|
Phép Làm Văn Tế |
Khải Chính Phạm Kim Thư, Canada |
I. Định NghĩaVăn tế là bài văn được đọc trong khi cúng tế với nội dung nói về tính nết, công đức, sự nghiệp, và kỷ niệm của tiền nhân hay người thân mới qua đời để tỏ tấm ḷng ngư"ng mộ và thương tiếc của người sống đối với người chết. II. Cách Bố Cục của Một Bài Văn Tế Thường Được Chia Ra Làm Ba Phần: 1. Phần mở bài Phần mở bài của bài văn tế thường dùng để nói về lai lịch của người quá cố và ngày giỗ (huư nhật) của họ, ngày tháng năm và địa điểm tổ chức cúng tế, và sự liên hệ giữa người sống và người chết. Phần mở bài này thường bắt đầu bằng chữ "Duy" (Duy Việt Nam Quốc Lịch... Duy Đại Nam Quốc) hay các nhóm chữ như: "Vọng tưởng Đấng Ngàn Xưa," "Than ôi!" "Than rằng," hay "Thương ôi!" Sau đó là một đoạn thơ hay văn để mở đầu cho bài văn tế. 2. Phần nói về tính nết, công đức, sự nghiệp,và kỷ niệm của tiền nhân hay của người thân đă qua đời. Phần này thường bắt đầu bằng các từ như "Nhớ ơn Quốc Tổ," "Nhớ ơn xưa," "Chúng con hằng nhớ," "Nhớ cha (mẹ) xưa," hay "Nhớ bạn (cụ, bác, chú, cô, hay cậu) xưa," v.v. Sau đó là các đoạn thơ hay văn diễn tả tính nết, công đức, sự nghiệp, và kỷ niệm của người quá cố. 3. Phần nói về tấm ḷng đau khổ, thương tiếc, kính trọng, cầu khẩn, và ước nguyện của những người c̣n sống đối với người đă qua đời. Phần này thường bắt đầu bằng các chữ: "Nhưng nay thẹn nỗi ," "Ôi!" "Giờ đây," "Giờ phút này," "Chúng con nay," hay "Bản chức nay," v.v. Sau đó là các đoạn văn thơ diễn tả ḷng thương tiếc, kính trọng, cầu khẩn, và ước mong của người sống đối với người quá cố. Ở cuối bài văn tế thường kết thúc bằng từ "cung duy" (nghĩa là tỏ ḷng kính cẩn): "Cung duy Hoàng Đế bệ hạ") và từ "thượng hưởng" (cung kính xin hưởng). III. Các Thể Văn Tế : Bài văn tế có thể được làm theo các thể sau1. Văn Xuôi Lối văn xuôi là loại văn viết theo văn phạm và cú pháp riêng, không cần vần và niêm luật của phép làm thơ. Tuy nhiên, nếu ta dùng văn xuôi để viết văn tế, câu văn phải có âm hưởng và tiết tấu mới làm cảm động ḷng người. Sau đây là đoạn văn xuôi trong bài "Văn Tế Quốc Tổ Hùng Vương" của Khải Chính: Duy Việt Nam quốc lịch, năm thứ 4881, kể từ đời Hùng Vương Đệ Nhất nguyên niên. Nay, tiết xuân tháng ba, ngày mùng mười năm Nhâm Ngọ, húy nhật Quốc Tổ Hùng Vương. Chúng con ḍng dơi Lạc Hồng, v́ loài Cộng phỉ xâm lăng phải xa nơi đất Tổ, thành tâm tụ họp nơi đây hải ngoại, lễ bạc ḷng thành, muôn người như một, thành kính cung nghinh. Quốc Tổ linh thiêng chứng giám! 2. Thể Tán Thể tán là loại bài thơ ngắn gồm từ 4 đến 8 câu mà mỗi câu gồm bốn hay năm chữ có vần có đối hoặc không đối. Thể tán này dùng để khen ngợi phẩm hạnh và công đức của người. Sau đây là bài "Văn Tế Một Vị Công Chúa" (Làm theo lối Tán, Nguyên tác bằng Hán văn của Mạc Đĩnh Chi, Khải Chính chuyển ngữ): Đám mây trên trời xanh / Bông tuyết trong ḷ trời,/ Cành hoa nơi Thượng Uyển,/ Bóng nguyệt tại ao tiên, / Ôi! mây tản, tuyết tan, / Hoa tàn, nguyệt khuyết! 3. Phú Cổ Thể Lối phú cổ thể (thể cũ) là loại bài văn tả cảnh có trước đời nhà Đường (618-907) bên Tàu. Đây là một bài văn xuôi có vần hay không có vần, có đối hay không có đối cũng được, nhưng phải có âm hưởng và tiết tấu để khi được đọc lên, bài văn tế có thể làm cảm động ḷng người. Lối phú cổ thể này c̣n được gọi là "phú lưu thủy" (nước chảy). Sau đây là một đoạn trong bài "Văn Tế Quốc Tổ Hùng Vương" của Khải Chính làm theo lối phú cổ thể hay là phú lưu thủy: Chúng con hằng nhớ côngù ơn Quốc Tổ, gần năm ngàn năm xưa Tổ Hùng dựng nghiệp, mở nước Văn Lang, dựng nền văn hiến, thủ đô Phong Châu, quan văn Lạc Hầu, quan vơ Lạc Tướng, hoàng tử Quan Lang, công chúa Mị Lương. Hùng Vương mười tám đời liền, cha truyền con nối, rừng núi sông biển đất trời, bát ngát hương hoa rạng ngời công đức, ngàn đời hưởng phước Tiên Long, đời đời hănh diện, dân Việt từ đó hiển vinh. 4. Phú Đường Luật: Lối phú Đường luật có từ đời nhà Đường bên Tàu. Lối phú Đường luật này có vần, có đối, và có niêm luật. Cách hiệp vần của lối phú Đường luật có thể là độc vận hay liên vận. Cách đặt câu trong lối phú Đường luật gồm các loại sau: - Câu 4 chữ hay 8 chữ: Mở nước Văn Lang(b) / Dựng nền Văn Hiến(t) /Trưng Vương hào hùng một cơi Trời Nam (b) / Quân Hán kinh hoàng cả vùng Đất Bắc.(t) - Câu Song Quan: Câu song quan là những câu có từ 5 chữ đến 9 chữ và viết được viết thành một đoạn liền: Có lẽ kiếp xưa chúng con đầy nghiệp chướng (t) / Nên kiếp này phải chịu bách chiết thiên ma!(b) - Câu Cách Cú: Câu cách cú là đoạn văn có hai vế, mỗi vế có hai câu, một câu ngắn, một câu dài, câu dài xen vào giữa hai câu ngắn, câu ngắn xen vào giữa hai câu dài nên gọi là "câu cách cú": Thái Tổ bền chí (t), Quân Minh tởn vía kinh hồn (b). Quang Trung trí mưu (b),Quân Thanh không c̣n mảnh giáp(t)- Câu Gối Hạc:Câu gối hạc là câu văn giống như đầu gối con chim hạc. Đó là hai vế câu đối mà mỗi vế có từ 3 đoạn trở lên trong đó một đoạn ngắn xen vào giữa hai đoạn dài giống như cái đầu gối ở giữa xương đùi và xương ống quyển của con chim hạc cho nên người ta gọi là "gối hạc" hay "hạc tất":Đất nước chúng con trải bao oan nghiệt (t), giặc Tàu giặcTây giặc Nhật (t), nhưng giặc Việt Minh độc ác nhất đời!(b) Dân Việt chúng con bao nỗi điêu linh (b) vong quốc thống khổ ngục tù (b), do bọn Việt Cộng gây ra tất cả!(t) 5. Thể Song Thất Lục Bát: Thể song thất lục bát là một trong 3 thể văn riêng của người Việt gồm lục bát, song thất lục bát, và hát nói. Thể song thất lục bát gồm hai câu 7 chữ, một câu 6 chữ, và một câu 8 chữ. Sau đây là một đoạn thơ song thất lục bát trong bài "Văn Tế Quốc Tổ Hùng Vương" của Khải Chính: Bọn Cộng Sản xâm lăng đất Tổ, / Chúng con phải rời bỏ quê hương, / T́m tự do chốn tha phương, / Trau giồi kế hoạch diệt phường Việt Minh. IV. Bài Văn Tế Làm Theo Thể Tổng HợpVăn Tế Quốc Tổ Hùng Vương Duy Việt Nam quốc lịch, năm thứ 4881(1), kể từ đời Hùng Vương Đệ Nhất nguyên niên. Nay tiết xuân tháng ba, ngày mùng mười năm Nhâm Ngọ, húy nhật Quốc Tổ Hùng Vương. Chúng con ḍng dơi Lạc Hồng, v́ loài Cộng phỉ xâm lăng phải xa nơi đất Tổ, thành tâm tụ họp nơi đây hải ngoại, lễ bạc ḷng thành, muôn người như một, thành kính cung nghinh. Quốc Tổ linh thiêng chứng giám! Nhớ ơn Quốc Tổ, gần năm ngàn năm xưa Tổ Hùng dựng nghiệp, mở nước Văn Lang, dựng nền văn hiến, thủ đô Phong Châu, quan văn Lạc Hầu, quan vơ Lạc Tướng, hoàng tử Quan Lang, công chúa Mị Lương. Hùng Vương mười tám đời liền, cha truyền con nối, rừng núi sông biển đất trời, bát ngát hương hoa rạng ngời công đức, ngàn đời hưởng phước Tiên Long, đời đời hănh diện, dân Việt từ đó hiển vinh. Chúng con hằng nhớ "vật gốc trời, người gốc tổ" (2) cây kia có gốc, nước nọ có nguồn. Từ Tiên Long đến Đinh Lê Lư Trần xây nền tự chủ, "Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có" (3). Phù Đổng Thiên Vương, ngựa sắt roi sắt, với tre Đằng Ngà (4), giết sạch giặc Ân, uy danh lẫy lừng, ngàn đời hiếm có. Trưng Vương oanh liệt một cơi trời Nam, quân Hán kinh hoàng cả vùng đất Bắc. Hưng Đạo Vương tài nghệ thật siêu quần, quân Mông Cổ chỉ thua nơi đất Việt. Thái Tổ bền chí, quân Minh tởn vía kinh hồn. Quang Trung trí mưu, quân Thanh không c̣n mảnh giáp. Thời kháng Pháp, Hoàng Hoa Thám hùm thiêng nơi Yên Thế, Cần Vương Văn Thân quyết chí chống Tây; Nguyễn Thái Học anh hùng bất khuất, truyền lại danh ngôn thật lẫy lừng: "không thành thân th́ thành nhân" (5), giúp cho hậu thế tu thân nên người. Nhưng nay thẹn nỗi, bọn Cộng Sản xâm lăng đất Tổ, chúng con phải rời bỏ quê hương, t́m tự do chốn tha phương, trau giồi kế hoạch diệt phường Việt Minh. Bọn Việt Minh gian manh khát máu, táng tận lương tâm, mặt người dạ thú, phá hủy nếp cũ, thờ lũ ngoại bang. Toàn dân Việt muôn vàn sầu khổ, người ở lại cuộc đời nô lệ, kẻ ra đi thân phận lạc loài! Đất nước chúng con trải bao oan nghiệt, giặc Tàu giặc Tây giặc Nhật, nhưng giặc Việt Minh độc ác nhất đời! Dân Việt chúng con bao nỗi điêu linh, vong quốc thống khổ ngục tù, do bọn Việt Cộng gây ra tất cả! Mới đây, lũ Việt gian Cộng Sản cắt đất biển tổ tiên dâng cho quân Trung Cộng. Chúng bán lương dân cho bè lũ ngoại bang, chúng vùi tuổi trẻ dưới gót giầy xâm lược. Dân quốc nội chúng biến thành cầm thú, lũ ngoại bang chúng coi tựa cha ông. Có lẽ kiếp xưa chúng con đầy nghiệp chướng, nên kiếp này phải chịu bách chiết thiên ma. Kính cầu Quốc Tổ giúp dân Lạc Hồng, giải trừ Quỉ Đỏ, dựng cờ dân chủ, xây dựng tự do, mở trí cho kẻ ham danh tham quyền chuộng lợi, độ tŕ cho người yêu nước thành khẩn nhiệt tâm, giúp kẻ lạc đường quay về truyền thống, dân chủ tự do nhân bản hài ḥa, đồng thuận thương yêu kính trên trọng dưới, giúp toàn dân thoát ṿng nghiệp chướng và tránh khỏi bách chiết thiên ma, giúp cho đại nghĩa h́nh thành và Việt Nam quang phục. Chúng con nguyện sẽ "đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo" (6). Dân trong nước quyết tâm trừ Quỉ Đỏ, thâu lại đất đai bảo toàn lănh thổ. Người Việt tha hương trừ khử Cộng nô, dốc tâm dựng lại cơ đồ Việt Nam. Nền tự do sáng ngời đất Tổ, đức hiếu trung rạng rỡ dân Nam, khắp nơi rợp bóng cờ Vàng, con dân Quốc Tổ ngày càng hiển vinh. Phút tôn nghiêm này, với tấm ḷng thành, thắp nén hương thơm, chúng con kính cầu Quốc Tổ linh thiêng chứng giám. Quốc Tổ thượng đẳng anh linh cung duy thượng hưởng!
Khải Chính Phạm Kim Thư phụng soạn ----------------------------- Ghi chú: (1) 4881: 2879 (năm Hùng Vương dựng nước) + 2002 (2) Lời Lê Thái Tổ c̣n truyền lại trong dân gian (3) Nguyễn Trăi, "B́nh Ngô Đại Cáo," (Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, quyển I) (4) Phan Kế Bính, Nam Hải Dị Nhân: Tre Đằng Ngà là giống tre ở Làng Cháy, Huyện Gia B́nh, Bắc Ninh. Trong lúc đánh giặc Ân, Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre Đằng Ngà để đánh giặc. Lửa do ngựa sắt phun ra làm cháy tre và sau vỏ tre trở thành màu ngà. Do đó dân địa phương đặt tên loại tre này là tre Đằng Ngà. (5) Lời Nguyễn Thái Học c̣n truyền trong dân gian. (6) Nguyễn Trăi, "B́nh Ngô Đại Cáo," (Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, quyển I) Tài liệu tham khảo: Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Trung Tâm Học Liệu, Bộ Giáo Dục VNCH, tái bản lần thứ mười tại Sài G̣n, Việt Nam, năm 1968.
|