Luận Về Vai Tṛ của Phụ Nữ Việt Nam

 

Trong Việc Xây Dựng Gia  Đ́nh, Cộng Đồng

 và Đất Nước

 

 

Khải Chính Phạm Kim Thư

 

I.                  Truyền Thống Đàn Bà Việt Nam từ Trước Tháng 4 Năm 1975

 

1.      Truyền Thống Anh Thư Của Đàn Bà Nước Nam Trước Tháng 4 Năm 1975

a. Gương Hai Bà

Nước ta dưới thời bắc thuộc lần thứ nhất, từ năm 111 tr. Tây lịch đến năm 39 Tây lịch, (nhà Đông Hán), ở huyện Mê Linh đất Phong Châu (thuộc làng Hạ Lôi, huyện Yên Lăng, tỉnh Phúc Yên, Bắc Phần), có quan Lạc Tướng sinh được hai người con gái, người chị tên là Trưng Trắc và người em tên là Trưng Nhị. Bà chị lấy ông Thi Sách, ḍng dơi vua Hùng Vương.

Năm Giáp Ngọ (34 Tây lịch), Tô Định sang làm thái thú quận Giao Chỉ. Tên thái thú người Tàu  này đă giết ông Thi Sách. V́ thù nhà nợ nước, bà Trưng Trắc và Trưng Nhị chiêu tập được hơn 10 vạn (100 ngàn) binh mă để đánh đuổi quân Tô Định. Tô Định thua phải chạy về Tàu. Hai Bà đă hạ được 65 thành tŕ của địch ở xứ Lĩnh Nam thuộc Quảng Đông và Quảng Tây nước Tàu lúc bấy giờ. Liền sau đó, Hai Bà tự xưng làm vua gọi là Trưng Vương và đóng đô ở Mê Linh vào năm 40 Tây lịch. Hai Bà làm vua được 3 năm th́ bị Mă Viện, một danh tướng nước Tàu tài kiêm văn vơ, sang đánh. Hai Bà thua phải chạy đến xă Hát Môn, huyện Phúc Lộc, tỉnh Sơn Tây. Dù bị thua nhưng Hai Bà không chịu hàng giặc nên đă gieo ḿnh xuống sông Hát Giang tự tận (chỗ sông Đáy tiếp vào sông Hồng Hà). Bấy giờ là ngày 6 tháng 2 năm Quí Măo, tức năm 43 Tây lịch.

Qua việc chiến thắng quân Tô Định, Hai Bà không những đă làm cho vua tôi nhà Hán phải lo sợ mà c̣n tạo tiếng thơm muôn đời cho toàn dân Việt. Chưa có người đàn bà nào trên thế giới có thành tích đánh đuổi quân xâm lăng để bảo vệ tổ quốc và tạo được sự nghiệp hiển hách như Hai Bà. Thành tích của Hai Bà đă tạo cho địa vị đàn bà Việt  hơn hẳn địa vị đàn bà ở khắp nơi trên thế giới. Thật là một niềm hănh diện lớn cho chúng ta được làm con cháu Hai Bà. Hiện nay tại xă Hát Môn, huyện Phú Thọ, tỉnh Sơn Tây có đền thờ Hai Bà. Vua Anh Tôn nhà Lư cho lập miếu thờ Hai Bà và phong sắc là “Trinh Linh Chi Phu Nhân.” Đến đời nhà Trần, nhà vua lại phong thêm tám chữ: “Uy Liệt Chế Thắng Thuần Trinh Bảo Thuận.”

Hàng năm cứ đến ngày 6 tháng 2 ta, con dân đất Việt đều làm lễ tưởng niệm Hai Bà rất trọng thể.

Sau Hai Bà c̣n có biết bao vị anh thư có công lớn với quốc gia dân tộc như Bà Triệu, Công Chúa Huyền Trân, Cô Giang, Cô Bắc, và mới đây ở hải ngoại này, chúng ta có nữ anh hùng Nguyễn Thị Ngọc Hạnh. 

b. Gương Bà Triệu

Vào năm Mậu Th́n (248 Tây lịch), năm thứ 11 nhà Đông Ngô bên Tàu, Ngô chủ sai Lục Dận sang làm thứ sử đất Giao Châu. Lúc bấy giờ  ở quận Cửu Chân có người đàn bà  tên  là Triệu Thị Chinh, c̣n gọi là Triệu Trinh Nương hay Bà Triệu (sử xưa của ta và sử Tàu thường chép là Triệu Ẩu). Bà là một người có sức mạnh, có chí khí, và lắm mưu lược. Bà sống trong núi và đă chiêu mộ được hơn 1000 tráng sĩ làm thủ hạ. Bà thường nói với anh bà là Triệu Quốc Đạt rằng: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém cá tràng ḱnh ở Bể Đông, và quét sạch bờ cơi để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu cong lưng để làm t́ thiếp người ta.”

Quan lại nhà Ngô lúc bấy giờ thật là dă man, chúng đă đàn áp dân ta một cách rất tàn ác và làm cho dân ta khổ sở trăm đường nên ông Triệu Quốc Đạt đă khởi binh đánh quận Cửu Chân. Bà đem quân ra đánh giúp anh. Quân sĩ của Triệu Quốc Đạt thấy bà làm tướng rất can đảm nên mới tôn bà làm chủ.   Khi ra trận, bà đă xưng là Nhụy Kiều Tướng Quân, mặc áo giáp vàng, và cưỡi voi bạch trông rất là uy nghi. Lúc đầu bà đánh đâu thắng đó và đă chiếm giữ được quận Cửu Chân. Quân Tàu khiếp sợ tôn bà là Lệ Hải Bà Vương. Bà chống với quân nhà Ngô được sáu tháng. Sau v́ quân ít thế cô, bà bị thua và phải rút quân về xă Bồ Điền (tức xă Phú Điền, huyện Mỹ Hóa, tỉnh Thanh Hóa) rồi tự tử ở đó. Lúc bấy giờ bà mới được 23 tuổi.  Về sau Vua Nam Đế đời Tiền Lư (544- 548 Tây lịch) nhớ ơn bà đă sai lập đền thờ và phong cho bà là “Bật Chính Anh Liệt Hùng Tài Trinh Nhất Phu Nhân” (chữ Bật trong câu này có nghĩa là thơm tho). 

 

c. Gương Công Chúa Huyền Trân

Công Chúa Huyền Trân  có công mở mang bờ cơi nước ta trong việc hy sinh hạnh phúc cá nhân để nhận lời lấy vua Chiêm là Chế Mân. Lúc bấy giờ, 1301, theo dă sử, Huyền Trân Công Chúa đă có người yêu là Trần Khắc Chung, nhưng Thượng Hoàng lại hứa gả  nàng cho vua Chiêm. V́ lễ cưới của vua Chiêm là châu Ô và châu Ri nên Huyền Trân Công Chúa đă vui vẻ nhận lời. Vào năm 1306 vua Anh Tông cho công chúa về Chiêm Thành, rồi đến năm 1307 nhà vua thu nhận hai châu Ô và châu Ri để đổi thành Thuận Châu và Hóa Châu và đặt quan cai trị.

Trời chẳng phụ ḷng người, sau khi Huyền Trân Công Chúa lấy Chế Mân chưa được một năm th́ Chế Mân chết. Để tránh cho Huyền Trân khỏi bị hỏa thiêu chết theo Chế Mân, vua Anh Tông sai Trần Khắc Chung sang gặp công chúa và đă đưa được công chúa về nước.

Đây là truyền thống hy sinh cho quốc gia dân tộc và truyền thống đặt việc nước trên việc nhà và hạnh phúc cá nhân của đàn bà Việt Nam.

 

d. Gương Cô Giang Cô Bắc

Trong thời kỳ chống quân xâm lăng Pháp, chúng ta  có Cô Giang (Nguyễn thị Giang) và Cô Bắc (Nguyễn Thị Bắc)  đă hoạt động tích cực chống lại quân xâm lăng Pháp. Hai cô là đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng. 

 

            đ. Gương Bà Nguyễn Thị Ngọc Hạnh 

Vào tháng 5 năm 2000,  nữ anh hùng Nguyễn Thị Ngọc Hạnh đă hiên ngang thiêu rụi lá đại kỳ của bọn Việt Cộng ở trước dinh Tổng Thống Pháp tại Paris trong lúc đoàn xe hộ tống tên Tổng Bí thư Việt Cộng Lê Khả Phiêu đến ngay trước cổng điện Élysées. Bà đă làm cho tên Lê Khả Phiêu mất mặt trong chuyến thăm nước Pháp kỳ này. Sau đó 3 tháng, tức là vào ngày 31 tháng 8, 2000, bà Nguyễn Thị Ngọc Hạnh lại đốt lá đại kỳ của bọn Việt Cộng và đồng thời đă thiêu rụi căn pḥng tiếp khách  trong ṭa đại sứ của chúng tại Luân Đôn ở Anh Quốc.  Sau đó bà Ngọc Hạnh chạy ra ngoài và căng các biểu ngữ chống chế độ Cộng Sản Việt Nam. Một màn đặc biệt hơn nữa là bà Ngọc Hạnh đă treo một lá Quốc Kỳ Việt Nam Tự Do Nền Vàng Ba Sọc Đỏ lên ngay trên cổng chính ra vào của ṭa đại sứ bọn Việt Cộng. Với các thành tích này, bà Nguyễn Thị Ngọc Hạnh đă làm cho bọn Việt Cộng phải nát đởm kinh hồn trước hành động tranh đấu một cách phi thường của bà để đ̣i tự do dân chủ và nhân quyền cho toàn dân Việt.

Theo Tạp Chí Cách Mạng, số 22 của Đại Việt Cách Mạng Đảng th́ sau một thời gian bị tạm giữ tại ty cảnh sát Chelsea ở Luân Đôn tại Anh Quốc, bà Ngọc Hạnh đă  bị đưa ra ṭa v́ bọn Cộng Sản đưa đơn kiện bà về các tội khủng bố, mưu sát tên đại sứ của chúng là Nguyễn Hải Bằng, và cố t́nh gây thiệt hại về nhân mạng và vật chất cho sứ quán của bọn Cộng Sản.

Trong phiên ṭa  đầu tiên vào ngày 15/9/2000, các luật sư biện hộ cho bà Ngọc Hạnh là do chính phủ Anh Quốc chỉ định. Đó là các luật sư Lisa Rose và J. F. Passley. Các luật sư này không nắm được t́nh h́nh và cũng không am tường về tính chất của vụ án. Thêm vào đó tên thông dịch viên lại có phần thiên vị về phía ṭa đại sứ  Việt Cộng của hắn. Với diễn biến xảy ra hoàn toàn bất lợi cho bà Ngọc Hạnh nên trước khi phiên ṭa thứ hai xử vào ngày 13/10/2000, bà Josette De Roland Peel, đương kim Tổng Thư Kư của Tổ Chức The British Committee For Free Vietnam, Laos, Cambodia, and Burma, v́ cảm phục hành động tranh đấu để đ̣i tự do dân chủ và nhân quyền cho dân Việt của bà Ngọc Hạnh, đă nhờ Luật Sư Birnberg Peirce đứng ra t́nh nguyện biện hộ cho bà Ngọc Hạnh trong các phiên ṭa ngày 13/10/2000, 27/10/2000, và  31/10/2000 tại ṭa án West London Magistrate Court, London, Anh Quốc. Sau đó, bà Ngọc Hạnh lại được đưa ra xử ở ṭa án Central Criminal Court “Old Bailey,” London, EC4M- 7EH,  trong ngày 28/ 11/2000 và 15/2/2001.  Sau khi được tha bổng và trước khi về Pháp, bà Ngọc Hạnh phải nằm bệnh viện thêm một tháng nữa để điều trị những thương tích do nhân viên an ninh Việt Cộng tại ṭa đại sứ của bọn chúng ở Anh Quốc gây ra.

Luật Sư Peirce đă chứng minh trước ṭa rằng việc tranh đấu để đ̣i tự do dân chủ và nhân quyền cho nhân dân Việt Nam của bà Ngọc Hạnh là hành động ái quốc rất hợp t́nh lư đúng với xu thế thời đại. Luật Sư Peirce c̣n nhấn mạnh rằng việc tranh đấu của bà Ngọc Hạnh không những có lợi cho nhân dân Việt Nam mà c̣n có lợi cho toàn thể nhân dân thế giới trong cao trào tranh đấu cho tự do dân chủ. Cộng đồng Việt Nam hải ngoại ở khắp nơi trên thế giới đă phát động cuộc vận động vô cùng lớn lao trong việc can thiệp với chính phủ Anh Quốc và các chính phủ khác để  thả bà Ngọc Hạnh ra cũng như ủng hộ tinh thần lẫn vật chất cho bà Ngọc Hạnh, một nữ anh hùng của chúng ta. Cuối cùng bà Ngọc Hạnh đă được toà tha bổng để về đoàn tụ với gia đ́nh tại Pháp.

Một sự kiện hết sức đặc biệt trong phiên ṭa xử bà Ngọc Hạnh là ông Chánh Án Pontius đă ca ngợi bà Ngọc Hạnh như sau: “Bà là một người phụ nữ nhỏ nhắn, yếu đuối, nhưng hành động của bà lại hết sức cao cả và vĩ đại. Bà quả là một chiến sĩ đấu tranh vô cùng can đảm mà tôi rất cảm phục. Bà đă quên đi bản thân ḿnh để hy sinh tranh đấu cho quê hương Việt Nam yêu quư của bà. Nhân danh luật pháp Anh Quốc, tôi tuyên bố bà được tự do!” Ngoài ra, Luật Sư Peirce c̣n ngỏ lời cám ơn bà Ngọc Hạnh nữa. Thường th́ chỉ có thân chủ cám ơn luật sư biện hộ mà thôi, nhưng trong trường hợp này, sau khi bà Ngọc Hạnh cám ơn luật sư xong, ông Peirce, luật sư của bà lại nói rằng: “Trước hết tôi xin cám ơn bà đă cho tôi cái may mắn được dịp biện hộ cho bà, một nữ chiến sĩ đấu tranh cho tự do dân chủ và nhân quyền, một khát vọng của thời đại. Thứ đến, nhờ biện hộ cho bà, tôi mới được chứng kiến một sự kiện quá đặc biệt mà trên 25 năm phục vụ tại pháp đ́nh tôi chưa bao giờ thấy xảy ra. Đó là một vị quan ṭa đă ca ngợi ‘bị can’ ngay tại ṭa án.”   

Nữ anh hùng Nguyễn Thị Ngọc Hạnh quả đă làm rạng rỡ cho dân Việt và nước Việt Tự Do chúng ta trên chính trường quốc tế!  Bà Ngọc Hạnh đích thực là tấm gương sáng muôn đời cho toàn thể người Việt chống Cộng ở hải ngoại noi theo để tranh đấu giải thể chế độ Việt Cộng bạo tàn dă man ở trong nước hầu đem lại tự do dân chủ và nhân quyền cho toàn dân ta.

Ngoài các vị anh thư kể trên, người Việt chúng ta  c̣n có biết bao nhiêu những vị nữ lưu như Bà Ba Đề Thám và Bà Phan Bội Châu, v.v., đă từng giúp chồng rất đắc lực trong công cuộc cách mạng cứu nước giúp dân. Những  vị nữ lưu này quá nhiều mà chúng ta không thể kể hết được.

 

2. Truyền Thống Yêu Chồng Quư Con Và Săn Sóc Gia Đ́nh Của Đàn Bà Việt Nam trong Nước Trước Tháng 4 năm 1975

Từ ngàn xưa, người phụ nữ Việt đă giữ một vai tṛ hết sức quan trọng trong việc xây dựng gia đ́nh và xă hội. Người vợ lo việc trong nhà và quán xuyến mọi việc của gia đ́nh nên được phong là nội tướng. Việc bếp núc, theo nếp sống Việt, là nhiệm vụ của đàn bà đúng như câu ca dao sau: “Vắng đàn ông quạnh nhà, vắng đàn bà quạnh bếp.”  Cũng v́ thế mà vai tṛ người đàn bà càng trở nên quan trọng trong gia đ́nh. Không có sự chăm nom chu đáo của các bà th́ chồng con sẽ đói khổ và bị bệnh hoạn.

Mọi người trong gia đ́nh có được khỏe mạnh hay không là do người đàn bà có hoàn tất nhiệm vụ chuẩn bị đồ ăn thức uống một cách chu đáo hay không. Bạn bè của chồng con đến chơi nhà có được vui vẻ và thoải mái hay không cũng là do sự hiếu khách của người đàn bà trong gia đ́nh.   Không ǵ buồn cho khách của chồng bằng khi đến chơi nhà bạn mà không được vợ của bạn ra tươi cười chào hỏi và mời uống nước hay mời ở lại ăn cơm. Chính v́ thế mà người Việt chúng ta đă có câu tục ngữ: “Giầu về bạn, sang về vợ.”

Người đàn ông trong xă hội Việt Nam có nhiệm vụ chính đối với gia đ́nh là đi làm đem tiền về để giúp vợ lo việc chi tiêu trong gia đ́nh. Theo phong tục Việt, người vợ thường giữ vai tṛ của một thủ quỹ gia đ́nh. Trong trường hợp này, người vợ được gọi là tay ḥm ch́a khóa của chồng.

Người đàn bà Việt chỉ biết lo cho chồng, c̣n thân phận ḿnh th́ chẳng kể chi như đă được diễn tả trong câu ca dao sau: “V́ chàng cho nên thiếp phải mua mâm,/ Cả như thân thiếp, thiếp bốc ngầm trong niêu."

Gia đ́nh có hạnh phúc là gia đ́nh có người vợ giữ tiền bạc và lo việc chi tiêu cho cả nhà. Nếu người đàn ông giữ tiền và chỉ chi cho vợ tiền chợ búa th́ gia đ́nh đó sẽ lục đục lôi thôi. Tiền anh anh giữ tiền tôi tôi cầm th́ chả c̣n ǵ vui nữa. Người vợ sẽ t́m cách ḅn rút tiền của chồng càng nhiều cáng tốt để rồi: “Bây giờ tiền hết gạo không,/  Anh ơi trở lại mà trông lấy ḥm. / Bao giờ tiền có gạo c̣n, / Th́  tôi ở lại giữ ḥm cho anh.” Chữ "ḥm" trong trường hợp này là cái rương bằng gỗ để đựng quần áo, đồ dùng, và tiền bạc, chẳng hạn như ḥm tiền, ḥm quần áo.

Nếu người đàn ông mà đo lọ nước mắm đếm củ dưa hành th́ gia đ́nh đó sắp đến ngày mạt vận v́ người đàn ông đó đă đến lúc hết xài rồi và không c̣n ǵ xứng đáng là đấng trượng phu nữa.

Ở Việt Nam, trong các gia đ́nh làm nghề nông, người chồng chỉ biết lo làm việc ngoài đồng hay vườn tược trong khi  người vợ lo liệu mọi việc trong nhà, mua bán, giữ tiền bạc cho chồng, và c̣n phụ chồng lo việc đồng ruộng nữa. Người đàn ông chỉ biết làm và ăn nhậu, tiền c̣n hay hết cũng không hay. Nếu không có đàn bà lo liệu việc nhà bằng cách "ăn chắt để dành" và "thắt lưng buộc bụng" th́ thật là lôi thôi. Chính v́ thế mà tục ngữ có câu: “Chồng như giỏ, vợ như hom.”

Ngày xưa người đàn bà c̣n lo nuôi chồng ăn học nữa như đă được diễn tả trong các câu thơ (của Tú Xương)  và ca dao sau đây:

- Quanh năm buôn bán ở mom sông,/ Nuôi đủ năm con với một chồng. ( Chữ mom sông trong câu thơ trên có nghĩa là ven sông hay bờ sông.)

- Canh một dọn cửa dọn nhà,/ Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm,/ Canh tư bước sang canh năm,/ Tŕnh anh dậy học chứ nằm làm chi. 

- Em là con gái Phụng Thiên,/ Bán rau mua bút mua nghiên cho chồng./ Nữa mai chồng chiếm bảng rồng,/ Bơ công em tưới nước vun trồng cho rau. 

Không những thế, người đàn bà Việt Nam xưa c̣n lo mọi việc hiếu hỉ của gia đ́nh chồng cũng như  thay chồng lo việc hiếu thảo với bố mẹ chồng và gia đ́nh chồng. Trăm thứ việc về cúng kỵ và Tết nhất đều do một tay người đàn bà lo liệu. Ông chồng chỉ có biết đi làm tiền, ăn nhậu, và vui chơi. Nhờ sự dè sẻn của người đàn bà mà cả gia đ́nh được ở nhà cao cửa rộng, con cái được ăn mặc phủ phê, có “đồng ăn đồng để,” và được nở mày nở mặt với đời. Để diễn tả công lao của bà vợ, người Việt ta đă có câu tục ngữ  “của chồng công vợ.”  Thật là tuyệt vời!

Chính v́ thế mà người ta đă măïc nhiên công nhận nhiệm vụ rơ ràng của người đàn bà Việt là lo việc trông nom cửa nhà, dạy con, lo chợ búa nấu ăn, và lo việc hiếu hỉ. C̣n người chồng th́ lo việc quan việc nước và chịu trách nhiệm đi làm kiếm tiền đưa về nuôi gia đ́nh.

Sở dĩ người đàn bà hoàn thành được công việc nặng nhọc như vậy là do họ đă hấp thụ được nền nếp giáo dục lâu đời của xă hội Việt Nam. Đó là việc hết ḷng yêu thương và hy sinh cho chồng con, sống trọn vẹn cho đại gia đ́nh, lấy hiếu trinh làm lẽ sống, và coi việc đảm đang cùng thắt lưng buộc bụng lo cho gia đ́nh là phương trâm trong mọi sinh hoạt. Điều này đă được thể hiện trong các câu ca dao sau:

- Anh đi, em ở lại nhà,/ Hai vai gánh vác mẹ già con thơ./ Lầm than bao quản nắng mưa,/ Anh đi, anh liệu chen đua với đời.

- Đi đâu cho thiếp đi cùng,/ Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam. 

- Có con phải khổ v́ con,/ Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.

- Chàng đi đưa gói thiếp mang,/ Đưa gươm thiếp vác cho chàng đi không.

- Một ḿnh buôn tảo bán tần,/ Lo phần sưu thuế, lo phần chồng con.

- Gió đưa buồng hạnh rảnh rang,/ Tiếng nhơ thiếp chịu, để chàng danh thơm.

 

II. Người Đàn Bà Việt Trong Nếp Sống Hải Ngoại Hiện Nay

 

1. Thiên Chức  Đảm Dang của Đàn Bà Việt Nam

Đă quen với nếp sống cũ ở Việt Nam nên khi ra tới hải ngoại người đàn bà Việt thật là cơ cực v́ vừa phải trông nom việc gia đ́nh vừa phải đi làm kiếm thêm tiền trong khi người chồng vẫn cứ giữ nếp sống cũ nên khi đi làm về th́ ngồi xem báo, coi TV, hay đi chơi với bạn bè. Việc nhà mọi thứ đều phó mặc cho người vợ và các con.      

Cảnh chồng chúa vợ tôi vẫn c̣n thịnh hành trong một số gia đ́nh Việt ở hải ngoại này.

Người vợ vừa đi làm vừa phải trông nom gia đ́nh v́ một ḿnh người chồng đi làm không kiếm đủ tiền chi dùng cho trăm thứ trong gia đ́nh. Người đàn bà Việt phải hoàn tất không biết bao nhiêu là bổn phận: bổn phận làm vợ, bổn phận làm mẹ, bổn phận nấu ăn, giặt quần áo, lau quét nhà cửa, rửa bát đũa, lo đổ rác, và bổn phận đi làm kiếm thêm tiền phụ vào gia đ́nh. Ôi thật là vĩ đại!

Chính v́ những lư do trái nghịch nếp sống này mà một số các bà vợ đă phải chịu đựng bao cảnh đắng cay. Tuy nhiên, phần đông những bà vợ lại thật là khéo léo, biết cách khuyên chồng, và biết cách dạy con nên gia đ́nh thật là hạnh phúc tuyệt vời!

 

2. Sự Khéo Léo Của Người Vợ Trong Việc Xây Dựng Hạnh Phúc Gia Đ́nh Người Việt  Hải Ngoại

a. Nhờ Chồng Lo Việc Chung Với Ḿnh

Có những bà vợ đă hẹn trước với chồng là: “Khi đi làm về nhớ đón em rồi chúng ḿnh đi chợ chung anh nhé!” Điều này rất cần thiết v́ có góp công, người chồng mới có dịp chung lo và thông cảm được sự vất vả của vợ ḿnh.

Người vợ c̣n khéo léo nhờ chồng chọn hộ xem thứ  đồ ăn nào ngon thứ nào tốt và nên mua cái này hay cái kia để người chồng cảm thấy ḿnh quan trọng chứ không phải là chỉ đi theo vợ để xách đồ hay đẩy xe. C̣n điểm quan trọng nữa là nếu người chồng đă góp ư th́ sau này ông ta không thể chê được món đồ  mà cả vợ lẫn chồng đă đồng ư mua. Thêm vào đó, ông ta c̣n tự khen ḿnh nữa. Chẳng hạn câu nói sau của chàng ta: “Nhờ có anh nên em mới mua được quả dưa ngọt như đường cát mát như đường phèn thế này đấy nhé!”

Khi làm bếp, bà vợ nên đánh vào cái ưu điểm của đàn ông để nhờ việc, chẳng hạn bà vợ nhờ chồng một cách khéo léo như sau: “Anh vào giúp em cái này chút; tay anh khỏe, anh mở hộ em cái hộp này đi; cái này cao quá, em không với tới, anh giúp em chút đi (với điều kiện ông chồng phải cao hơn vợ mới được); anh gọi các con vào ăn cơm đi;  anh có tài pha cà phê ngon lắm, anh giúp em nghe, v.v." Cư xử với chồng khéo léo như vậy th́ chắc chắn gia đ́nh phải có hạnh phúc.

b. Cộng Tác Với Chồng Trong Việc Dạy Dỗ Con Cái

Có nhiều bà vợ gián tiếp báo cho chồng về t́nh trạng con cái trong gia đ́nh bằng cách nói với chồng:  “Các con nghe lời anh hơn nghe lời em. Chúng nó phục bố lắm. Anh rất khéo léo và sành tâm lư các con, anh dạy bảo các con  là chúng nghe liền đấy. Anh cứ nói là dạo này má buồn v́ các con không chịu học mà cứ xem TV và chơi 'video game' không à. Nhà, bếp, và pḥng tắm bẩn lắm đó, đứa nào nhận lau đă lau chưa? Các con chịu khó làm ngay kẻo má buồn lắm đó!”

Từ đó, chúng ta rút ra được cách giáo dục con cái cho có hiệu quả. Đó là cách giáo dục gián tiếp. Hăy mượn oai của mẹ hay oai của bố để dạy các con, hăy lấy t́nh thương của con cái đối với mẹ hay bố để khích lệ chúng. Bố mẹ chung sức để dạy con cái th́ mới có hiệu quả.  Phải giữ ǵn đừng bao giờ nói với các con là: “Mẹ mày th́ biết ǵ hay bố mày th́ biết ǵ, nghe lời tao mới được.”  Vợ phải tỏ ra coi trọng chồng và chồng phải tỏ ra coi trọng vợ trước mặt các con th́ vợ chồng mới có uy tín dạy bảo các con được.

c. Nghệ Thuật và Tâm Lư Săn Sóc Chồng

Có nhiều nhiều gia đ́nh người Việt chúng ta ở hải ngoại này rất hạnh phúc là nhờ người vợ có nghệ thuật đối đăi với chồng và sành tâm lư của chồng. Các bà biết là người chồng nào cũng muốn vợ ḿnh để ư tới sở thích của họ. Nếu người chồng hút thuốc lá, thích uống rượu, thích đeo cà vạt, thích đọc sách, v.v. th́ mỗi khi đi chợ hay đi xa về, bà vợ thường mua cho chồng bao thuốc mà chồng thích hút, mua chai rượu mà chồng thích uống, chọn mua cái cà vạt chồng thích đeo, và chọn mua loại sách mà chồng thích đọc, v.v.

Ngoài ra, có những bà vợ đă đem hết tâm huyết phụ giúp chồng trong các công tác xây dựng và phát triển cộng đồng người Việt hải ngoại. Có một bà đă t́nh nguyện đứng ra lo việc nấu ăn ngày 3 bữa trong suốt 9 ngày cho khoảng 200 thành viên của Ban Tổ Chức Gian Hàng Văn Hóa Saigon Pavilion Caravan’s 1992 tại Toronto, Canada. Cũng có những bà vợ đă góp ư với chồng trong việc viết văn và làm thơ cũng như  trong kế hoạch xây dựng cộng đồng.  Đây là nghệ thuật của người vợ để làm người chồng cảm động và yêu thương vợ hơn. Do đó người chồng sẽ nghĩ là chỉ có vợ ḿnh là hiểu được ḿnh, chiều ḿnh, chung vai sát cánh với ḿnh mà thôi.

Có nhiều bà vợ đă giữ thể diện cho chồng bằng cách nếu có ai nhờ ḿnh làm điều ǵ th́ thường trả lời là: "Để tôi hỏi ông nhà tôi đă." Nhiều bà c̣n sành tâm lư chồng ở điểm chú trọng tới cái hănh diện của người đàn ông là thích che chở cho phái nữ và tự hào ḿnh là cột trụ của gia đ́nh, khỏe, bảnh trai, và oai vệ, v.v. Chính v́ thế mà các bà vợ thuộc loại này không bao giờ chê chồng ḿnh là yếu x́u, vô tích sự, hay bất lực với hoàn cảnh, v.v. Các bà vợ Việt Nam thường giữ thể diện cho chồng nên ở trước công chúng hay trước mặt bạn bè,  họ luôn luôn tôn trọng chồng ḿnh v́ họ tin là xấu chàng hổ thiếp. Họ không bao giờ nói xấu chồng với bạn bè hay trước công chúng. Có ǵ không đồng ư với chồng, họ đợi về nhà sẽ xây dựng cho chồng.

V́ sành về tâm lư chồng, các bà vợ Việt Nam biết rằng khi để tâm yêu thương chăm sóc chồng con, người vợ sẽ được chồng để ư chăm sóc trở lại. Thói đời là có qua có lại. Khi chồng được hưởng những điều đặc biệt do vợ làm cho, người chồng cũng để ư và làm cho vợ những điều vợ thích mà c̣n làm gấp mấy lần hơn thế nữa. Chính v́ thấy vợ ḿnh hết ḷng lo cho chồng con và gia đ́nh, các ông chồng thường rất cảm thông và lựa lời an ủi và khuyến khích vợ ḿnh. Nhờ để ư đến tâm lư của vợ nên các đấng ông chồng mới  hiểu rằng vợ ḿnh rất cần sự thông cảm và hiểu biết của  ḿnh trong mọi công việc.

Các bà vợ cũng chả cần ǵ miễn là chồng con biết được sự vất vả của họ và hiểu được nỗi lo âu của họ. Đôi khi chỉ một lời hỏi han, một cử chỉ vỗ về, hay ánh mắt tŕu mến cũng là niềm an ủi vô biên cho bà vợ rồi. Ca dao có câu “Chả được ăn thịt ăn xôi, / Cũng được lời nói cho tôi bằng ḷng” là ở trong ư này. Người chồng đôi khi chỉ cần nói: “Em anh vất vả quá, có cần anh giúp ǵ không?” cũng đủ làm bà vợ sung sướng rồi. Nếu vợ ḿnh không muốn ḿnh rửa bát hay quét nhà, ông chồng nên làm những chuyện này khi các bà vắng mặt. Về tới nhà mà thấy nhà cửa ngăn nắp và bát đĩa đă được rửa sạch sẽ th́ các bà sẽ cảm động và sung sướng vô ngần. Đây là hành động thương vợ một cách cụ thể. Câu thơ “Một lời đă biết đến ta, / Muôn chung ngh́n tứ cũng là có nhau” của Nguyễn Du đă viết trong truyện Kiều thật là tuyệt vời trong trường hợp này vậy!

Các bà vợ hiền thục và đảm đang đă tạo được hoàn cảnh để giúp cho gia đ́nh hạnh phúc, giúp các con ngoan ngoăn và học hành thành đạt cũng như  làm cho  ông chồng yêu con và quí vợ hết ḷng. Ở xă hội Việt Nam Tự Do trước tháng 4 năm 1975, người đàn bà luôn luôn là người giữ vai tṛ chính trong việc tạo hạnh phúc gia đ́nh. Đă có rất nhiều bà vợ cố gắng vượt qua mọi thử thách để giữ cho gia đ́nh hạnh phúc. Đó là sự hy sinh vô bờ bến vậy. Đă có rất nhiều bà mẹ âm thầm làm việc giúp xă hội bằng cách nuôi dạy con cái thành những công dân xứng đáng cho xă hội. Biết bao bà vợ giúp chồng tạo thành sự nghiệp vẻ vang để góp công kiến tạo đất nước. Nhờ có những bà mẹ, bà vợ, và bà chị đảm đang như thế mà cộng đồng người Việt hải ngoại mới phát triển được như ngày nay.

 

III. Tổng Luận

Những ai đă theo dơi sự phát triển của cộng đồng người Việt hải ngoại đều phải ghi nhận công lao, tài ba, và sự tháo vác của quí bà và quí cô trong sự đóng góp vô song vào việc tạo dựng mái ấm gia đ́nh Việt Nam hải ngoại. Mặc dù cơ cực, qui bà và quí cô vẫn giữ được những ṿng tay của người mẹ hiền vợ đảm để lo cho gia đ́nh xă hội và làm rạng rỡ cho đàn bà nước Nam.

Với truyền thống yêu chồng quư con và lo cho gia đ́nh của phụ nữ Việt, chúng ta tin tưởng vững chắc rằng gia đ́nh Việt sẽ là những gia đ́nh kiểu mẫu trong nếp sống ở Bắc Mỹ này,  những người con của gia đ́nh Việt sẽ măi là những người học tṛ ngoan và giỏi vào bậc nhất thế giới, và những người chồng Việt Nam cũng là những người chồng có diễm phúc nhất trên trái đất này.

Với sự góp sức của các bà mẹ hiền vợ đảm  cùng với truyền thống của các vị anh thư và các nữ chiến sĩ Việt Nam, cộng đồng người Việt hải ngoại sẽ góp công tích cực trong việc giải thể chế độ Cộng Sản nơi quê nhà để đem tự do dân chủ và nhân quyền cho toàn dân. Được như thế, chắc chắn thế nào chế độ “Xuống Hàng Chó Ngựa” của bọn Cộng Sản Việt Nam cũng bị giải trừ trong thời gian gần đây và toàn dân Việt sẽ vui hưởng hạnh phúc ấm no tự do dân chủ một cách vĩnh cửu.