xuống miền đồng bằng. Mỗi người kể
lại, có thể thêm vào « mắm muối, tiêu hành... », cho vừa khẩu vị của
người nghe. Không phải chỉ một hay hai người sáng tạo câu chuyện về
Nước Non. Nhưng toàn thể anh chị em đồng bào, từ người giàu đến người
nghèo, từ một bà mẹ già đến một trẻ em bi bô học nói... ai ai cũng góp
phần, tùy tấm ḷng của ḿnh, từ thế hệ nầy qua thế hệ sau.
Xu thế giáo dục
và cách dạy dỗ như vậy trùng hợp với ảnh hưởng và sức tác động của
khoa Phân Tâm Học ngày hôm nay, là luôn luôn dùng ngôn ngữ, để trao
đổi qua lại, gọi ra ánh sáng của ư thức những ǵ đang c̣n úp úp, mở
mở, mờ mờ, ảo ảo... trong nội tâm của từng người. Và trong cách kể
chuyện về Nước Non như vậy, tất cả mọi tiếng nói đều được trân trọng,
đón nhận. Không ai bị loại trừ và phê phán, v́ « đă kể sai ». Trong
địa hạt huyền sử, không có sai, có đúng. Chỉ có những tấm ḷng chia sẻ
bao nhiêu hoài vọng, trăn trở, mơ ước và nhớ thương..
Cũng trong lối
nh́n và hoài băo của các Thiền sư, mỗi người dân được cư xử, đăi ngộ
như một thiền sinh. Công án, cơ hồ một loại kích thích, hay là một yếu
tố dẫn khởi, gợi ư, có mục đích giúp mọi người tự ḿnh « động năo »,
sáng tạo con đường đi cho chính ḿnh, trong ḷng Quê Hương. Câu nói
thường được nhắc đi nhắc lại trong các bài thuyết pháp của hầu hết các
Thiền sư là : « Trùng Phật, sát Phật », có nghĩa là « gặp Phật th́ hăy
lo giết Phật đi », để tự ḿnh có khả năng thành Phật. Câu nói ấy tóm
gọn, một cách tuyệt diệu và súc tích, thế nào là DẠY, thế nào là HỌC,
với phương pháp sử dụng Công Án. Không ai có thể làm thầy cho tôi.
Chính tôi tự làm thầy cho tôi mà thôi.
Trong tinh thần
và đường hướng ấy, khi đi t́m đường, người thiền sinh không sợ sai
lầm. Lúc nào nhận thấy ḿnh lầm đường, lọt vào một ngơ hẻm không có
lối thoát, lập tức họ can đảm và sáng suốt trở lui, đi t́m những chọn
lựa khác bên trái, bên phải, ở dưới, ở trên, đằng trước, đằng sau. T́m
cho đến khi ḿnh « ngộ », nghĩa là gặp. Hay là có khả năng bước đi một
cách tự do, thoải mái, hạnh phúc, trên những con đường xuôi ngược
thênh thang, bát ngát. Không ai lèo lái, cưỡng chế. Một chiếc áo
-
vật chất hoặc tinh thần
-
cho dù rất vừa với khuôn khổ của một người xuất sắc, một vị thầy lỗi
lạc, đạo hạnh... chưa hẳn sẽ vừa với khuôn khổ của tôi.
Trở lại với câu
chuyện Sơn Tinh và Thủy Tinh, chúng ta sẽ chứng nghiệm một phần nào lư
nghĩa của « cách gây ư thức bằng huyền sử ». Trước tiên, cách dùng từ
đă là một chuẩn mực. Trong phong tục trước đây của người Việt Nam,
nhất là trước thời kỳ Pháp thuộc, những ai có đức độ và địa vị trọng
vọng, thường được gọi là Thần. Thậm chí sau khi qua đời, Thần vẫn c̣n
được tôn kính, dâng hương, dâng đèn và các loại phẩm vật, trong các
đ́nh chùa, lăng miếu. Các quan chức phục vụ trong triều đ́nh cũng được
gọi là Thần. Nói tóm lại, những ai bênh vực, bảo vệ người dân, đều
được quần chúng tôn phong là Thần. Họ có tài. Nhưng một cách đặc biệt,
họ có đức
Sơn Tinh và
Thủy Tinh đáng lư phải được phong làm Thần. Nhưng từ đời nầy qua đời
nọ, họ chỉ làm « TINH », trong cơi ḷng của nguời dân. Thể theo nội
dung của câu chuyện, Thủy Tinh có tài « làm mây làm mưa ». Sơn Tinh,
trái lại, có tài « làm đá bay đất chuyển, nâng cao các tầng núi đến
tận bầu trời ». Thế nhưng, đúng như thi sĩ Nguyễn Du, tác giả của
« Đoạn Trường Tân Thanh », đă b́nh phẩm, « Chữ Tài liền với chữ Tai
một vần ». Hẳn thực, hai chàng Sơn và Thủy không có Đức, v́ họ làm
« gà một nhà bôi mặt đá nhau », từ đời nầy qua đời khác, gây ra tai
ương hoạn nạn, lụt băo, mất mùa, đói khát cho người dân. Cho nên,
trong tâm tưởng của quần chúng, họ chỉ làm « yêu tinh ma quái ». Nơi
mà hồn thiêng của họ cư ngụ không phải là đ́nh chùa, lăng miếu. Họ
lang thang, phiêu bạt, bám trụ ở những gốc cây cổ thụ, nằm giữa đồng
áng, hay là bên bờ sông ng̣i, khe suối, để đe dọa, khủng bố, ức hiếp
những ông già bà lăo ốm yếu bệnh tật, cũng như các trẻ em thiếu khôn
ngoan, không vâng lời cha mẹ...
Như trên đây
tôi đă nhấn mạnh, huyền sử không giải thích chi tiết, hay là phân định
một cách rơ ràng : điều nào nên làm, điều ǵ nên tránh. Những câu
chuyện huyền sử, được kể ra ở chỗ nầy hoặc chỗ khác, thực ra có liên
hệ khắng khít, bổ túc hoặc điều hướng lẫn nhau. Câu chuyện nầy tiếp
nối câu chuyện khác. Câu chuyện được kể ra hôm nay có thể giải thích,
hoặc trả lời những câu hỏi do những câu chuyện khác nêu ra. Chính
người kể, cũng như người nghe, sẽ dùng lương tri và ư thức, để tự ḿnh
t́m ra những con đường chọn lựa và quyết định. Để thêm vào hay là bớt
đi một vài chi tiết. Hay là để sửa chữa những sai lầm, trong hành động
của các nhân vật thuộc câu chuyện.
Chẳng hạn, bên
cạnh « Sơn Tinh và Thủy Tinh », các bà mẹ cũng thường kể ra cho con
cái câu chuyện « Trầu Cau » hay là « Tấm và Cám »... Kho tàng huyền sử
giới thiệu mọi « mẫu h́nh » trắng, đen, vàng, đỏ, xanh màu trời và
xanh lá cây...
Trong câu
chuyện Trầu Cau, có hai anh em rất thương nhau, đùm bọc nhau, luôn
luôn sống chung với nhau dưới một mái nhà. Những người bên ngoài
thường lẫn lộn người nầy với người kia. Vào một buổi chiều, lúc trời
nhá nhem tối, người vợ của ông Anh cũng đă lầm lẫn người Em với chồng
ḿnh đi làm về, nên có hành vi tay bắt mặt mừng, đi ra đón chào với
nét mặt âu yếm... Sau sự cố đó, v́ tế nhị và kính trọng Anh ḿnh,
người Em bỏ nhà ra đi, biệt tăm biệt tích. Cuối cùng đă nằm chết, bên
một bờ sông, v́ đói và lạnh, biến thành một tảng đá vôi trắng.
Thấy em lâu
ngày không trở về, người Anh tên Cao, rảo khắp đó đây t́m em. Vào một
đêm khuya, sau bao ngày lang thang phiêu bạt, cũng đă chết v́ lạnh và
đói, bên cạnh tảng đá ở bờ sông. Ngày hôm sau, khách buôn bán qua
đường nh́n thấy một cây Cau mọc lên, bên cạnh tảng đá.
Người vợ tên
Lưu, trên đường đi t́m chồng cũng đă dừng lại nghỉ chân và qua đêm,
bên cạnh cây cau và tảng đá. Sau một đêm dài, ngồi khóc nhớ chồng, và
nhớ em chồng, dưới cơn mưa tầm tă, đă biến thành một dây trầu, quấn
quít chung quanh thân cây cau.
Với người đời
sau, từ thời Vua Hùng Thứ Hai trở lui, một phần tư trái cau, một phần
năm lá trầu với một chút ít vôi, đă trở thành một « miếng cau trầu làm
đầu câu chuyện », có khả năng tạo nên « những mối t́nh nồng thắm và ấm
áp », cho những người « biết ngồi lại, chuyện tṛ, trao đổi qua lại
với nhau, lắng nghe nhau, tôn trọng lời nói của nhau, lưu tâm đến con
người của nhau » .
Mối t́nh nồng
thắm ấy lại thiếu vắng, một cách trầm trọng, trong câu chuyện « Tấm và
Cám ». Ở đây, cô Tấm bị bà d́ ghẻ hành hạ suốt ngày. Đứa em ghẻ, cũng
bắt chước mẹ, sai khiến, truyền lệnh cho Tấm phục vụ ḿnh, từ việc lớn
đến việc nhỏ. Vậy, trọng tâm của câu chuyện nầy, muốn bổ túc hai câu
chuyện trước đây, ở tại những điểm then chốt nào
Nhân vật rất
quan trọng, trong câu chuyện Tấm và Cám, là người Cha. Ông đă lâm bệnh
và qua đời, một vài tháng, sau ngày tái hôn. Nhưng trong tâm hồn của
Tấm, người Cha vẫn luôn luôn có mặt, một cách năng động. Lời của Cha
vẫn c̣n đó, làm mặt trời và con đường, soi sáng và hướng dẫn mỗi bước
đi của Tấm. Trong tâm tưởng của nàng, người mà Cha đă yêu thương
và chọn lựa làm vợ và làm con, nàng vẫn luôn luôn chọn lựa làm Mẹ và
làm Em. Cho dù họ có tác phong như thế nào chăng nữa, về phía ḿnh Tấm
chỉ bảo tồn và phát huy một loại quan hệ và lối nh́n : đó là yêu
thương và thứ tha, một cách đơn phương và vô điều kiện. Cách sống của
Tấm vẫn trước sau NHƯ MỘT, không thay đổi, không tùy thuộc vào cách
ứng xử của những người đang sống với ḿnh.
Trong câu
chuyện « Bánh Dày và Bánh Chưng », Lang Liệu
-
sau này được tấn phong làm Vua Hùng Thứ Hai
-
cũng có một lối nh́n, lối cảm, hoàn toàn giống như cô Tấm. Hẳn thực,
khi có Trời, có Đất, trong tư duy và t́nh cảm của ḿnh, cái rất tầm
thường, trong cuộc sống hằng ngày, đă biến thành cái lạ thường, cái
khác thường. Cái « vô vị » trở nên « có ư vị ».
« Ngày ngày cưu
mang Đất Trời Cao Cả,
« Lấy T́nh
Thương biến đời thành Phép Lạ. »
Lang Liệu, cách
đây hơn bốn ngh́n năm, đă làm được điều ấy. Gạo và nếp, trên những
cánh đồng của Đất Nước, trong hai bàn tay của chàng, đă biến thành Của
Lễ Cao Quí, trên bàn thờ của Tổ Tiên. Và đó cũng là mồ hôi, nuớc mắt
của mỗi người, có khả năng nuôi sống t́nh anh em đồng bào, t́nh Quê
Hương Nước Non đậm đà, từ thế hệ nầy qua thế hệ khác.
***
Hởi những người
Em, mang tên là Sơn và Thủy,
Bây giờ và
trong tương lai, hoài vọng của tôi là các em hăy học tập ngồi
lại với nhau, kể cho nhau nghe những câu chuyện huyền sử. Sau đó, mỗi
em thuyên giải câu chuyện, theo nhịp điệu tư duy và tấm ḷng của ḿnh.
Ai ai cũng có tiếng nói. Ai ai cũng có quyền được lắng nghe, một cách
trân trọng.
Hẳn thực, ai ai
cũng có một câu chuyện của ḷng ḿnh, cần kể ra. Theo lối dùng từ ngữ
của tôi, đó là câu chuyện « Ngôi Thứ Nhất ». Sau khi kể xong,
em lắng nghe câu chuyện « Ngôi Thứ Hai » của mỗi người bạn, hai
bên cạnh. Hăy đón nhận câu chuyện, như một mảnh vườn trinh nguyên.
Lắng nghe với vành tai xôn xao, hiếu kỳ, hiếu học và khao khát. Cơ hồ
lắng nghe người t́nh, ngày gặp gỡ lần đầu tiên. Không phê phán. Không
cười chê. Chỉ phản hồi và đặt câu hỏi, để cố gắng t́m hiểu người mà
ḿnh thương mến.
Em có thể phản
hồi, với lời lẽ tương tự như sau :
« Nếu tôi không
nghe lầm, bạn đă nói rằng : " ...... ". Vậy, xin bạn nói thêm cho rơ
hơn, để tôi có thể hiểu ư của bạn, trong câu nói đó ».
Chừng nào giữa
hai người bắt đầu kết dệt những quan hệ « Tâm đầu ư hợp », câu chuyện
« Ngôi Thứ Ba » sẽ xuất hiện. Đó là câu chuyện của « Nước
Non », có khả năng làm cho hai người cùng nhau thực hiện những kỳ công
trọng đại, trong ḷng Quê Hương. Trong câu chuyện ấy, « thương nhớ một
người » có nghĩa là « nhớ đến MỌI NGƯỜI ». Cưu mang « một trăm
người », trong cơi ḷng của ḿnh.
Trong một bài
chia sẻ trước đây, tôi đă mạo muội đề xuất ba đường hướng thuyên giải,
nghĩa là nêu ra ư nghĩa của câu chuyện, và những phương hướng ứng
dụng, trong cuộc sống cụ thể, hằng ngày. Bài chia sẻ mang tên là
« Nguồn gốc Rồng Tiên ». Nhiều tờ báo trong và ngoài Nước đă đón nhận
và đăng tải một cách rộng răi, như tờ Chính Luận ở Mỹ, tờ Định Hướng ở
Strasbourg, tờ Thời Mới ở Paris, tờ Công Giáo và Dân Tộc ở Việt Nam.
Thay v́ lặp lại y nguyên ở đây, những phương
pháp tiếp cận một câu chuyện huyền sử, tôi thỉnh cầu mỗi độc giả hăy
t́m lại, tham cứu những tờ báo trên đây. Trong khuôn khổ của bài tŕnh
bày này, tôi chỉ xin nhắc lại, một cách vắn gọn, ba cách làm tuy đơn
sơ, nhưng rất hữu hiệu, thích hợp với giới trẻ thuộc thời đại khoa học
của Ngh́n Năm Thứ Ba :
o
Thứ
nhất, lần lượt đội lên đầu sáu chiếc mũ trắng, đen, vàng, đỏ, xanh
dương và xanh lá cây, để khám phá sáu tầng lớp ư nghĩa khác nhau của
mỗi câu chuyện được lắng nghe. Màu trắng : sự kiện khách quan. Màu
đen : những thiếu sót cụ thể. Màu vàng : điểm tích cực, xây dựng. Màu
đỏ : những xúc động phát khởi trong nội tâm và tràn ra ngoài. Màu xanh
dương : ư nghĩa của câu chuyện. Màu xanh lá cây : những động tác cụ
thể, thuộc tầm tay, cần thực hiện, từ bây giờ và ngày hôm nay.
o
Thứ
hai, theo hướng đi của câu chuyện, trong vai tṛ làm cha mẹ, chính tôi
cần làm ǵ cụ thể, cho thế hệ con cái, cháu chắt bây giờ và sau này ?
Đối với những người đương thời, cùng ở trong một lứa tuổi, với tinh
thần đồng hành, tôi có khả năng chia sẻ những lối nh́n nào, những tâm
t́nh ǵ ? Sau hết, trong đời sống tâm linh, đâu là những giá trị và
nhu cầu « quan trọng bậc nhất », trong hiện t́nh của Quê Hương Việt
Nam ?
o
Thứ
ba, phát hiện những động tác cụ thể, cần thực hiện, không chờ đợi, hẹn
rày hẹn mai, trong bốn loại sinh hoạt thuộc đời sống hiện tại của tôi.
Sinh hoạt thứ nhất : hành động thực tiễn. Sinh hoạt thứ hai : Lối nh́n
tích cực về anh chị em đồng bào. Sinh hoạt thứ ba : những xúc động
tiêu cực, tê liệt, cần được hóa giải. Sinh hoạt thứ bốn : quan hệ cần
phát huy và nuôi dưỡng, trong gia đ́nh, làng xă, khu phố...
Một bài chia sẻ
khác, mang tựa đề « Tấm và Cám trong nội tâm của chúng ta », bổ túc
thêm những đề nghị, về phương pháp tiếp cận một câu chuyện huyền sử.
Trong bài ấy, tôi đă nhận xét về chính ḿnh tôi như sau :
« Tôi về phe Tấm. Đó là lẽ thường t́nh và tự nhiên, v́ Tấm là con
người dễ thương và đáng thương. Tuy nhiên, có bao giờ tôi giật ḿnh,
tĩnh thức, nhận ra rằng : tôi cũng là Cám, trong cuộc sống thường
ngày ? Nếu tôi loại trừ Cám, phải chăng tôi cũng loại trừ một phần của
chính ḿnh tôi ? Làm như vậy là tự lường gạt. Tôi khư khư giữ cho ḿnh
phần tốt, mặt sáng. Đồng thời, tôi phóng chiếu lên khuôn mặt của kẻ
khác, phần xấu và mặt đen. Nếu ai ai cũng hành động với đầu óc kỳ thị
như tôi, xă hội, Quê Hương và nhân loại sẽ biến thành một băi chiến
trường đầy máu và tang thương, luôn luôn nặc mùi hận thù và tử khí. »
Tội nghiệp biết
chừng nào cho Quê Hương, nếu liên tục trong bốn ngh́n năm văn hiến,
chúng ta « Sắp Hàng » thành hai phe. Chúng ta hô hào « Tao hơn, mày
thua », « Tao tốt mày xấu »... như Sơn Tinh và Thủy Tinh đă làm và
đang c̣n làm, trên từng tất đất của Quê Hương.
Vậy, chúng ta
cần làm ǵ ?
Theo phương
pháp của các Thiền Sư, trong giờ Thiền Định, chúng ta hăy theo dơi hơi
thở. Trở về t́nh trạng b́nh tâm, thanh thản và an lạc. Chúng ta hăy
mỉm một nụ cười bao dung, nh́n vào tấm ḷng của ḿnh, cho thấu và
suốt. Những đợt sóng xao xuyến, vọng động sẽ từ từ lắng xuống. Lúc bấy
giờ, soi gương vào mặt hồ phẳng lặng của tâm hồn, chúng ta sẽ dễ dàng
nhận ra mặt mũi đích thực, uyên nguyên của chúng ta. Đó là mặt mũi của
một người con của Quê Hương. Một người anh chị em đồng bào, cùng có
mặt với chín mươi chín anh chị em khác, trong cung ḷng thương mến và
ấm áp của Mẹ Âu Cơ. Sơn và Thủy, lúc bấy giờ, không c̣n là hai bến bờ,
có hàng rào kẽm gai và bom đạn nằm ở giữa. Nhưng một bên là tả ngạn,
bên kia là hữu ngạn, đang cùng nhau dẫn đưa ḍng chảy của Quê Hương đi
vào ḷng Biển Cả, biến thành mây mưa, nuôi sống và tắm gội những nguồn
sông, ngọn suối, chuyển tải phù sa bồi đắp cho ruộng đồng, núi đồi,
trên cả ba miền Đất Nước. Sơn và Thủy sẵn sàng chia cơm sẻ áo cho
nhau. C̣n hơn thế nữa, theo lối nh́n của Nguyễn Trăi, Sơn và Thủy trở
thành « nhất tâm », một tấm ḷng.
Hơn ai hết, Thi
sĩ Tản Đà đă thấy được « NGÀY HỘI NGỘ » ấy :
« Dù cho sông
cạn đá ṃn,
« C̣n non c̣n
nước, hăy c̣n thề xưa.
« Non cao đă
biết hay chưa :
« Nước đi ra
Bể, lại mưa về nguồn ?
« Nước non hội
ngộ c̣n luôn,
« Bảo cho non :
chớ có buồn làm chi.
« Nước kia dù
hăy c̣n đi,
« Ngàn dâu xanh
tốt, non th́ cứ vui.
« Ngh́n năm
giao ước kết đôi,
« Non Non Nước
Nước không nguôi Lời Thề ».
Theo lối nh́n của Tản Đà, được gói ghém trong bài thơ Non Nuớc trên
đây, Sơn có con đường riêng biệt của Sơn. Thủy có con đường riêng biệt
của Thủy. Nơi gặp gỡ, hội ngộ của hai người là Núi Sông, Đất Nước. Nhờ
có Quê Hương, Sơn mới có thể trở thành Sơn, và Thủy mới có thể trở
thành Thủy. Nhờ Sơn, Thủy không phải là ḍng chảy lang thang, phiêu
bạt vô gia cư... Nhờ Thủy, Sơn không c̣n là những núi đồi hoang vu, đá
sạn khô cằn... Trong ḷng Quê Hương, mọi khó khăn đều vượt qua, mọi
trở ngại đều khắc phục, nếu Thủy « biết nhớ » Sơn khi ra đi xuôi ngược
giữa ḍng đời, và nếu Sơn « biết chờ » Thủy, trong cô liêu thanh vắng
của ḷng ḿnh.
Nữ triết gia
Simone Weil người Pháp, gốc Do Thái, đă nhắn nhủ chúng ta : « Không
phải con đường chúng ta đi là khó. Cái khó chính là con đường đi của
chúng ta ». Hẳn thực, trên chính con đường khó khăn đó, chúng ta dấn
bước và tiến lên, làm nên Quê Hương, Đất Nước.
Sách Tham khảo
1. NGUYỄN LANG
- Văn Lang Dị Sử - Lá Bối, Paris 1976.
2. THÁI ĐỨC
XUÂN - Truyện cổ tích - Nhà Xb Hà Nội, 2000.
3. PHẠM XUÂN
THẠCH tuyển chọn - Thơ Tản Đà : Lời B́nh - Nhà Xb Văn Hóa
và Thông Tin, Hà Nội, 2000.
4. NGUYỄN VĂN
THÀNH - Le projet pédago-éducatif - T́nh Người, Été 1997.
5. NGUYỄN VĂN
THÀNH - Bản đồ Tâm lư và Tư duy sáu màu -
T́nh Người, Lausanne Hè 2002.
Chương Năm
"Tấm và Cám" trong nội tâm của Chúng ta
Trước 1960,
trên quê hương Việt Nam, làm ǵ có hệ thống truyền h́nh hay là những
đại lộ thông tin vi tính như ngày hôm nay.
Cha ông chúng ta, nhất là
vào các triều đại Lư, Trần và Lê dùng những câu chuyện cổ tích, thần
thoại nhằm thông đạt cho con cháu và các thế hệ về sau những cách sống
làm người, những phương thức phục vụ anh chị em bà con thôn xóm. Mỗi
câu chuyện nói được là một giáo tŕnh cô đọng và gói ghém những bài
học về giáo dục, sư phạm và tâm lư... c̣n mang tính thời sự cho đến
ngày hôm nay.
Câu
chuyện "Tấm - Cám" là một minh hoạ rơ ràng và súc tích, cho chúng ta
nhận thấy một cách cụ thể : Cha ông chúng ta đă có những kiến thức
vững vàng về Phân tâm học, hằng bốn năm thế kỷ, trước khi khoa học nầy
ra đời vào đầu thập niên 1900, với những công tŕnh nghiên cứu và sáng
tác của Bác sĩ tâm thần S. Freud.
***
1. Gần
như ai ai trong chúng ta cũng đă biết ít nhiều về câu chuyện "Tấm -
Cám", từ những ngày bé thơ, đêm đêm nằm nghe mẹ kể chuyện, trước khi
đi vào giấc ngủ thần tiên. Sau đây tôi chỉ nhắc lại một đôi điều nồng
cốt:
Tấm là
cô gái mồ côi mẹ, từ khi lên mười tuổi. Sau ngày măn tang vợ, cha của
cô đă tục huyền. Ông có ư định t́m cho con một người mẹ kế, ngày đêm
săn sóc lo lắng cho con. Bà này đă goá chồng từ lâu. Bà cũng có một
đứa con gái mang tên là Cám.
Người
Cha hy vọng: Tấm và Cám ở vào lứa tuổi giống nhau, sẽ trở thành như
hai chị em ruột thịt, biết thương yêu đùm bọc và nâng đỡ lẫn nhau, khi
ở nhà cũng như lúc ra ngoài xă hội. Khi làm việc cũng như lúc vui đùa
giải trí...
Thực
tế trong cuộc sống hằng ngày đă chứng minh ngược lại : bà mẹ kế chỉ là
một bà d́ ghẻ tàn nhẫn độc ác và lạnh lùng. Bà t́m mọi cách để hành hạ
Tấm, nhất là khi người cha chẳng bao lâu, sau ngày tái giá, đă lâm
bệnh và qua đời một cách quá bất ngờ. Suốt ngày từ sáng cho tới khuya,
Tấm không bao giờ có một đôi phút nghỉ ngơi và rảnh rỗi. Bà d́ ghẻ
trao cho nàng nhiều công việc phải làm ở trong nhà cũng như ngoài đồng
áng. Nếu không hoàn tất bổn phận đúng ngày giờ được ấn định, Tấm phải
bị la mắng, chưởi bới và roi đ̣n một cách bất nhân và thậm tệ.
Đang
khi ấy, Cám chỉ chạy chơi loanh quanh. Nàng không bao giờ đụng tay vào
một công việc nhỏ nhặt. Thêm vào đó, nàng c̣n hùa theo mẹ, để sai
khiến chị giặt áo quần. Hay là đi gánh nước cho ḿnh tắm gội.
Mặc dù
vậy, Tấm vẫn thương d́ và thương em. Theo lối suy tư và cảm thức của
nàng, họ là những người được ba chọn, để có mặt với ḿnh trong ḷng
cuộc đời.
Tấm
luôn luôn t́m cách an ủi, dỗ dành chính ḿnh : dù thế nào chăng nữa,
họ đói ḿnh đói. Họ lành ḿnh lành. Họ no ḿnh no. Trước lúc tục huyền
và khi lâm chung, phải chăng ba đă an ủi và căn dặn ḿnh như vậy ? Khi
yêu thương và lắng nghe họ, ở một tầm độ nào đó ḿnh đă yêu thương
chính ba, mặc dù ba là mặt trời và họ chỉ là đêm đen trên mọi nẻo
đường xuôi ngược.
Nói
th́ nói như vậy, nhưng lắm lúc Tấm đă gần như tuyệt vọng. Nàng có cảm
tưởng như ḿnh chỉ là "con kiến đen, trên tảng đá đen, nằm giữa đêm
đen" không biết đâu là con đường dẫn tới ánh sáng của b́nh minh rạng
rỡ.
Hẳn
thực, hôm ấy Tấm được d́ bảo đi ra đồng bắt cá, đem về làm đám giỗ cho
ba. Lần nầy Cám cũng đi theo để cùng bắt cá với chị. Ngờ đâu, ra tận
nơi Cám chỉ ngồi chơi trên bờ ruộng. Tấm măi lặn lội bùn sâu. Áo quần
lấm lem. Mặt mày nhem nhuốc. Cũng nhờ cực nhọc như vậy, nàng mới bắt
được một giỏ cá đầy. Trước lúc về nhà, nàng xuống bờ sông tắm rửa. Lợi
dụng cơ hội, Cám lấy giỏ cá đầy của chị sang qua giỏ của ḿnh và vội
vàng chạy về nhà khoe với mẹ về kết quả lao động của ḿnh.
Theo
câu chuyện, nếu hôm ấy không có Bụt hiện ra, chắc hẳn Tấm đă nghe theo
tiếng gọi của biển cả, "trầm ḿnh xuống ḍng sông đi về về Nơi Vô
Định".
Bụt
c̣n hiện ra với Tấm trong nhiều lần khác, mỗi khi Tấm phải đương đầu
với ḷng người nham hiểm, trước những trớ trêu trong ḷng cuộc đời.
Lần
cuối cùng cũng nhờ Bụt sáng soi can thiệp, Tấm đă t́m ra được áo quần
và những đồ trang sức, đi lên Thành đô, nhằm ngày mở hội của Nhà Vua
để chọn người làm Hoàng hậu. Kết quả bất ngờ đă xảy ra : chính Tấm
được chọn làm Hoàng hậu để giúp nhà Vua làm đại phụ mẫu của người dân,
nhất là cho những ai nghèo đói, bần cùng, bị ức hiếp trong ḷng của
đất nước và nhân loại.
***
2. Câu
chuyện đă chấm dứt một cách đột ngột ở giữa chừng, nhường chỗ cho mỗi
người tự do h́nh dung và sáng tạo tuỳ nghi những giai đoạn kế tiếp.
Theo Phân tâm học của Freud, câu chuyện cổ tích nào cũng thường được
xây dựng và tŕnh bày giống như một giấc mơ.
Sau
khi lắng nghe, mỗi người trong chúng ta tự do tha hồ nêu lên cho chính
ḿnh rất nhiều câu hỏi và thắc mắc. Đồng thời, mỗi người cũng khám phá
những lối giải quyết tuỳ hoàn cảnh riêng tư. Họ dựa vào những kinh
nghiệm vui buồn mà ḿnh đă gặt hái. Họ nương theo những tâm trạng hạnh
phúc, khổ đau, thương nhớ, trăn trở mà ḿnh đang kinh qua trong giây
phút hiện tại. Mỗi người tự bày vẽ, sửa đổi, hoạ rồng, thêm rắn tuỳ sở
thích. Sau đó, người khác tiếp nối câu chuyện, gọt đẽo vài chi tiết.
Cắt xén bớt những rườm rà, phụ thuộc. Điều quan trọng đối với tôi chưa
hẳn là nội dung thiết yếu đối với bạn bè. Phụ nữ ghi nhớ những đoạn
trường éo le. Trẻ em kể lại những hoàn cảnh cụ thể của đời ḿnh, để bổ
túc và kiện toàn cho câu chuyện. Và cứ như vậy, từng từng thế hệ nối
đuôi nhau ngày ngày đóng góp, thay đổi, làm mới. Phong phú hoá hay là
biến thành hiện thực những ư tưởng của cha ông tổ tiên. Cơ hồ nhiều
hạt mưa họp nhau lại làm thành con suối. Ḍng nước lượn quanh, từ
những trái núi nầy đến những hang động khác. Cũng nhờ vậy, càng ngày
càng lớn rộng ra. Ḍng suối róc rách ngày xưa, bây giờ biến thành một
con sông cuồn cuộn chảy băng qua các thôn xóm và thành thị. Cuối cùng
nó ḥa ḿnh vào biển cả mênh mông.
Trong
lối nói có vẻ cao kỳ và chuyên môn của Phân tâm học, khi chúng ta đóng
góp phần ḿnh vào câu chuyện cổ tích, bằng cách lắng nghe, kể lại,
chuyển biến, sáng tạo, đổi mới, chúng ta đang làm công việc mang tên
là thuyên giải, hay là Deutung trong tiếng Đức và Interprétation trong
tiếng Pháp.
***
3.
Tôi cần cả một cuốn sách dày 300 trang, mới có thể tát cạn nghĩa là
liệt kê những động tác cần thực hiện, khi chúng ta Thuyên giải.
Ở đây
tôi xin tŕnh bày một vài đường hướng thiết yếu mà thôi
Trước
hết, thuyên giải là đóng góp phần tích cực của ḿnh, để sáng soi những
câu hỏi do chuyện cổ tích nêu ra.
- Phải
chăng tôi đang làm bà d́ ghẻ cho một ai đó, trong ḷng cuộc đời và
trên từng mảnh đất của quê hương ?
- Có
chăng những bà d́ ghẻ biết sống t́nh mẹ hiền hay là từ mẫu, cho đứa
con của một người khác, không do chính ḿnh mang nặng đẻ đau?
- Đối
với con cái ruột thịt của tôi, phải chăng tôi đang có thái độ cha ghẻ
hay mẹ ghẻ, ở một phương diện nào đó, khi tôi nói và dạy dỗ ? Có bao
giờ tôi biết lắng nghe tiếng nói của chính ḿnh, để rà soát lại bao
nhiêu điều c̣n rất ghẻ, khi tôi tiếp xúc với con cái hay là anh chị em
đồng bào của tôi ?
- Một
loạt câu hỏi thứ hai có liên quan đến hai nhân vật Tấm và Cám. Hẳn
thực, trong ḷng cuộc đời cũng như trong câu chuyện cổ tích, dù khi
nghe hay lúc phát biểu, chúng ta thường có xu thế nhị nguyên. Không ít
th́ nhiều, mỗi người bị cám dỗ phân chia anh chị em đồng bào của
ḿnh thành hai phe : một bên mang tên là Tấm, phe kia bị gắn nhăn hiệu
là Cám. Chúng ta thương Tấm và có ác cảm với Cám, v́ cô nầy ác độc,
gian lận, thiếu tư cách, không có tư duy độc lập, chỉ a tùng theo lư
kẻ mạnh. Và khi có lập trường tư tưởng như vậy rồi, tự khắc không cần
suy nghĩ đắn đo dài ḍng, chúng ta ủng hộ phe Tấm và loại trừ những ai
đứng về phía của Cám.
4.
Chính v́ thế, khi thuyên giải thái độ và nếp sống của người đối diện,
Phân tâm học đề nghị chúng ta đặt lại câu hỏi như sau:
- Tôi về phe
của Tấm. Đó là lẽ thường t́nh và tự nhiên, v́ Tấm là con người dễ
thương và đáng thương. Tuy nhiên, có bao giờ tôi giật ḿnh tỉnh thức
nhận ra rằng : tôi cũng là Cám, ở một góc độ nào đó, trong cuộc sống
thường ngày ? Nếu tôi loại trừ Cám, phải chăng tôi cũng loại trừ một
phần của chính ḿnh tôi ? Làm như vậy là tự lường gạt. Tôi khư khư giữ
cho ḿnh phần Tốt, mặt Sáng. Đồng thời, tôi phóng chiếu lên
khuôn mặt kẻ khác phần xấu và mặt đen. Nếu ai ai cũng hành động với
đầu óc kỳ thị như vậy, xă hội quê hương và nhân loại sẽ biến thành một
băi chiến trường đầy máu và tang thương, luôn luôn nặc mùi hận thù và
tử khí.
Đảm nhận ḿnh
một cách thành thực và can đảm, với mọi bộ mặt tốt và xấu, sáng và
đen, phải chăng đó là bước đầu tiên cần bước tới, nhằm thăng tiến bản
thân và làm đẹp cuộc đời ?
Theo giáo lư
của Thánh Phaolô, "ở đâu tội lỗi tràn trề, ở đó ân sủng thứ tha cũng
chứa chan bát ngát". Tội lỗi mà Ngài muốn nói tới là tội lỗi được
chúng ta nhận diện và đối diện. Được can trường thú nhận. Không ém
nhẹm, che giấu. Chúng ta cần đấm ngực và sám hối. Thay v́ mang mặt nạ
hay là có bộ mặt mồ mả tô vôi.
***
5. Sở dĩ tôi
phải đảm nhiệm, hội nhập và chuyển hoá mọi thành phần làm nên con
người muôn màu muôn sắc trong bản thân tôi, là v́ theo lối nói của văn
sĩ Paulo Cuelho, tôi là người "luyện vàng". Ơn gọi của tôi là chuyển
biến tất cả những ǵ là quặng sản, đồng ch́, sắt thép, trong bản thân
tôi, thành Vàng nguyên chất. Đó là giấc mơ đẹp nhất trong tất cả mọi
giấc mơ. Thêm vào đó, khi tôi nuôi ẵm vun tưới trông nom một giấc mơ
kỳ vĩ và trọng đại như vậy, trong thâm sâu của cơi ḷng, toàn thể vũ
trụ trăng sao, côn trùng chim chóc, hoa lá cát sạn... tất cả đều là
đồng minh có khả năng đóng góp phần ḿnh, để giúp tôi :
« Mỗi ngày từng
bước, biến Không thành Có,
« Hoá bóng đêm
thành mặt trời rạng tỏ. »
Chính Tấm là
một con người có tầm cỡ như thế. Hẳn thực, ngày ngày Nàng đă luyện
vàng :
- Mất tất cả
phần cá mà ḿnh đă góp nhặt, suốt một ngày lặn lội lam lũ, nàng chỉ
giữ lại được một con cá bé nhỏ. Tuy vậy, ngày ngày nàng cho nó ăn. Nó
trở nên người bạn tri kỷ sớm hôm. Nhờ sự hiện diện của nó, Tấm đă vượt
qua được mọi thăng trầm ch́m nổi trong cuộc đời.
- Khi con cá ấy
bị giết làm thịt, trong khi nàng vắng nhà, Tấm vẫn không đánh mất tất
cả. Bộ xương là "phần c̣n sót lại" được nàng trân quí và cất giữ cẩn
thận. Chính nhờ nó, nàng đă t́m ra áo quần, khăn mũ, giày dép và đồ
trang sức, để đi lên Thành đô, dự ngày lễ hội do nhà Vua tổ chức.
- Khi bổn phận
tách lúa khỏi thùng gạo quá lớn lao và nặng nề, Tấm chỉ đi ra trước
sân, nh́n lên và gọi mời, tự khắc từng đám mây đen, làm bằng chim trời
sà cánh xuống, cuống quít vui mừng và tiếp tay cho nàng hoàn thành
công việc một cách nhanh chóng.
Theo câu chuyện
cổ tích -
được h́nh thành trong những triều đại thấm đậm màu sắc văn hoá do ba
tôn giáo Phật, Khổng và Lăo kết dệt
-
mỗi lần Tấm gặp khó khăn, luôn luôn có Bụt hiện h́nh. Nói đúng hơn,
chính lúc ấy Tấm trở thành Bụt. Mắt nàng sáng lên, thấy được những
điều phải làm. Biết t́m ở đâu những dụng cụ cần thiết, cho cuộc hành
tŕnh kết hợp với Nhà Vua để làm Đại phụ mẫu, trong ḷng quê hương đất
nước. Bụt hiện h́nh, theo giáo lư của Phật giáo, không phải là một
Đấng ở trên hay ở ngoài. Trái lại, khi tâm hồn của Tấm tràn đầy yêu
thương, thứ tha và hy vọng, Tấm chính là Đức Bụt. Tấm trở thành Bụt
Quan Thế Âm, có trăm con mắt để thấy. Có trăm cánh tay để làm. Có trăm
đôi chân để đi gieo văi T́nh Thương, ở bốn phương trời của quê
hương và nhân loại.
***
6. Theo lối nói
của Kinh Thánh trong Kitô giáo, khi ai tràn đầy T́nh thương và Tha
thứ, giống như Tấm đối với mẹ kế và đứa em, Chúa Thánh Thần ngự xuống
trên họ. Chọn cung ḷng họ làm Đền thờ. Giống như một hôm nào, Ngài đă
ngự xuống trên Người Con Gái Xion là Maria. Nhờ đó, Bà đă làm được
những điều kỳ vĩ, trọng đại trong ḷng cuộc đời. Cũng theo giáo lư của
Thánh Phaolô, khi được tràn đầy và thấm nhuần Chúa Thánh Thần như vậy,
chúng ta trở thành Cung đền của Thiên Chúa. Ngài ở giữa chúng ta. Ngài
chia sẻ mọi ngọt bùi đắng cay với chúng ta. Và cái ǵ của chúng ta
cũng là của Ngài, ngoại trừ tội lỗi. Gia tài của Ngài cũng là của
chúng ta. Một cách nào đó, chúng ta "làm Chúa" với Ngài. Nhờ Ngài.
Giống như Ngài.
Giữa Tấm và
người Cha của Tấm, cũng có một quan hệ tương tự. Trong câu chuyện cổ
tích, người cha đă lâm bệnh và qua đời. Nhưng trong tâm hồn cũa Tấm,
Người Cha vẫn luôn luôn có mặt. Lời của Cha vẫn c̣n là con đường tất
yếu mà Tấm đang đi. Và ngày ngày phải đi như một qui luật tự nhiên và
cần thiết. Người mà cha đă yêu thương chọn lựa, Tấm vẫn chọn lựa và
yêu thương. Nếu họ c̣n mang trong ḿnh nhiều tồn tại, Tấm chỉ có một
thái độ là thứ tha vô điều kiện. Khi có khả năng thứ tha như vậy, Tấm
trở nên vĩ đại và bao la.
Nói cách khác,
với ngôn ngữ của Phân tâm học, con đường tất yếu, c̣n được Freud gọi
là Ananké, làm bằng chất liệu yêu thương và thứ tha, đối với những ai
cố quyết làm người. Ai đi con đường nầy, trong ḷng quê hương và nhân
loại, người ấy đang mang trong ḿnh ḍng máu của chính Thiên Chúa.
Ngài cho phép chúng ta gọi Ngài là Cha: "Áp-ba, Cha ơi". Ngài là Nơi
Xuất Phát. Đồng thời, Ngài cũng là Điểm Hẹn cuối cùng cho những ai
ngày ngày đánh sáng Đức Sáng Làm Người của ḿnh, như sách Đại học đă
dạy :
"Đại học chi
đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện", có
nghĩa là : Khoa học của con người trọng đại là luôn luôn đánh sáng cái
đức chói sáng nằm sẵn trong ḿnh.
Đánh sáng như
vậy là đổi mới bản thân và cuộc đời của ḿnh. Từ đó, người ấy có khả
năng đổi mới mọi người. Đó là đích điểm tốt đẹp nhất, cần hướng tới để
thực hiện trong suốt cuộc đời. Không đi con đường tất yếu ấy, là Thứ
Tha và Yêu Thương, chúng ta sẽ trầm luân vào một ngơ cụt. Đó là
Thanatos có nghĩa là hận thù, chiến tranh, tử vong và hoại diệt.
Vậy
hởi bạn, hỡi em, chúng ta hăy chọn con đường nào, mỗi lần có nguy cơ
tranh chấp và xung đột giữa chúng ta và anh chị em đồng bào, đồng loại
?
Chương Sáu
« Thằng Bờm » trong cơi ḷng của Người Việt Nam
Thằng Bờm có cái quạt mo,
Phú Ông xin đổi ba ḅ chín trâu,
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy trâu.
Phú Ông xin đổi một xâu cá mè,
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy mè.
Phú Ông xin đổi ba bè gỗ lim,
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy lim.
Phú Ông xin đổi đôi chim đồi mồi,
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy mồi.
Phú Ông xin đổi vắt xôi, Bờm cười.
***
Để lănh hội thể thức Tổ tiên và Cha ông chúng ta, qua bài ca dao
« Thằng Bờm », đă am tường thế nào về bản sắc và ḷng tự tin của con
người Việt Nam, trong chương nầy, tôi xin phác họa một vài nhận xét
thô thiển về tâm lư của nhân vật lạ lùng và kỳ diệu nầy.
Thứ nhất, tên cậu bé là ǵ ? Bài ca dao không nói tới. Và theo tôi, có
lẽ trong những quan hệ tiếp xúc hằng ngày, không mấy người t́m cách
gọi tên cậu cho đúng đắn làm ǵ.
Xuyên qua nhăn hiệu « Thằng Bờm », ai ai cũng có thể nhận ra : đó là
một đứa con trai, c̣n mang trên đầu cái bờm tóc, giống như ngàn vạn
trẻ em Việt Nam khác. Ngoài phái tính của ḿnh, được mọi người qua lại
nh́n thấy, v́ chưa được che giấu một cách kỹ càng, theo những kỹ cương
của xă hội, cậu con trai nầy chắc hẳn c̣n ở trong một vị trí « vô danh
tiểu tốt ». Cậu chưa thể có một chức vị, hay giá trị xă hội nào, khả
dĩ đ̣i hỏi mọi người trong khóm phường phải cất mủ cúi chào, hay là
xưng hô theo đúng lễ nghĩa thưa, dạ, xin vâng...
Xuyên qua những tục lệ ăn nói, xưng hô của người Việt Nam, một cách
đặc biệt vào những cơ hội chính thức như kỵ giỗ, đám đ́nh, liên
hoan... gọi ai là « thằng » có nghĩa là khinh thị, coi thường người
ấy. Thằng ấy là « đồ » ăn trộm, ăn cướp, mất dạy, vô lương tâm.
Tuy nhiên, theo thiển ư của tôi, trong ngữ cảnh hoặc mạch văn của bài
ca dao nầy, « Thằng Bờm » chưa làm ǵ tai tiếng về mặt luân thường đạo
lư, để bị khinh chê và đánh giá một cách tồi tệ như vậy. « Thằng » ở
đây chỉ muốn xác định rằng : hắn chỉ là thằng con trai, trên dưới
chừng mười tuổi, chưa có kiến thức ǵ bao nhiêu, đang ngày ngày chạy
chơi loanh quanh đầu làng, xó chợ. Có nhiều khi, hắn c̣n ở thể trạng
« trống không, trần truồng », nhất là vào những ngày nắng nóng. Trong
những lúc như vậy, hắn chỉ có vỏn vẹn một chiếc mũ trên đầu, để che
nắng, tránh cảm cúm. Đương khi đó, đáng lư, nó cần có những mảnh vải
khác, để che đậy những « chỗ » cần che đậy một cách kín đáo hơn.
Thứ hai, Thằng Bờm đă làm được ǵ, về mặt làm người ?
Theo bài ca dao, chắc hẳn nó đă có khả năng tiếp cận những phương tiện
như dao và kéo. Nó đă được cha mẹ cho phép sử dụng những đồ dùng nguy
hiểm nầy.
Tuy nhiên, v́ « chơi dao có ngày đứt tay », cho nên Thằng Bờm không
chơi dao. Nó biết dùng dao, cắt mo cau làm quạt, vào những ngày hè oi
bức, khó chịu. Cụm từ « Thằng Bờm có cái quạt mo » cho chúng ta nhận
biết rằng : hắn đă có khả năng làm chủ thể, tuy dù c̣n rất hạn chế.
Chính nó là tác giả đă làm nên chiếc quạt mo. Hẳn thực, nếu ai khác đă
làm cho nó, nó không thể hănh diện và tự hào về sở hữu do ḿnh làm ra
như vậy. Của do ḿnh làm ra mới có khả năng xác định giá trị đích thực
của Thằng Bờm.
Thứ ba, ở giữa môi trường khóm phường và xă hội, Thằng Bờm chưa thể
nào đảm nhiệm những vai tṛ quan trọng.
Thế nhưng, trong quan hệ tiếp xúc và trao đổi, giữa nó với « Phú
Ông » :
« Nực cười, châu chấu đá voi,
« Tưởng rằng chấu ngă, ai dè voi nghiêng ».
Hẳn thực, trước mặt của Phú Ông, mọi người lớn bé đều có thái độ cung
kính, cất nón cất mũ, để cúi chào. Khi có chuyện cần vay mượn, hỏi
han... người b́nh dân thường phải đến tận nhà, để chờ đợi được tiếp
kiến. Thông thường, trong các làng mạc Việt Nam, tuy dù không đảm nhận
những chức vụ chính thức, Phú Ông vẫn luôn luôn có chức vị, trong
những nơi công cộng, như đ́nh, chùa, lăng, miếu, hoặc trên các con
đường cái quan, nơi qua lại của mọi người.
Thế mà ở đây, với Thằng Bờm, Phú Ông đă có thái độ và tác phong « xin
đổi ». Quan hệ hàng ngang và quan hệ qua lại hai chiều ấy diễn tả tầm
quan trọng và vị trí bề thế của cậu con trai đang làm chủ nhân của cái
quạt mo. Không c̣n bị khinh khi, coi thường, Thằng Bờm đă trở nên một
chủ thể trao đổi, một đối nhân có lời ăn, tiếng nói ngang hàng với Phú
Ông, trước đôi mắt chứng kiến của mọi người có mặt.
Thứ bốn, trong thể thức trao đổi qua lại hai chiều, Thằng Bờm càng tỏ
ra là một « con người » đích thực, đứng đắn. Khi trao đổi, Bờm không
c̣n được gọi là « Thằng ». Nó trở nên một « chủ thể, có nhân cách vững
mạnh, với những giá trị tự lập và tự do. Trên b́nh diện ư thức, nó bày
tỏ ra ngoài một cách tự nhiên, những khả năng « biết ḿnh, biết
người » : Tôi có thể CHO cái ǵ. Và ngược lại, tôi muốn NHẬN cái ǵ.
Nói khác đi, trong quan hệ tiếp xúc và thông đạt, Bờm vừa biết lắng
nghe T́nh. Vừa biết coi trọng Lư.
Ngoài ra, khả năng từ chối, được lặp đi lặp lại bốn lần « Bờm rằng Bờm
chẳng... », khẳng định một cách rơ nét, ư chí tự quyết và tư cách
« tri túc » của cậu con trai nầy. Trước tài sản, lương thực, nhà cửa
và thú vui, được biểu hiện trong bốn h́nh tượng, là « trâu ḅ, cá mè,
gỗ lim và chim đồi mồi », thái độ kiên định của Bờm là « VÔ TRƯỚC »,
có nghĩa là không tham lam, ham hố, choáng váng và loạn động, trước
những hào nhoáng ḷe loẹt bên ngoài của vật chất và giàu sang.
Bờm không đuổi bắt những nhu cầu giả tạo. Thái độ vô trước cho phép
Bờm có khả năng buông xả hoàn toàn, chỉ bám trụ vào chính giây phút
hiện tại « ở đây và bây giờ » mà thôi.
Chọn lựa cơ bản của Bờm là đời sống Hạnh Phúc và An Lạc, được diễn tả
trong Nụ Cười của Bồ Tát Di Lạc. Không một ai, không điều ǵ, không
một trở ngại nào... có thể làm khô héo đóa hoa nụ cười tươi mát ấy.
Để trao đổi chiếc quạt mo của ḿnh, Bờm chỉ chọn lựa một vắt xôi mà
thôi.
Nhưng vắt xôi có một sức nặng như thế nào, so với ba ḅ chín trâu, một
lực lượng sản xuất rất to lớn ?
Một xâu cá mè có thể nuôi sống, hằng tuần hằng tháng, một khẩu phần ở
thôn quê.
Một bè gỗ lim có giá trị tương đương với một căn nhà khang trang, kiên
cố.
Đôi chim đồi mồi có thể tạo nên những thú vui, trong địa hạt săn bắn,
tiêu khiển.
Về mặt vật chất và tiện nghi xă hội, vắt xôi không có giá trị ngang
bằng bốn tư liệu trên đây. Thế nhưng, những sản phẩm ấy có thể mang
đến được cho Bờm, một vài phút giây làm Bồ Tát Di Lạc không ?
Trên b́nh diện khôn ngoan thông thường hay là trong địa hạt hoàn toàn
duy lư, thái độ chọn lựa của Bờm có lẽ sẽ bị rất nhiều người trong
chúng ta chê cười, phê phán, đánh giá là ngu dại, ngây ngô, « ăn chưa
no lo chưa tới ».
Tuy nhiên, trong địa hạt quan hệ giữa người với người, bài học của Bờm
đáng được tất cả chúng ta lưu tâm và ghi nhận một cách đứng đắn. Quan
hệ chỉ thành tựu một cách hài ḥa, tốt đẹp và lâu bền, khi hai đối
nhân trao đổi không t́m cách thủ lợi, kéo phần thắng về ḿnh, mặc dù
hoàn cảnh bên ngoài có thể cung ứng những điều kiện thuận lợi, cho
phép thực hiện những ư đồ ấy.
Trước sau như một, trong suốt tiến tŕnh trao đổi, tiếp xúc qua lại,
Bờm không chơi tṛ KHÔN DẠI. Bờm không lợi dụng và lạm dụng kẽ hở, chỗ
sơ ư của đối phương, hay là thể thức đánh giá sai lầm của họ, v́ bất
cứ lư do ǵ. Một cách đơn phương, Bờm tôn trọng cán cân thăng bằng,
giữa cho và nhận, trong lề lối xử thế và trao đổi. Một cách sáng suốt
và với lập trường kiên định, Bờm đă biết chọn lựa đối tượng khả dĩ
thỏa măn nhu cầu cơ bản của ḿnh. Duy vắt xôi mới có giá trị tương
đương cân bằng với cái quạt mo, do chính tay Bờm làm ra.
Trong cách chọn lựa và quyết định của Bờm, nếu chúng ta không đua đ̣i
phương thức duy lư cực đoan, do Descartes chủ trương và khởi xướng,
chúng ta sẽ mở mắt bừng sáng, nhận ra sức mạnh nội tâm của một con
người khôn ngoan, vừa có t́nh, vừa có lư. Có t́nh, v́ Bờm đă toát ra
chất người đích thực, trong cách cư xử, đăi ngộ và tiếp xúc với một
con người, có « chất người » giống như ḿnh. Có lư, v́ Bờm đă có thái
độ rơ ràng, sáng suốt về nhu cầu và nguyện vọng của ḿnh. Trong quan
hệ với Phú Ông, nguyện vọng ấy được ghi nhận, lắng nghe, đáp ứng và
thỏa măn.
Kết quả cuối cùng là Phú Ông vẫn tiếp tục làm phú ông. Vẫn giàu có và
được tôn trọng, trong phường khóm. Không một ai, không v́ một lư do
ǵ, có thể gọi Phú Ông là thằng. Khi tiếp xúc với Bờm, Phú Ông không
thua cuộc, trong một ván cờ rủi may được và mất, hơn và thua.
Cái thay đổi lớn lao và kỳ vĩ đă xảy ra trong con người của Bờm : đó
là thái độ « Bờm cười ». Hạnh phúc là gia tài và gia sản trên con
đường t́m kiếm của Bờm. Gia sản nầy c̣n quan trọng và quí hóa gấp bội
lần, so với t́nh trạng giàu sang, phú quí vật chất.
Thêm vào đó, sau lần tiếp xúc và trao đổi với Phú Ông, Bờm có một căn
cước mới. Bờm trở thành một tên tuổi bất diệt, trong nền văn hóa của
dân tộc Việt Nam. Từ một ông già, bà lăo đến một em bé vừa tṛm trèm,
thỏ thẻ học nói tiếng Mẹ Đẻ, ai ai cũng ghi ḷng tạc dạ về bài Ca Dao
bất diệt và bất hủ nầy. Chính Bờm đă trở nên một người anh em rất thân
thương và bất tử, trong ḷng Đất Nước Việt Nam, từ Ải Nam Quan cho đến
Mũi Cà Mau.
***
Ai là tác giả của bài ca dao « Thằng Bờm » nầy ?
Chúng ta không thể và không cần biết tên tuổi. Tác giả là Tổ Tiên, Cha
Ông chúng ta, từ đời Lư, đời Trần. Có khi c̣n sớm hơn.
Tổ Tiên, Cha Ông, qua bài ca dao vắn gọn, với mười câu thơ lục bát, đă
trối trăng lại một h́nh tượng « Người Việt Nam », cho con cái, cháu
chắt và hâïu thế, từ đời nầy qua đời khác. « Thằng Bờm » đă mặc khải
và thể hiện ḿnh như một con người, có ư thức rất tinh vi, bén nhạy và
sáng suốt về bản thân ḿnh cũng như về người anh chị em đồng bào,
trong ḷng Đất Nước và Quê Hương.
Căn cước đích thực của BỜM bao gồm những điểm chính yếu sau đây :
1- « Thằng Bờm » có khả năng từ chối, nói « Không », để khẳng quyết
bản sắc khác biệt của ḿnh : Tôi khác và tôi có quyền khác, đối với
những người đang tiếp xúc với tôi.
2- « Thằng Bờm » không một lần chơi tṛ làm con kỳ nhông, uốn ḿnh và
luồn cúi, theo màu sắc của người đối diện, mặc dù người ấy là Phú Ông,
có tiền tài, địa vị và chức tước. Và nhất là khi Phú Ông tỏ ra đại
lượng, muốn bao che, ban phát, viện trợ và cứu văn, với những chiêu
bài « bổn phận quốc tế, t́nh anh em bốn biển một nhà, nhân nghĩa đại
đồng vô biên cương ». Trước sức quyến rũ của Phú Ông, mặc dù rất chân
thành, « Thằng Bờm » không đánh mất bản sắc của ḿnh. Bờm biết từ
chối. Bờm cóù nội lực, để nói Không. Bờm có khả năng đánh giá và chọn
lựa, tùy vào những chuẩn mực thích ứng với thực tế của Quê Hương và
anh chị em đồng bào.
3- « Thằng Bờm » có ư thức rơ ràng và trong sáng về thực chất và
thực hữu của ḿnh. Khi tiếp xúc, Bờm có khả năng trả lời cho người đối
diện : Tôi là ai ? Tôi biết làm ǵ ? Tôi có thể cho ǵ ? Tôi muốn nhận
lại điều nào ? Giới hạn mà người khác không thể vượt qua, bao gồm
những tiêu chuẩn cụ thể và khách quan nào, khi trao đổi với tôi ?
4- Mặc dù bị gọi là « thằng », mang tên là « Bờm », « Thằng
Bờm » vẫn an nhiên, tự tại. Không quan trọng hóa. Không cường điệu một
vài chi tiết nhỏ nhặt, trong lời nói của đối nhân. Đàng khác, Bờm
không bị kích thích như một đối vật, hoàn toàn chịu ảnh hưởng của
ngoại cảnh. Một vài từ ngữ, nhăn hiệu, cho dù có vẻ khiêu khích, thách
thức... không làm cho Bờm động tâm, nổi sóng gió, bị ngụp lặn trong
những xúc động tức tối, giận hờn.
5- « Thằng Bờm » không đuổi bắt, một cách vô vọng, những ǵ thoát khỏi
khả lực hiện thực của ḿnh. Trái lại, Bờm hănh diện và bằng ḷng về
kết quả, do chính bàn tay ḿnh tạo nên. « Tri túc » như vậy có nghĩa
là biết ḿnh cần ǵ, thấy ḿnh giàu có ở những địa hạt nào, có khả
năng dừng lại ở một biên giới nào...
6- « Thằng Bờm » không dùng dao, để chơi tṛ bạo động, xung đột, hận
thù, chiến tranh. Đó là những tṛ chơi « có ngày đứt tay », nghĩa là
trở lại gây tang tóc cho da thịt, anh chị em đồng bào của ḿnh, sau
khi thành đạt « những chiến công oanh liệt, tiêu diệt và uốâng máu
quân thù ».
Hẳn thực, quen thói chém giết, chúng ta có thể trở nên những tên đồ
tể, đào hầm chôn sống người anh chị em, như Trần Thủ Độ đă làm với tôn
thất Nhà Họ Lư.
Thay vào đó, « Thằng Bờm » biết dùng dao, để sáng tạo, biến mo cau
thành quạt mát cho ḿnh và cho anh chị em hai bên cạnh. Sáng tạo như
vậy là « Biến Không thành Có ». Biến bản thân ḿnh c̣n tầm thường như
mo cau, thành dụng cụ tạo khí mát, cho người đồng hương, đồng loại.
Nói khác đi, « Thằng Bờm » là h́nh tượng của mỗi người Việt Nam, luôn
luôn ư thức ḿnh là « con Rồng, cháu Tiên », mang hai ḍng máu Trời và
Biển, trong quả tim của ḿnh.
Cho nên, động lực thúc đẩy mỗơi người Việt Nam đi tới, vượt qua mọi
chướng ngại, là sứ điệp « trở thành Gió » :
« Tôi muốn hóa thân thành Gió, thổi ào ạt khắp Non Sông. Dập tắt những
ngọn lửa nồng của Chiến Tranh, Hận Thù và Thiên Kiếân.
« Tôi muốn hóa thân thành Gió, mang hơi mát cho mọi anh chị em Đồng
Bào. Không phân biệt giàu nghèo. Không kỳ thị tôn giáo. Không chia rẽ
Bắc Trung Nam.
« Tôi muốn hóa thân thành Gió, mang an lạc cho ḷng người đau khổ.
Mang ủi an cho tâm hồn cô quạnh. Mang đường đi cho những ai đang phân
vân, rối loạn, trước những ngă ba đường của lịch sử. »
Gió đến từ Trời Xanh của Bà Âu Cơ. Gió thổi về, từ ḷng Biển Khơi của
Lạc Long Quân.
7- Sau cùng, trong quan hệ với Phú Ông, cho dù đó là người Pháp,
người Mỹ, người Nga hay người Trung Quốc... « Thằng Bờm » không sụp
lạy, ngửa tay xin trâu ḅ, súng ống và bom đạn.
Đằng khác, khi nguyện vọng của ḿnh bị từ chối, Bờm cũng không gọi họ
một cách xấc xược và hỗn láo, là Thằng Tây, Thằng Tàu, Thằng Mỹ hay là
Thằng Nga. Chúng ta phát huy và nuôi dưỡng quan hệ hài ḥa với mọi
người xa cũng như gần, thân cũng như lạ. Khi họ cho, chúng ta nhận.
Nhưng sau khi nhận, chúng ta cũng có khả năng cho lại những quà tặng
tâm linh độc đáo, những nụ cười an lạc hồn nhiên, những ṿng tay thân
mật đón tiếp, những điệu nhạc thánh thiêng của một Đất Nước Thanh B́nh
và Đức Hạnh.
Nói tóm lại, « Thằng Bờm » có mặt trong tâm hồn của mỗi người Việt
Nam. Cậu bé đang đưa tay chỉ hướng, để mỗi người anh chị em của ḿnh
có khả năng t́m đường bước tới. Với tất cả niềm tự hào và tự tin,
chúng ta hăy cùng nhau đi ra vùng Ánh Sáng, làm đẹp Quê Hương, xây
dựng cuộc đời. Ngày ngày Đồng Hành với anh chị em, trên cả ba Miền của
Đất Nước :
« Từng bước đi, đường Non Sông diệu vợi,
« Quyết ấn mạnh dấu chân con người mới,
« Lo băng bó vết thương c̣n lở lói,
« Gieo An Lạc vào ḷng ai ṃn mỏi,
« Ngày ngày cưu mang Biển Trời cao cả,
« Thổi Gió Mát, biến đời thành phép
lạ ».
Chương Bảy
Đối Thoại :
Bắc lại Nhịp Cầu Hiểu Biết và T́nh Thương
Cách đây trên
dưới chừng mười năm, nhằm chuẩn bị bước qua ngưỡng cửa của Ngh́n Năm
Thứ Ba, con người khắp đó đây, trên nhiều diễn đàn quốc tế, đă tiếp
nối nhau thắp sáng lên những giấc mơ trọng đại và kỳ hùng, có liên hệ
đến ngày mai của nhân loại.
Trong giấc mơ
thứ nhất, « ước chi rồi đây, súng ống bom đạn sẽ im hơi lặng tiếng
một cách vĩnh viễn, trên mặt địa cầu ». Và con người sẽ ngồi lại,
tôn trọng, lắng nghe, trao đổi với nhau về tất cả những t́nh huống khả
dĩ gây ra chia rẽ, hận thù, trong cuộc sống hằng ngày.
Trong giấc mơ
thứ hai, « ước chi không c̣n có những hố sâu thăm thẳm, đang phân
chia người giàu và kẻ nghèo thành hai đường song song vạn kiếp, trong
xă hội loài người ». Lẽ tất nhiên, nếu mai ngày giấc mơ nầy được
thực hiện, người giàu vẫn tiếp tục làm giàu. Và trên từng xứ sở khắp
năm châu, người nghèo vẫn c̣n có mặt, giống như ngày hôm nay. Tuy
nhiên, thể theo giấc mơ nầy, người giàu sẽ biết sử dụng phần dư thừa
của ḿnh, để phục vụ, nâng đỡ, đùm bọc những anh chị em không có cơ
may và khả năng kinh tài giống như ḿnh. Trái lại, những anh chị em
thuộc thành phần nghèo sẽ ư thức một cách sáng suốt rằng ḿnh là những
giá trị đích thực, có khả năng đóng góp phần tích cực và hữu hiệu, để
xây dựng Ḥa B́nh và thăng tiến xă hội, cùng với bao nhiêu người khác.
Hẳn thực, trong một cơ thể sinh động và lành mạnh, ai đang làm bộ óc,
hăy tiếp tục làm bộ óc để phục vụ lợi ích chung. Ai đang làm bàn chân,
họ cũng có quyền hănh diện rằng : Không có bàn chân, con người không
thể làm người, một cách trọn vẹn và đầy đủ. Chân và đầu bổ túc và kiện
toàn cho nhau, thay v́ loại trừ hoặc chống đối nhau.
Tuy nhiên cho
đến bao giờ, những giấc mơ thiết thực và chính đáng ấy mới trở thành
hiện thực, trong ḷng nhân loại, và nhất là trong tâm tưởng của mỗi
người ?
Trước Công
nguyên, ước chừng trên dưới một ngàn năm, dân tộc Do Thái cũng đă ghi
lại một giấc mơ diệu kỳ, trong sử sách của ḿnh : « Cho sói và
chiên con ở chung một chuồng, ngày ngày cùng chơi đùa với nhau như hai
anh chị em một nhà ». Thế mà, măi cho đến ngày hôm nay, dân tộc ấy
vẫn chưa hưởng được một ngày thực sự ḥa b́nh, trên quê hương của
ḿnh, thậm chí trong khu vực thuộc thủ đô thần thánh và linh thiêng
mang tên là Giêrusalem. Chính ngày hôm nay, chó sói đang c̣n sát hại
chiên con, một cách tàn ác và hung bạo. Và chiên con cũng đang t́m mọi
cách, để tận diệt chó sói, với những phương tiện khủng bố sẵn có trong
tầm tay vấy máu của ḿnh. Con đường hận thù và chiến tranh đang c̣n
chạy xuyên qua quả tim của từng người, phía bên nầy cũng như phía bên
kia. Và nhiều thành phần c̣n lại chỉ biết đứng nh́n từ ngoài với đôi
mắt bàng quan. Tệ hại hơn nữa, họ c̣n « thêm dầu vào lửa », bằng cách
vỗ tay hoan hô, cổ vơ bên này, hay là tố cáo, đá đảo bên kia.
Không cần nói
về ai khác xa xôi, chúng ta hăy can đảm nh́n vào chính ḿnh. Trong
ḷng Quê Hương Việt Nam, từ những ngày đầu tiên thuộc thời kỳ dựng
Nước, tổ tiên, cha ông của chúng ta cũng đă cưu mang, nuôi dưỡng những
giấc mơ lạ lùng và kỳ diệu, giống như những dân tộc khác, trên mặt địa
cầu. Qua ca dao và tục ngữ, quí vị đă trối trăng lại những giấc mơ làm
người, cho con cái và cháu chắt, từ thế hệ nầy qua thế hệ khác :
« Nhiễu điều
phủ lấy giá gương,
Người
trong một Nước, hăy thương nhau cùng ».
« Bầu ơi,
thương lấy bí cùng,
Tuy rằng
khác giống, nhưng chung một giàn ».
Ngoài ra, nhiều
câu chuyện Huyền sử, được lưu truyền trong dân gian, nhắc nhở rằng :
chúng ta tất cả đều là anh chị em đồng bào, được sinh ra từ một cha và
một mẹ. Chúng ta cùng chia sẻ với nhau một bào thai, trong cung dạ của
Bà Âu Cơ. Cha chúng ta là Rồng. Quê Hương và nguồn gốc của Người
là Đại Dương bao la, hùng vĩ. Mẹ chúng ta là Tiên. Quê Hương và ḍng
máu của Mẹ là Bầu Trời trọng đại và cao cả.
Tuy nhiên, từ thời nguyên thủy cho đến ngày hôm nay, chúng ta chưa bao
giờ thấm nhuần và hội nhập những bài học làm người ấy trong xương da
và máu thịt của ḿnh. Mặc dù đă phải trải qua bao nhiêu chu kỳ khổ đau
trầm trọng, bao nhiêu t́nh huống « nát thịt xương rơi »... chúng ta
vẫn cứ khư khư làm « gà một nhà bôi mặt đá nhau ». Từ thế hệ
nầy qua thế hệ khác, chúng ta luôn luôn sắp hàng thành hai phe
« Sơn Tinh và Thủy Tinh », để gieo rắc hận thù, chia rẽ và chiến
tranh, trên từng mỗi tấc đất của Quê Hương.
Thay v́ nh́n
lui quá khứ để trách móc, ta thán, tố cáo người nầy, đổ lỗi cho người
nọ, như chúng ta đă làm, thường làm và c̣n làm... nghĩa là suốt đời
dẫm chân tại chỗ, trong ṿng khổ đau chồng chất ê chề và dai dẳng...
phải chăng ngày hôm nay đang là thời điểm thuận lợi, để chúng ta cùng
nhau kết hợp lại, cố quyết thực hiện hai điều chủ yếu :
-
Thứ
nhất là can đảm khám phá nguyên nhân nào đă đưa đến t́nh trạng oái
oăm, khốc liệt và khổ đau ấy.
-
Thứ
hai là sáng tạo con đường hướng tới ngày mai. Đó là con đường Hiểu
biết và T́nh thương, Đồng cảm và Đối thoại.
Tuy nhiên, Đối
thoại thực sự là ǵ ?
V́ tương lai
của con cháu, cũng như v́ tiền đồ của Quê Hương, ngay từ bây giờ,
chúng ta cần thực thi những động tác cụ thể và tích cực nào, để những
giấc mơ trọng đại của Tổâ tiên có thể biến thành hiện thực sáng ngời,
trong tầm tay của mỗi người trong chúng ta ?
Phần thứ nhất
T́m hiểu nguyên nhân phát sinh những khổ đau trong ḷng cuộc sống
Mỗi lần chúng ta đưa ra một ư kiến, bênh vực một lập trường, tŕnh bày
một quan điểm về chính trị hay là tôn giáo... trên mặt khoa học và
nguyên tắc hành động, chúng ta cần phải đi qua ba giai đọan thiết yếu,
trong lănh vực tư duy và lư luận :
-
Trong giai đoạn
một, chúng ta quan sát và ghi nhận những dữ kiện cụ thể và khách quan.
Và khi chúng ta nêu lên một số tin tức hoặc sự kiện, xảy ra bên ngoài,
chung quanh chúng ta như vậy, chúng ta cố quyết phản ảnh và tŕnh bày
những ǵ chính chúng ta thấy và nghe một cách trực tiếp và trung thực.
Chúng ta không thêm, không bớt, không bóp méo hoặc xuyên tạc. Không
lấy râu ông nọ, đặt cằm bà kia. Không vơ đũa cả nắm. Không có ít, xít
ra cho nhiều. Không cường điệu, một cách ba hoa, vớ vẩn.
-
Trong giai đoạn
hai, chúng ta thuyên giải.
Sau khi đă thu
lượm một số dữ kiện hoặc tin tức, chúng ta đưa ra ư kiến hay là quan
điểm chủ quan của chúng ta. Công việc nầy c̣n mang tên là giả định,
hay là đề xuất một giả thuyết. Theo lối nói thông thường được sử dụng,
ngày hôm nay, trong môi trường văn hóa và khoa học, giai đoạn thứ hai
nầy được gọi là THUYÊN GIẢI. Xuyên qua cách làm nầy, chúng ta khoác
vào cho các sự việc đă xảy ra, một ư nghĩa, một hướng đi tới. Ư nghĩa
nầy c̣n mang đầy tính cách chủ quan của người phát biểu, bao lâu chưa
được kiểm chứng với nhiều sự kiện khác hay là do nhiều người khác góp
ư và chia sẻ, bổ túc và kiện toàn, sửa sai và điều chỉnh.
-
Trong giai đoạn
thứ ba, chúng ta chắt lọc một kết luận, để gây ảnh hưởng hoặc tác động
trên môi trường.
Sau khi đă kiểm
nghiệm và chứng minh giả thuyết, chúng ta rút ra một kết luận, khẳng
định một qui luật có tính thường hằng và bất biến, được mọi người chấp
nhận, nếu họ đi lại cùng một tiến tŕnh từ đầu chí cuối, giống như
chúng ta. Chính kết luận nầy sẽ có khả năng điều hướng những chọn lựa
và quyết định của chúng ta, trong lănh vực hoạt động, hay là trong
cách thức rút tỉa những bài học thực tế cho cuộc sống.
Tuy nhiên,
ngoài lănh vực thuộc về những khoa học chính xác, như toán, lư và
hóa... chúng ta không bao giờ đạt được mức độ « sự
thật chắc chắn một trăm phần trăm », trong những kết luận thông
thường và hằng ngày của chúng ta. Một cách đặc biệt, trong địa hạt
tiếp xúc và quan hệ giữa người với người, khi có một trăm người phát
biểu, chúng ta sẽ dễ dàng ghi nhận « một trăm ư kiến khác nhau ».
Chẳng hạn, sau khi chứng kiến tận mắt một tai nạn xe hơi trên
đường phố, ba chứng nhân sẽ đề xuất ba lời chứng khác nhau, có khi
hoàn toàn mâu thuẫn với nhau.
***
Mỗi lần đưa ra một ư kiến, về người anh chị em, trong nhiều lănh vực
khác nhau, như chính trị, tôn giáo hay là phương thức làm ăn... phải
chăng chúng ta đă lưu tâm và cẩn trọng đến cả ba giai đoạn trên đây :
khảo sát những sự kiện, kiểm chứng những giả thuyết và cân nhắc kỹ
càng những kết luận ?
Phải chăng
chúng ta đă « đánh lưỡi bảy lần », như Tổ tiên, Cha ông chúng
ta đă căn dặn, mỗi khi phát biểu một nhận định hay là phê phán về giá
trị, bản sắc hay là tác phong của một người khác, thuộc môi trường gia
đ́nh và xă hội ?
Từng lời nói
của chúng ta phải chăng là một viên gạch góp công xây dựng ngôi nhà
Ḥa B́nh của Đất Nước và thế giới ? Hay đó chỉ là súng ống, bom đạn...
nhằm tiêu trừ và hủy diệt người anh chị em đồng bào, đồng hương và
đồng loại ?
Đối thoại,
trong lăng kính vừa được tŕnh bày, là trao đổi, chia sẻ qua lại hai
chiều, trong ư hướng tôn trọng và thăng tiến lẫn nhau, cũng như làm
giàu cho nhau, trên b́nh diện thành nhân. Hẳn thực, trong điều kiện và
thân phận làm người, không bao giờ có hai người hoàn toàn y hệt nhau,
nhất là khi họ thâu lượm tin tức, tŕnh bày lập trường tư tưởng, ngoại
hiện những phản ứng xúc động t́nh cảm, cũng như khi kết dệt những quan
hệ giữa người với người. Chúng ta khác biệt nhau, như Trời và Biển,
như Rồng và Tiên, như Sơn và Thủy. Nhưng nhờ khác nhau như vậy, chúng
ta mới có thể bổ túc, kiện toàn cho nhau, cùng nhau thực hiện những
công tŕnh cao cả và trọng đại, trong ḷng Đất Nước và Quê Hương.
Một cách cụ
thể, Đối thoại bao gồm ba động tác tiếp nối và tác động trên nhau :
-
Động tác thứ
nhất,
tôi diễn tả và khẳng định lối nh́n, quan điểm và nhu cầu chính đáng
của tôi.
-
Động tác thứ
hai,
sau khi khẳng định ḿnh, tôi tạo điều kiện thuận lợi, cho phép người
khác có một thời gian và không gian, để nói về thực tế và con người
độc đáo của họ. Cũng như họ đă nghe tôi nói, bây giờ đến lượt họ phát
biểu, tôi lắng nghe một cách cẩn trọng, t́m hiểu thực tế và nhu cầu cơ
bản của họ là ǵ. Theo cách nói ngày nay, tôi nhận làm của ḿnh
« khung qui chiếu của họ ». Trong đó, có cách thức nh́n đời và bao
nhiêu phản ứng xúc động thường nhật.
-
Động tác thứ ba,
cả hai bên, người và tôi cùng nhau t́m ra mẫu số chung, mảnh đất đứng
chung, lối nh́n đồng qui, và đồng thuận .
Nói một cách vắn gọn, khi đối thoại, tôi cố quyết làm người và thành
người. Đồng thời, tôi tôn trọng tư cách làm người của kẻ khác. Hẳn
thực, đằng sau những nét khác biệt, nếu chúng ta học NH̀N, giúp nhau
NH̀N, cùng nhau chấp nhận và nh́n nhận giá trị của nhau, th́ thế nào,
chúng ta cũng sẽ t́m ra rất nhiều điểm giống nhau. Ít nhất, cả hai
chúng ta cũng đều kinh qua những cảm nghiệm đớn đau ê chề giống như
nhau, trong cuộc sống. Cả hai chúng ta đang có những ưu tư và hy vọng
giống như nhau. Cả hai chúng ta cũng đang đấu tranh quyết liệt, để
vươn lên, hướng thượng, ngơ hầu trối trăng lại cho con cháu sau này
một gia tài, một quê hương an b́nh và thịnh vượng. Cả hai chúng
ta đang đổ ra bao nhiêu mồ hôi và nước mắt, cộng vào với xương máu mà
Tổ tiên và Cha ông đă chất lên thành núi, đă đổ ra thành sông, trong
hơn bốn ngh́n năm lịch sử.
Theo lối nh́n của tác giả Stephen R. Covey, khi hai người có khả năng
trao đổi, đối thoại, họ đang « sinh
thành và sáng tạo cho nhau ».
Họ không phải chỉ là hai nguời đơn độc, đứng sát kề nhau. Trái lại,
như vết dầu loang, họ sẽ gieo hạt mầm, để rồi hằng ngh́n, hằng triệu
người anh chị em đồng bào cũng sẽ đi vào quỹ đạo tương thân, tương ái
giống như họ. Trong ḷng Đất Nước, nếu « trăm người như một, một người
như trăm », chúng ta sẽ biến ḿnh thành Bồ Tát Quan Thế Âm, có trăm
con mắt để nh́n, có trăm trăm cánh tay để làm, có trăm đôi chân để đi
những bước dài vạn dặm. Và nhất là có trăm quả tim để yêu thương đồng
bào và Quê Hương.
Và lúc bấy giờ, đúng như câu nói của tác giả
người Mỹ là G.G. Jampolsky :
« Bất kỳ một
câu hỏi nào được nêu lên, yêu thương là câu trả lời.
« Bất kỳ một
vấn đề ǵ xuất hiện, yêu thương là câu trả lời.
« Bất kỳ một
cơn bệnh nào đang đe dọa và hoành hành, yêu thương là câu trả lời.
« Bất kỳ một
nỗi khổ nào đang tiến lại, yêu thương là câu trả lời.
« Bất kỳ một
xúc động sợ hăi nào đang trào dâng, yêu thương là câu trả lời.
« Yêu thương
luôn luôn là câu trả lời, trong mọi t́nh huống, v́ chỉ có yêu thương
là tất cả ».
Không dấn bước
trên con đường Hiểu biết và Yêu thương như vậy, chúng ta sẽ sa vào cạm
bẫy hận thù, chiến tranh. « Mầy phải chết, để cho tao sống. Mày và tao
không thể nào đội trời chung »... phải chăng đó là những câu nói diễn
tả tâm t́nh và ư hướng của chúng ta, mỗi lần tiếp xúc và giao thiệp
với những người sống hai bên cạnh ?
Như trên đây,
tôi đă nhấn mạnh lui tới, chúng ta khác nhau, trong rất nhiều địa hạt.
Khác nhau trong lời ăn tiếng nói. Khác nhau, trong cách nh́n và cách
nghe. Khác nhau trong nhận thức và tư duy. Khác nhau trong tâm t́nh,
nhu cầu, ư thích và sở nguyện. Thay v́ t́m cách bổ túc và kiện toàn
cho nhau, chúng ta dựa vào những nét khác biệt tất yếu ấy, để loại
trừ, tố cáo, phê phán, mạt sát lẫn nhau. Tư tưởng NHỊ NGUYÊN và LỐI
NH̀N ĐỘC LỘ đang trấn áp cơi ḷng của chúng ta. Tư tưởng nhị nguyên
xuất đầu, lộ diện, mỗi lần chúng ta tranh giành phần hơn, phần thắng,
phần tốt, phần có lư về cho ḿnh. « Tao Hơn, Mày Thua, Tao Tốt, Mày
Xấu, Tao có Lư, Mày phi lư... », phải chăng đó là những câu nói luôn
luôn có mặt, trên đầu môi chót lưỡi của tất cả mọi người trong chúng
ta ?
C̣n tệ hại hơn
nữa, lối nh́n độc lộ, một chiều đang trấn áp tâm hồn của chúng ta. Đó
là tên độc tài đầu đàn, đang điều khiển, lèo lái mọi tên độc tài khác
đang có mặt trong ḷng nhân loại. Tên độc tài ấy đang đặt sào huyệt
trong tư duy của chúng ta. Cho nên, trong mọi quan hệ tiếp xúc và trao
đổi, chúng ta có xu thế qui chụp, gắn nhăn hiệu, tố cáo và đổ lỗi cho
người khác. Đó là con đường dẫn đến t́nh trạng bạo động, hận thù và
chiến tranh, khắp đó đây, trên mặt địa cầu, ngày hôm nay. Đó cũng là
nguyên nhân đă đẻ ra những con sông Gianh và Bến Hải, trong ḷng Đất
Nước và Quê Hương Việt Nam.
Nói tóm lại,
chỗ nào có bạo động trong tư duy, lời nói và hành vi, chỗ ấy không có
Ḥa B́nh giữa người với người, và không có An Lạc trong nội tâm. Chỗ
nào c̣n có t́nh trạng tố cáo, đổ lỗi, chia rẽ, hận thù... chỗ ấy không
có Đối Thoại, Đồng Cảm và Đồng Hành. Chỗ nào con người c̣n tranh giành
hơn thua, c̣n kỳ thị xấu tốt, chỗ ấy không có Con Đường Hiểu Biết và
T́nh Thương. Chỗ ấy chỉ có KHỔ ĐAU tràn lan, lây lất, lai láng, trong
mọi hang cùng, xó xỉnh của cuộc đời.
Vậy chúng ta
chọn lựa con đường nào cho chúng ta và con cháu của chúng ta ? Khổ đau
trong hận thù ? Hay là An B́nh Nội Tâm, trên Con Đường Hiểu Biết và
T́nh Thương, Ḥa B́nh và Hạnh Phúc bắt đầu từ bản thân và gia đ́nh nhỏ
bé của chúng ta ? Chúng ta mỗi người hăy bắt đầu tề gia, trước khi bàn
đến những chuyện to tát như trị quốc, b́nh thiên hạ.
***
Phần thứ hai
Vai tṛ BẮC CẦU của mỗi người trên con đường xây dựng và phát huy Đối
Thoại
Đầu năm 2003, tôi đă phát hành một cuốn sách dài hơn 250 trang, mang
tựa đề « Đồng Cảm để Đồng Hành ».
Trong tác phẩm nầy, tôi đă tŕnh bày những động tác cụ thể cần thực
hiện, mỗi lần chúng ta chọn lựa thái độ « Đồng Cảm » với tha nhân,
trong bất cứ hoàn cảnh nào. Hẳn thực, không có khả năng Đồng Cảm giữa
người với người, Đối Thọai chỉ là chuyện ba hoa chích cḥe, lư thuyết,
viễn mơ, hay là quảng cáo, tuyên tuyền láo khoét mà thôi.
Khả năng Đồng Cảm xuất hiện rất sớm, trên tiến tŕnh giáo dục, làm
người và thành nhân. Chung quanh hai tuổi rưỡi, một đứa bé khi nh́n
vào đôi mắt của Mẹ, đă có thể cảm nghiệm : Mẹ đang sung suớng hay là
khổ đau trong tâm hồn ? Mẹ lo sợ, tức giận, cấm đoán ? Hay là Mẹ bằng
ḷng cho ḿnh đi ra dạo chơi chung quanh vườn nhà.
Không có khả năng Đồng Cảm như vậy, làm sao chúng ta có thể nhận ra
rằng : Khi một người lên tiếng tố cáo, chưởi bới, mạt sát chúng ta,
cũng như khi họ trầm luân, ch́m đắm trong hận thù, bạo động, sát hại
chúng ta, nhốt chúng ta vào tù và t́m mọi cách hành hạ chúng ta...
chính người ấy đang giam hăm ḿnh trong khổ đau tràn trề lai láng. Có
lẽ, suốt cả cuộc đời, từ ngày sinh ra, họ chưa bao giờ được ai thương.
Chưa được ai dạy dỗ cho họ biết đồng cảm với kẻ khác. Phải chăng tôi
là người đầu tiên, với thái độ đồng cảm, cho phép người ấy cảm nghiệm
được thế nào là thương yêu và được người khác thương yêu, một cách
thực sự và trọn vẹn, theo như ư nghĩa « cho ra và nhận lại », một cách
vô điều kiện ?
Thêm vào đó, khi một người sống trong khổ đau trầm trọng, từ ngày này
qua ngày khác, họ trở nên lạnh lùng, chai đá, mù quáng. Họ có mắt,
nhưng họ không c̣n thấy. Họ có tai, nhưng họ không c̣n nghe. Họ có một
con tim như chúng ta. Nhưng con tim ấy đă bị đầu độc từ bao nhiêu ngày
tháng.
Tôi đă làm việc trong ba mươi năm, với những bà mẹ có đứa con chậm
trí, chậm phát triển. Ít nhất, trong những ngày tháng đầu tiên, khi
vừa mới gặp phải một biến cố bất ngờ như vậy, họ đớn đau, tê tái, kiệt
quệ, cơ hồ mọi tai họa trong trời đất nầy đều đổ xuống trên đầu óc và
cuộc đời của họ. Cho nên, giữa t́nh huống khổ đau, kinh hoàng và tê
liệt như vậy, họ không c̣n biết nh́n con, nuôi con, bi bô, thỏ thẻ
chuyện tṛ với con. Với đứa con mang khuyết tật, họ đánh mất mọi khả
năng đă học tập. Họ không c̣n làm được những ǵ họ đă làm với những
đứa con khác.
Cũng giống hệt như vậy, khi hai người đang sống những xung đột nghiêm
trọng, cả hai đều trầm luân trong khổ đau. Họ chưới bới, mạt sát lẫn
nhau, với những lời lẽ bỉ ổi thậm tệ. Cả hai giành nhau nói cùng một
lúc. Cho nên, không ai lắng nghe ai, để nhận biết người bên kia có
những nhu cầu và sở nguyện như thế nào. Và cứ như vậy, vấn đề kéo dài,
từ ngày này qua ngày khác và không bao giờ được giải quyết, một cách
thỏa đáng.
Khi đối mặt với những t́nh huống khổ đau của người khác, như tôi vừa
phác họa trên đây, chúng ta có trách nhiệm làm những ǵ có khả năng
làm, trong điều kiện hiện tại, để bầu khí quan hệ giữa người và người
đă ô nhiễm, bị đầu độc, không c̣n ô nhiễm thêm lên mỗi ngày.
Thứ nhất, điều chúng ta cần làm là không thinh lặng đồng lơa, đứng
chứng kiến một cách thụ động.
Thứ hai, chúng ta không « đổ thêm dầu vào lửa », bằng cách ủng hộ,
vuốt đuôi, về phe người nầy và tố cáo, đá đảo phía bên kia.
Trong môi trường văn hóa của Quê Hương, Tổ Tiên và Cha Ông chúng ta đă
đề nghị những cách làm quan trọng như sau :
-
Chúng ta hăy bắt chước Bồ Tát TR̀ ĐỊA : ngày ngày đi nối lại những con
đường hư đă làm gián đoạn giao thông và liên lạc. Chúng ta hăy dốc
toàn lực, cố quyết nối lại khắp đó đây những nhịp cầu Hiểu Biết và
Đồng Cảm. Chúng ta BẮC CẦU, cho bờ bên nầy gặp lại bờ bên kia, nói
chuyện trao đổi với nhau, trong an ḥa và tôn trọng lẫn nhau, chia sẻ
cho nhau niềm đau và nỗi khổ của ḿnh.
-
Chúng ta hăy bắt chước Bồ Tát THƯỜNG BẤT KINH : trên mọi nẻo đường của
Quê Hương, gieo rắc niềm tin, tinh thần tự lực tự cường. Đi đâu, chúng
ta cũng rỉ tai cho mọi người biết rằng : họ có đủ khả năng để bước tới
với mọi người, như mọi người. Ai ai cũng hăy tin ở sức ḿnh. Giải trừ
những mặc cảm tự ti, bất lực. Bỏ lại đằng sau những cảm nghiệm tội
lỗi, phản bội, bán nước, hại dân. Kỳ thực, nếu chúng ta đă lầm lỡ,
chúng ta dựa vào đó, để rút ra những bài học, những kinh nghiệm. Sai
lầm lúc bấy giờ không c̣n là sai lầm. Nó sẽ biến thành một cơ may, để
thăng tiến bản thân và phục vụ anh chị em đồng bào. Hăy cùng nhau đốt
lên một que diêm, trước khi chờ đón một rừng đuốc. Hăy đổ một giọt mồ
hôi, thay v́ đứng hô hào những chiến dịch, bằng mồm miệng. Trao cho bà
con thôn xóm một nụ cười chân t́nh và thân ái, thay v́ rao giảng ồn ào
về T́nh Anh Em bốn bể một nhà.
-
Chúng ta hăy bắt chước Bồ Tát ĐỊA TẠNG : muốn có mặt khắp muôn nơi.
Bước chân đến những chốn nhiều khổ đau nhất của Đất Nước. Chừng nào
địa ngục chưa trống không, chúng ta c̣n ở lại đó, để ĐỒNG CẢM và hoạt
động. Với chúng ta, những con đường c̣n bùn lầy nước đọng hôm nay, mai
ngày sẽ trở thành con đường Yêu Thương và Hiểu Biết.
-
Chúng ta hăy bắt chuớc Bồ Tát QUAN THẾ ÂM : Lắng nghe tiếng kêu đau
thương của anh chị em Đồng Bào, để sẵn sàng tới với họ, bằng mọi cách,
trong bất cứ một h́nh hài nào : một
em bé, một nhà văn, một bà mẹ nội trợ... một người lănh đạo Đất Nước
« chăn lạnh choàng vai, đêm chẳng ngủ. Suốt đời ôm măi nỗi lo dân ».
Tất cả bốn công việc :
« Lắng nghe, Đồng cảm, tạo nhịp cầu cho hai phe gặp gỡ và trao đổi với
nhau, nh́n nhận nhu cầu và quyền lợi chính đáng của mỗi người »,
mang tên là
BẮC CẦU,
LÀM TRUNG GIAN,
trong khoa học Tâm Lư Xă Hội, thuộc thời đại Ngh́n Năm Thứ Ba.
Công việc Bắc Cầu ấy bao gồm những động tác cụ thể như sau :
Thứ nhất là có mặt ở giữa :
tạo điều kiện thuận lợi, cho hai người hoặc hai phe xung đột tŕnh bày
và xác định vấn đề của ḿnh. Người bắc cầu đề xuất những tiến tŕnh và
qui luật, để hai bên lần lượt tŕnh bày trong trật tự và an ḥa quan
điểm chủ quan của ḿnh. Trong giai đoạn xác định vấn đề, trách nhiệm
của người bắc cầu là giúp cho cả hai phía
« môi trường hóa » những thông tin và ư kiến của ḿnh : Cái ǵ ? Ở
đâu ? Khi nào ? Thế nào ? Với ai ?...
Những qui luật cần được cả hai phía tôn trọng một cách nghiêm chỉnh
là :
- Qui luật một : sử dụng ngôi thứ nhất « Tôi », để nói về ḿnh.
Thay v́ dùng ngôi thứ hai, để kết án, tố cáo. Nh́n ḿnh như vậy để ư
thức về ḿnh, trước sự chứng kiến, của người bắc cầu và người thuộc
phe bên kia.
- Qui luật thứ hai là lắng nghe một cách nghiêm chỉnh và cẩn
trọng, đồng thời t́m hiểu, khi kẻ khác nói ra nỗi ḷng bức xúc và khổ
đau của ḿnh. Xuyên qua cách làm như vậy, người bắc cầu chính là nơi
gặp gỡ, và điểm hội tụ.
- Cho nên, qui luật thứ ba là hai phe xung đột không có phép nói trực
tiếp với nhau. Họ chỉ nói, xuyên qua người trung gian, giải thích,
tŕnh bày cho người trung gian, theo những thể thức và qui luật đă
được ấn định với người trung gian. Nếu có trường hợp người bên nầy cắt
lời và phản đối người bên kia, vai tṛ và trách nhiệm của người bắc
cầu là nhắc lại qui luật thứ ba nầy: Ông đă nói trong 5 phút. Bây giờ,
đến lượt Bà, Bà cũng có quyền nói trong ṿng 5 phút. Tiếp sau đó, Ông
cũng sẽ phát biểu trở lại... Không ai cắt lời của ai.
Thứ hai là nêu ra những câu hỏi xúc tác :
dựa vào đó, người nói có thể dễ dàng phát biểu những xúc động như
buồn, lo, tức giận, thất vọng, bất măn... của ḿnh, ngoại hiện một
cách đầy đủ tất cả những t́nh huống đang trấn áp nội tâm.
Thứ ba là chuyển hóa những xúc động thành NHU CẦU.
Ví dụ : Khi Ông, Bà nói như vậy, Ông, Bà cảm thấy ḿnh có những xúc
động ǵ ? Khi diễn tả nỗi niềm bực tức, như Ông Bà vừa làm, Ông Bà có
những nhu cầu cần phải thỏa măn là những ǵ ?
Thứ bốn là xúc tác tinh thần TRÁCH NHIỆM.
Người bắc cầu không làm thay, làm thế. Chính những người trong cuộc
chọn lựa và quyết định về phương thức và chiều hướng giải quyết vấn đề
của ḿnh. Khác với người trọng tài, người bắc cầu không làm công việc
giàn ḥa. Người bắc cầu cũng không đưa ra những đề nghị hoặc áp đặt từ
ngoài hay từ trên những lời khuyên.
Nói tóm lại, người bắc cầu chỉ làm công việc xúc tác, với sự có mặt
« vô công, vô vi và vô tư của ḿnh ». Chính những người hoặc phe phái,
trong vụ xung đột, mới là những tác nhân năng động, t́m ra con đường
chuyển hóa bản thân và sáng tạo những phương hướng giải quyết vấn đề
của ḿnh.
***
Nhằm kết luận, tôi xin kể ra một câu chuyện :
Hôm ấy, có một nông phu ở Xứ Ngoài muốn vào Xứ Trong làm ăn. Truớc khi
ra đi, ông đă đến tham vấn một Thiền sư đang cư ngụ trong vùng.
Chàng nông phu vào đề :
- Thưa Sư Ông, con sắp vào Xứ Trong làm ăn. Sư Ông đă đi khắp
đó đây, từ Đông qua Tây, từ Bắc xuống Nam. Xin làm ơn cho con
hay : Người Xứ Trong dễ thương hay dễ ghét ?
Thiền sư hỏi lại :
- Cho đến bây giờ, trong xóm làng của Anh, những người anh
đă tiếp xúc trong công việc và đời sống hằng ngày, có thái độ thế nào
đối với anh ? Họ dễ thương hay dễ ghét ?
-
Thưa Sư Ông, ai ai cũng dễ thương với con.
-
Thế th́ ở Xứ Trong cũng vậy, Thiền sư trả lời, mọi người cũng sẽ dễ
thương với anh, như ở quê làng của Anh.
Một vài tuần sau, một chàng nông phu khác cũng đến tham vấn Thiền Sư :
- Thưa Thầy, con quyết định vào Xứ Trong lập nghiệp. Xin
Thầy chỉ bảo cho con biết : Người trong ấy có tính t́nh thế nào, theo
cách nhận xét và kinh nghiệm của Thầy ?
Thiềân sư hỏi lại :
- Theo kinh nghiệm và nhận xét của Anh, người trong quê
làng hiện nay của anh có tính t́nh như thế nào ? Dễ ghét hay dễ
thương ?
-
Thưa Thầy, ai ai cũng dễ ghét và khó chịu. Cho nên con muốn ra đi, cho
khuất mặt, khuất ḷng.
-
Thế th́ tôi sợ rằng, Thiền sư trả lời, người ở Xứ Trong chắc cũng sẽ
rất dễ ghét và khó chịu, giống như người ở quê nhà của ḿnh.
Cuối ngày hôm ấy, một chú tiểu độ mười hai tuổi, đến lẩn quẩn bên cạnh
Thiền Sư. Thiền sư hỏi :
- H́nh như con có điều chi khó chịu, trong ḿnh con, phải không ?
Chú tiểu thưa lại :
- Kính thưa Sư Ông, cách nhau hai tuần, hai người thanh niên đến hỏi
Sư Ông một câu hỏi hoàn toàn giống nhau. Thế mà con nghe Sư Ông trả
lời cho người thứ nhất : Người Xứ Trong rất dễ thương. Với người thứ
hai, trái lại, Sư Ông trả lời : Người Xứ Trong rất dễ ghét và khó
chịu. Thưa Sư Ông, con nghe như vậy, con không hiểu Sư Ông muốn nói
ǵ. Con đang lo : Sư Ông có mắc bệnh ǵ không.
Sư Ông mỉm cười và dịu dàng dạy cho chú tiểu :
- Tâm con làm sao, th́ cách con nh́n cũng sẽ như vậy.
Tôi không biết chú tiểu đă hiểu Sư Ông thế nào. Phần tôi, tôi cảm
nghiệm rằng : khi tôi cố quyết làm người, tôi sẽ thấy phẩm giá làm
người, trong mọi người, khi họ tiếp xúc, trao đổi, chuyện tṛ với tôi,
thậm chí những người có tác phong bên ngoài rất hằn học, tố cáo, hung
bạo đối với tôi.
Nói cách khác, khi tôi ngày ngày học tập, tôi luyện để phát huy chất
liệu đối thoại trong bản thân và cuộc đời của ḿnh, mọi người, bất kể
là ai, người xấu hay kẻ tốt, người thương tôi hay kẻ ghét tôi, người
bao bọc che chở cho tôi, cũng như người ác độc, t́m cách sát hại
tôi... tất cả mọi người đều là cơ may quí hóa, giúp tôi thực tập bài
học đối thoại, trong ḷng Quê Hương và cuộc đời làm người.
***
Chương Tám
Con Đường Luyện Vàng
1. Khi nh́n lại
cuộc đời của ḿnh, tôi có thể phân biệt ba giai đoạn vừa đối kháng vừa
bổ túc lẫn nhau :
Thứ nhất, từ 20
đến 40 tuổi, tôi ấp ủ hoài băo cải hóa con người và thay đổi bộ mặt
của thế giới. Tôi muốn thực hiện một cuộc cách mạng toàn diện cho bản
thân và cuộc đời. Theo lối nh́n của tôi vào thời kỳ ấy, nếu điều kiện
môi trường xă hội bắt buộc, tôi sẵn sàng dấn bước vào con đường xung
đột, bạo động, hận thù, đổ máu và chiến tranh... miễn là ư đồ thành
đạt và mang lại những thành quả mong muốn.
Thứ hai, từ 40
đến 60 tuổi, tôi đă dần dần thu hẹp những ước mơ và mộng tưởng của
ḿnh. Cuối cùng tôi chỉ giữ lại một tham vọng độc nhất là thay đổi vợ
con và một vài bạn bè thân t́nh, thiết cốt mà thôi.
Thứ ba, từ 60
tuổi trở đi, sau bao nhiêu khổ đau chồng chất, thất bại ê chề và nhiều
tác phong phản bội, trong cuộc đời lư tưởng cũng như trong quan hệ
trao đổi và tiếp xúc giữa người với người... tôi đă mở mắt bừng sáng
về khả năng thực sự của ḿnh : Tôi chỉ có thể chủ động chuyển hóa
chính con người của tôi mà thôi. Khu vườn mà tôi có thể vun trồng tưới
bón một vài bông hoa, để hiến tặng cho đời và những ai lại gần tôi, đó
là tâm hồn của tôi. Không khởi sự từ nơi đây, tôi chỉ làm con keo vẹt,
hô hào, cổ động, chiêng trống rùm beng, thanh la chũm chọe. Tệ hại hơn
nữa là tôi sử dụng bom đạn hận thù, cưỡng bức và chiến tranh... để đ̣i
buộc kẻ khác phải « cải hóa và qui thiện », giống như tôi, theo ư của
tôi, đúng như mẫu thức do tôi áp đặt từ trên, từ ngoài, một cách đơn
phương, độc tài và độc đoán.
Chính cách
« đặt vấn đề », « thấy vấn đề » và « giải quyết vấn đề », một cách độc
lộ, một chiều như vậy, là một vấn đề nan giải và bế tắc triền miên, có
mặt khắp nơi, trong thế giới ngày hôm nay.
Cuối cùng, không một ai đón nhận và chấp nhận « ư đồ thực dân » của
tôi, được ngụy trang ở dưới một bộ mặt « đầy thiện chí và thiện tâm ».
2. Từ những kinh nghiệm đau thương ấy, tôi đă chọn làm của ḿnh lời
khấn nguyện của thi sĩ Reinbold Niebuhr được
trích dẫn trong cuốn sách của tác
giả bác sĩ tâm thần
B.
Burns:
« Xin cho tôi
có ḷng thanh thản và b́nh tâm để chấp nhận những ǵ tôi không thể
thay đổi.
« Xin cho tôi
có ḷng can đảm để chuyển hóa những ǵ tôi có khả năng và trách nhiệm
chuyển hóa.
« Xin cho tôi có ḷng khôn ngoan để phân biệt một cách sáng suốt điều
nào tôi có thể thay đổi và điều nào thoát ra ngoài khả lực hiện thực
của tôi. »
Hẳn thực, mỗi
lần khảo sát vấn đề thay đổi, chuyển biến trong cuộc sống làm người,
tôi không thể không nêu lên một loạt câu hỏi đan chéo chằng chịt vào
nhau :
-
Tôi
thay đổi cái ǵ ?
-
Tôi
thay đổi để làm ǵ ?
-
Tôi
thay đổi bằng cách nào ?
-
Tôi
thực hiện công cuộc thay đổi ấy khi nào, ở đâu, với ai, bao lâu ?
-
Trường hợp cái hại lấn áp và khống chế cái lợi, trong tiến tŕnh thay
đổi ấy, tôi cần lấy quyết định như thế nào ? Sáng suốt dừng lại ? Vẫn
ngoan cố tiếp tục ? Hay là chuyển hóa mục tiêu, bằng cách CHỌN LỰA lại
một con đường hợp t́nh hợp lư, linh động và hài ḥa, có người và có
tôi đồng ḷng và hợp ư vớiù nhau ?
Trong lời khấn
nguyện của R. Niebuhr, năm bước đi lên ấy được gói ghém trọn vẹn trong
lối nói « Ḷng Khôn Ngoan ». Đây là ngọn hải đăng có khả năng hướng
dẫn và soi sáng những con thuyền đang lênh đênh trên biển cả đầy sóng
gió. Một ḷng khôn ngoan đa năng, đa diện và hữu hiệu như vậy, chỉ
phát huy và triển nở được trong một tâm hồn thanh thản và an lạc, luôn
luôn tỉnh thức và bao quán về những đường đi và nẻo về của ḿnh, trong
ḷng cuộc đời ba ch́m bảy nổi tám lênh đênh. Thêm vào đó, ḷng khôn
ngoan ấy cũng là động lực thúc đẩy chúng ta can trường bước tới, vượt
qua mọi trở ngại, trên bất cứ giai đoạn nào, thuộc tiến tŕnh làm
người.
Hẳn thực, chừng nào chúng ta có khả năng thay
đổi tất cả những ǵ chúng ta có trách nhiệm phải thay đổi, để ngày hôm
nay trở nên tốt đẹp và hạnh phúc hơn ngày hôm qua, lúc bấy giờ chúng
ta đang trở thành người LUYỆN VÀNG, theo lối nói của văn hào Paulo
Cuelho. Tất cả mọi quặng sản như đồng, ch́, sắt, thép... sẽ chuyển
biến thành Vàng nguyên chất, khi tiến vào trong quĩ đạo sinh sống và
hoạt động của chúng ta.
3. Cũng chính
v́ lư do và ư hướng nầy, Kinh Dịch phân biệt hai loại biến chuyển khác
nhau : Một là những chu kỳ thay đổi trong các hiện tượng tự nhiên của
trời đất, vũ trụ. Hai là những con đường vươn lên, hướng thượng,
chuyển hóa trong cuộc sống thành người. Hẳn thực, những đổi thay như
nắng mưa, ngày đêm, nóng lạnh... là định luật tự nhiên, tất yếu của
đất và trời. « Mai mưa, trưa tạnh, chiều giông » là lẽ thường t́nh của
khí hậu, do nhiều yếu tố tác động và ảnh hưởng qua lại hai chiều, theo
định luật nhân sinh ra quả, quả trở lại chi phối nhân.
Bản sắc và sứ
mệnh của con người, trái lại, là làm chủ cuộc đời. Từ ngày sinh ra cho
đến khi ĺa đời, con người không ngừng sáng tạo, chuyển hóa, thăng
tiến bản thân của ḿnh. Đồng thời, chúng ta có trách nhiệm tạo điều
kiện thuận lợi, để người anh chị em hai bên cạnh cũng có khả năng tiến
hóa, vươn lên như chúng ta và với chúng ta. Nghĩa là ngày ngày trở
thành con người có Văn Hóa. Có khả năng chuyển biến cuộc đời và bản
thân ḿnh thành một cánh đồng ph́ nhiêu. Ngày ngày kết sinh mùa màng
và hoa lợi. Mang lại hạnh phúc và ấm no, trên hai b́nh diện vật chất
và tinh thần, cho chính ḿnh và những người anh chị em khác, cùng
chung sống hai bên cạnh.
Con đường luyện
vàng ấy không thể được áp đặt hoặc chỉ đạo từ bên trên hoặc bên ngoài.
Nó được cưu mang, ấp ủ và phát sinh ở bên trong nộâi tâm của mỗi
người. Rồi từ đó, toát ra bên ngoài, trong các địa hạt khác, thuộc môi
trường sinh thái chung quanh.
4. Để trở nên hữu hiệu, nghĩa là có khả
năng tạo ra những thành quả cụ thể, vững bền, trên con đường luyện
vàng nầy, theo cách hướng dẫn của tác giả Stephen R. Cover, chính con
người của chúng ta cần kinh qua một tiến tŕnh bao gồm 7 giai đoạn,
giai đoạn trước chuẩn bị và tạo điều kiện « hộ sinh » cho giai đoạn
sau :
-
Thứ
nhất : Chủ động và sáng tạo, thay v́ bị động và phản ứng một cách máy
móc, bốc đồng trước những kích thích của ngoại cảnh.
-
Thứ
hai : Xác định mục đích tối hậu, trước mỗi kế hoạch hành động. Nói
cách khác, lư tưởng của đời tôi là ǵ ? Chí hướng soi đường chỉ lối
cho tôi, bao gồm những giá trị nào, nhất là khi tôi trải qua những
giai đoạn băo bùng giông tố ?
-
Thứ
ba : Làm việc với những mục tiêu cụ thể, được đánh giá kỹ càng và xếp
đặt thành ưu tiên 1, 2, 3..., để từ từ tiến lên, theo kế hoạch « kiến
tha lâu đầy tổ » hay là « cháo nóng húp quanh ».
-
Thứ
bốn : Phát huy một loại quan hệ tích cực, xây dựng và hài ḥa, « Tôi
Thắng-Người Thắng », khi trao đổi và tiếp xúc với người khác, trong
bất cứ giai đoạn và địa hạt sinh hoạt nào.
-
Thứ
năm : Học hỏi, lắng nghe, t́m hiểu quan điểm của người khác ở trên hay
ở dưới, ở ngoài hay ở trong... thay v́ đơn phương áp đặt lập trường và
quan điểm chủ quan của ḿnh, một cách độc tài, độc đoán.
-
Thứ
sáu : Người và tôi khác nhau, trong quan điểm, nhận thức, quyền
lợi và kinh nghiệm. Nhưng quyền khác biệt ấy cần được nh́n nhận
và tôn trọng một cách nghiêm minh. Nhờ đó, người và tôi có thể bổ túc,
kiện toàn phát huy và làm phong phú cho nhau, trên con đường làm người
và thành người.
-
Thứ
bảy : Ngày ngày đánh sáng và mài nhọn lại sáu phương thức luyện vàng
trên đây, cho đến lúc tṛn đầy và nhuần nhuyễn.
Thực ra, con
đường luyện vàng nầy không thể nào có điểm chấm dứt. Ngày ngày chúng
ta quyết định lại. Chọn lựa lại, như ngày đầu tiên. Làm mới lại từng
bước đi lên, đúng như lời người xưa đă căn dặn : « Nhật tân. Nhật nhật
tân. Hựu nhật tân ». Mỗi ngày, tôi đổi mới con người của tôi. Đổi mới
không ngừng. Đổi mới toàn diện, trong mỗi lời ăn, tiếng nói,
hành vi và thái độ. Đổi mới trong quan hệ tiếp xúc và trao đổi với
người khác. Đổi mới trong tâm t́nh và ư nguyện.
Một cách đặc
biệt, con đường đổi mới và luyện vàng ấy phải bắt nguồn và phát khởi
từ lối nh́n của mỗi người. Của tôi, của Anh, của Chị. Bao lâu chưa có
cuộc đổi mới tận gốc tận ngọn ở nơi đây, mọi đổi mới khác cho dù được
hô hào hoặc đánh bóng đến độ nào chăng nữa, cũng chỉ là b́ phu, giả
hiệu, « sơn son thếp vàng » ở bên ngoài mà thôi.
5. Lối nh́n,
trong cách dùng từ ngày nay, c̣n mang nhiều danh hiệu khác như : Thể
thức nh́n đời, lề lối nhận thức, quan điểm, cách thuyên giải thực tế,
vũ trụ quan...
Nói một cách
đơn sơ, dễ hiểu, vừa tầm của người b́nh dân, lối nh́n của một người
bao gồm tất cả những ǵ người ấy diễn tả, phát biểu, bộc lộ ra ngoài,
để trả lời ba loại câu hỏi như sau :
-
Tôi
là ai ?
-
Người
đang chung sống hoặc tiếp xúc với tôi là ai ?
-
Thực
tế và thực tại, với bao nhiêu sự việc hoặc sự kiện ngày ngày xảy ra
trước mắt tôi, có ư nghĩa ǵ cho cuộc đời làm người của tôi ? Những sự
việc ấy có mang lại hạnh phúc cho cuộc đời làm người của tôi không?
Hay đó chỉ là ngục tù giam hăm, tạo ra cho tôi những t́nh huống khổ
đau, bất hạnh và bệnh hoạn ?
Sau đây là một
vài ví dụ về lối nh́n :
-
Câu
hỏi thứ nhất : Tôi nh́n tôi như thế nào ? Tôi có xu thế trả lời : Tôi
đúng, kẻ khác sai. Tôi tốt, kẻ khác xấu. Mỗi lần có một hư hỏng, sai
lầm xảy ra trong môi trường, tôi thấy tôi là người hoàn toàn trong
trắng và vô tội. Thủ phạm hay là tội nhân là một ai đó khác tôi, không
phải là tôi, đang sống cùng với tôi. Ngoài những điều hoàn toàn tiêu
cực ấy, c̣n có một lối nh́n nào khác tích cực và xây dựng không ? Khi
khẳng định ḿnh, phải chăng tôi cũng đồng thời tạo điều kiện thuận
lợi, giúp đỡ những người khác có khả năng khẳng định con người và bản
thân họ giống như tôi ?
-
Câu
hỏi thứ hai : Người trước mặt tôi là ai ? Họ phải làm những ǵ ? Mỗi
lần tôi nói, tôi đ̣i hỏi mọi người phải lắng nghe, chú ư. Nhưng khi có
một ai khác đề xuất một ư kiến, nêu lên một quan điểm... Tôi không đón
nhận. Tôi không lắng nghe để học hỏi, t́m hiểu. Trái lại, tôi chỉ sẵn
sàng lên án, phê phán, kết tội, vạch lá t́m sâu, nhấn mạnh những thiếu
sót và sai lầm. Một cách đặc biệt, khi có những khác biệt giữa tôi và
người khác, trong lề lối nhận thức và lập trường tư tưởng, tôi đă
chuyển biến những điểm khác biệt ấy thành đề tài tranh chấp, xung đột,
bạo động và hận thù. Thay vào những cách làm ấy, tôi có thể sáng tạo
những hướng đi nào khác có tính xây dựng và an ḥa hơn không ?
-
Câu
hỏi thứ ba : Thực tế và thực tại đang xảy ra và biến chuyển thường
xuyên trong môi trường sinh thái bao quanh tôi, như bốn mùa Xuân Hạ
Thu Đông, mang lại cho bản thân và cuộc đời làm người của tôi, những ư
nghĩa tích cực hay tiêu cực, thăng tiến hay suy đồi, bao la mở rộng
hay là hẹp ḥi, ngột ngạt ? Những ư nghĩa ấy do tôi chủ động sáng
tạo ? Hay là tôi chỉ là nạn nhân của thời cuộc ? Một con múa rối, do
bàn tay lông lá của người khác lèo lái, chỉ huy và điều động ?
Những lối nh́n,
mà tôi vừa đề xuất một cách sơ phác, trong một vài ví dụ cụ thể, đang
tạo lập, ở bên trong nội tâm của tôi một loại bản đồ tâm linh, để
hướng dẫn và soi sáng mọi đường đi nẻo về của tôi, trong ḷng cuộc
đời.
Tuy nhiên, tấm
bản đồ ấy không phải là thực tế và thực tại khách quan bên ngoài.
Không phải là xứ sở và quê hương đích thực của tôi. Xuyên qua một vài
đường nét thô thiển và giản lược tối đa, nó giúp tôi h́nh dung những
con đường phải chọn lựa, những trở ngại cần đề pḥng.
Việc ǵ sẽ xảy
ra, nếu tôi đi t́m đường ở Thành Phố Sài G̣n, với một bản đồ của Thủ
đô Hà Nội hay là của Thành Phố Huế ? Cho dù tôi đă t́m mọi phương
tiện, để thay đổi thái độ, tác phong, tâm t́nh... tôi vẫn đi lầm
đường, t́m không ra địa chỉ, bao lâu tôi không rà soát hay là kiểm
điểm lại tấm bản đồ đang điều khiển và lèo lái mọi đường đi nẻo về của
tôi.
6. Trong những
quan hệ tiếp xúc và trao đổi giữa tôi và người anh chị em đồng bào,
trong ḷng quê hương, phải chăng tôi cũng đang sử dụng những loại bản
đồ đă lỗi thời, lạc hậu như vậy ?
Bao nhiêu khổ
đau đang c̣n tràn lan, lây lất khắp đó đây, phải chăng v́ chúng ta
chưa thay đổi tấm bản đồ nội tâm của chúng ta về người anh chị em ?
Phải chăng
chúng ta đă biết can đảm ngồi lại với nhau, để giúp nhau làm mới lại,
cập nhật hóa lối nh́n của chúng ta về ḿnh, về người khác và về thực
tế, thực tại bao quanh chúng ta ?
Trong quá khứ xa và gần của Đất Nước và Dân Tộc,
những nét khác biệt đương nhiên tất yếu, giữa chúng ta và người anh
chị em hai bên cạnh, đă phát sinh những t́nh huống hận thù và xung
đột, bạo động và chia rẽ. Thời gian đă trôi qua. Nhưng vết thương ḷng
vẫn c̣n đớn đau và rướm máu. Chính ngày hôm nay, đúng như lời cảnh
giác của Tổ Tiên và Cha Ông, chúng ta vẫn c̣n sắp hàng thành hai phe
Sơn Tinh và Thủy Tinh, để làm « gà một nhà bôi mặt đá nhau ».
Thay v́ dồn
nén, ức chế, ngoảnh mặt làm ngơ, giả vờ như « không có, không thấy,
không nghe, không cảm », chúng ta hăy can trường nhận diện và đối diện
với lối nh́n đang tác yêu tác quái trong tâm hồn và cuộc đời. Nỗi lo
sợ đang khống chế và xuyên tạc một cách trầm trọng, tấm bản đồ tâm
linh của chúng ta. Nó dẫn đầu một đoàn tùy tùng dài tḥng ḷng bao gồm
những tư tưởng nhị nguyên như « tao tốt, mầy xấu »... những tư duy độc
lộ như « chỉ có tôi mới có toàn quyền sở hữu về chân lư ». Bạo động,
hận thù, chia rẽ và chiến tranh dưới mọi h́nh thức... chỉ là sản phẩm
của loại bản đồ « LO SỢ » nằm sâu trong những
tầng lớp dày đặc của tâm hồn
7. Thể theo nhận định của những tác giả như
Louise L. Hay, John Gray
...
chỉ có CON ĐƯỜNG LUYỆN VÀNG, làm bằng T́nh Yêu và Ḷng Thứ Tha vô điều
kiện, mới có khả năng khai thông những t́nh trạng bế tắc được nói tới
trên đây. Chỉ có con đường Luyện Vàng nầy mới có khả năng hàn gắn và
chữa lành mọi vết thương lở lói và nhức nhối, trong ḷng Quê Hương và
Nhân Loại.
Trên con đường luyện vàng nầy, thể theo câu nói
của tác giả G.G. Jampolsky :
« Bất kỳ một câu hỏi nào được nêu lên, T́nh Yêu là câu trả lời.
« Bất kỳ một vấn đề ǵ xuất hiện, T́nh Yêu là câu trả lời.
« Bất kỳ một cơn bệnh nào đang đe dọa và hoành hành, T́nh Yêu là câu
trả lời.
« Bất kỳ một nỗi đớn đau nào đang tiến lại, T́nh Yêu là câu trả lời.
« Bất kỳ một xúc động sợ hăi nào đang trào dâng, T́nh Yêu là câu trả
lời.
« T́nh Yêu luôn luôn là câu trả lời trong mọi t́nh huống, v́ chỉ có
T́nh Yêu là TẤT CẢ. »
8. Không cưu
mang « T́nh Yêu và Ḷng Tha Thứ » trong cung dạ của ḿnh, liệu chúng
ta sẽ có ǵ, để có thể mang đi hiến tặng cho người anh chị em đồng
bào, hai bên cạnh chúng ta ? Không có hành trang « T́nh Yêu và Ḷng
Tha Thứ », chúng ta sẽ dùng chất liệu nào, để xây dựng Đất Nước và
phục vụ tha nhân ? Bao lâu « T́nh Yêu và Ḷng Tha Thứ » đang vắng mặt
trong cơi ḷng của chúng ta, mỗi lời nói và hành vi xuất phát từ chúng
ta, đều là bom đạn, hận thù, xung đột và chiến tranh, trong mỗi quan
hệ giữa chúng ta và những người sinh sống hai bên cạnh. Những Ḷ Hơi
Ngạt của người Đức Quốc Xă phải chăng đă và đang c̣n là những chứng
liệu linh động trước mắt chúng ta, về một loại người đă trở thành
« chó sói và hỏa ngục » đối với người anh chị em đồng hương, đồng
loại ?
***
Chương Chín
Xây dựng Quan Hệ và
Quan Hệ Xây Dựng
Chương nầy bàn
về thể thức xây dựng những quan hệ tích cực và hữu hiệu, giữa người
với người. Bao nhiêu cạm bẫy cản trở bước đường thành nhân của chúng
ta đều nằm tại đây. Tuy nhiên, không có những đóng góp của kẻ khác
-
trong đó có những người t́m cách làm hại và đàn áp chúng ta
-
chúng ta có thành tựu được tất cả những ǵ đang tạo nên bản sắc của
chúng ta trong cuộc đời hiện tại hay không ?
Nhằm trả lời
cho vấn nạn nầy, trong Phần Một, tôi sẽ phân biệt và tách rời khỏi
nhau, hai lănh vực « Người và Việc ».
Hẳn thực, trong
lănh vực Người, bao lâu chúng ta chưa chấp nhận và tôn trọng quyền
khác biệt của nhau, chúng ta chưa thể nào thiết lập những quan hệ
chung sống hài ḥa, kiện toàn và bổ túc cho nhau. Đây là một tiến
tŕnh lâu dài, liên lỉ, không bao giờ kết thúc, bao lâu chúng ta c̣n
sống trên cơi đời này.
Trái lại, trong
lănh vực Việc, điều thiết yếu là chúng ta cần học tập và tôi luyện
phương pháp thương lượng với nhau, để tiến tới những giao điểm, những
vùng hội tụ, những mảnh đất đứng chung với nhau. Không đồng ư « cùng
với nhau nh́n về một hướng », không chia sẻ một số giá trị chung,
chúng ta không thể hợp tác và thành tựu những kết quả cụ thể mong muốn
cho nhau và với nhau.
Trong Phần Hai,
tôi sẽ nhấn mạnh thêm : Khi thương lượng với nhau, điều tiên quyết cần
thành đạt là cả hai bên đều thắng, nghĩa là gặt hái những kết quả tích
cực, cụ thể và khách quan, trong chiều hướng thành người. Trên tiến
tŕnh nầy, không có kẻ thua. Trái lại, xây dựng quan hệ hài ḥa và
đồng cảm là cùng đích chúng ta cần nhắm tới. Trên con đường ấy, chúng
ta không thể dấn bước một ḿnh.
Lẽ đương nhiên,
khi kết dệt những quan hệ xây dựng, cả hai bên
-
người và chúng ta
-
sẽ thâu lượm dễ dàng những thành quả tốt đẹp. Thế nhưng, chúng ta
không chờ đợi, đ̣i hỏi phải có kết quả trong địa hạt thương lượng, rồi
mới dấn bước trên con đường làm người.
Bên này là một
tiến tŕnh. Bên kia là kết quả cụ thể. Cho nên, tôi chỉ đơn phương làm
người. Nói cách khác, một cách VÔ ĐIỀU KIỆN, tôi thực hiện những điều
cần thực hiện, về phía bản thân của tôi. Tôi không thể chờ đợi hay là
đ̣i hỏi kẻ khác phải làm người, để rồi tôi mới làm người.
Trong Phần Ba, tôi sẽ tŕnh
bày thêm : đâu là những động tác cụ thể cần được tôi tức khắc dấn thân
thực hiện, từ ngày hôm nay, không tŕ hoăn, trên tiến tŕnh xây dựng
những quan hệ với người khác, bắt đầu từ môi trường gia đ́nh, thậm chí
với đứa con vừa đi ra khỏi ḷng mẹ, chưa hoàn toàn ư thức về ḿnh.
1. Người và Việc
Khi nói đến Người, chúng ta nói đến những quan hệ tiếp xúc và trao đổi
giữa hai người với nhau, trong tất cả mọi hoàn cảnh chung sống, thuộc
đời sống gia đ́nh, cũng như thuộc địa hạt xă hội. Ngay từ giây phút
đầu tiên, lúc đứa bé vừa ra chào đời, nó đă cần quan hệ với người mẹ,
hay là với một người nuôi nấng, đùm bọc nó giống như một người mẹ. Nhờ
đó, nó mới có khả năng sống và thành người. Chính người mẹ cũng cần
phải quan hệ với đứa con và bao nhiêu người khác, mới có thể chu toàn
vai tṛ làm người và làm mẹ một cách tốt đẹp.
Hẳn
thực, suốt cuộc sống làm người, từ lúc sinh ra cho đến khi ĺa đời,
những mạng lưới quan hệ chằng chịt sẽ dạy cho tôi ba bài học chủ yếu :
-
Bài học thứ
nhất, giữa người khác và tôi có những NÉT KHÁC BIỆT « đương
nhiên và ắt có ». Quyền khác biệt ấy thuộc bản sắc làm người và cần
phải được tôn trọng. Bằng không, chất lượng làm người của cả hai người
-
người không biết tôn trọng và người không được tôn trọng
-
đều bị tổn thương trầm trọng. Ngoài ra, nhờ khác biệt, người ấy và tôi
có khả năng bổ túc, kiện toàn cho nhau, trên suốt tiến tŕnh làm
người. Người khác nói được là một tấm gương soi, trong đó tôi nhận ra
khuôn mặt xinh đẹp của tôi, cũng như bao nhiêu đường nhăn và vết
thẹo... Trong một vài tôn giáo và nền văn hóa, xưa và nay, người khác
được coi như là một « Hồng Ân ». Ít nhất về mặt lư thuyết, họ là « vị
đại diện hữu h́nh của Thượng Đế Vô H́nh », đang có mặt với tôi, trên
những chặng đường xuôi ngược của cuộc đời. Tuy nhiên, cũng v́ những
nét khác biệt ấy, bao nhiêu tranh chấp, xung đột, thiên kiến, hận
thù... cũng có thể bùng nổ, giữa người ấy và tôi. Chính Triết gia
người Pháp J. P. Sartre đă khẳng định : « người khác là hỏa ngục ».
-
Bài học thứ
hai, giữa người khác và tôi, cũng có rất nhiều điểm GIỐNG NHAU, cho dù
người nầy sinh ra ở Nam và kẻ kia xuất phát từ miền Bắc. Nhờ vào những
đồng điểm ấy, hai người có thể « xích lại gần nhau » và yêu nhau. Dưới
một khía cạnh nào đó, họ nhận thấy ḿnh là « một phần nửa » của nhau,
đă cùng nhau « chia sẻ một bào thai », trong cung ḷng của một mẹ và
một cha. Giống như những cặp vợ chồng trẻ trung ở miền B́nh Trị Thiên,
họ không ngần ngại gọi nhau là Ḿnh. « Ḿnh với Ta, tuy hai mà một. Ta
với Ḿnh, sao một mà hai ? »
-
Bài học thứ ba, người khác và tôi CẦN nhau,
trong rất nhiều công việc hoặc dự án, tốt cũng như xấu, xây dựng, tích
cực cũng như tiêu cực và phá hoại. Theo lối nh́n của nhà tâm lư xă hội
J.J. Crèvecoeur,
khi tôi từ chối một cách rộn ràng bằng mồm miệng, cũng như khi tôi
thinh lặng đồng lơa, tôi đều góp phần tích cực của ḿnh, để nuôi dưỡng
những tṛ chơi quyền lực, trong những xă hội rộng và hẹp, thuộc tầm cỡ
hoàn vũ, hay là trong giới hạn chính trị của một khu vực. Theo lối nói
ngày nay, chúng ta tất cả đều « liên đới với nhau », đều « đồng trách
nhiệm ». Ai ai cũng đóng góp phần ḿnh, khi có một « con sâu đang đục
khoét », trong ḷng xă hội. Hẳn thực, tôi không hối lộ. Nhưng tôi đă
làm ǵ trong những giới hạn của tôi ? Tôi vẫn mua vé chợ đen, khi lên
tàu, để có chỗ ngồi đàng hoàng, thoải mái. Tại các cơ sở y tế, tôi nhờ
cậy người quen thân, để được ưu tiên « không sắp hàng » chờ đợi, như
bao nhiêu người khác... Chính v́ những lư do đó, thay v́ phê phán, tố
cáo kẻ khác có tác phong « tùy tiện », có lẽ tôi hăy bắt đầu nh́n
ḿnh : tôi đang « tùy tiện » ở đâu, trong những chu vi hoạt động của
tôi ? Ngược lại, tôi cũng có khả năng « làm con én nho nhỏ tạo nên mùa
xuân », trong những tầng sâu thăm thẳm của nội tâm tôi. Từ điểm xuất
phát đó, con én ấy sẽ dần dần làm « vết dầu loang », cho người khác.
Nếu chất lượng thực sự của chúng ta là hương, tự khắc mùi thơm sẽ lan
tỏa ra chung quanh. Để làm người, ai ai cũng cần cho. Và đồng thời,
chúng ta cũng đang nhận lại rất nhiều, từ bốn phương thiên hạ. Xin và
cho thuộc bản chất làm người. Tuy nhiên, CHO không phải là từ trên ban
phát xuống một cách trịch thượng. XIN không phải là chối từ quyền lợi
và giá trị tự tại của ḿnh. Khi cho, chúng ta nhận ḿnh là người
truyền thừa một gia tài vô tận, trong chính con tim và cuộc đời làm
người. Khi xin, chúng ta ư thức ḿnh luôn luôn « làm đứa con » trong
ḷng Trời Đất, không đ̣i hỏi, không đặt điều kiện. Xin là nh́n nhận
ḿnh đang được thương yêu. Trong cuộc sống, dưới chế độ Vô Thức, trái
lại, quan hệ xin-cho có nguy cơ đánh mất bản chất cao quí và trọng
đại, bằng cách bị xuyên tạc và thoái hóa, thành đồ hàng hóa mua chác,
chiếm hữu, kiểm soát, đút lót...
Nữ Thi
sĩ Xuân Quỳnh đă nhận thức được cả ba b́nh diện Khác, Giống và Cần,
trong mỗi quan hệ làm người, nhất là trong địa hạt t́nh yêu :
« Từ ngày nào chẳng biết,
« Thuyền nghe lời Biển khơi.
« Cánh hải âu sóng biếc
« Đưa Thuyền đi muôn nơi.
« Ḷng Thuyền nhiều khát vọng,
« Và t́nh Biển bao la.
« Thuyền đi hoài không mỏi,
« Biển vẫn xa... c̣n xa.
(...)
« Chỉ có Thuyền mới hiểu
« Biển mênh mông nhường nào.
« Chỉ có Biển mới biết
« Thuyền đi đâu, về đâu.
« Những ngày không gặp nhau,
« Ḷng Thuyền đau rạn vỡ.
« Nếu từ giả Thuyền rồi,
« Biển chỉ c̣n sóng gió. »
Xuyên qua hai
h́nh tượng Biển và Thuyền, phải chăng Xuân Quỳnh đă gọi mời chúng ta
cảm nghiệm thế nào là quan hệ giữa người và người, trong những nét đẹp
tinh tuyền, nguyên khởi của nó : NHẬN mà không cần xin nài, than vản.
CHO mà không đ̣i hỏi ḷng biết ơn nơi kẻ khác. Phải chăng đó là cốt
tủy của t́nh mẹ con, trong những tháng ngày đầu đời của chúng ta ?
Phải chăng
người mẹ, khi nuôi con và dạy con, đang làm Siêu Ngă cho đứa con của
ḿnh. Làm Siêu Ngă có nghĩa là Đang ở trên, để có một lối nh́n
bao quát và toàn diện, không quên sót điều ǵ. Đang ở trên, để
có thể dễ dàng bảo đảm sự có mặt tích cực của ḿnh, về tất cả những ǵ
mà đứa con của ḿnh đang cần. Đang ở trên, như con gà mẹ ấp ủ
bầy con, dưới đôi cánh của ḿnh, một đàng để tạo lại hơi ấm của bào
thai. Đàng khác, để đứa con cảm thấy ḿnh an toàn, trước mọi hiểm họa
có thể xảy ra bất kỳ lúc nào.
Người mẹ ở
trên, làm Siêu Ngă.
Nhưng không độc tài, đàn áp. Không cưỡng chế và ép buộc.
Người mẹ ở
trên.
Nhưng « ở trên » để có thể « ở với », đồng hành và chia sẻ.
Người mẹ ở trên,
nhưng đồng thời cũng « ở trong », đặt ḿnh vào vị trí của đứa con, để
hiểu nó, như chính nó hiểu ḿnh. Vui với con. Cười với con. Bi bô với
con. Đưa bàn tay xoa bóp, vuốt ve nhẹ nhàng, để đứa con cảm thấy có mẹ
đi theo ḿnh, tiến vào với ḿnh trên những con đường lạ lùng của giấc
ngủ.
Và khi đứa con
thức dậy, mở mắt ra, sau một giấc ngủ ngon lành, h́nh ảnh đầu tiên
xuất hiện trước mặt nó, là nụ cười hạnh phúc của mẹ. H́nh ảnh khách
quan nầy phát sinh, trong đứa con, một cảm nghiệm hạnh phúc và vui
sướng : Mẹ có mặt, để đón nhận ḿnh.
Trái lại, khi đứa con khóc, một nhu cầu đang từ từ chớm nở trong nội
tâm. Và đồng thời, nhờ nhu cầu ấy tác động, trẻ em sẽ mơ tưởng một đối
tượng, có khả năng thỏa măn ước mơ của ḿnh. Chính khi đó, h́nh ảnh
người mẹ xuất hiện bên ngoài, trùng hợp với h́nh ảnh mà đứa con đang
ước mơ bên trong. Nhờ sự trùng hợp nầy, đứa bé có thể phát huy ḷng tự
tin, cảm thấy ḿnh có khả năng « sáng tạo » bà mẹ theo khuôn khổ và
tầm ước mong của ḿnh. Cốt lơi của Bản Ngă nằm ở trong ư thức về khả
năng nầy. Và cốt lơi nầy sẽ từ từ lớn dần. Bản Ngă của đứa bé sẽ xuất
hiện, nhờ bà mẹ biết làm Siêu Ngă, đúng lúc, đúng chất lượng và đúng
liều lượng, đối với thực tế và nhu cầu của đứa con.
Quan hệ Mẹ Con,
trong những đường hướng tích cực và xây dựng như vậy, là mẫu thức
nguyên tượng, nguyên thủy cho mọi quan hệ giữa người với người. Làm
người, theo tinh thần và lăng kính ấây, bao gồm ba chiều hướng :
-
Thứ
nhất, tôi làm người « cha mẹ » cho người khác, để soi sáng và nâng đỡ
họ.
-
Thứ
hai, tôi làm người « đồng hành và chia sẻ », để biến cuộc đời vô vị,
tầm thường, thành một tác phẩm đầy ư vị và lạ thường, với hai bàn tay
đóng góp của tôi.
-
Thứ
ba, tôi làm một « đứa con hạnh phúc », để phản ảnh hạnh phúc của cha
mẹ, chính khi quí vị chọn lựa « nằm bên ướt, để nhường lại bên ráo »,
cho tôi nằm.
Với lối nói riêng bịệt của ḿnh, tác giả Stephen
R. Covey,
cũng đề xuất ba đường hướng tương tự, cho mọi quan hệ tiếp xúc và trao
đổi giữa người với người :
-
Điểm
một : Khi tiếp xúc, chúng ta lắng nghe người khác, để t́m hiểu họ,
thay v́ đợi chờ người khác phải hiểu ḿnh,
-
Điểm
hai : Khi tiếp xúc, mục tiêu cần nhắm tới, là « Người thắng, tôi
thắng. Cả hai cùng thắng với nhau, nhờ nhau ». Thắng trong tinh thần
của tác giả, có nghĩa là thành đạt mọi chiều kích làm người.
-
Điểm
ba : Trong mọi quan hệ hài ḥa, xây dựng và tích cực, người và tôi
« tương sinh, tương thành, tương tức và tương tạo ». Cơ hồ, trong quan
hệ mẹ con, mẹ sinh con ra, tạo mọi điều kiện cho con thành người.
Nhưng đứa con cũng đang nuôi lại mẹ, với nụ cười, với tiếng nói líu
lo, với thái độ « vùi đầu vào ḷng mẹ », để thỏ thẻ : « Mẹ ơi, con
thương Mẹ ». Nó đang cho lại bà mẹ, những ǵ bà đang cần, để ngày ngày
làm người. Trong tiếng Anh, Stephen R. Covey đă sử dụng một từ thời
trang « Synergizing ». Syn có nghĩa là cho nhau, với nhau. Ergizing,
h́nh thức rút gọn của Energizing, có nghĩa là tạo ra năng động, nhiệt
lực, hứng khởi, sức mạnh. Trong tinh thần và lăng kính nầy,
Synergizing có nghĩa là « Một cây làm chẳng nên non, ba cây họp lại
thành ḥn núi cao ». Synergizing là cùng nhau tạo nên một nguồn năng
lực lớn lao, phát xuất từ hai thành tố đầu tiên, nhưng bây giờ đang
được nhân ra thành ngàn lần, triệu lần to lớn hơn nguồn gốc ban đầu.
Từ Ergizing c̣n có một xuất xứ khác trong tiếng Hy Lạp là Erg, có
nghĩa là hành động, tác động. Cho nên hiện tượng cộng hưởng sẽ xảy ra
- synergizing - khi hai người tác động qua lại hai chiều trên nhau.
Nói khác đi, khi hai người hợp tác với nhau, họ có khả năng « đồng
hành và chia sẻ ». Khi họ hoạt động, họ có với nhau « một trăm cánh
tay ». Khi họ cứu xét một vấn đề, họ có cùng nhau « một trăm bộ óc,
một trăm cặp mắt ». Khi họ lắng nghe, họ có với nhau « một trăm
đôi tai ».
***
Khi nói đến
« NGƯỜI », xuyên qua tất cả những nhận xét vừa được nêu ra trên đây,
chúng ta đă nói đến « một TIẾN TR̀NH làm người ». Trên con đường ấy,
không ai làm ông chủ. Và cũng không ai làm đầy tớ. Không ai có quyền
lèo lái, điều khiển, áp đặt và chỉ đạo người khác từ trên, từ ngoài.
Không ai có quyền coi kẻ khác là công cụ. Trái lại, ai ai cũng được
kêu mời làm người và coi trọng quyền làm người của kẻ khác, dù người
ấy đang là một đứa bé sơ sinh, vừa đi ra khỏi cung ḷng của ḿnh
Đàng khác, khi
nói đến « VIỆC », chúng ta không thể không nhắm tới những kết quả cụ
thể. Trong công việc, chúng ta phải biết thương lượng. Khởi điểm là
những nét khác biệt, trong cách ghi nhận tin tức, trong cách thuyên
giải, t́m ra ư nghĩa, hay là trong những phản ứng xúc động, cũng như
trong các thể thức thiết lập những quan hệ trao đổi. Nhưng tận
điểm là nơi HỘI NGỘ, là những điểm đồng ư với nhau, hay là một số giá
trị cùng nhau chia sẻ. Và trong cuộc sống làm người, chỗ nào có hội
ngộ, chỗ ấy có minh đức. Minh Đức có hai ư nghĩa : Vừa là Ánh Sáng,
vừa là Năng động. Vừa là Hiểu biết, vừa là T́nh thương.
2. Người và Việc không được trộn lẫn vào nhau
Khi nói đến Việc, chúng ta nhắm tới những kết quả cụ thể, thích hợp
cho cả hai người đang trao đổi và thương lượng với nhau. Trong điều
kiện hiện tại, họ và chúng ta đang có những sở thích, nhu cầu và
giá trị khác nhau. Đó là lẽ thường t́nh, tất yếu. Cho nên, khi họ và
chúng ta cảm nghiệm những quan hệ tranh chấp và xung đột, con đường
cần chọn lựa và dấn bước là sáng tạo một cách hữu hiệu và khoa học
vùng giao tiếp, hội tụ. Trên đó, quyền lợi, nhu cầu của cả hai bên đều
được coi trọng một cách đồng đều và công minh.
Lẽ đương nhiên, người và việc, trong thực tế cụ thể, đang giao thoa
chằng chịt và khắng khít vào nhau, chồng chéo lên nhau một cách phức
tạp, đến độ chúng ta nhiều khi không biết phải bắt đầu tháo gỡ từ chỗ
nào.
V́ thiếu lối nh́n đứng đắn và phương pháp giải quyết hữu hiệu, nhiều
người chấp nhận hy sinh hay là xóa bỏ những quyền lợi riêng tư của
ḿnh, để bảo tồn những quan hệ tốt đẹp với kẻ khác.
Nhằm bênh vực cách làm nầy, những người ấy thường lặp đi lặp lại và đề
cao câu tục ngữ : « Một sự nhịn, chín sự lành ».
Trong thực tế cụ thể, họ NHỊN ở ngoài mặt. Nhưng trong nội tâm, một
tiếng nói cứ ngày đêm lải nhải bên tai họ, trách mắng họ : « Mày dại
khờ. Mày hèn nhát. Mày để cho kẻ khác chèn ép, ức hiếp mày ».
Rốt cuộc, « chín điều lành » không bao giờ xuất hiện. Thay vào đó, họ
có thể trầm ḿnh trong những hội chứng buồn lo, hay là mất ăn, mất
ngủ, khó tiêu hóa... Nguyên nhân chính yếu của bao nhiêu hiện tượng
tâm thần ấy là v́ nhu cầu cơ bản của họ không được nh́n nhận, tôn
trọng, thỏa măn và đáp ứng.
Ngoài ra, rất nhiều người dễ lầm tưởng rằng : Để có một quan hệ hài
ḥa với một người, chúng ta PHẢI đồng ư với người ấy, trong tất cả mọi
vấn đề. Chúng ta PHẢI chia sẻ mọi giá trị của người ấy.
Hẳn thực, bao lâu chúng ta chưa có khả năng đem ra giữa vùng ánh sáng
của Ư Thức, những tầng lớp tin tưởng và qui luật vô thức như vậy, đă
ăn đời ở kiếp từ bao nhiêu năm trong nội tâm, chúng ta vẫn tiếp tục bị
khống chế : Chúng ta chưa « biết ḿnh là ai », chưa trở thành Bản Ngă
có ư thức nhạy bén và sáng suốt.
Cho nên, khi nói đến Bản Ngă, chúng ta cũng dễ lầm tưởng rằng : đó là
một kết quả « hoặc có hoặc không ». Trong thực tế sinh động của cuộc
sống hằng ngày, trái lại, Bản Ngă là một tiến tŕnh « vừa có vừa
không », làm bằng những bước đi, những bài học, những thất bại và
những thành công, không ngừng tiếp nối nhau. Bản Ngă là một hiện thực
rất phức tạp.
Khi nh́n lại cuộc đời của ḿnh, chẳng hạn, tôi nhận thấy tôi đă vi
phạm nhiều lỗi lầm. Những ư định đă có mặt trong nội tâm của tôi,
không phải luôn luôn là những ư định trung trực. Thêm vào đó, trong
lứa tuổi « ăn chưa no lo chưa tới », tôi đă góp phần, tạo nên nhiều
vấn đề tranh chấp và xung đột, khi sống và làm việc với bạn bè đồng
liêu.
Mặc dù vậy, tôi vẫn cảm thấy ḿnh là con người có giá trị. Ngày hôm
nay, một số bạn bè luôn luôn thương tôi. Về mặt luân thường, tôi không
phải là thánh nhân, cũng không phải là ác quỉ. Trên b́nh diện khả năng
chuyên môn và nghề nghiệp, trong thời gian phục vụ trẻ em chậm phát
triển, tôi đă tạo niềm tin cho những học sinh, mà cha mẹ đă giao phó
cho tôi. Trên b́nh diện lư tưởng, tôi đă kinh qua những chặng đường
« ba ch́m bảy nổi tám lênh đênh », và tôi không ém nhẹm những hèn yếu
và phản bội ấy. Nhưng cũng nhờ đó, tôi học được bài học « đồng cảm và
tha thứ » đối với những ai « mang tiếng bỏ cuộc, đầu hàng », trên bước
đường làm người.
Xuyên qua bao nhiêu nhận xét cụ thể ấy, tôi muốn khẳng định một số
điểm rất quan trọng sau đây :
-
Nhờ vào khả năng sống và xây dựng những quan hệ đặt nền tảng trên t́nh
người, t́nh đồng bào, t́nh nhân loại, chúng ta có thể dễ dàng vượt qua
những t́nh huống tranh chấp và xung đột, khi hai người hoặc hai phe
đang có những quyền lợi khác biệt nhau.
-
Mặc dù vậy, chúng ta không gắn chặt vào nhau hai lănh vực « Người và
Việc ». Chúng ta không dẹp bỏ quyền lợi và nhu cầu chính đáng của
ḿnh, chỉ v́ để duy tŕ một quan hệ tốt đẹp với những người cùng chung
sống.
-
Chúng ta cũng đừng lừa gạt ḿnh, khi nêu ra lư do « Bản sắc, Bản
Ngă », để phủ nhận quyền lợi và nhu cầu làm người của kẻ khác. Bản Ngă
là một con đường hay là một tiến tŕnh cần xây dựng và phát huy cũng
như đổi mới, từng ngày. Bản Ngă không bao giờ là một tận điểm bất di
bất dịch. Nói cách khác, chúng ta không thể làm người, chừng nào chúng
ta không biết coi trọng quyền làm người cơ bản của người khác. Trái
lại, khi chúng ta, một cách đơn phương, vô điều kiện, t́m cách thăng
tiến chất lượng làm người của kẻ khác, chính chúng ta cũng đang đi
lên, trên con đường thành người.
Nói tóm lại, trong cả hai lănh vực Người và Việc, một đàng chúng ta
cần ư thức và khẳng định nhu cầu cơ bản và chính đáng của ḿnh. Đàng
khác, không những chúng ta tôn trọng nhu cầu làm người của kẻ khác,
chúng ta c̣n có trách nhiệm « đồng cảm » với họ, bằng cách tạo mọi
điều kiện thuận lợi, nhằm giúp họ thỏa măn nhu cầu làm người của ḿnh.
Nhu cầu thường có mặt ở đằng sau mỗi xúc động. Nói rơ hơn, bốn thành
tố Nhu Cầu, Xúc Động, Yêu Cầu và Giới Hạn giao thoa chằng chịt với
nhau. Khi xây dựng quan hệ hài ḥa cũng như khi thương lượng, chúng ta
cần phải ư thức một cách sáng suốt về sự có mặt của bốn thành tố ấy.
Ư thức như vậy có nghĩa là xác định, bằng cách gọi ra ánh sáng, kêu
tên, diễn tả bằng ngôn ngữ, t́m phương tiện đáp ứng và thỏa măn, bốn
loại thực tế sau đây :
-
Người và Tôi cần ǵ ? (nhu cầu),
-
Người và Tôi cảm thế nào ? (xúc động),
-
Người và Tôi muốn ǵ ? (yêu cầu hay là ước vọng),
-
Người và Tôi không thể chấp nhận những điều kiện khách quan nào ?
(giới hạn hay là ngưỡng khổ đau).
Nếu ngày ngày, chúng ta học tập, tôi luyện, để phát huy ư thức về bốn
thành tố trên đây, nơi người khác cũng như trong chính bản thân ḿnh,
chúng ta đang ở trên con đường làm người hay là trở thành Bản Ngă.
Đồng thời, chúng ta cũng đang tạo điều kiện năng động, giúp đỡ kẻ khác
làm người với chúng ta, như chúng ta.
***
3. Xây dựng Quan Hệ
một cách « vô điều kiện »
Khi chúng ta xây dựng quan hệ giữa người với người, mục đích mà chúng
ta nhắm tới là lắng nghe, t́m hiểu và tôn trọng sự khác biệt của người
khác. Chúng ta không nuôi ẵm ư đồ thay đổi kẻ khác, t́m cách lèo lái
hay là ép buộc họ nhận làm của ḿnh những quan điểm chủ quan của chúng
ta. Tiến tŕnh xây dựng nầy vẫn có mặt, khi chúng ta thương lượng với
mục tiêu cụ thể là thành đạt những đồng thuận. Với kết quả khách quan
nầy, người khác tôn trọng và thỏa măn quyền lợi của tôi, cũng như tôi
tôn trọng và thỏa măn quyền lợi của kẻ khác. Cho dù kết quả cuối cùng
nầy không thành đạt, tôi vẫn coi trọng tính người và t́nh người của kẻ
khác. Không v́ một lư do nào, tôi giành độc quyền làm người cho tôi và
hạ bệ kẻ khác xuống hàng « phế liệu bỉ ổi ». Nói khác đi, tôi không
thể nhân danh bất kỳ một lư tưởng cao cả nào, để truất phế quyền lợi
và giá trị làm người của kẻ khác.
Tôi sống và làm như vậy, « một cách đơn phương, vô điều kiện », thậm
chí khi kẻ khác hô hào bôi nhọ và truất phế tôi. Tôi tiếp tục xây dựng
những quan hệ hài ḥa và tôn trọng, đối với kẻ khác, mặc dù họ không
đáp ứng, trong ngôn ngữ và hành động của ḿnh.
Trong tinh thần và lăng kính ấy, những nhận xét sau đây sẽ giúp chúng
ta xác định một cách cụ thể và rơ ràng những tác động, cần được thực
hiện, trên tiến tŕnh xây dựng quan hệ giữa người với người. Trên con
đường làm người nầy, tôi không lẻ loi, cô đơn một ḿnh. Nhiều tác giả
có tầm cỡ quốc tế như R. Fisher, D. Stone, Stephen R. Covey, Marshall
B. Rosenberg, Gerald Jampolsky...,
và nhất là NGUYỄN TRĂI, trong ḷng Đất Nước Đại Việt, đang có mặt với
tôi. Sức mạnh nội tâm của những vị ấy đang là động cơ thúc đẩy tôi
tiến tới, mặc dù con đường c̣n hiểm trở, đầy chông gai.
Theo lối nh́n của tác giả Roger Fisher, tiến tŕnh xây dựng quan hệ
tích cực và hài ḥa bao gồm sáu bước quan trọng sau đây :
-
Bước thứ nhất : Vừa t́nh vừa lư,
-
Bước thứ hai : Lắng nghe và hiểu biết,
-
Bước thứ ba : Diễn tả, thông đạt một cách rơ ràng trực tiếp, không úp
mở, ngụy trang,
-
Bước thứ bốn : Khả tín trong ngôn ngữ và hành động. Đồng thời, kiểm
chứng một cách khoa học những tin tức, trước khi tin lời nói của kẻ
khác,
-
Bước thứ năm : Trau dồi khả năng thuyết phục, khi thương lượng, thay
v́ đàn áp, cưỡng chế, nhất là dùng bạo động ép buộc kẻ khác đồng ư, kư
tên,
-
Bước thứ sáu : Nh́n nhận và đón nhận giá trị làm người của kẻ khác,
bất kể họ là ai.
Bước thứ nhất :
Coi trọng Lư và lắng nghe T́nh
Khi dấn bước vào con đường xây dựng quan hệ, cũng như khi thương lượng
về những quyền lợi cụ thể và chính đáng, T́nh và Lư là hai tiếng nói
cần được coi trọng và lắng nghe, một cách đồng đều. Lư nằm trong địa
hạt tư duy, suy nghĩ, lư luận, lối nh́n hay là thuyên giải. Khi lư
không được phát huy và coi trọng, một cách đúng tầm, chúng ta sẽ không
biết ḿnh đi về đâu, đi trên con đường nào, đi với phương tiện nào, đi
theo thứ tự nào... Lư là ánh sáng soi đường dẫn lối, nhất là về những
điều cần làm, những cạm bẫy nên tránh.
Một cách đặc biệt, chúng ta vận dụng lư, trong 4 địa hạt khác nhau :
-
Địa hạt thứ nhất : khảo sát những vấn đề cụ thể mà chúng ta đang gặp,
bằng cách trả lời những câu hỏi : điều ǵ, thế nào, tại sao, với ai, ở
đâu...
-
Địa hạt thứ hai : xác định nguồn gốc hay là nguyên nhân đă gây ra cho
chúng ta những khó khăn hiện thời. Thông thường, chúng ta quay về quá
khứ, để khảo sát khía cạnh nầy.
-
Đia hạt thứ ba : khám phá và liệt kê những đường hướng giải quyết hay
là những phương pháp tiếp cận, trong đó có những chủ thuyết hiện hành
đang được ứng dụng trong nhiều môi trường khác nhau. Trong địa hạt
nầy, chúng ta hướng đến tương lai gần và xa, để t́m ra những chân trời
rộng mở, những phương thức giải quyết.
-
Địa hạt thứ bốn : những bước cụ thể cần thực hiện, theo một chương
tŕnh hay là kế hoạch dài hoặc ngắn hạn. Ở đây, chúng ta đi từng bước
khoan thai, không nôn nóng muốn đến điểm hẹn ngay lập tức. Chúng ta
không thúc ép hoặc cưỡng bức chính ḿnh. Không đứng núi nầy trông núi
nọ. Giờ phút hiện tại được chúng ta đón nhận như một quà tặng cao quí.
Le présent est un présent. Từ présent trong vế đầu có nghĩa là hiện
tại. Từ thứ hai có nghĩa là một món quà, một của lễ.
Một cách cụ thể, trong vấn đề thương lượng có tính khoa học, chúng ta
cũng đi lên từng bước một, kinh qua những giai đoạn thiết yếu y hệt
như vậy.
-
Giai đoạn Một : Liệt kê những vấn đề của cả hai bên.
-
Giai đoạn Hai : Xác định những quyền lợi, nhu cầu hay là lợi ích, mà
mỗi bên đặt lên bàn thương thuyết
(interests, needs).
-
Giai đoạn Ba : Cả hai bên ngồi lại khảo sát với nhau những con đường
có thể chọn lựa, khả dĩ thỏa măn từng quyền lợi của mỗi bên (options).
-
Giai đoạn Bốn : Khảo sát những tiêu chuẩn khách quan, hợp lư, hợp pháp
của mỗi con đường có thể chọn lựa, và được cả hai bên chấp thuận
(criteria).
-
Giai đoạn Năm : Cùng nhau quyết định và chọn lựa những điểm đồng ư
(agreements).
-
Giai đoạn Sáu : Đề xuất một lối thoát « tôn trọng t́nh người và tính
người » cho cả hai bên, khi công cuộc thương lượng không mang lại
những kết quả đồng thuận mong muốn (alternatives).
Mặc dù với bao nhiêu cách làm hợp lư ấy, chúng ta không thể không ngồi
lại, cùng nhau lắng nghe « những vết thương ḷng rướm máu » của nhau.
Xúc động là động cơ thúc đẩy chúng ta làm người. Quên mất yếu tố
« T́nh », chúng ta chỉ là gỗ đá. Chúng ta không c̣n là con người. Và
khi không cưu mang chất người trong ḷng ḿnh, làm sao chúng ta có thể
thương lượng ? Thay vào đó, chúng ta sẽ chỉ biết « dùng lư của kẻ
mạnh », nghĩa là đi vào con đường súng ống, bom đạn, hận thù, chết
chốc và lầm than... Không biết lắng nghe, nh́n nhận, t́m hiểu, tôn
trọng tâm t́nh của kẻ khác, phải chăng chúng ta đang ư thức ḿnh là
NGƯỜI ? Hẳn thực, duy những ai đă bị khổ đau nghiền nát trong cuộc
đời, mà vẫn c̣n có khả năng vùng đứng lên, người ấy đang có một
kho tàng lớn lao, trong nội tâm : « biết ĐỒNG CẢM » với ḿnh và với
người khác. Với một tấm ḷng « đầy Hiểu Biết và T́nh Thương » nầy,
chúng ta mới có thể lắng nghe lời của NGUYỄN TRĂI :
« Mở rộng Cửa NHÂN, mời khách đến,
« Vun trồng Cây ĐỨC, nuôi con ăn. »
Bước thứ hai : T́m hiểu kẻ khác
T́m hiểu kẻ khác bao gồm nhiều động tác ăn khớp với nhau như : lắng
nghe lời nói của kẻ khác, đi lại con đường tư duy của họ, đặt ra những
câu hỏi cụ thể và chính xác, để yêu cầu họ giải thích cho chúng ta
khung qui chiếu của họ.
Hẳn thực, khung qui chiếu bao gồm nhiều thành tố tác động qua lại và
có ảnh hưởng trên nhau. Và mỗi người có một khung qui chiếu riêng
biệt, độc đáo, trên con đường tư duy của ḿnh, mặc dù bộ sườn hướng
dẫn vẫn luôn luôn bao gồm bốn thành tố :
- Thành tố thứ nhất là thể thức thâu lượm và ghi nhận
những tin tức do môi trường cung ứng,
-
Thành tố thứ hai mang tên là « Tiến tŕnh tư duy ». Ở đây, những động
tác được chúng ta thực hiện mang nhiều tên gọi khác nhau, tùy theo sở
thích và thói quen của mỗi tác giả : Nhận thức, lối nh́n, quan điểm
chủ quan, thể thức thuyên giải, những nấc thang suy luận, cách thế
nh́n đời, vũ trụ quan. Tên gọi bên ngoài đă khác nhau. Huống hồ khi đi
vào nội dung cụ thể, có bao nhiêu người th́ có bấy nhiêu ư kiến. Người
xưa đă có những nhận xét tương tự, trong câu nói « Bá nhân, bá tánh ».
Một trăm người có mặt, sẽ tŕnh bày một trăm cách thấy khác nhau.
-
Thành tố thứ ba là những t́nh trạng của nội tâm, bao gồm nhiều xúc
động. Và trong lănh vực nầy, như trên đây tôi đă nói tới, chúng ta cần
phân biệt : nhu cầu, yêu cầu, giới hạn, phản ứng nội tâm với rất nhiều
danh hiệu khác nhau.
-
Thành tố sau cùng nằm trong địa hạt quan hệ tiếp xúc và trao đổi.
Khi lắng nghe và t́m hiểu khung qui chiếu của kẻ khác, thái độ mà
chúng ta cần ôm ẵm, tôi luyện và mài nhọn, mỗi ngày, là hiếu kỳ, thích
học hỏi. Và bài học khó khăn nhất, trong ḷng cuộc đời là « biết ḿnh
và nhận ḿnh đă SAI LẦM ». Sở dĩ như vậy, v́ « Tư Duy Độc Lộ » và « Tư
Tưởng NHỊ NGUYÊN » đang trấn áp cơi ḷng của mỗi người. Với tư duy độc
lộ, chúng ta chỉ thấy một con đường duy nhất : tôi đúng, kẻ khác sai.
Với tư tưởng nhị nguyên, trái lại, chúng ta giành phần tốt cho ḿnh và
coi kẻ khác là phế liệu, đồi trụy và ngụy phản.
Bước thứ ba :
Diễn tả ḿnh và thông đạt một cách trong sáng
Trong bốn ngh́n năm văn hiến, chúng ta đă phải trải qua « Một ngàn năm
nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây ». Cho nên, v́ lư do sống
c̣n và chiến đấu chống ngoại xâm, chúng ta đă tạo cho ḿnh một thói
quen hào hùng là « có mặt khắp mọi nơi, biến mất bất kỳ lúc nào, không
ai hay, không ai biết ». Duy tiếng « Dạ », hoặc tiếng « Vâng » của
chúng ta cũng có nhiều nghĩa : « đồng ư » và « không đồng ư ». Một
cách nào đó, mỗi lần phát biểu, tôi luôn luôn muốn cho kẻ khác phải
hiểu rằng : Tôi nói vậy, nhưng không phải vậy. Trường hợp tôi sai lầm,
tôi vẫn c̣n có lư do, để tự biện minh.
Thêm vào đó, cách giáo dục và dạy dỗ của các Thiền sư, trong ba Triều
Đại phồn thịnh là Lư, Trần và Lê, luôn luôn đề cao phương pháp « vô
ngôn », và khinh thường lời lẽ dài ḍng, luộm thuộm. Cho nên, chúng ta
không có thói quen « nói nhiều, nói hết, nói đúng đích, nói cho đến
nơi đến chốn ». Chúng ta có xu thế « gợi ư », đưa tay « chỉ mặt
trăng », và không bao giờ phát huy nhu cầu « đụng đến mặt trăng », với
hai tay chứng nghiệm.
Ngoài ra, v́ đất nước của chúng ta nhỏ bé, bên cạnh một lănh thổ lớn
lao có vị thế và uy quyền lâu đời, chúng ta khôn ngoan, không muốn
đương đầu, trực diện, nh́n thẳng mặt. Chúng ta có kế sách « thu ḿnh
lại », hay là « rút vào hang động », như con chuột, trên đường di động
của con voi đồ sộ, nặng nề, dập nát tất cả những ǵ không biết lẩn
tránh ra hai bên.
Trong điều kiện và thân phận của con người, mọi phương tiện chọn lựa
đều có tính lưỡng năng, cơ hồ con dao hai lưỡi, vừa có ích trong khía
cạnh nầy, vừa gây tai hại ở một khía cạnh khác. Nếu chúng ta quá đề
cao một phương tiện, chúng ta sẽ lầm tưởng rằng : không có một phương
tiện nào khác, ngoài cách làm độc đáo của chúng ta.
Trong vấn đề diễn tả và thông đạt, chúng ta cũng c̣n ở trong một t́nh
thế lưỡng năng như vậy. Chúng ta tự đặt ḿnh trong điều kiện khẩn
trương và chiến đấu. Cho nên chúng ta luôn luôn quyết định một ḿnh,
không cảm thấy nhu cầu phải tham khảo những người khác. Hệ quả của
t́nh trạng nầy là chúng ta thông đạt « một chiều ». Kẻ khác có bổn
phận lắng nghe và thừa hành. Họ không có quyền « góp ư và phản hồi ».
Tệ hại hơn nữa là sau bao nhiêu năm ḥa b́nh, chúng ta vẫn c̣n giữ lại
thói quen của thời chiến, luôn luôn ngụy trang mỗi tin tức phát ra.
Nói đúng hơn, chúng ta úp úp, mở mở... đến độ chỉ chúng ta mới hiểu
chúng ta muốn nói ǵ. Nếu người khác không hiểu, hỏi lại... họ sẽ bị
chúng ta gắn vào một nhăn hiệu là « kém thông minh, không bén
nhạy... », hay là « có ư đồ phản động, chống đối... »
Tôi cố t́nh phân tích một cách cặn kẽ như vậy, nhằm gây ư thức rằng :
làm người, chúng ta không thể không học. Học mỗi ngày. Học với mọi
người, thậm chí với một trẻ sơ sinh, vừa ra khỏi ḷng mẹ.
-
Bài học thứ nhất là lắng nghe một cách trân trọng, khi kẻ khác nói.
-
Bài học thứ hai là biết nêu ra những câu hỏi, tạo điều kiện thuận lợi
cho kẻ khác diễn tả, chia sẻû con người đích thực của ḿnh.
-
Bài học thứ ba là nói về thực tại, thực tế và thực chất của ḿnh. Hẳn
thực, không ư thức về ḿnh, không cưu mang trong ḿnh một mục đích,
một chí hướng rơ ràng và trong sáng, làm sao chúng ta có thể nói. Nói
phải chăng là diễn tả và chia sẻ chính ḿnh ?
Tất cả những ǵ tôi đang có, trong bản thân và cuộc đời, đều là quà
tặng, do kẻ khác mang đến cho tôi. Tất cả những ǵ tôi ĐANG THÀNH và
SẼ THÀNH, là quà tặng, tôi có trách nhiệm chia sẻ lại cho người khác,
nhất là những thế hệ đến sau tôi. Khi chia sẻ như vậy, chúng ta hăy có
gan nói về ḿnh, dùng sứ điệp « Ngôi Thứ Nhất số ít ». Chính tôi đă
thấy. Chính tôi đă nghe. Chính tôi đă cảm. Chính tôi đă có kinh
nghiệm. Chính tôi đă CHỨNG NGHIỆM. Tôi không lặp lại như keo vẹt,
những lời đồn thổi hay là những dư luận không có căn cứ.
Chia sẻ như vậy không phải là lên mặt mô phạm, dạy đời. Nhưng là dâng
hiến một tấm tấm ḷng làm người, cho anh chị em đồng bào, đồng loại,
đúng như NGUYỄN TRĂI đă nói, cách đây hơn năm thế kỷ :
« Chăn lạnh choàng vai, đêm chẳng ngủ.
« Suốt đời ôm măi nỗi lo dân
Bước thứ tư :
Khả tín và tin vào người
Trong đoạn nầy, tôi muốn nhấn mạnh hai điều : Thứ nhất là sống làm
sao, để xứng đáng với ḷng tin của kẻ khác. Thứ hai là tin vào người
khác, một cách sáng suốt và khôn ngoan. Không nhắm mắt tin, một cách
mù quáng, trước khi kiểm chứng một cách khoa học những điểm tựa, những
lư chứng của ḷng tin.
Trong khuôn khổ của chương và đoạn nầy, tôi không thể tŕnh bày một
cách rốt ráo, mọi khía cạnh. Tôi chỉ nhấn mạnh một vài điểm then chốt
như sau :
Thứ
nhất, tôi có khả năng tạo niềm tin, khi tôi sử dụng một loại ngôn ngữ
chính xác và rơ ràng. Ví dụ, khi tôi hẹn với ai sẽ có mặt lúc sáu giờ
chiều, tôi không thể nhẩn nha đến điểm hẹn, lúc tám giờ tối. Khi không
chắc chắn, tôi cần phải thêm vào những lối nói như ước chừng, có lẽ,
thường thường...
Nhằm
đánh thức và giúp chúng ta sử dụng một loại ngôn ngữ chính xác, trong
những quan hệ trao đổi hằng ngày, tác giả A. Robbins kêu mời mỗi người
hăy nh́n năm ngón tay của ḿnh, đặt ra những câu hỏi, trước khi tŕnh
bày, phát biểu một ư kiến :
- Một,
ngón tay út phía bên trái, nh́n từ phía lưng, trước khi chúng ta sắp
sử dụng những từ như : luôn luôn, không bao giờ, tất cả, mỗi... chúng
ta đặt ra cho ḿnh câu hỏi : Luôn luôn không có ngoại lệ à ? Tất
cả không thiếu một ai cả sao ?
- Hai,
ngón tay đeo nhẫn. Các từ : phải, cần, không được, không nên, không
thể. Câu hỏi : Ai đă đưa ra mệnh lệnh và qui luật ấy ? Cái ǵ bắt
buộc ? Điều ǵ cản trở như vậy ? Người nào cấm đoán ?
- Ba,
ngón tay giữa. Các động từ hành động như làm, thương yêu, hợp tác,
đóng góp, thực hiện... Cách đặt câu hỏi : Hợp tác... bằng những cách
làm cụ thể và khách quan nào ?
- Bốn,
ngón tay trỏ. Các danh từ tổng quát và trừu tượng như : người Việt
Nam, ḥa b́nh, tự do, hạnh phúc. Cách đặt câu hỏi : Người Việt Nam cụ
thể là ai, tên ǵ, ở đâu ? Những động tác cụ thể, để thể hiện Ḥa b́nh
là ǵ ? Những yếu tố cụ thể cần thành đạt, để có được Tự do là những
ǵ ?
- Năm,
ngón tay cái. Những cách nói về số lượng hay là so sánh, như quá ít,
quá nhiều, tốt hơn, quá xấu... Cách đặt câu hỏi : So sánh với ai, cái
ǵ để quyết đoán như vậy ? Hơn là hơn ai ? Thua là thua về phương diện
nào ? Dựa vào những chuẩn mực nào để so sánh như vậy ?
Thứ hai, tin tức không thể đồng hóa với giả thuyết. Và giả thuyết
không phải là chân lư. Sau hết, kết luận của tôi chưa hẳn là kết luận
của người đang nghe tôi. Không phân biệt một cách chính xác những b́nh
diện khác nhau như vậy, trên tiến tŕnh tư duy, chúng ta sẽ luộm thuộm
« bắt râu ông nọ đặt cằm bà kia », và dần dần chúng ta sẽ đánh mất
ḷng tin của những ai nghe chúng ta.
Thứ ba, trong những lời hứa, chúng ta có bổn phận thực hiện đúng lúc,
đúng thể thức và đúng số liệu... Khi nói mà không làm, hay là làm một
cách qua loa, lấy lệ, chúng ta sẽ trở thành người lừa gạt, gian dối,
thiếu tinh thần trách nhiệm.
Nói tóm lại, khi đề cập vấn đề khả tín, chúng ta cần lưu tâm một cách
nghiêm minh, đến hai địa hạt. Trong địa hạt thứ nhất, chúng ta cần
thường xuyên đánh sáng và vuốt nhọn khả năng thông đạt chính xác của
chúng ta. Trong địa hạt thứ hai, chúng ta phải « nhất quán » : Nói và
làm ăn khớp với nhau. Nét mặt và hành vi bên ngoài xuất phát từ một
thái độ trung thực, ở bên trong nội tâm.
***
Ưu tư thứ hai của chúng ta, trong mọi quan hệ tiếp xúc và trao đổi, là
tin vào người. Làm như vậy, trong những điều kiện nào, với những mức
độ như thế nào ?
Trên b́nh diện nầy, người chủ động vẫn là chúng ta.
-
Khi lời nói của kẻ khác không rơ ràng, chúng ta hăy giúp họ mang đến
cho chúng ta những tin tức chính xác. Ví dụ, bạn hẹn với tôi gặp nhau
lúc 8 giờ để ăn tối. Nhưng tôi biết bạn hay bị cản trở, v́ công việc
bề bộn của bạn. Trong trường hợp như vậy, bạn điện thoại cho tôi biết
trước lúc bảy giờ, có được không ?
-
Trường hợp kẻ khác đă lỗi hẹn, chưa hẳn v́ họ giả dối, muốn lừa gạt
hay là có ác tâm và ác ư. Trong cuộc sống, người khác cũng như chúng
ta có thể gặp bao nhiêu điều xảy ra ngoài ư muốn, vào phút cuối cùng,
không thể tiên liệu, tiên pḥng. Ví dụ, trên đường đi đến nơi hẹn, họ
gặp tai nạn xe hơi. Hay là năm phút trước lúc họ ra đi, đứa con của họ
bị té ngă, găy tay. Họ phải cấp tốc chở con họ vào bệnh viện. Cho nên,
họ đă lỗi hẹn với chúng ta.
-
Nếu kẻ khác, v́ nhiều lư do, không đáng được chúng ta tin tưởng, chưa
hẳn v́ họ xấu về mặt luân lư hoặc đạo đức. Có thể những khổ đau đang
làm cho họ kiệt quệ, về mặt ư chí và trí nhớ, nên họ không bao giờ có
khả năng giữ lời hứa, hay là thực hiện những điều họ cam kết.
Nói tóm lại, vấn đề tin vào một người thuộc về lănh vực quan hệ giữa
người với người. Cho nên, trước khi không tin vào ai, chúng ta cần có
thái độ lắng nghe, t́m hiểu, trắc nghiệm hay là kiểm chứng những tin
tức mà chúng ta đă thâu nhận về người ấy. Dù thế nào chăng nữa, người
ấy vẫn được chúng ta kính trọng, v́ họ là người. Trong đa số trường
hợp, họ cần chúng ta nâng đỡ hơn là bị loại trừ, để dần dần có khả
năng trở nên khả tín, đối với những người khác.
Bước thứ năm :
Thương lượng và thuyết phục, thay v́ cưỡng chế
Trong địa hạt thương lượng, NGUYỄN TRĂI là tấm gương sáng ngời, không
những cho Quê Hương Đại Việt mà thôi, nhưng c̣n cho tất cả những ai
thiết tha với chí hướng làm người, trên khắp năm châu bốn bể. Câu nói
bất hủ của tác giả nầy, ở vào thế kỷ thứ mười lăm, đă xác định phương
hướng cho những ai dấn bước vào con đường thương lượng :
« Lấy Đại Nghĩa mà thắng hung tàn,
« Lấy Chí Nhân mà thay cường bạo. »
Hẳn thực, chỗ nào cường bạo đang c̣n thống trị, trong tâm hồn, con
người ở chỗ ấy không thể xây dựng và phát huy con đường làm người. Họ
đang c̣n làm « chó sói » đối với nhau, như người Rôma đă có nhận xét,
cách đây hơn hai ngh́n năm. Khi đi con đường « Chí Nhân », chúng ta
chỉ thuyết phục, soi sáng, thay v́ cưỡng bức, áp chế, thủ tiêu, thanh
trừng, nếu kẻ khác không đồng ư với chúng ta.
Khi thương lượng, chúng ta không « cố chấp » lập trường trước sau như
một của chúng ta. Trái lại, chúng ta coi trọng những nhu cầu và nguyện
vọng chính đáng của người khác, ở phía đối diện.
Khi thương lượng, chúng ta bắt đầu ngồi lại với phía bên kia, lắng
nghe họ, và CÙNG NHAU khảo sát lợi ích của nhau. Chúng ta có quyền làm
người. Họ cũng có quyền được chúng ta cư xử và kính trọng, với tất cả
tư cách làm người như chúng ta, ngang hàng chúng ta.
Khi thương lượng, chúng ta cùng với phe bên kia sáng tạo những con
đường đồng thuận, càng nhiều càng tốt. Những con đường nầy được xác
định một cách khách quan và khoa học, với những tiêu chuẩn hợp lư, hợp
pháp và hợp t́nh, được cả hai bên chấp nhận. Trong tinh thần ấy, không
bên nào có thể tùy tiện áp đặt, một cách đơn phương, những qui luật
cho bên kia.
Khi thương lượng như vậy, không có kẻ thắng người thua. Cả hai bên cố
quyết làm người và tạo điều kiện, cho kẻ khác cũng có khả năng làm
người với ḿnh, giống như ḿnh. Và như trong cuốn sách « Đồng Cảm để
Đồng Hành », tôi đă nhấn mạnh lui tới, nhiều lần, khi hai người biết
làm người với nhau, họ có « một trăm con mắt », để nh́n. « Một trăm lỗ
tai » để nghe. « Một trăm cánh tay » để sáng tạo. « Một trăm quả
tim », để làm người và làm NGƯỜI anh chị em, đối với nhau.
Bước thứ sáu :
Nh́n nhận và Chấp nhận nhau
Bước thứ sáu nầy thu tóm và tổng hợp năm bước vừa qua. Hẳn thực, khi
người khác và chúng ta không chấp nhận tư cách làm người của nhau, MỘT
CÁCH VÔ ĐIỀU KIỆN, làm sao chúng ta có thể cùng nhau xây dựng quan hệ
t́nh người ? Làm sao chúng ta kính trọng quyền lợi làm người của
nhau ?
Công việc và thái độ chấp nhận ấy bao gồm những động tác cụ thể và tất
yếu sau đây :
-
Thứ nhất là chú trọng vào con người cụ thể đang hiện diện trước mặt
chúng ta, với bao nhiêu thao thức, trăn trở, khổ đau và thất bại trong
cuộc đời, cũng như với bao nhiêu hoài vọng và ước mơ, phấn đấu và vươn
ḿnh tới. Con người ấy đáng được chúng ta lắng nghe và coi trọng.
-
Thứ hai, con người ấy đă trải nghiệm cuộc sống, trong những hoàn cảnh
và điều kiện oái oăm, khắc nghiệt, đáng được chúng ta t́m hiểu, đồng
cảm, để rút tỉa những bài học quí hóa, cho chính cuộc đời của chúng
ta.
-
Thứ ba, con người ấy, đằng sau một bề ngoài rất tầm thường, đang có
những giá trị cao cả, đáng được chúng ta phát hiện, để ngày ngày nuôi
dưỡng và phát huy ḷng tin của chúng ta vào con người và vào cuộc đời,
với những viễn tượng kỳ diệu và cao cả.
-
Thứ bốn, biết thêm một con người là biết thêm một chân trời rộng mở,
cơ hồ chúng ta đi du lịch ra nước ngoài, để thấy ḿnh rơ hơn, với bao
nhiêu khuyết điểm, cũng như với bao nhiêu đức tính không có nơi người
khác.
-
Thứ năm, người khác, dù họ là ai, ở đâu, làm ǵ, thuộc lứa tuổi nào...
cũng đang bổ túc cho chúng ta, về một phương diện cụ thể nào đó. Cho
nên, khi cởi mở, đón nhận, tham khảo họ, chúng ta đang làm giàu cho
bản thân và cuộc đời của ḿnh.
Trong Sa mạc Sahara, sau một lần bị tai nạn máy bay, văn hào A.
Saint-Exupéry, lúc ấy là phi công, phải sống ba ngày ba đêm một
ḿnh giữa trời đất, vũ trụ. Sau khi gặp lại được một người du mục bản
địa, tác giả cảm thấy tràn đầy hạnh phúc và ḷng biết ơn. Ánh mắt và
đôi tay của người ấy, theo lời tự thú của Saint-Exupéry, là « một Hồng
Ân » làm cho ông đă chết đi, bây giờ được sống lại, giữa con người,
với con người, nhờ con người.
***
Chương Mười
HẠNH PHÚC
và KHỔ ĐAU
Trong
ḷng Cuộc đời
Ước mơ
hạnh phúc có mặt trong tâm hồn của tất cả chúng ta, dù mỗi người có
một lối nh́n riêng biệt và độc đáo về bản sắc của hạnh phúc và con
đường thực hiện. Trong ḷng cuộc đời này, khổ đau cũng có mặt khắp
muôn nơi, trong mọi hang cùng ngơ hẻm của nhân loại.
Theo
giáo lư của đạo Phật, “phiền năo tạo bồ đề”. Cây giải thoát chỉ nảy
mầm đâm mộng trong ḷng đất khổ đau. Hoa sen nở ra, cống hiến hương
sắc cho đời, sau khi đă vươn ḿnh lên, vượt khỏi lớp bùn lầy nước
đọng. Tin Mừng của Đức Kitô cũng kêu mời chúng ta ngày ngày thực hiện
cuộc “VƯỢT QUA” ấy. Phục sinh phải chăng là hoa trái ngọt ngào, chỉ
xuất hiện ở cuối chặng đường khốn khổ và gian truân ? Con đường nầy là
một tất yếu (từ Hi Lạp là ananké) thuộc thân phận và điều kiện
làm người.
Trong
khoảng mười năm gần đây, với những khám phá mới mẻ về vai tṛ và tầm
quan trọng của xúc cảm trong đời sống con người, tâm lư học đương đại
cũng đang nhấn mạnh và làm nổi bật mối liên hệ mật thiết giữa hạnh
phúc và khổ đau. Nói cách khác, khổ đau không thể không có mặt trong
ḷng cuộc đời. Trong những cuốn sách đă được phát hành, tôi thường
dùng lối nói ví von, rằng khổ đau là “rác”, là “phế liệu”, do con
người làm ra. Chỗ nào có con người chung sống, hợp tác, đồng hành và
chia sẻ, trong bất cứ điạ hạt nào, chỗ ấy thế nào cũng có “rác” dần
dần xuất hiện, dưới nhiều h́nh thức khác nhau. Rác ấy sẽ biến thành
khổ đau, nếu nó tạo nên t́nh trạng xung đột, kỳ thị, hận thù, chiến
tranh giữa người với người. Trái lại, chừng nào con người có khả
năng “chuyển luân” hay là “hóa giải” rác thành vật tư và phương tiện
phục vụ con người, lúc ấy HẠNH PHÚC thuộc tầm tay thực hiện của con
người. Thuộc chủ quyền của chúng ta.
Nhằm
quảng khai những tư tưởng nói trên, bài chia sẻ này sẽ lần lượt tŕnh
bày hai phần sau đây:
Trong
phần đầu, tôi sẽ liệt kê một vài dấu hiệu cụ thể và khách quan nhằm
phát hiện t́nh trạng khổ đau, đang có mặt trong chúng ta và giữa chúng
ta.
Trong
phần hai, tôi sẽ khẳng quyết thêm rằng : hạnh phúc toàn măn và trọn
vẹn không bao giờ hiện hữu trên đời này. Trái lại, đó là một tiến
tŕnh liên lỉ do tôi chọn lưạ và quyết định. “Có công mài sắt ắt
ngày nên kim”. Nói khác đi, hạnh phúc là mùa màng, do chính
tôi gieo văi và gặt hái, bằng cách chấp nhận những nhu cầu của
chính ḿnh và tôn trọng nhu cầu làm người của mỗi anh chị em đang sống
chung quanh chúng ta.
Trong
lời kết luận, tôi sẽ nhấn mạnh rằng : hạnh phúc vừa là quyền lợi
của mọi ngựi sinh ra trong Trời Đất nầy. Đồng thời, đó cũng là trách
nhiệm làm người của chúng ta tất cả, đối với từng anh chị em, trong
ḷng xă hội, quê hương và nhân loại. Hẳn thực, bao lâu c̣n có một
người đang bị áp bức bóc lột, tôi có trách nhiệm giải thoát người anh
em ấy, bằng bàn tay và tất cả tấm ḷng của tôi. Bao lâu c̣n có một
người đi ăn xin, nằm lê lết qua đêm trên hè phố, trách nhiệm làm người
của tôi là làm một điều ǵ cụ thể thuộc tầm tay của ḿnh, để chia sẻ
niềm " ưu tư và ước vọng " của người ấy.
Trên con đường t́m kiếm và thực hiện hạnh phúc, với tư cách làm người,
chúng ta không thể tiến bước lẻ loi, một ḿnh. Chúng ta đồng hành và
chia sẻ. Chúng ta liên đới, đồng trách nhiệm. Tôi chỉ có thể gặt hái
mùa màng hạnh phúc, chừng nào tôi biết gieo văi hạt giống hạnh phúc
trong vườn ḷng của mỗi người anh chị em, hai bên cạnh tôi.
1.
Làm sao phát hiện những dấu hiệu khổ đau nơi chính ḿnh và nơi kẻ khác
?
Sơ đồ
sau đây tŕnh bày bốn thành tố với bốn phần vụ khác nhau của nội tâm:
Thành tố thứ nhất : Cửa Vào
Phần vu : Tiếp
thu và ghi nhận thực tại bằng con đường năm giác quan.
Thành tố thứ hai : Thuyên Giải
Phần vụ :
Tổng hợp tin tức và khám phá ư nghĩa bằng con đường Tư duy hay là Suy
luận
Thành tố thứ ba : Xúc Động và T́nh Cảm
Phần vu :
Tŕnh bày Nhu cầu và Yêu cầu bằng con đường Xúc động và T́nh cảm, như
buồn, lo, sợ, giận...
Thành tố thứ bốn : Cửa Ra
Phần vụ :
Tạo quan hệ tiếp xúc và trao đổi với những người có mặt trong môi
trường, qua con đường ngôn ngữ và tác phong.
Khi khổ đau xâm
chiếm và tràn ngập tâm hồn, bốn loại triệu chứng khách quan sẽ từ từ
xuất hiện, trong bốn lănh vực của nội tâm.
Loại một nằm ở
cửa vào
Thay v́ ghi
nhận thực tại một cách khách quan cụ thể, nghĩa là có sao nói vậy, cố
gắng phản ảnh thực tại bên ngoài, một cách trung thực toàn diện, chúng
ta thường có khuynh hướng xuyên tạc bóp méo sự kiện, bằng ba cách sau
đây:
(a) vơ đũa
cả nắm, nghĩa là biến hoá một sự kiện cụ thể thành một qui luật
tổng quát và thường hằng;
(b) gạn lọc,
nghĩa là chỉ ghi nhận những sự kiện thuận lợi và thích hợp cho hệ
thống tin tưởng của chúng ta. Khi đă ghét ai, chúng ta chỉ thấy nơi
người ấy những khía cạnh tiêu cực và bỏ quên những đặc điểm tích cực
năng động;
(c) chủ quan
hoá hay là xuyên tạc, nghĩa là chỉ lưu tâm nhấn mạnh đến ư kiến
riêng tư của bản thân ḿnh mà không tôn trọng lối nh́n của những người
khác, nhất là những ai không cùng chia sẻ quan điểm và lập trường của
chúng ta.
Loại hai nằm
trong điạ hạt thuyên giải
Thay v́ tŕnh
bày ư kiến và ư nghĩa của ḿnh, cũng như tôn trọng, lắng nghe quan
điểm của kẻ khác, chúng ta thường có xu thế phân biệt hai phe đối lập
với nhau:
tao tốt – mày
xấu
tao có lư – mày
vô lư
tao đúng – mày
sai
tao có ư ngay
lành – mày có ư đồ gian ác, lưu manh
Lối suy nghĩ nhị nguyên ấy, với bao nhiêu lời tố cáo, phê phán, đổ
lỗi, chụp mũ, gắn nhăn hiệu... là triệu chứng khách quan bên ngoài của
một tâm hồn đang bị khổ đau bủa vây và làm tê liệt một cách trầm
trọng, những sinh hoạt và quan hệ hằng ngày.
Loại ba nằm
trong điạ hạt xúc động và t́nh cảm
Một cách đặc biệt và rơ ràng, trong điạ hạt xúc
động và t́nh cảm, khi nào ai đau khổ th́ người ấy sẽ bị bế tắc,
phong toả hay là tràn ngập, đắm đuối. Họ mất khả năng làm chủ bản thân
và cuộc đời. Họ cảm thấy ḿnh là nạn nhân của bao nhiêu người khác,
trong đời sống gia đ́nh và xă hội. Theo ngôn ngữ của Daniel Goleman,
t́nh trạng nầy của nội tâm được so sánh như một cuộc đảo chánh, trong
đó chính phủ bị lật đổ, nghĩa là lư trí không hoạt động một cách sáng
suốt.
Bao nhiêu quyết định và chọn lựa đều mang sắc thái của dục vọng mù
quáng, bốc đồng và hỗn độn.
Sống trong
những t́nh huống như thế, con người – phàm là ai, cho dù ở điạ vị hoặc
chức vụ nào, có tŕnh độ học thức cao hay thấp… – sẽ dần dần
đánh mất ư thức về bản sắc hoặc căn cước đích thực cuả ḿnh.
Họ không c̣n nhận biết ḿnh là ai, có những nhu cầu cơ bản như thế
nào. Cũng vậy, họ không nhận biết người anh chị em ḿnh là ai, có
những nhu cầu cơ bản như thế nào… Rốt cuộc, chúng ta
là ai trong ḷng quê hương, đất
nước ? Chỉ là nồi da nấu thịt ! Hay là gà một nhà bôi mặt đá
nhau, từ đời này sang đời khác.
Loại thứ bốn
nằm trong lănh vực quan hệ tiếp xúc và trao đổi
Trong một đất
nước hoặc xă hội hạnh phúc, không có kẻ thắng người thua. Không có chủ
nhân và nô lệ. Không có phân biệt bạn và thù, trắng đen rơ rệt. Theo
truyền thống văn hoá của Lạc Long Quân và Âu Cơ, chúng ta tất cả là
anh chị em đồng bào, mang ḍng máu Rồng Tiên trong huyết quản. Trái
lại, khi quả tim chúng ta là sào huyệt của khổ đau, đam mê và dục
vọng, chính chúng ta làm nên những con sông Gianh, Bến Hải, những hàng
rào kẽm gai giữa người với người.
Nhiều khi chính
chúng ta đă đào hầm chôn sống những người anh chị em cuả chúng ta, cơ
hồ Trần Thủ Độ – vị công thần khai nguyên nhà Trần – đă làm cách đây
hơn bảy thế kỷ, đối với tôn thất nhà Lư. Cũng vậy, để thiết lập triều
đại Hồ Quư Ly đă truất phế đứa con rể của ḿnh là vua Trần Huệ Tông,
nhốt ngài vào một ngôi chùa heo hút, xa cách thủ đô Thăng Long. Thế
vẫn c̣n chưa đủ. Ông c̣n sai bộ hạ đem dây đến thắt cổ vị vua cuối
cùng của nhà Trần. Sở dĩ như vậy, là v́ ông chủ trương “nhổ cỏ phải
nhổ tận gốc”.
Lịch sử Việt
Nam cho chúng ta thấy rơ : từ cổ chí kim, phần lớn những triều đại hay
chính thể luôn luôn khởi đầu bằng những cuộc thanh trừng đổ máu. Và
cuối mỗi triều đại, thường có những người sẵn sàng bán đứng quê hương,
sụp lạy trước ngoại bang, để xin xỏ, cầu viện hay là “rước voi chà mả
tổ”.
2. Làm sao xây dựng hạnh phúc cho bản thân và cuộc đời ?
Để hiểu rơ thế nào là hạnh phúc, chúng ta hăy
lắng nghe câu chuyện dưới đây của C. Steiner:
Ngày xửa ngày
xưa, vào thời nguyên thủy, con người khắp nơi trên mặt đất đă sống với
nhau những chuỗi ngày rất hạnh phúc và ḥa b́nh. Chúng ta hăy đến thăm
viếng họ và t́m cách học hỏi nơi họ đâu là bí quyết của một đời sống
hạnh phúc. Thủa ấy, mỗi người vừa sinh ra đă có hai chiếc bị nằm sẵn ở
trước ngực và sau lưng của ḿnh. Với chiếc bị nằm sau lưng, tôi nhận
lănh tất cả mọi quà tặng do cha mẹ, họ hàng bà con xa gần mang đến.
Nào là lương thực, tṛ chơi, kiến thức, áo quần, vật tư xây nhà cửa và
dụng cụ sản xuất, lao động. Mỗi lần có người cần một vật dụng, tức
khắc có một người khác sẵn sàng xuất hiện và biếu tặng món quà cần
thiết cho người ấy.
Cũng vào thời
kỳ vàng son này, khi tôi nhận thấy có người đang cần một món đồ, bất
kỳ thuộc điạ hạt nào, tôi chỉ cần đưa tay vào chiếc bị ở đằng trước
ngực, tức th́ tôi kiếm ra được món đồ mà người kia đang cần cho bản
thân và cuộc sống của ḿnh. Ngày ngày lớn lên, tôi thấy mọi người đều
làm như vậy. Và tôi đă học sống quảng đại, giống như mọi người. Cuộc
sống thủa ấy thật là phong phú, sung măn cho mọi người và cho từng
người, không trừ sót một ai.
Thế rồi, một
hôm, bỗng xuất hiện một bà phù thủy. Không ai biết bà đến từ hành tinh
nào. Ngày ngày, bà cứ đi rỉ tai từng người, già trẻ lớn bé: “Con
hăy khôn ngoan, lựa người mà cho. Hăy giữ lại cho ḿnh một đôi điều
cần thiết. Thời buổi khó khăn sẽ uà đến. Lúc bấy giờ con sẽ thiếu thốn
mọi sự”.
Cũng từ đấy, con người bắt đầu lo sợ. Nhiều lần, khi thấy bạn bè bà
con thiếu một vật dụng, theo thói quen, họ đưa tay vào chiếc bị ở đằng
trước. Nhưng nhớ lại lời khuyên của bà phù thủy, người ấy lập tức rút
tay ra, không c̣n muốn cho đi một cách dễ dàng, đơn sơ như trước đây.
V́ thái độ dè
sẻn và tự vệ của mỗi người, cuộc sống làm người đă thay đổi bộ mặt. Từ
bấy giờ, ai ai cũng trở nên nghi kị, lo sợ. Và cuộc sống càng ngày
càng trở nên thiếu thốn, bất hạnh.
Nhận thấy t́nh
h́nh càng ngày càng thoái hóa, một cách tai hại và trở thành bế tắc,
các bô lăo đă có sáng kiến họp nhau lại, khảo sát một cách tỉ mỉ
nguyên nhân của vấn đề. Họ khám phá rằng đầu dây mối nhợ là sự có mặt
của bà phù thủy, và họ đă cầm gậy gộc xua đuổi bà ra khỏi xóm làng
Oái oăm làm
sao, bà phù thủy bằng xương bằng thịt đă đi xa rồi. Nhưng lời rỉ tai
của bà vẫn c̣n lẩn vẩn đâu đó, trong tư duy và quả tim của mỗi người.
Bà phù thủy vẫn c̣n nằm vùng, trong mỗi chúng ta và ở giữa chúng ta
Nếu mỗi ngày,
mỗi người không quyết định thay đổi niềm lo sợ của ḿnh thành thương
yêu, tha thứ và tin tưởng nhau, chúng ta sẽ suốt đời làm nạn nhân tự
nguyện của bà phù thủy, đang t́m mọi cách để làm ô nhiễm mối quan hệ
giữa người với người. Tên tuổi của bà phù thủy ấy là thiên kiến, hận
thù, chia rẽ, bạo động và chiến tranh. Nói tắt một lời, đó là tư duy
nhị nguyên phát sinh ra mọi khổ đau cho con người trong ḷng cuộc đời
và trên từng mảnh đất của quê hương.
Sào huyệt hay
là chiến khu của bà phù thủy là nội tâm, nhất là đời sống xúc động và
t́nh cảm.
***
Để hoá giải bao
nhiêu vấn đề chung quanh đời sống xúc động và t́nh cảm, nghĩa là:
o
ngày ngày biến
Không thành Có,
o
chuyển luân Rác
nuôi sống những cánh đồng,
o
giữa Sa mạc làm
tuôn chảy ḍng sông,
o
trong Chết chóc
vun trồng hạt mầm Sống,
o
gieo Thứ tha và
xây đắp Đường Hy Vọng…
Chúng ta có thể sử dụng kỹ thuật tâm lưù với bốn bước đi lên như sau:
1.
Xác định môi
trường chung quanh,
hay là nhận diện hoàn cảnh hiện hữu. Để làm công việc này, chúng ta
cần sử dụng những lối phát biểu càng khách quan chừng nào, càng hay
bấy nhiêu: “Tôi thấy ….”, “Tôi nghe …”. Ví dụ: “Tôi nghe bạn phàn nàn
và phê phán thái độ của tôi …”
2.
Đặt tên, hay
gọi tên xúc động
vừa đang chớm
nở và xuất hiện trong nội tâm. Bốn xúc động đầu đàn là Lo, Sợ, Buồn và
Giận. Lối phát biểu cần sử dụng trong giai đoạn này là: “Tôi cảm
…”.
3.
Khám phá, phát
hiện nhu cầu cơ bản cuả ḿnh
đang có mặt hay
là ẩn nấp, nguỵ trang ở bên dưới mỗi xúc động.
Sở dĩ tôi buồn,
là v́ tôi đang cần được nâng đỡ, uỷ lạo.
Tôi sợ, là v́
tôi cần được an toàn.
Tôi lo, là v́
tôi cần có phương tiện cụ thể, hữu hiệu để đối phó với những biến cố
bất trắc, bất ngờ.
Tôi giận, là v́
tôi cần được tôn trọng. Những giá trị và xác tín của tôi cần được
người khác nh́n nhận.
4.
Nêu rơ lời yêu
cầu tích cực, cụ thể,
nói lên nguyện vọng chính đáng cuả ḿnh. Thay v́ đ̣i hỏi, cưỡng bức,
áp đặt từ bên ngoài, hay là lạm dụng vị trí quyền lực của ḿnh, chúng
ta chỉ thỉnh cầu, nghĩa là XIN với một thái độ hài hoà, đồng hành,
chia sẻ. Mỗi lần xin, chúng ta biết rằng: kẻ khác có quyền từ chối,
tùy vào thực tế và thực tại hiện hữu của họ.
Khi có nhiệm vụ
nâng đỡ ai, giúp họ hóa giải xúc động và t́nh cảm của ḿnh, chúng ta
cùng với họ kinh qua bốn giai đoạn vừa được tŕnh bày. Từ từ đi tới
từng bước một, trong tinh thần cởi mở và trung thực. Thêm vào đó, mỗi
lần nói về M̀NH, chúng ta hăy tự xưng là TÔI. Không dùng sứ điệp ngôi
thứ nhất, chúng ta sẽ có xu thế phê phán, tố cáo, đổ lỗi cho người
khác đang đối diện chúng ta.
Với điều kiện
diễn tả nầy, cơ hồ một ḍng sông lưu nhuận, luân chuyển từ cội nguồn
đi ra biển cả… đời sống t́nh cảm và xúc động sẽ được thoáng thoát,
chuyển biến một cách hài ḥa tự nhiên, không c̣n bị ứ đọng, ối đọng và
ô nhiễm.
***
Trong một cộng
đồng, khi mỗi thành viên biết diễn tả rơ ràng nhu cầu của bản thân
ḿnh, và đồng thời tôn trọng nhu cầu làm người của mọi thành viên
khác, cộng đồng ấy đang dấn bước trên con đường yêu thương và
hạnh phúc, hiểu biết và tha thứ. Thiếu ḷng thứ tha, bất cứ cộng đồng
nào – tôn giáo, đất nước, xă hội, gia đ́nh… – sẽ không đứng vững, sẽ
không có ngày mai. Thứ tha phải bắt đầu bằng lối nh́n của mỗi người về
giá trị tự tại của người anh chị em hai bên cạnh. Dù họ có những hành
vi sai trái đến độ nào chăng nữa, dù khuyết điểm đang tràn lan trong
tác phong của họ, họ vẫn đáng yêu và cần tôi yêu thương, để ngày ngày
biết vươn lên làm người. Tôi là Đức Phật đại trí và đại bi, mang đến
cho người ấy con đường giải thoát làm bằng Hiểu Biết và T́nh Thương.
Tôi cũng là Đức Kitô đang đồng hành với người ấy, để họ có thể SỐNG
LẠI, trở thành bất tử và bất diệt.
***
Hạnh phúc không
phải là quả sung từ trên trời cao đột nhiên rơi vào miệng của tôi.
Hạnh phúc chẳng bao giờ là tận điểm, có sẵn đó rồi, hoàn toàn,
viên măn. Bao lâu c̣n mang thân phận và điều kiện làm người, chúng ta
c̣n phải tạo dựng hạnh phúc cho ḿnh và cho người khác. Hạnh phúc là
một tiến tŕnh liên tục, do tôi làm nên, với hai bàn tay, nước
mắt và xương máu cụ thể, trong mỗi phút giây của cuộc đời. Hẳn thực,
khi tôi làm cho kẻ khác hạnh phúc, chính tôi đang gặt hái mùa màng
hạnh phúc, cho bản thân và cuộc đời.
Khi phân tích những quan hệ tiếp xúc và trao đổi
giữa hai người, nhà tâm lư E. Berne đă khám phá sự hiện hữu của ba bộ
mặt, trong mỗi con người chúng ta :
Bộ mặt thứ nhất
là NGƯỜI CHA MẸ,
có phần vụ
hướng dẫn và soi sáng, nâng đỡ và ủy lạo những ai cùng chung sống
trong môi trường.
Bộ mặt thứ hai
là NGƯỜI TRẺ EM,
có phần vụ học
hỏi thường xuyên và sống hạnh phúc với những người đang cùng có mặt
trong xă hội.
Bộ mặt thứ ba
là NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH,
có phần vụ đồng
hành và chia sẻ với mọi người anh chị em đồng bào, đồng hương, đồng
loại.
Bên cạnh ba bộ mặt tích cực và xây dựng ấy, ba bộ mặt TIÊU CỰC khác
cũng đồng thời có mặt và đang đe dọa,ï khống chế con người và quả tim
của chúng ta
Thứ nhất là
NGƯỜI CHA MẸ áp chế hay là bao che quá đáng.
Thứ hai là
NGƯỜI TRẺ EM phản loạn hay là lệ thuộc, bị động.
Thứ ba là NGƯỜI
TRƯỞNG THÀNH quá duy lư, khô khan lạnh lùng như cái máy vô hồn, vô tâm
và vô cảm.
Những phân tích
và nhận xét của E. Berne trên đây cho chúng ta hiểu rơ, và ngày ngày
đánh thức chúng ta : hai con người Ánh Sáng và Bóng Tối đang tranh
giành ảnh hưởng trong chính quả tim của mỗi người. Trong tinh thần
và chiều hướng ấy, hạnh phúc là CHO. Khi cho bất kỳ một cái ǵ, chúng
ta nhận lại hạnh phúc trong cơi ḷng của ḿnh. CHO là một quyết
định, một chọn lựa, cần được thực thi từng ngày, từng
giờ, trong mỗi quan hệ tiếp xúc và trao đổi.
Làm người, chúng ta, tự bản chất, là một sinh vật rất giàu có. Chúng
ta có rất nhiều điều để trao tặng cho Anh Chị Em Đồng bào, bắt đầu từ
một nụ cười, một liếc nh́n đầy yêu thương, một bàn tay tiếp xúc, hỏi
han, xoa dịu, một lời nói nâng đỡ an ủi, khích lệ…
“Ánh mắt em là cả
một Bầu Trời,
Bàn tay em huyền
nhiệm thấu từng mây,
Bước chân em gieo
hạnh phúc mỗi ngày,
Quả tim em : Nguồn
suối không cạn vơi !
Em trọng đại, v́
em là tất cả :
Là Mẹ, là mảnh đất
của Quê Hương,
Một khu vườn ươm
lại giống T́nh Thương,
Xây non sông làm
tươi đẹp khóm phường.
Em là nước tưới
Ngày Mai, Tuổi Trẻ,
Đem rừng xanh phủ
hết Đất Tang Thương,
Mang Mặt Trời
chiếu rạng vùng tăm tối,
Hạt T́nh Người
gieo văi khắp mười phương”.
***
Để kết thúc, tôi
xin chia sẻ một câu chuyện. Hôm ấy, tôi đă trải qua một giấc mơ
êm dịu. Trước mặt tôi, từ trên cao rơi xuống bốn con búp bê hoàn toàn
giống nhau, trong mọi chi tiết. Mỗi con đều có mũ đỏ, áo trắng, quần
xanh, đôi dép màu vàng mặt trời. Bỗng có một tiếng nói từ trên vọng
xuống: “Này con, hăy phân biệt cho bằng được cái ǵ làm nên nét khác
biệt cơ bản, giữa bốn con búp bê ở trước mặt con.”
Tôi có sáng kiến
đi ra vườn, kiếm một cọng cỏ vừa dài, vừa dai, vừa dẻo. Rồi tôi đút
cọng cỏ vào lỗ tai của con búp bê thứ nhất. Tôi nhích, nhích, và
nhích… Cọng cỏ thoát ra khỏi lỗ tai phía bên kia.
Tôi cũng làm như
thế với con búp bê thứ hai. Lần này, cọng cỏ thoát ra khỏi lỗ miệng
của nó.
Với con thứ ba,
cọng cỏ đi xuống quả tim, bị bế tắc và dừng lại ở đó.
Với con sau cùng,
tôi nhích lui nhích tới cọng cỏ, một cách rất tế vi và ư nhị. Thế rồi,
quả tim nó bắt đầu thổn thức, phập phồng. Tôi tiếp tục nhích thêm. Đôi
mắt nó loé sáng, như hai đốm lửa. Tôi vẫn tiếp tục nhích cọng cỏ. Hai
tay búp bê bắt đầu cử động. Đôi chân di chuyển về phía trước. Con búp
bê đứng dậy, bước tới. Nó Làm Người.
Nếu tôi được phép
đem cọng cỏ nhích vào tai các bạn, các bạn sẽ đáp ứng thế nào… giống
như con búp bê nào đây ?
Chương Mười Một
Khi nào một cơ cấu tổ chức trở nên bệnh hoạn ?
Cơ cấu tổ chức, mà tôi đề cập trong suốt bài chia sẻ nầy, có thể là
một gia đ́nh bao gồm cha mẹ và con cái, cũng như bao nhiêu thành viên
khác, đang sống chung dưới một mái nhà. Hay đó là một xí nghiệp
với nhiều công nhân viên, từ ban lănh đạo đến những cán bộ lao động
thuộc nhiều tầng lớp tổ chức khác nhau.
Nói đến một cơ cấu, chúng ta cũng có thể nêu lên làm ví dụ những
trường trung học và đại học hay là những vườn trẻ, lớp mẫu giáo và vỡ
ḷng... trong đó có ban giám hiệu, toàn thể các giáo viên, những thành
viên thuộc bộ phận quản lư và cuối cùng là các sinh viên, học sinh. Dù
muốn dù không, họ đang kết dệt những quan hệ qua lại hai chiều với
nhau. Tất cả vấn đề then chốt là những quan hệ ấy có tạo ra cho họ
điều kiện thuận lợi, trên tiến tŕnh « làm người và thành người » hay
không. Trong trường hợp ngược lại, đó chỉ là một môi trường bị đầu độc
và ô nhiễm, ngày ngày dẫn khởi những tranh chấp và hận thù, kỳ thị và
chiến tranh giữa các thành viên.
Một cách đặc biệt, Đất Nước hay là Quê Hương, với bao nhiêu tầng lớp
tổ chức và sinh hoạt... cũng là một cơ cấu, có khả năng bao bọc và che
chở, cơ hồ cái bào thai trong ḷng Mẹ đă nuôi nấng chúng ta, trong
những ngày tháng đầu đời. Trường hợp cái bào thai bị nhiễm trùng, đứa
con ở bên trong cũng gặp nhiều khó khăn trong vấn đề tăng trưởng.
Hiểu được những định luật tâm lư xă hội, có phần vụ tác động và chi
phối t́nh trạng sức khoẻ của bất kỳ một cơ cấu nào, chúng ta sẽ có rất
nhiều cơ may trong chiều hướng « tránh những điều cần tránh, thực hiện
những ǵ cần thực hiện, tác động vào chính vị trí cần tác động »
Nói cách khác, chúng ta BIẾT ḿnh đang ở đâu. Khi nào nên tiếp tục đi
tới, khi nào phải tức khắc dừng lại. Khi nào hăy can đảm đi lui, v́
thấy ḿnh đă lầm đường. Và chính lúc bấây giờ chúng ta phải thực thi
những động tác nào, để chọn lựa lại một con đường thích ứng, quang
đăng và hữu hiệu hơn trong quá khứ.
Nói khác đi, làm con người, với những điều kiện và thân phận hiện tại,
ai ai cũng có thể sai lầm. Cái cao cả và trọng đại, trái lại, bắt
nguồn từ khả năng chuyển biến cái sai lầm, thành một kinh nghiệm, một
bài học khả dĩ thăng tiến bản thân và làm đẹp cuộc đời, của chúng ta
cũng như của anh chị em đồng bào.
Trong tinh thần
và lăng kính ấy, tôi sẽ lần lượt khảo sát hai câu hỏi then chốt :
Thứ nhất, một
cơ cấu BỆNH HOẠN bao gồm những dấu hiệu cụ thể và khách quan nào
Thứ hai, nhằm
lành mạnh hóa một cơ cấu tổ chức, như gia đ́nh hay làø Đất Nước, chúng
ta cần tôi luyện những kỹ năng hoạt động nào ?
1. Phát hiện
những cơ cấu bệnh hoạn
Để bắt đầu,
chúng ta có thể so sánh một cơ cấu với một thân thể của con người.
Trong một cơ thể lành mạnh và sinh động, mọi bộ phận như tim, buồng
phổi, dạ dày, năo bộ... đang thiết lập với nhau, những quan hệ tác
động qua lại hai chiều, mặc dù từng bộ phận có một phần vụ độc đáo và
riêng biệt. Để có thể sống và phát triển, mỗi bộ phận vừa nhận vừa
cho, vừa diễn tả nhu cầu của ḿnh vừa biết từ chối, dừng lại, « tri
chỉ », không c̣n nhận thêm, khi không cần thiết.
Mặc dù công
việc chính yếu của năøo bộ là ban phát những mệnh lệnh cho toàn thể
tay chân và các cơ phận bên ngoài và bên trong. Tuy nhiên, để có thể
lănh đạo một cách đứng đắn, chính xác và hữu hiệu, nghĩa là thành tựu
những kết quả mong muốn, năo bộ không thể không lắng nghe, ghi nhận
những tin tức hồi tố, do các thành phần ngoại vi gửi về. Mọi cơ phận
khác, như tim phổi... cũng làm công việc « lắng nghe, tham khảo và đối
thoại » tương tự như vậy, với mọi thành phần khác, trong con
người.
Ngoài ra, theo
cách bố cục và tổ chức tự nhiên của thân thể, năo bộ nằm ở phía trên.
Và đôi chân có vị trí ở dưới cùng. Tuy nhiên, nếu bàn chân không thực
thi công việc « lănh đạo », thể theo vai tṛ, phương thức và trách
nhiệm đặc biệt của ḿnh, toàn thể xác thân của con người cũng sẽ bị tê
liệt hay là bệnh hoạn.
Trong tinh thần
và lăng kính vừa được tŕnh bày, trong một cơ thể lành mạnh, năng
động, đang diễn tả chiều hướng đi lên, phát triển, tăng trưởng và sáng
tạo... mọi bộ phận từ nhỏ chí lớn, từ trong ra ngoài, từ trên xuống
dưới, đều lănh đạo, theo cách thế và địa hạt độc đáo của ḿnh. Không
một thành phần nào hoàn toàn năng động một trăm phần trăm. Và cũng
không một cơ phận nào hoàn toàn bị động một cách tuyệt đối. Mỗi thành
viên đều lănh đạo, bằng cách « lắng nghe, tham khảo, đối thoại, chia
sẻ và đóng góp phần tích cực của ḿnh ».
Cũng vậy, trong
một đất nước lành mạnh, có chiều đi lên và phát triển mọi mặt, vật
chất cũng như tinh thần, giáo dục cũng như đạo đức, cá nhân cũng như
tập thể... mọi thành viên đều biết lắng nghe nhau. Đối thoại với nhau.
Mỗi người góp chung lại phần năng động của ḿnh. Không
ai chỉ ban phát mà không đón nhận.
Không ai chỉ nhận và không t́m cách cho lại. Một nụ cười, một bàn tay
thân mật, một lời trao đổi hỏi han, một ánh mắt chan ḥa t́nh người...
tất cả đều có thể là những món quà cao quí, có khả năng gói ghém trọn
vẹn « một tấm ḷng », một mối t́nh đồng bào, một khả năng đồng cảm và
đồng hàn
Trong một đất
nước lành mạnh như vậy, không ai lănh đạo một cách độc chiều, nghĩa là
từ trên rót xuống những mệnh lệnh, những chương tŕnh. Lănh đạo c̣n có
nghĩa là lắng nghe, trân trọng những lời hồi tố của người dân, chân
lấm tay bùn, ngày ngày lên đồng cạn xuống đồng sâu, để kiếm cho được
một bát cơm lót ḷng... Lănh đạo, trong lối nh́n và lối nói của Nguyễn
Trăi, có nghĩa là « Chăn lạnh choàng vai, đêm chẳng ngủ. Suốt đời
ôm măi nỗi lo dân
Thêm vào đó,
trong một đất nước lành mạnh, ngoài tầng lớp lănh đạo, c̣n có những
thành viên làm công việc nâng đỡ, ủng hộ, nối dài, cổ động. Họ là
những vị Bồ Tát Quan Thế Âm, đang hiến tặng và đóng góp một trăm quả
tim, một trăm cánh tay, một trăm đôi chân và nhất là một trăm đôi mắt
để người lănh đạo đất nước thấy được « bao nhiêu tầng lớp nắng mưa »,
trong ḷng cuộc đời của người dân. Nếu không đảm nhận trách vụ ấy,
người ủng hộ sẽ lập tức trở thành người vuốt đuôi, nịnh bợ, tâng bốc,
làm kệ lót chân cho người có chức quyền. Loại người nầy sẵn sàng hối
lộ cho các nhà lănh đạo, bằng mọi phương tiện. Tuy nhiên, ở bên dưới
những tầng lớp vàng bạc, tiền của, quà cáp... chầy kíp sẽ xuất hiện
những quả bom nguyên tử làm băng hoại cả một quê hương gấm vóc.
Trong một đất
nước lành mạnh, c̣n có mặt một loại thành phần thứ ba mang tên là
Chứng Nhân. Nếu thực thi đúng trách nhiệm, họ sẽ là những tấm gương
soi, phản chiếu cho người lănh đạo, mọi bộ mặt lông lá của họ. Với đôi
mắt của chứng nhân, người lănh đạo thấy được những con nước ngầm ở
dưới ḷng đất. Với lỗ tai của người chứng nhân, người lănh đạo nghe
được tiếng kêu « vô thanh » của nhiều tầng lớp người dân đang đói,
đang khát, đang bị hối lộ và bốc lột, trên từng chén cơm, chén cháo
của ḿnh. Trường hợp họ làm những chứng nhân ù ĺ, « không nói, không
nghe, không thấy », họ đương nhiên hóa thân thành một lớp người thinh
lặng đồng lơa. Trong giấc ngủ, Thánh Gióng và Thần Kim Qui có lẽ đă
hiện về hỏi họ : các con đă làm được những ǵ với ḍng máu Rồng Tiên,
trong huyết quản ? Và họ đă trả lời : Chúng con chấp nhận làm người
chứng nhân ù ĺ, « không thấy, không nghe và không nói », để có thể
sống cho qua ngày tháng. Nhưng sống như vậy là sống ngất ngư. Sống
cũng không ra sống. Chết cũng không chết thực sự.
Tầng lớp sau
cùng là loại người chống đối. Trách nhiệm của họ không phải là đá đảo,
đập phá hay là lật đổ. Nhưng là làm cho người lănh đạo và mọi người
dân thấy được rằng : khi có một vấn đề xảy ra trong ḷng quê hương,
không bao giờ CHỈ có một cách giải quyết duy nhất. Nếu chúng ta thay
đổi cách nh́n và vị trí đứng nh́n, bao nhiêu cách giải quyết mới lạ sẽ
từ từ xuất hiện.
Nói tóm lại,
dựa vào những tiêu cứ sau đây,chúng ta có thể phát hiện chứng bệnh
trầm kha của một đất nước. Bất kỳ đất nước nào. Ở đông hay ở tây. Ở
nam hay ở bắc
-
Thứ
nhất : đất nước ấy không có một tầng lớp lănh đạo biết tôn trọng, lắng
nghe và tham khảo người dân.
-
Thứ
hai : trong đất nước ấy, thành phần ủng hộ chỉ biết dạ dạ, vâng vâng
hay là vuốt đuôi, nịnh thần...
-
Thứ
ba : thành phần chứng nhân đă biến thân thành một loại người có tai
nhưng không nghe, có mắt nhưng không thấy, có miệng nhưng không nói.
-
Sau
cùng, trong một đất nước bệnh hoạn, không ai có quyền đối chất. Chỉ có
một thiểu số gọi ḿnh là đa số, và tự động khoác cho ḿnh mọi quyền
lực về sự thật của quê hương. Bao nhiêu sự thật khác đều bị kiểm duyệt
và ức chế. Tôi có xu thế gọi loại quê hương ấy với danh hiệu là « nhị
nguyên », chỉ bao gồm hai phe. Một bên bị chụp mũ là « ác ôn côn đồ ».
Bên kia tự tôn phong ḿnh làm thành phần « ưu tú và siêu việt ». Nhưng
thực ra, cho dù chúng ta là ai, thuộc phe bên nầy hoặc phe bên kia,
khi chúng ta mang ư đồ loại thải hoặc tiêu diệt người anh chị em đồng
bào của ḿnh, phải chăng một cách vô t́nh hay hữu ư chúng ta đang phủ
nhận ḍng máu Lạc Hồng trong chúng ta ?
Hẳn thực, trong
một đất nước lành mạnh, bốn phần vụ trên đây
–
lănh đạo, ủng
hộ, chứng nhân và chống đối
–
cũng có mặt.
Tuy nhiên, không một ai chỉ đóng khung và khép kín ḿnh trong một vai
tṛ và trách nhiệm duy nhất, suốt cuộc đời của ḿnh. Tùy nhu cầu và
hoàn cảnh thay đổi của đất nước, khi nầy tôi có thể đảm nhiệm vai tṛ
lănh đạo. Khi khác tôi ở vị trí đối phương, chứng nhân hay là ủng hộ.
Đất nước có thể được so sánh như một ḍng sông. Chừng nào có khả năng
lưu nhuận, trôi chảy, đất nước ấy đang ở trên một tiến tŕnh phát
triển và tiến bộ. Trái lại, khi bị ứ động và khép kín ḿnh, trong
những thành tŕ nghi nan, lo sợ, tự vệ và phản ứng... đất nước ấy đă
bị ô nhiễm trầm trọng. Có lẽ hiện thời đất nước ấy đang c̣n hấp hối
trên giường bệnh, đối với một số người. Nhưng trong ḷng đại đa số
người dân, đất nước ấy đă chết. Khi ra đi, không c̣n ai để nhớ. Khi
trở về, không c̣n ai để thương.
Cũng giống hệt
như vậy, trong một cơ cấu gia đ́nh lành mạnh và triển nở, người cha có
thể đóng nhiều vai tṛ trong cùng một lúc, một ngày. Ông soi sáng,
hướng dẫn, dạy dỗ con cái. Đồng thời, ông cũng có thể chọn lựa vị trí
làm người đồng cảm và đồng hành, có khả năng chia sẻ, trao đổi, đối
thoại, đặt ḿnh ngang hàng với con cái. Sau một ngày vắng mặt ở sở
làm, khi về nhà, ông có thể ḅ bốn chân trên sàn nhà, chơi đùa, vui
thú và hạnh phúc với đứa con vừa lên hai tuổi
Trái lại, trong
một gia đ́nh có vấn đề, nhất là vào mộât giai đoạn khủng hoảng trầm
trọng, người cha chỉ biết đóng kín ḿnh trong vai tṛ ra lệnh, đập
đánh, la nạt, la cà ở quán cà phê. Người mẹ chỉ biết nấu cơm, giặt ủi
và quét nhà. Con cái chỉ biết « dựa cột mà nghe ». Đó là một cơ cấu
« ba đường song song vạn kiếp » bên ngoài, nhưng đang chưởi bới và xé
nát lẫn nhau ở bên trong nội tâm.
2. Để phát huy
một cơ cấu tổ chức lành mạnh
Một cơ cấu tổ
chức, như tôi đă tŕnh bày trong phần trên đây, bao gồm nhiều thành
tố, ở nhiều vị trí khác nhau, đang thực thi những phần vụ khác nhau.
Tuy nhiên, để lập thành một cơ cấu sinh động, các thành tố kết dệt với
nhau những quan hệ trao đổi qua lại hai chiều. Thành tố nầy tác động
trên thành tố kia. Thành tố kia cũng có khả năng tác động trở lại trên
thành tố nầy, bằng cách này hay cách khác. Đặc điểm nổi bật nhất của
một cơ cấu đang phát triển là khi các thành tố họp lại với nhau, đó
không phải là một tổng cộng. Nhưng là một tổng thể, tổng hợp c̣n mang
tên là một thực thể toàn bích, toàn diện. Nói khác đi, trong cơ cấu
ấy, khi một cộng với một, số thành không phải là hai. Nhưng là hai
trăm, hai ngàn, hai triệu. Các thành tố sinh thành, nuôi dưỡng và
thăng tiến lẫn nhau. Hẳn thực, mẹ sinh ra con. Nhưng đứa con, từ ngày
sinh ra, đă có khả năng nuôi lại người mẹ, dưới nhiều thức dạng khác
nhau. Con bi bô, làm cho mẹ vui. Con mỉm cười, làm cho cuộc đời của mẹ
có một ư nghĩa diệu vợi. Con khóc la, làm cho ḷng mẹ bồi hồi, xao
xuyến... Con an b́nh trong giấc ngủ, mẹ là bầu trời tràn đầy trăng
sao, đang bao phủ chiếc nôi của con
Trong phần trên
đây, tôi đă phác họa một vài đường nét thô thiển có liên hệ đến một cơ
cấu sinh động, như gia đ́nh, đất nước. Một cách đặc biệt, tôi tóm lược
lại, bằng cách nhấn mạnh những điểm then chốt sau đây :
-
Mỗi
cơ cấu bao gồm nhiều thành tố khác biệt nhau,
-
Những
thành tố ấy tác động qua lại và có ảnh hưởng trên nhau. Không
một thành tố nào có thể khẳng định rằng : tôi không chịu ảnh hưởng của
một ai. Mỗi thành tố vừa chủ động, vừa bị động ... cơ hồ hai nghệ sĩ
nam và nữ đang cùng nhau thao tác một vũ khúc khi trầm khi bổng, khi
vui khi buồn.
-
Mỗi
thành tố thực thi những công việc hay là những phần vụ độc đáo, riêng
biệt.
-
Đồng
thời tất cả mọi thành tố đều cùng nhau chia sẻ một mục đích chung đang
điều hướng mọi sinh hoạt của cơ cấu Tổng Thể, Toàn Diện. Chính v́ lư
do nầy, trên đây tôi đă gọi cơ cấu là một Bào Thai, một Bọc Trứng có
khả năng cưu mang, nâng đỡ, hướng dẫn và động viên mọi thành tố cấu
thành.
Trong khuôn khổ
của chương nầy, tôi không quảng diễn thêm những điểm trên đây, với
nhiều chi tiết khác, tuy dù rất quan trọng. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh hai
chuẩn mực chính yếu là Thảo Luận và Đối Thoại. Dựa vào hai kỹ năng
nầy, chúng ta có thể đánh giá hay là phát huy một cơ cấu tổ chức lành
mạnh, năng động, như gia đ́nh hay là đất nước.
Nói một cách
vắn gọn, một đất nước đang dấn bước trên con đường thanh b́nh và thịnh
vượng, chừng nào các thành viên của đất nước ấy, từ cấp lănh đạo, trí
thức cho đến những tầng lớp b́nh dân có khả năng và cơ hội ngồi lại
học hỏi, thảo luận và đối thoại với nhau. Hai bài học hay là hai sinh
hoạt nầy không thể thiếu vắng, nếu chúng ta cùng nhau thực hiện hoài
bảo Dựng Nước và Giữ Nước, một cách thiết thực và hữu hiệu.
o
Tranh
căi
Thông thường,
khi thảo luận về một vấn đề, cùng với nhiều thành viên khác trong một
nhóm, tôi đi qua bốn giai đoạn :
-
giai
đoạn một : tŕnh bày những sự kiện cụ thể và khách quan mà tôi đă quan
sát và ghi nhận.
-
giai
đoạn hai : dựa vào những sự kiện ấy, tôi đề xuất một giả thuyết, c̣n
mang tên là tiền đề, trong lối dùng từ ngữ cá biệt của một số người.
-
giai
đoạn thứ ba : Từ giả thuyết ấy, tôi rút ra một kết luận cuối cùng, sau
khi kiểm chứng và rà soát lại những sự kiện mà tôi đă khảo sát một
cách kỹ lưỡng. Kết luận nầy diễn tả quan điểm, lối nh́n đời, lập
trường hay là cách nhận thức của tôi về thực tế và thực tại bao quanh
tôi. Thể thức rút ra một kết luận thay đổi từ người này qua người
khác, cùng chung sống trong một môi trường giống nhau. Lư do cơ bản
giải thích sự khác biệt ấy, là v́ hai người có hai quá khứ khác nhau,
hai tầng lớp kinh nghiệm khác nhau, đang đeo đuổi hai loại lợi ích và
nhu cầu khác nhau.
-
giai
đoạn thứ bốn : sau cùng là phương thức và chương tŕnh hành động, nhằm
thâu đạt những thành quả mong muốn.
Trong thực tế
hằng ngày, thay v́ thảo luận một cách có hệ thống và trật tự như vậy,
chúng ta thường có xu thế tranh căi, giành phần hơn, phần đúng, phần
có lư, phần sự thật về cho ḿnh. Đồng thời, chúng ta tố cáo, phê phán,
qui chụp, gắn cho đối phương của chúng ta những nhăn hiệu hồ đồ như :
sai lầm, gian manh, phản bội, dối trá.
Thêm vào đó,
ngoại trừ giai đoạn bốn, ba giai đoạn một, hai và ba đều xảy ra trong
nội tâm của chúng ta. Không ai thấy, không ai nghe, không ai có thểâ
khảo sát thể thức suy luận của chúng ta
Ngoài ra, chính
chúng ta cũng nhảy vọt một cách lung tung và lộn xộn. Rốt cùng chúng
ta cũng không rơ ràng điều nào là sự kiện, điều nào là giả thuyết và
điều nào là kết luận, trong tiến tŕnh tư duy và lư luận của chúng ta.
Thay vào những
cách làm hỗn độn, thiếu hệ thống như vậy, điều chúng ta cần làm, trong
tiến tŕnh dựng Nước và giữ Nước, là cùng nhau ngồi lại, học với nhau
cách thức thảo luận có tính khoa học và kỹ thuật.
o
Thảo
luận một cách khoa học
Kỹ năng nầy bao
gồm hai phần khác biệt và bổ túc cho nhau.
Trong phần thứ
nhất : Tôi tŕnh bày ra ngoài, một cách rơ ràng và khúc chiết, trước
mặt những người cùng thảo luận, năm bước đi lên của tôi, trên tiến
tŕnh tư duy và suy luận, hay là cách giải quyết vấn đề.
-
Bước
Một : Tôi nêu lên những sự kiện khách quan làm bàn đạp cho công việc
và tiến tŕnh suy tư.
-
Bước
Hai : Tôi đề xuất một hay nhiều giả thuyết, nhằm thuyên giải vấn
đề hay là t́m ra ư nghĩa và hướng di tới.
-
Bước
Ba : Tôi chứng minh giả thuyết, bằng cách phát hiện những liên hệ ràng
buộc các sự kiện với điều tôi đề xuất.
-
Bước
Bốn : Tôi rút ra một kết luận cuối cùng, khả dĩ tŕnh bày quan điểm và
thể thức nhận thức của tôi.
-
Bước
năm : Tôi tiên liệu những cách tác động trên môi trường, để thành đạt
một kết quả mong muốn.
Trong phần thứ
hai : Sau khi đă phát biểu và tŕnh bày, tôi khiêm cung và thành khẩn
yêu cầu mọi tham dự viên, đóng góp những ư kiến, đưa ra những nhận xét
bổ túc, kiện toàn hay là sửa sai. Trong phần nầy, tôi cũng từ từ đi
lên từng bước, một cách khoan thai và có thứ tự, để mọi người có mặt
có thể bộc lộ những quan điểm hay là lối nh́n độc đáo và khác biệt của
ḿnh.
-
Bước
Một : ngoài những sự kiện mà tôi đă ghi nhận và tŕnh bày, trong các
bạn có ai ghi nhận thêm những sự kiện khác lạ ?
-
Bước
Hai : Ai đề xuất một hay nhiều giả thuyết khác, để bổ túc hay là điều
chỉnh giả thuyết của tôi ?
-
Bước
Ba : Bạn nào nhận thấy cách chứng minh giả thuyết và lối kiểm chứng
các sự kiện do tôi thực hiện, c̣n thiếu tính mạch lạc và thuyết phục ?
-
Bước
Bốn : Kết luận cuối cùng mà tôi rút tỉa, có hợp lư và hợp t́nh hay
không ?
-
Bước
Năm : Thể thức hành động mà tôi đă dự kiến, có ăn khớp với vấn đề mà
chúng ta muốn giải quyết, hay là đi ra ngoài đề ?
-
Bước
Sáu : Trong tiến tŕnh tư duy và lư luận, với năm bước đi lên của tôi,
các bạn c̣n muốn thêm, muốn bớt hay là muốn sửa sai những điểm nào ?
o
Đối
Thoại
Trong một nhóm
Đối Thoại, chúng ta cũng sử dụng kỹ năng thảo luận khoa học, như vừa
được tŕnh bày. Tuy nhiên, chúng ta cần phân biệt hai mục tiêu khác
nhau và hai khuôn khổ khác nhau.
Trong nhóm thảo
luận khoa học, các thành viên nhắm đến một kết luận rơ ràng và cụ thể,
bao gồm những quyết định, những điểm đồng ư và một số ưu tiên cần xác
định.
Nói một cách
vắn gọn, tư tưởng ĐỒNG QUI là khuôn khổ hoạt động của một nhóm thảo
luận khoa học. Tư tưởng nầy là một điều kiện thiết yếu, khi nhóm có
nhiệm vụ giải quyết một vấn đề cụ thể
Trái lại, trong
nhóm Đối Thoại, thực tế và thực tại « muôn màu muôn sắc » được trân
trọng, nhận diện và đối diện, mộât cách thanh thản và an ḥa nội tâm.
Nội dung được tŕnh bày và phát biểu, không khoác tầm mức quan trọng
và ưu tiên, ngang bằng chủ thể hay là con người cụ thể và xương thịt,
đang diễn tả những tầng lớp sâu xa của ḷng ḿnh
Nói tóm lại,
chúng ta cần ghi nhận ba đặc điểm quan trọng của nhóm trong sinh hoạt
Đối Thoại
Thứ nhất, mỗi
thành viên đặt lên hàng đầu công việc lắng nghe chính ḿnh và lắng
nghe Nhóm, hơn là ghi nhận, khảo sát những quan điểm, lối nh́n của
từng người.
Thứ hai, các
thành viên cùng nhau chia sẻ, trao đổi và góp chung lại những quan
điểm, kinh nghiệm và cảm nghiệm, hơn là đấu tranh, biện minh, cổ động
cho cá nhân của ḿnh.
Thứ ba, bản sắc
của từng người vẫn được trân trọng. Nhưng các thành viên đang ư thức
một cách nhạy bén ḿnh đang cùng nhau làm nên một thực thể toàn bích,
toàn diện, một « Chúng Ta ». Cho nên họ trở thành trong sáng, thông
suốt với nhau. Không úp mở, ém nhẹm. Nhất cử nhất động, tất cả những
ǵ xuất hiện trong nội tâm của từng người, đều được đặt lên bàn, trước
mặt mọi người. Lối nói « Cùng Với Nhau » gói ghém trọn vẹn thế nào là
đường đi, hơi thở, lối nh́n và nhất là tấm ḷng trăn trở của nhóm Đối
Thoại
Ngoài những nét
đặc trưng ấy, hai loại nhóm Thảo luận khoa học và Đối Thoại cùng chia
sẻ một mẫu số chung, như sau :
-
Một :
Khi phát biểu, mỗi thành viên tŕnh bày ra ngoài, một cách rơ ràng,
những bước đi lên có thứ tự, trong tiến tŕnh tư duy.
-
Hai :
Ai ai cũng được gọi mời khảo sát và t́m hiểu những giả thuyết của
người đang tŕnh bày và diễn tả chính ḿnh.
-
Ba :
Mọi thành viên khảo sát, một cách thanh thản và tường tận, những quan
diểm bất đồng được nêu lên trong nhóm.
-
Bốn :
Mỗi người tham dự cố gắng hết ḿnh, để nâng cao chất lượng, trong hai
lănh vực suy luận và quan hệ tiếp xúc đang diễn tiến trong nhóm.
***
Nhằm kết luận,
tôi xin mượn lại câu chuyện của Đức Phật về « Năm người mù đi xem
voi ».
Người thứ nhất
đă sờ vành tai của voi, và mô tả con voi giống như cái quạt mo.
Người thứ hai
đă sờ lưng của Voi, và mô tả con voi giống như một tấm ván.
Người thứ ba đă
sờ chân của Voi, và mô tả con voi giống như một cột nhà.
Người thứ tư đă
sờ cái ṿi của voi, và mô tả con voi giống như một ống thổi lửa.
Người thứ năm
đă sờ cái đuôi của voi, và mô tả con voi giống như một cây roi to bự.
Không một câu
trả lời nào trên đây diễn tả trọn vẹn toàn diện sự thật về con voi.
Tuy nhiên, mọi câu trả lời đều phản ảnh ít nhiều thực tế của con voi.
Không một câu trả lời nào có thể bị đánh giá là sai lạc một cách tuyệt
đối.
Cũng vậy, khi
nói về Đất Nước và Quê Hương, mỗi người trong chúng ta đều giống như
« một người mù đi xem voi » trên đây. Thế mà chúng ta cứ khư khư cho
ḿnh là Đúng hoàn toàn và kết án kẻ khác là sai một trăm phần trăm.
Cho nên, trong suốt bốn ngh́n năm văn hiến, chúng ta đă xếp hàng thành
hai phe Sơn Tinh và Thủy Tinh, để loại trừ và hủy diệt lẫn nhau. Phải
chăng ngày hôm nay là thời điểm thuận tiện hay là cơ may ngh́n năm một
thuở, để chúng ta thức tỉnh, cùng nhau ngồi lại, cùng nhau học hai bài
học « Thảo Luận khoa học và Đối Thoại ».
Với hai bài học
nầy, từng cá nhân xé lẻ, chúng ta vẫn tiếp tục làm người mù. Nhưng
« Cùng Với Nhau », chúng ta có khả năng trở thành một Bồ Tát Quan Thế
Âm, có một trăm đôi tay để làm. Một trăm đôi chân để bước đi những
bước đi vạn dặm. Một trăm quả tim để yêu thương Nước Non và Anh Chị Em
Đồng Bào. Lúc bấy giờ, mặt trời sẽ mọc lên lại trên Quê Hương của
chúng ta. Và chúng ta sẽ thấy được những điều vô h́nh, nghe được những
tiếng nói vô thanh. Sự Thật của T́nh Nước, T́nh Non, T́nh Đồng Bào sẽ
rạng ngời, trong con mắt nội tâm của mỗi người Việt Nam.
***
Sách tham khảo
1. P. M. SENGE
-
The Fifth Discipline
-
Century Business,
London 1993.
-
The Fifth Discipline, Fieldbook
-
Currency
Book,
USA 1994
-
The Dance of Change
-
NB, London 1999.
2. NGUYỄN VĂN
THÀNH
-
Tư Duy và Hành Động
-
TN, 2002.
-
Bản Đồ Tâm Lư và Tư Duy sáu màu
-
TN, Lausanne 2002.
3. D. KANTOR &
W. LEHR
-
Inside the Family
-
JB, San Francisco 1975.
***
Thay lời Kết Luận
Chiếc Bè để qua
sông
Nhằm kết thúc cuốn sách « Huyền Sử Việt Nam :
Con Đường LUYỆN VÀNG của Con Rồng Cháu Tiên », tôi xin phép mượn lại
câu chuyện « Làm thế nào để bảo vệ Cái KHỐ », mà Anh Hương Vĩnh ở
Canada, đă có nhă ư chia sẻ cho tôi. Chính Anh đă rút ra từ một tác
phẩm của Linh Mục Anthony de MELLO :
« Một minh sư cảm thấy phấn khởi bởi những tiến bộ tâm linh của đệ tử
cho đến nỗi nghĩ rằng anh ta không cần hướng dẫn thêm nữa nên đă để đệ
tử đó lại trong cái cḥi nho nhỏ của ḿnh ở bên bờ sông.
Mỗi sáng mai, sau lễ tắm gội, đệ tử đó treo cái khố lên cho khô. Đó là
vật sở hữu duy nhất của anh ! Ngày kia anh rất rầu rĩ v́ thấy cái khố
bị chuột gặm nát. Do đó, anh phải xin dân làng cho cái khố khác. Khi
lũ chuột gặm nhắm nhiều lỗ trong cái khố nầy nữa, đích thân anh nuôi
một con mèo. Anh không bị lũ chuột quấy phá nữa nhưng giờ đây, thêm
vào việc khất thực cho chính ḿnh, anh phải xin thêm sữa nữa.
Anh tự nghĩ : "Khất thực như thế quá phức tạp và cũng là gánh quá nặng
cho dân làng ; chi bằng ta nuôi một con ḅ cái." Khi nuôi được ḅ, anh
phải đi xin cỏ khô. Anh tự nghĩ : "Cuốc đất trồng cỏ quanh cḥi của
ḿnh dễơ quá." Nhưng điều đó cũng quá phiền phức v́ anh không c̣n bao
nhiêu thời giờ để chiêm niệm. V́ vậy anh đă mướn nông dân cuốc đất
trồng cỏ cho anh. Bây giờ đây phải trông nom đám nông dân đă trở nên
những công việc lắt nhắt nên anh đă cưới vợ để chia sẻ công việc nầy
với anh. Dĩ nhiên, chẳng bao lâu, anh đă trở nên một trong những người
giàu có nhất làng.
Nhiều năm sau, minh sư của anh ta t́nh cờ đi ngang qua đó và rất đỗi
ngạc nhiên khi thấy một ṭa nhà nguy nga tráng lệ ở nơi mà xưa kia là
cái cḥi được dựng lên. Ông hỏi một người giúp việc : "Đây chẳng phải
là nơi mà một đệ tử của tôi thường sống chăng ?"
Trước khi được trả lời, chính người đệ tử xuất hiện. Minh sư hỏi :
‘Con ơi, sao ra nông nỗi nầy ?’
Chàng thanh niên trả lời : "Thưa thầy, thầy sẽ không tin nổi, nhưng
không có cách nào khác để con có thể bảo vệ cái khố của con !"
Nếu ngày hôm
nay, Đức Phật hay là Đức Kitô hiện h́nh, đi ngang qua những xóm nghèo
và thấy mọc lên chan chan « những Công Tŕnh », những « Tháp Ba Ben »
ngổn ngang, đồ sộ và giàu sang, bên cạnh những túp lều rách nát...
chắc chắn các Ngài cũng sẽ hỏi mỗi người trong chúng ta : « Con ơi,
sao ra nông nỗi nầy ? ». Nông nỗi có nghĩa là những cớ sự chướng tai,
gai mắt, không hợp t́nh, hợp lư, không « nhập thể làm người » ở giữa
ḷng đại đa số dân chúng đang chân lấm tay bùn.
Nhằm trả lời, chàng thiền sinh kia đă nêu ra lư do : để bảo vệ cái khố
bị chuột gặm nhắm nhiều lỗ.
C̣n chúng ta, chúng ta sẽ đưa ra lư do nào ? Chúng ta bảo vệ « Cái
KHỐ » nào đây ?
*
Thực ra, theo
lối nh́n và cách suy tư của tôi, cái khố bị chuột cắn nhiều lỗ đă trở
thành một h́nh tượng lung linh, diệu vợi, trong tâm tưởng của chàng
thiền sinh kia. Cái khố ấy đánh dấu một điểm mốc khá tiến bộ, trên con
đường tu luyện và trong cuộc đời « vô trước », nghĩa là không c̣n
vướng mắc và buộc chặt vào trong ṿng mê cung của vật chất và của cải.
Tuy nhiên, v́ quá muốn bảo vệ cái h́nh hài bề ngoài, anh chàng thiền
sinh kia đă quên mất cái thực chất và thực tế của nội tâm. Cho nên,
cái ṿng mê cung vẫn luẩn quẩn trở lui lại, buộc trói và bóp nghẹt mọi
ư hướng vươn lên và giải thoát của anh. Anh đă lăng quên và dồn nén
con đường Luyện Vàng luôn luôn c̣n đó, có mặt trong quả tim của ḿnh.
*
Với những câu
chuyện HUYỀN SỬ Việt Nam, chúng ta cũng cần vun trồng và tưới tẩm một
thái độ tương tự. Thay v́ bảo vệ một « cái khố », chúng ta sống trọn
vẹn và hết ḿnh Con Đường Luyện Vàng, đang được cưu mang ấp ủ trong
tâm hồn. Hẳn thực Huyền Sử chỉ là những « chiếc bè ». Nhưng chiếc bè
Huyền Sử giúp chúng ta vượt qua « bến bờ bên kia », t́m lại mặt
mũi uyên nguyên của ḿnh và của mỗi người anh chị em đồng bào. Họ là
những Thánh Gióng, những Thần Kim Qui, những Cô Tấm, Cô Cám, những
Hoàng Hậu Ỷ Lan, Lư Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trăi... Chúng
ta sinh ra để Đồng Cảm và Đồng Hành với họ, trên mỗi chặng đường của
Quê Hương. Họ là Nước, là Non. Là Sơn, là Thủy. Cùng với chúng ta, họ
đang làm nên NON NƯỚC và Núi Sông.
Ngoài ra, có
những vấn đề khắc nghiệt... có những cơ hội oái oăm đang là yếu tố dẫn
khởi, biến họ thành những Sơn Tinh và Thủy Tinh, đang lôi kéo nhau đi
vào con đường xung đột, hận thù và chiến tranh. Nhưng thực ra cả hai
bên đều đáng thương và cần T́nh Thương của chúng ta, v́ cả hai đang bị
khổ đau nghiền nát, trong ḷng cuộc đời. Chúng ta hăy làm những con
người có khả năng bắc lại « Nhịp Cầu Hiểu Biết và Yêu Thương », để hai
bên bờ tả ngạn và hữu ngạn có thể nh́n nhau, gặp nhau và cùng nhau đi
theo một ḍng chảy của Quê Hương
Một cách nào đó, tôi không ngần ngại gọi những câu chuyện Huyền Sử là
những « Chiếc Bè giúp chúng ta qua sông ». Đó là những h́nh tượng lung
linh và tuyệt vời trong tâm hồn, nhưng
không có một bề mặt sáng chói và ḷe loẹt. Những h́nh tượng ấy
đang ngày ngày nhắc nhở cho chúng ta : từng mỗi người,
chúng ta không
là ǵ cả. Nhưng khi họp nhau lại, chúng ta trở thành trọng đại và cao
cả :
« Ánh mắt con
là cả một Bầu Trời,
« Quả tim con
là Nguồn Suối không bao giờ cạn vơi ».
Nói khác đi,
chúng ta là Quan Thế Âm, một vị Bồ Tát « thiên thủ, thiên nhăn » :
« Con là ai ?
Hạt bụi giữa đất trời, vũ trụ.
« Nhưng đời con
gây động chuyển hằng ngàn tinh tú.
« Con ra đi, mở
rộng nhiều con đường... t́nh bạn,
« Con mang về
hạnh phúc tṛn đầy và viên măn ».
Riêng tôi,
trong ḷng Quê Hương, tôi chỉ có tham vọng làm « Thằng Bờm », ngày
ngày ngồi trên lưng trâu, ca hát líu lo, như ngọn gió thoảng :
« Tôi muốn hóa
thân thành gió,
« Thổi ào ạt
khắp Non Sông,
« Dập tắt những
ngọn lửa nồng
« Của chiến
tranh, hận thù và thiên kiến...
« Tôi muốn hóa
thân thành gió,
« Mang hơi mát
cho anh chị em đồng bào,
« Không phân
biệt giàu nghèo,
« Không kỳ thị
tôn giáo,
« Không chia rẽ
Bắc, Trung, Nam...
« Kêu mời sống
trung thực và hiên ngang làm,
« Không ỏm tỏi,
không eo sèo như loài cưởng sáo.
« Tôi muốn hóa
thân thành gió,
« Mang an lạc
cho ḷng người khổ đau,
« Mang ủi an
cho tâm hồn cô quạnh,
« Mang hơi ấm
cho những vùng đất rét lạnh,
« Mang đường đi
cho những ai đang phân vân rối loạn,
« Trước những
ngă ba đường cô đơn và hoạn nạn.
« Gió đến từ
Trời Xanh của Bà Âu Cơ,
« Gió thổi về
từ ḷng Biển Khơi của Lạc Long Quân,
« Gió ru... như
giọng ḥ ca dao của Mẹ,
« Gió nhẹ...
như tiếng nói của người t́nh đang thầm th́ và thỏ thẻ... ».
Lausanne, Tháng 6 năm 2004
Cùng một tác giả
Trong Tủ Sách T́nh Người, Lausanne Thụy Sĩ :
1. Đường
vào Nội Tâm với Phân Tâm Học, 1997
2. Phát
huy Nhân Lực, 1998
3. Đối
Thoại : Quê Hương T́nh Người, 1999
4. Lắng
Nghe, 1999
5. Quan hệ
Mẹ-Con, 2000
6. Tự Tin,
2000
7. Khung
Trời Mở Rộng, 2000
8. Nguyễn
Trăi và vấn đề giáo dục con cái, 2001
9. Bản đồ
Tâm Lư và Tư Duy sáu màu, 2002
10. Tư Duy
và Hành Động, 2002
11. Đồng Cảm
để Đồng Hành, 2003
12. Sơn Tinh
và Thủy Tinh : Hai con đường một Nước Non, 2003
13. Le
projet pédago-éducatif, 1997
Trong Định
Hướng Tùng Thư, Strasbourg Pháp :
14. Đối
Thoại với các Tôn Giáo, 1998
15. Nguyễn
Trăi : Một Tấm Ḷng, 2001.
Tất cả mọi tác
phẩm trên đây đều được nộp lưu chiếu tại hai thư viện Thụy Sĩ :
-
Bibliothèque
Nationale Suisse, Hallwyuistrasse 15, 3003 Berne.
-
Bibliothèque
Cantonale et Universitaire - Lausanne, Place de la Riponne 6, 1000
Lausanne 17.
THÁI ĐẮC XUÂN
-
100 Truyện cổ tích Việt Nam
-
Nhà Xb Hà Nội, 2000, tr. 383 số 82.
FERAY YVELINE
-
Vạn Xuân
-
dịch giả : NGUYỄN KHẮC DƯƠNG
-
Nhà Xb Văn Học và Sudestasie 1996, tr. 1000.
NGUYỄN VĂN THÀNH
-
Đường vào Nội Tâm, với Phân Tâm Học
-
Lausanne, T́nh Người 1997.
"Cái tôi nhỏ bé, hẹp ḥi và thiển cận, chỉ phản ứng" ngược lại với
"cái Bản Thể cao cả, đại lượng, biết nh́n xa thấy rộng và sáng
tạo". Bên này là "the Ego" trong tiếng Anh, và bên kia là "the
Self", trong tiến tŕnh làm người, từ giai đoạn lệ thuộc, ấu trĩ
đến giai đoạn trưởng thành, có tinh thần liên đới, đồng trách
nhiệm với tha nhân.
NGUYỄN VĂN THÀNH
-
Khung Trời Mở Rộng
-
Lausanne,
T́nh Người, 2000.
-
Đồng Cảm để Đồng Hành
-
Lausanne,
T́nh Người, 2003.
-
Sơn Tinh và Thủy Tinh : hai con đường, MỘT Nước Non
-
Lausanne,
T́nh Người,
2003.
NGUYỄN VĂN THÀNH - Tấm và Cám - xem tập sách « Trong Đức
Kitô
»
- Định Hướng Tùng Thư, Xuân 2001, tr 47.
NGUYỄN VĂN THÀNH -
Đồng Cảm để Đồng Hành
- T́nh Người, Lausanne 2003.
NGUYỄN VĂN THÀNH -
Sơn Tinh và Thủy Tinh : HAI con đường, MỘT Nước Non
- T́nh Người, Lausanne Mùa Thu 2003.
NGUYỄN VĂN THÀNH -
Khung Trời Mở Rộng
- T́nh Người, Lausanne Hè 2000. N.B. Trong cuốn sách nầy,
xin xem Phần II tr.75. Một cách đặc biệt, phần đặt câu hỏi, sau
khi lắng nghe lời phát biểu của kẻ khác, tr.144.
BURNS D. - Ten days to Great Self-Esteem - Vermilion London
2000, tr. 136.
CUELHO P. - The Alchemist - Harper, San Francisco 1994,
tr.158.
COVER St. R. - The 7 Habits of Highly Effective People -
Simon & Schuster, London 1992.
NGUYỄN VĂN THÀNH - Sơn Tinh và Thủy Tinh : Hai con đường, MỘT
Nước Non - Tủ Sách T́nh Người, Lausanne 2003.
HAY L.L. - Love yourself, Heal your life - Eden Grove,
London 1990.
GRAY J. - What you feel, you can heal - Heart, CA 1984.
JAMPOLSKY G. G. - Change your mind, change your life -
Bantam Books, New-York 1991.
- Love is the Answer
- Bantam Boks, New-York 1990, tr. 234.
J.J. CRÈVECOEUR - Relations et jeux de pouvoir - Équinoxe
21, Toulouse 1999, 539 tr.
100 bài thơ t́nh - Nhà Xb Giáo dục, Hà Nội 1993.
Stephen R. COVEY - The 7 Habits of highly effective people
- Simon & Schuster, London 1989, 358 tr.
D. STONES - Difficult conversations - Michael Joseph,
London 1999, 250 tr.
M.B. ROSENBERG - Nonviolent Communication - Puddle
Dancer Press, CA 2001, 204 tr.
Roger FISHER - Getting together - Business Books, London
1989, 213tr.
Roger FISHER - Getting to Yes - Penguin Books,
N.Y. 1981, 1991, 200 tr.
Roger FISHER - Beyond Machiavelli : Tools for coping with
conflict - Harvard University Press, London 1994, 151 tr.
NGUYỄN VĂN THÀNH - Đồng Cảm để Đồng Hành - T́nh Người 2003,
276 tr.
GOLEMAN D. – Emotional Intelligence, 2 vol.
–
Bantam Books, New York 1996.
STEINER C. – Le conte chaud et doux des chaudoudoux –
Illustré par PEF – InterEditions, Paris 1984.
BERNE E. – Analyse transactionnelle et Psychothérapie – PB
Payot Paris 1971.
HƯƠNG VĨNH - Ai lên Núi Chúa 1,2,3 và 4 trong Nguyệt San
Dấn Thân năm 2004, Houston U.S.A.
|