Danh sách thành phần lănh đạo

 GHPGVNTN

mới được suy cử

 

 

 

 

 

 

 

A- Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương Viện Tăng Thống

 

 

 

 

Trong nước

 

1. Đại lăo HT Thích Huyền Quang

2. HT Thích Quảng Độ

3. HT Thích Nhật Liên

4. HT Thích Huệ Viên

5. HT Thích Bảo An

6. HT Thích Trí Giác

7. HT Thích Thiện Hạnh

8. HT Thích Như Đạt

9. HT Thích Diệu Tánh

10. HT Thích Minh Chiếu

11. HT Thích Minh Tuệ

12. HT Thích Đức Chơn

13. HT Thích Minh Tuấn

14. HT Thích Tâm Linh

 

Ngoài nước

 

15. Đại lăo HT Thích Tâm Châu, Canada

16. HT Thích Hộ Giác, Hoa Kỳ

17. HT Thích Măn Giác, Hoa Kỳ

18. HT Thích Huyền Vi, Pháp Quốc

19. HT Thích Thuyền Ấn, Hoa Kỳ

20. HT Thích Chánh Lạc, Hoa Kỳ

21. HT Thích Thắng Hoan, Hoa Kỳ

22. HT Thích Trí Chơn, Hoa Kỳ

23. HT Thích Chơn Thành, Hoa Kỳ

24. HT Thích Minh Tâm, Pháp Quốc

25. HT Thích Như Huệ, Úc Đại Lợi

 

 

B- Viện Hoá Đạo

 

1. Viện Trưởng: HT Thích Quảng Độ

2. Đệ Nhất Phó Viện Trưởng (VP 1): Thượng Tọa Thích Tuệ Sĩ

3. Đệ Nhị  Phó Viện Trưởng (VP 1): Thượng Tọa Thích Viên Định

4. Phó Viện Trưởng (VP 2): HT Thích Hộ Giác

5. Phó Viện Trưởng (VP 2): HT Thích Chánh Lạc

6. Tổng Thư Kư (VP 1): Thượng Tọa Thích Đức Thắng

7. Phó Tổng Thư Kư (VP 2): Thượng Tọa Thich Viên Lư

8. Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Cư Sĩ: TT Thích Đức Chơn

9. Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tăng Sư: TT Thích Quảng Hạnh

10. Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên: TT Thích Thanh Huyền

11. Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Văn Hoá: TT Thích Phước An

12. Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Giáo Dục: TT Thích Phước Viên

13. Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp: TT Thích Thái Ḥa

14. Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Từ Thiện: TT Thích Không Tánh

15. Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Kiến Thiết: TT Thích Thành Đạt

16. Tổng Thủ Quỹ: TT Thích Nguyên Lư

 

 

 

 

 

Thân thế

 

Qúy vị tăng thống GHPGVNTN

 

Thân Thế Vị Đệ Nhất Tăng Thống GHPGVNTN

 

H̉A THƯợNG THÍCH TịNH KHIẾT

(1890 - 1973)

 

Ḥa thượng Thích Tịnh Khiết, thế danh là Nguyễn Văn Kỉnh, sinh ngày 17 tháng 11 năm Tân Măo (1890), tại làng Dưỡng Mông Thượng, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1905, Ngài xuất gia tại chùa Tường Vân, làng Dương Xuân Hạ, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, và đă thọ giáo với Đại lăo Ḥa thượng Thanh Thái, hiệu Phước Chỉ, là đệ tam Tổ chùa Tường Vân, đời thứ 41 Thiền phái Lâm Tế. Ngài được ban pháp danh là Trừng Thông, tự Chân Thường.

Năm 26 tuổi (1916), Ngài nhận chức trú tŕ chùa Phước Huệ, thuộc phủ Tuy Lư Vương, thôn Vỹ Dạ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.

Đến năm 30 tuổi (1920) ngài đắc pháp với Ḥa thượng Bổn sư, được ban Đạo hiệu là Tịnh Khiết, kế vị Tổ đời thứ 42 thuộc Thiền phái Lâm Tế.

Năm 50 tuổi (1940), Ngài làm Giám đốc đạo hạnh Viện Cao đẳng Phật học, mở tại chùa Tường Vân và Báo Quốc, nơi đào tạo nhiều Tăng tài, lỗi lạc xuất chúng lănh đạo Giáo hội qua nhiều thế hệ như Ḥa thượng Thiện Hoa, Thiện Ḥa, Hành Trụ, Trí Tịnh, Thiện Siêu...

Năm 54 tuổi (1944), Ngài được cung thỉnh, làm Yết Ma Đại giới đàn tại chùa Thuyền Tôn, Huế.

Năm 57 tuổi (1947), Ngài được suy tôn chức vụ Ṭng Lâm Pháp Chủ Trung Việt.

Năm 58 tuổi (1948), Ngài làm Đàn đầu Ḥa thượng Đại giới đàn mở tại chùa Báo Quốc, Huế. Ḥa thượng Thiện Siêu là thủ Sa di trong Đại giới đàn này.

Ngày 06.5.1951, năm mươi mốt đại biểu của sáu hội Phật giáo Nam, Trung, Bắc họp tại chùa Từ Đàm, Huế quyết nghị thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, Ngài được suy tôn Hội chủ. Đến ngày 7-9-1952, Ngài được bầu làm chủ tọa Đại Hội Phật Giáo Tăng Già toàn quốc họp tại chùa Quán Sứ, Hà Nội.

Năm 66 tuổi (1956), Ngài cùng với Ḥa thượng Huệ Quang lănh đạo phái đoàn Phật giáo Việt Nam tham dự Đại Hội Phật Giáo Thế Giới tổ chức tại Tích Lan, và chiêm bái Phật Tích tại Ấn Độ.

Năm 74 tuổi (1964), Đại hội Phật giáo Việt Nam suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Sau vài ngày pháp thể khiếm an như có linh cảm về sự ra đi của ḿnh, Ngài ân cần phó chúc cho Tăng Ni, Phật tử những lời di huấn tối hậu và Ngài đă an tường xả bỏ báo thân vào hồi 20 giờ 45 phút ngày 23 tháng giêng năm Quư Sửu (25-2-1973), trụ thế 83 năm, 64 hạ lạp. Tháp của Ngài an trú tại Tổ đ́nh Tường Vân, hiệu là Thanh Trai.

 

 

 

 

Thân Thế Vị Đệ Nhị Tăng Thống GHPGVNTN

 

H̉A THƯợNG THÍCH GIÁC NHIÊN

(1877 - 1979)

 

Ḥa thượng pháp danh Trừng Thủy, pháp tự Chí Thâm, pháp hiệu Giác Nhiên, thuộc ḍng Thiền Lâm Tế Thiên Thai Sơn, đời thứ 42.

Ngài thế danh là Vơ Chí Thâm, sinh ngày 7 tháng 1 năm 1877, tại làng Ái Tử, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là cụ Vơ Văn Xưng, thân mẫu là cụ Trần Thị Diều. Ngài xuất thân từ một gia đ́nh gia phong nề nếp. Năm lên 7 tuổi Ngài theo học chữ Nho, nhưng với chí nguyện xuất trần, Ngài từ giă quê nhà đến chùa Tây Thiên Di Đà ở Huế xin đầu sư với Ḥa thượng Tâm Tịnh.

Năm 1932, Ngài đă cùng quí Ḥa thượng Phước Huệ, Giác Tiên, Tịnh Hạnh và hai Cư sĩ Tâm Minh-Lê Đ́nh Thám, Trương Xướng đứng ra thành lập hội An Nam Phật Học. Ngài đă đảm nhiệm chức vụ Chứng minh Đạo sư và kiêm nhiệm Giám đốc Phật học đường Tây Thiên, Huế.

Năm 1934, Ngài được cung thỉnh làm trú tŕ quốc tự Thánh Duyên thuộc Túy Vân-Huế, một trong ba quốc tự lớn nhất ở Huế.

Năm 1936, Ngài được triều đ́nh Duy Tân phong chức Tăng Cang. Cùng năm đó, Ngài và Ḥa thượng Giác Tiên chứng minh cho tạp chí Viên Âm, đây là một phương tiện hoằng dương Phật pháp hết sức quan trọng thời bấy giờ.

Năm 1937, Ngài được Giáo Hội và Môn phái suy cử làm trụ tŕ Tổ đ́nh Thuyền Tôn-Huế (1).

Năm 1956, Ngài được Giáo Hội Phật Giáo Trung phần cung thỉnh vào chức vụ Viện trưởng Phật Học Viện Hải Đức-Nha Trang. Đây là nơi đào tạo Tăng tài của Phật giáo Trung Phần.

Từ những năm 1958 đến năm 1962, trong suốt bốn niên khóa, Ngài đảm nhiệm chức vụ Chánh Hội Trưởng Tổng Trị Sự Hội Phật Giáo Trung Phần. Khi đảm nhiệm chức vụ này, tuổi Ngài đă 80 nhưng Ngài chẳng quản tuổi cao sức yếu, đích thân kinh lư các cơ sở Phật giáo trực thuộc để thăm viếng và chỉ đạo.

Sau khi Đại lăo Ḥa thượng Đệ nhất Tăng Thống Thích Tịnh Khiết viên tịch, Ngài được Đại Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất kỳ V suy tôn kế vị làm Đệ nhị Tăng Thống vào ngày 10-3-1973. Đây là chức vụ nặng nề nhất giữa bối cảnh đất nước và đạo pháp đang có nhiều biến chuyển, đồng thời cũng là chức vụ sau cùng của đời Ngài.

Giữa ngày mồng 5 thân thể khiếm an, rồi Ngài xả báo thân vào hồi 6 giờ 30 ngày 6 tháng Giêng năm Kỷ Mùi (2/2/1979) hưởng thọ 102 tuổi đời và 69 hạ lạp.

 

 

 

Thân Thế Vị Đệ Tam Tăng Thống GHPGVNTN

 

H̉A THƯợNG THÍCH ĐÔN HẬU

(1905- 1992)

 

Thế danh, Diệp Trương Thuần, sinh giờ Tư ngày Hợi 13 tháng Giêng năm Ất Tỵ (16.2.1905), quê quán làng Xuân An, tổng An Đôn, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (nay là thôn Xuân An, xă Triệu Thượng, quận Triệu Phong).

Năm 17 tuổi, Ngài vào chùa Tây Thiên đảnh lễ Tổ sư Tâm Tịnh xin được xuất gia ngày 19 tháng 9 Nhâm Tuất (7.11.1922) nhằm ngày kỷ niệm Quan Âm Đại Sĩ. Nhờ học hạnh tối ưu, chí nguện kiên tŕ, đúng một năm sau (10.6 âm lịch tức 23.7.1923), Ngài thọ Sa di giới tại giới đàn Thuyền Tôn, Huế và một năm sau (1924) được đặc cách thọ Tam đàn Cụ túc giới tại Đại giới đàn Từ Hiếu, Huế, do chính Bổn sư của Ngài làm Đàn đầu Ḥa Thượng.

Năm 1936, vào tuổi 31, Ngài tốt nghiệp ưu hạng Đại học Phật giáo và là một trong những cột trụ của phong trào chấn hưng Phật giáo, vị giảng sư ṇng cốt, tiên phong của Hội An Nam Phật học khắp các tỉnh miền Trung, đặc biệt tại Quảng Nam, Đà Nẵng.

Năm 1940, 1942, hai lần Ngài sang Lào thuyết giảng tại các tỉnh đông đảo Việt kiều, gặp Vua Săi và tham lễ nhiều nơi trên Vương Quốc Phật Giáo này.

Năm 1945, Ngài thay thế Cư sĩ Tâm Minh Lê Đ́nh Thám giữ chức Chánh Hội trưởng Viện Nam Phật học Hội (tên mới của An Nam Phật học Hội), và nhận chức trú tŕ Quốc tự Linh Mụ.

Năm 1948, Ngài làm cố vấn Đạo hạnh Hội Phật học Trung phần và làm Tuyên luật sư Đại giới đàn Báo quốc, Huế.

Năm 1949, Ngài thay thế Cư sĩ Chơn An Lê Văn Định giữ chức Chánh Hội trưởng Tổng trị sự Hội Phật học.

Năm 1951, Ngài là thành viên Ban Tổ Chức Đại hội Thống nhất Phật giáo Việt Nam, gồm 6 tập đoàn Tăng già và Cư sĩ thuộc ba miền Bắc - Trung - Nam Việt Nam, họp tại chùa Từ Đàm, Huế. Đại hội Giáo hội Tăng già Trung Việt công cử Ḥa Thượng lên giữ chức Giám Luật Giáo Hội Tăng Già Trung Việt. Năm 1952, Đại hội Giáo Hội Tăng già toàn quốc họp tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, công cử Ḥa Thượng giữ chức vụ Giám Luật Giáo Hội Tăng Già toàn quốc. Năm 1956, Ngài thành lập và làm Chủ nhiệm Liên Hoa Văn Tập, đến năm 1958 đổi thành Liên Hoa Nguyệt San.

Vào lúc 23 giờ ngày 19 tháng Giêng năm Mậu Thân (12.2.1968), trong khi đang bị xuất huyết dạ dày trầm trọng, Ngài bị cộng sản vào bắt tại Tổ đ́nh Linh Mụ gánh lên chiến khu.

Năm 1975, Ngài trở về Huế, nhưng bị nhà cầm quyền giữ chân một thời gian trong khuôn viên Đại học Huế, sau mới cho về Linh Mụ. Hội đồng Lưỡng viện cung thỉnh Ngài vào Hội đồng Trưởng lăo và công cử Ngài giữ chức vụ Chánh Thư kư Viện Tăng Thống, Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất.

Năm 1979, Đức Đệ nhị Tăng thống, Ḥa thượng Thích Giác Nhiên viên tịch. Thời điểm này cuộc đàn áp Phật giáo Việt Nam Thống nhất lên đến cao điểm khốc liệt, nên Giáo hội không thể tổ chức Đại hội VIII để suy cử Đức Đệ tam Tăng thống. Do Đó, Hội Đồng Lưỡng Viện cung thỉnh Ngài kiêm chức Xử lưViện Tăng thống.

Trong các năm 1977, 1981, 1983, ba lần Ngài làm Đàn đầu Hoà Thượng các Đại giới đàn tại chùa Báo Quốc và Trúc Lâm ở Huế cho hàng ngh́n giới tử.

Năm 1978, Ngài chính thức lên tiếng phản đối nhà cầm quyền cộng sản bắt bớ, giam cầm, trái phép hàng giáo phẩm lănh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất; quyết liệt đ̣i hỏi phải đưa ra ṭa xét xử những tên công an đă tra tấn Ḥa thượng Thích Thiện Minh đến chết, và đ̣i trả tự do cho các Ḥa Thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ...

Năm 1981, Ban tổ chức Đại hội Thống nhất Phật giáo của Nhà nước gởi thư mời Ngài tham dự Đại hội, tổ chức tại chùa Quán sứ Hà Nội từ ngày 4 đến 7.11 dương lịch. Nhưng Ngài từ chối không tham dự. Mặc dù vắng mặt, Đại hội này vẫn cử Ngài vào chức Đệ nhất phó Pháp chủ kiêm Giám luật Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Nhà nước). Ngài liền viết thư phủ nhận, lấy lư do Ngài "c̣n một trách nhiệm lớn đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, trong cương vị Chánh Thư kư kiêm Xử lư Viện Tăng thống".

Pháp thể Ngài khiếm an rồi an thần thị tịch vào lúc 20 giờ đêm 23.4.1992 nhằm ngày 21 tháng 3 Nhâm Thân, tại Tổ đ́nh Linh mụ, Huế. Lễ nhập kim quan cử hành lúc 15 giờ ngày 24.4.1992 và lễ rước kim quan nhập Bảo tháp ngày 3.5.1992, nhằm ngày mồng 1 tháng 4 Nhâm Thân. Bảo tháp của Ḥa thượng được xây dựng phía hậu tẩm điện thờ Đức Quán Thế Âm Bồ tát trong khuôn viện chùa Linh Mụ.

 

 

 

 

Thân Thế Vị Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN

 

Hoà Thượng Thích Huyền Quang

 

 

- Ngài sinh ngày 19.9.1919 (năm Canh Thân), tại làng Háo Đức, xă Nhơn An, huyện An Nhơn tỉnh B́nh Định thuộc Trung phần Việt Nam, trong một gia đ́nh rất đạo đức và ảnh hưởng nặng Nho giáo. Ông bà Lê Vị và Ngô Thị Tư là song thân Ngài, làm nghề nông và buôn bán nhỏ. Ngài được nổi tiếng rất thông minh và có trí nhớ siêu việt lúc c̣n bé.

- Năm 1932, lúc 13 tuổi, ngài xuất gia và trở thành một tu sĩ Phật giáo. Từ năm 13 đến năm 19 tuổi Ngài theo học Phật học với Ḥa thượng Chí Tâm, Ḥa thượng Bích Liên, các Sư huynh Huyền Chiếu, Bảo Phong và cư sĩ Thám Mai. Ḥa thượng Bích Liên là một trong những cao Tăng thông thái của Việt Nam, và từng là chủ bút tờ Viên Âm.

- Đến năm 1939, tuổi 20, Ngài được đưa vào học tại Phật học đường Lưỡng Xuyên, tỉnh Trà Vinh thuộc Nam phần nước Việt Nam. Sau đó Ngài được ra học và tốt nghiệp tại trường Đại học Phật giáo Báo Quốc, Huế. Con đường học vấn của Ngài gặp được nhiều thuận duyên, và không bị gián đoạn trong suốt hai mươi năm từ lúc Ngài lên sáu cho đến năm hai mươi sáu tuổi.

- Sau khi vừa hoàn tất chương tŕnh Đại học Phật giáo, vào năm 1945, với tuổi 26, Ngài đă tham gia phát động và lănh đạo phong trào Phật giáo cứu quốc chống Pháp tại B́nh Định và Liên khu 5 (các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngăi, B́nh Định và Phú Yên). Suốt thời gian từ năm 1945 đến 1952, vừa chống Pháp và chống Việt Minh, xây dựng ư thức dân tộc trong quần chúng. Ngài bị Việt Minh bắt giam vào năm 1952. Việt Minh nhốt và di chuyển Ngài đến các cứ điểm khác nhau, trong đó có quận Phù Mỹ, quận Hoài Ân trong tỉnh B́nh Định và tỉnh Quảng Ngăi. Hiệp định Genève kư kết vào năm 1954, Pháp rút khỏi Việt Nam, đất nước chia đôi và cộng sản rút về Bắc, Ngài được thả vào ngày 1 tháng 10 năm 1954.

- Sau khi ra tù, Ngài được cung thỉnh làm Giám đốc Tăng Học Đường Trung Phần tại Nha Trang cho những năm 1955-1957, và cùng trong thời gian này Ngài được mời làm Tổng Thư Kư Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang.

- Năm 1958 Ngài giữ chức Phó Hội trưởng Hội Phật Giáo Trung Phần kiêm Hội trưởng Phật Giáo Tỉnh Thừa Thiên.

- Năm 1962, Ngài trở về lại B́nh Định, hoạt động tại tỉnh nhà, giữ chức vụ Hội trưởng Phật giáo tỉnh B́nh Định, cũng trong thời gian này, Ngài và chư Tăng trong tỉnh thành lập cơ sở đào tạo Tăng Ni cho bản tỉnh và các tỉnh lân cận. Phật Học Viện Nguyên Thiều được thành lập và Ngài được cung thỉnh làm Giám Viện.

- Khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập vào năm 1964, Ngài giữ chức Tổng thư kư Viện Hóa Đạo liên tục năm nhiệm kỳ cho đến năm 1974.

- Ngài đă từng tham dự Đại hội Tôn giáo Thế giới v́ Ḥa B́nh tại Tokyo năm 1972, và tham dự Hội Đồng Tôn Giáo Thế Giới tại Genève, Thụy sĩ năm 1973. Năm 1974, Ngài được Giáo hội đề cử tham dự Đại Hội Tôn giáo v́ Ḥa B́nh lần thứ II tại Brusselle, Bỉ.

- Vào năm 1974, Ngài được suy cử chức Đệ nhất Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

- Sau năm 1975, t́nh h́nh đất nước Việt Nam thay đổi, Viện Hóa Đạo bị tấn công nhiều mặt. Lập trường Phật giáo trước sau như một, không chấp nhận đường hướng chính trị hóa Phật giáo của nhà nước CSVN. Tháng 3 năm 1977, Ngài gửi một lá thư phản đối đến Thủ tướng Phạm Văn Đồng, về 85 trường hợp Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bị đàn áp, cực lực lên án Nhà nước đàn áp Phật giáo, cưỡng chiếm chùa chiền... V́ thế Ngài bị bắt vào tháng 4.1977 cùng với 5 vị lănh đạo tinh thần khác. Đến tháng 12.1978 th́ Ngài được thả v́ sự lên tiếng mạnh mẽ của các quốc gia và các tổ chức Nhân quyền trên thế giới. Nhưng Ngài phải bị thêm án lệnh hai năm tù treo và bị theo dơi gắt gao từ năm 1978. Cũng trong năm này, Ngài được dư luận quốc tế biết đến khi hai nhân vật đă từng nhận giải Nobel Ḥa B́nh, Mairead Corrigan (1976) và Betty Williams (1976), đề nghị Ngài vào danh sách giải Nobel Ḥa B́nh. Sau đó v́ Ngài vẫn liên tục chống lại kế hoạch đồng hóa Giáo Hội theo chính sách của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam, Ngài bị bắt lại tháng 10 năm 1981, nhưng thả ra sau đó.

- Tháng 2 năm 1982, lại một lần nữa Nhà nước CSVN lại bắt Ngài và trục xuất ra khỏi Trụ sở Văn Pḥng Viện Hóa Đạo đặt tại Chùa Ấn Quang, thành phố Sài G̣n. Ngài bị đày đến một thị trấn nhỏ tại tỉnh Quảng Ngăi cách Sài G̣n chừng 650 cây số (400 miles). Nơi đây, Ngài bị tước đoạt quyền công dân và quyền hành nghề tu sĩ. Công an cả ch́m lẫn nổi luôn luôn theo dơi Ngài. Suốt mười năm giam giữ ở đây, từ năm 1982-1992, Ngài rời khỏi ngôi chùa Hội Phước chỉ được hai lần mà thôi sau nhiều ngày tuyệt thực đ̣i hỏi được phép đi dự tang lễ Đại lăo Ḥa thượng

- Từ năm 1992, tại nơi quản thúc Ngài đă gửi đi hàng loạt văn thư phê phán chế độ Cộng Sản Việt Nam về cái mà họ gọi là "Đổi Mới", khiến Ngài càng gặp nhiều khó khăn với chế độ.

- Ḥa thượng Thích Huyền Quang trở thành nhà lănh đạo tối cao của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất từ ngày 2 tháng 5 năm 1992, sau khi Đức Đạo lăo Ḥa thượng Thích Đôn Hậu, Chánh thư kư Viện Tăng Thống viên tịch

- Sau khi nhận lănh ấn tín từ Đại lăo Ḥa Thượng Thích Đôn Hậu, Ngài nhân danh Hội Đồng Lưỡng Viện kêu gọi Chư Tôn Tăng Ni và toàn thể Phật tử trong cũng như ngoài nước vận động khôi phục lại Giáo Hội PGVNTN. Ngài đă gởi văn thư Yêu sách Chín Điểm, Hai Tuyên Cáo và nhiều bản Tự thuật đến Nhà nước CSVN đ̣i hỏi GHPGVNTN được tái sinh hoạt. Trước hành động đầy uy dũng trong một chế độ độc tài, Ngài đă được các chính phủ phương Tây hỗ trợ và GHPGVNTN đă trở nên rất phổ cập trên b́nh diện quốc tế.

- Vào ngày 29.12.1994, công an lại một lần nữa dùng đến vũ lực bắt ngài rời khỏi chùa Hội Phước và dẫn đi tới khu làng Nghĩa Hành, cách thị xă Quảng Ngăi 15 cây số, trong lúc Ngài đang tuyệt thực đ̣i chính quyền CSVN phải trả tự do cho Tăng Ni và Phật tử bị bắt nhân chuyến đi cứu trợ vùng đồng bằng sông Cửu Long vào tháng 11.1994.

Tất cả văn thư và ấn tín của Giáo Hội đều bị công an cưỡng đoạt, Từ đó Ngài hoàn toàn bị cô lập với bên ngoài, luôn có công an canh giữ, không một ai được phép tới tiếp xúc mặc dầu Ngài đang trong t́nh trạng áp huyết cao rất nguy ngập kể từ tháng 11.1994.

- Tuy tù đày, gánh vác công việc Giáo hội dưới thời cộng sản, nhưng Ḥa thượng Thích Huyền Quang đă dịch và sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị như: Thiền Môn Chánh Độ - Sư tăng và Thế nhơn; Nghi cúng chư Tổ và Chư vị Cao Tăng cận đại tân viên tịch; Đạo Tràng Công Văn Tân Soạn; Thiếu Thất Lục Môn; Phật Pháp Hàm Thụ. Phần lớn trong những tác phẩm và dịch phẩm này chưa được xuất bản và môt số khác bị mất trong năm 1982 khi bất ngờ công an thành phố Sài G̣n kêu lên bắt giam và đưa ra Quảng Ngăi không được mang theo một vật ǵ ngay cả đồ dùng cá nhân.

 

 

 

 

 

 

 

Tài Liệu Tham Khảo

 

 

Những bài viết điển h́nh của qúy vị lănh GHPGVNTN

 

Tuyên Cáo Ngày 20 .11.1993 Của Hoà Thượng Thích Huyền Quang

Quyền Viện Trưởng Viện Hoá Đạo GHPGVNTN

 

- Xét rằng, chủ nghĩa cộng sản do chủ tịch Hồ Chí Minh mang về từ Liên Sô năm 1930. Về sau, khi đă thiết lập chính quyền vô sản, Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn đi theo đường lối giáo điều, cố tín, hướng cuộc đấu tranh tiêu diệt hai kẻ thù chính yếu của ư thức hệ Mác Lê: Tôn giáo và Đế quốc tư bản. Sau 70 năm thi hành chủ trương này, sự sụp đổ của Liên Sô, mẫu quốc của các nước Xă Hội Chủ Nghĩa, là bằng chứng thất bại hiển nhiên trong việc đem lại no cơm ấm áo, tự do và đạo đức cho nhân dân. Tiếc rằng, Đảng Cộng Sản Việt Nam không tiếp thu được bài học thất bại ấy để thay đổi chính sách tại Việt Nam, khiến cho hiện trạng đen tối, đói nghèo, áp bức của các nước XHCN tiếp diễn tại Việt Nam;

- Xét rằng, Đảng và Nhà Nước CHXHCNVN tuy kêu gọi mở cửa kinh tế, phát triển thị trường tự do, nhưng lại để cho tham vọng độc quyền và đặc lợi của một cơ chế nhà nước bóp chết sự phát triển của thị trường tự do. Ngày nay, nạn tham nhũng được nuôi dưỡng bởi giới tham ô quan lại nhà nước. Có cho phép báo chí phê phán nạn tham nhũng đấy, nhưng lại cấm phê phán cơ chế chính trị đẻ ra nạn tham nhũng, đặc trưng của nhà nước XHCN. Chế độ XHCN tại Việt Nam là tổng thể những ǵ tệ hại nhất của xă hội cộng sản ở Liên Sô, Đông Âu cũ và xă hội tư bản thô lỗ. Đến như cơ quan có tính đại diện quần chúng là Quốc Hội th́ cũng chỉ là nơi diễn tập một chiều những chỉ thị và nghị quyết do Đảng đề xuất. Dân bị bịt họng v́ không có dân biểu độc lập;

- Xét rằng, Đảng Cộng Sản Việt Nam xu phụ nước ngoài chịu xóa bỏ hận thù, làm thân với ngoại thù trước kia là đế quốc tư bản. Nhưng đối với Tôn giáo trên lănh thổ Việt Nam, đảng vẫn tiếp tục đàn áp. Không ư thức rằng, hậu quả của các cuộc đàn áp này làm tiêu huỷ mọi mầm móng đạo đức, quan niệm chân thiện mỹ, và t́nh nghĩa Việt Nam - những nền tảng tâm linh thăng hoa và hướng thiện cho con người trầm luân nơi xă hội suy đồi ngày nay;

- Xét rằng, mục tiêu đàn áp tôn giáo nói chung, giải thể Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) nói riêng, khởi phát từ sau ngày 30-4-1975 không thành. Nên năm 1981, Đảng và Nhà Nước thay đổi chiến lược, bằng cách tạo dựng một Giáo Hội công cụ và tay sai, để dùng người của Phật Giáo đánh phá Phật Giáo theo chính sách chia để trị;

- Xét rằng, không một thế quyền nào tự nhận là dân tộc lại có thể làm chuyện phi dân tộc là khai tử GHPGVNTN. Trong khi ấy, bản Chúc Thư thiêng liêng của Cố Đại Lăo Hoà Thượng Thích Đôn Hậu để lại, dặn ḍ ba nhiệm vụ Phật Giáo đồ phải hoàn tất: a) Hoà thượng trao quyền lănh đạo Hội Đồng Lưỡng Viện cho hàng giáo phẩm cao cấp của Giáo Hội. b) Chỉ thị việc tổ chức Đại Hội Kỳ 8 của GHPGVNTN bị gián đoạn từ năm 1977 v́ chính sách đàn áp Phật Giáo của Nhà Nước, và c) Điều hành Phật sự trong giai đoạn mới đối với quần chúng Phật tử, đặc biệt đối với bộ phận hải ngoại của Giáo Hội ở khắp năm châu;

- Xét rằng, toàn thể Phật Giáo đồ trong và ngoài nước nói chung, GHPGVNTN nói riêng, đă nhất tề thực hiện sự thống hợp giáo đoàn và giáo thể theo bức Thông Điệp ngày 31.10.1991 của Cố Đại Lăo Hoà Thượng Thích Đôn Hậu kêu gọi Tăng Ni Phật Tử thực hiện tinh thần Thống nhất, Đoàn Kết, và Hoà hiệp trong giai đoạn mới của Phật Giáo. Thực hiện Chúc Thư do Ngài để lại, Văn Pḥng Lưu Vong Viện Hoá Đạo GHPGVNTN đă viết "Đơn Xin Cứu Xét Nhiều Việc", tức "Yêu Sách Chín Điểm" ngày 25.6.1992, gửi đến sáu cơ quan nhà nước CHXHCNVN. Đại cương bản yêu sách ngày đ̣i phục hồi quyền sinh hoạt của GHPGVNTN; hoàn trả các cơ sở chùa viện, văn hoá, giáo dục, xă hội... bị nhà nước xung công và cưỡng chiếm sau năm 1975, trả tự do cho tất cả các Tăng Ni Phật Tử bị bắt giam trong các nhà tù, trại cải tạo hay quản thúc, v́ "tội" đ̣i hỏi quyền tự do tôn giáo và nhân quyền; và minh bạch hoá việc Công an TP Hồ Chí Minh tra khảo đến chết Hoà Thượng Thích Thiện Minh năm 1978. Thế nhưng, ngoài việc Đảng và Nhà Nước nhiều lần cử những cán bộ cao cấp vào Quảng Ngăi tiếp xúc với Văn Pḥng Lưu Vong Viện Hoá Đạo để trao đổi những nguyên nhân tranh chấp, cho đến nay nhà nước CHXHCNVN chưa đáp ứng bất cứ điểm nào do Giáo Hội đề ra qua văn thư nói trên.

- Xét rằng, chẳng những không giải quyết những yêu sách của GHPGVNTN, nhà nước CHXHCNVN c̣n đi sâu vào việc khủng bố, bắt bớ Tăng, Ni, Phật Tử, ngăn cấm tổ chức lễ Tiểu Tường Cố Đại Lăo Hoà Thượng Thích Đôn Hậu trung tuần tháng tư 1993, và tung chiến dịch bôi nhọ Chúc Thư của Cố Đại Lăo Hoà Thượng trên khắp mặt báo chí, truyền thanh, truyền h́nh của nhà nước. Trầm trọng hơn, hai tài liệu "Mật" số 125/TUDV của Ban Dân Vận Đảng Cộng Sản Việt Nam do ông Trưởng Ban Phan Minh Tánh kư ngày 17.8.92 và "Tuyệt Mật" của Bộ Nội Vụ Công An Quang Trị do Đại Tá Trương Hữu Quốc kư ngày 18.8.92 chỉ thị thẳng tay đàn áp GHPGVNTN, tức Giáo Hội Ấn Quang. Hai tài liệu này đă được Liên Đoàn Quốc Tế Nhân Quyền và Uỷ Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người Việt Nam đệ tŕnh Uỷ Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc ở Genève tháng 2 năm nay, như một bằng chứng của chính sách đàn áp và tiêu diệt GHPGVNTN của nhà nước CHXHCNVN. Cho đến nay, phái đoàn của nhà nước Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc chưa bao giờ lên tiếng phủ nhận hai tài liệu ấy;

- Xét rằng, GHPGVNTN trong thực tế Việt Nam, kế thừa nền Phật Giáo dân tộc từ 20 thế kỷ qua, đại diện cho 80% quần chúng Việt Nam. Trên pháp lư, GHPGVNTN đă thống hợp sáu tập đoàn Tăng Ni và Cư sĩ đại diện khắp ba miền Bắc, Trung, Nam tại đại hội toàn quốc ở chùa Từ Đàm Huế ngày 6.5.1951, thành lập "Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam", tiền thân của GHPGVNTN. Gọi là Tổng Hội v́ dưới thời Pháp thuộc, Dụ số 10 cấm nền Phật Giáo dân tộc không được dùng danh xưng Giáo Hội, trên pháp lư chỉ được hiện hữu như một hiệp hội. Tuy nhiên, cuộc tranh đấu bảo vệ Chánh Pháp và yêu sách tự do tôn giáo của Phật Giáo đồ khởi phát từ tháng 5 năm 1963 đă thành công huỷ bỏ Dụ số 10, phục hồi danh xưng và hoạt động cổ truyền của Giáo Hội, tức GHPGVNTN, tại đại hội Phật Giáo đầu năm 1964. Bởi vậy, từ Dụ số 10 cho đến các Nghị định về tôn giáo lập ra sau ngày 6.5.1951 đều vô giá trị đối với thực tại cũng như Pháp lư của GHPGVNTN.

- Xét rằng, cuộc đấu tranh bất bạo động, hợp lư, hợp pháp và có chính nghĩa của GHPGVNTN từ hơn một năm qua đă được sự hậu thuẫn của quần chúng Phật tử trong và ngoài nước, cũng như dư luận và chính giới quốc tế. Điển h́nh, là cuộc biểu dương bất bạo động của 40.000 Phật tử và nhân dân thành phố Huế ngày 24.5.1993 và sự lên tiếng hậu thuẫn của các Chính phủ, Quốc Hội Âu Á, Mỹ, Phi, Úc, Quốc Hội Âu Châu, của Liên Hiệp Auốc, Liên Đoàn Quốc Tế Nhân Quyền, Tổng Liên Đoàn Lao Động Hoa Kỳ AFL-CIO, các Tổ Chức Nhân Quyền Ân Xá Quốc Tế, các Tôn giáo bạn, cũng như các Đoàn thể tôn giáo và chính trị trong Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại... Sự kiện không thể chối cải, v́ chính Thủ Tướng Vơ Văn Kiệt đă chứng kiến khi đi công du Úc Châu và Âu Châu. Tất cả các chính quyền gặp gở Thủ Tướng đều yêu sách trả tự do cho các Tăng Sĩ Phật Giáo và phục hồi quyền sinh hoạt của GHPGVNTN.

- Xét rằng, thay v́ chấm dứt chính sách đàn áp Phật Giáo để thực hiện lời kêu gọi "Xoá bỏ mặc cảm, xoá bỏ thù hận, nh́n về tương lai" và "Mọi người Việt Nam, bất kể giai cấp và tầng lớp, dân tộc và tôn giáo, bất kể quá khứ trước kia ra sao, dù từng giữ chức vụ ǵ trong chế độ cũ, hăy đứng vào khối đại đoàn kết toàn dân" mà Thủ Tướng Vơ Văn Kiệt và ông Tổng Bí Thư Đỗ Mười tuyên bố nhân dịp Tết Nguyên Đán năm nay, th́ trái lại, nhà nước CHXHCNVN ngày càng đi sâu vào con đường chia rẽ dân tộc, can thiệp vào nội bộ Phật Giáo, khủng bố, bắt bớ các Tăng Ni Phật Tử các cấp thuộc GHPGVNTN.

- Xét rằng, dù Phật Giáo là mũi dùi đàn áp kịch liệt và tang thương nhất, nhưng các tôn giáo bạn ở Việt Nam như Công Giáo, Cao Đài, Tin Lành, Cơ Đốc..vv.. cũng chung chịu cảnh đàn áp, kỳ thị. Điển h́nh gần nhất, là vụ Nhà Nước ngăn cản việc phong chức Giám Quản Tổng Toà TP Hồ Chí Minh của vị Giám Mục Huỳnh Văn Nghi.

- Xét rằng, công cuộc tái thiết quốc gia Việt Nam, tái hồi đạo đức dân tộc trong một xă hội vong thân đạo lư và khủng hoảng văn hoá, đưa dân thoát khỏi t́nh trạng nghèo đói, nô lệ, đ̣i hỏi sự góp công tham gia của mọi tầng lớp dân chúng, mọi gia đ́nh tôn giáo và chính trị. Nhưng chủ trương độc tài chính trị và độc tôn đảng trị là lực cản con đường tiến thủ của dân tộc một cách hiểm độc. Con đường mà tiền nhân đă đổ biết bao xương máu khai phá và gầy dựng;

 Từ những nhận thức trên đây về hiện trạng Phật Giáo bị khủng bố, đàn áp nói riêng, và toàn thể nhân dân bị đánh bật ra khỏi vai tṛ tái thiết xứ sở nói chung, nay Tuyên Cáo trước quốc dân đồng bào và dư luận thế giới:

1. Phật giáo Việt Nam là một thực thể dân tộc. Từ b́nh minh của lịch sử Việt đă có đóng góp lớn trong việc dựng Nước, khai ḍng Văn Hiến, có kế thừa sau trước, từ lịch đại Tổ Sư đến các Bồ Tát tử đạo, mà GHPGVNTN là sự truyền thừa chính thống và đại diện duy nhất của toàn thể quần chúng Phật tử Việt Nam. Trên b́nh diện quốc tế, GHPGVNTN là thành viên sáng lập phong trào Phật Giáo Quốc Tế tại Colombo thủ đô Tích Lan năm 1950, mang tên "Liên Hưũ Phật Giáo Thế Giới". Không một tổ chức Phật Giáo nào khác, do tư nhân hay thế quyền thiết lập cho những mục tiêu sai khác với Hiến Chương của GHPGVNTN, có thể thay thế hoặc điều khiển GHPGVNTN trong việc hướng dẫn Phật sự cho Phật Tử Việt Nam trong và ngoài nước và đại diện Phật Giáo Việt Nam trên trường quốc tế.

2. Hành động gần đây của Đảng Cộng Sản và Nhà Nước CHXHCNVN, qua tay Ban Tôn Giáo Chính Phủ và Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh Quảng Ngăi, đối với Văn Pḥng Lưu Vong Viện Hoá Đạo GHPGVNTN và vị Quyền Viện Trưởng Viện Hoá Đạo, vừa phản Hiến Pháp, phi pháp luật, vừa vi phạm Công Ước về Quyền Công Dân và Quyền Chính Trị của Liên Hiệp Quốc mà nhà nước CHXHCNVN là thành viên và đă kư kết tôn trọng.

3. Đảng và Nhà Nước CHXHCNVN phải khởi sự ngay tiến tŕnh dân chủ hoá chế độ, bằng cách để cho xă hội công dân h́nh thành, thông qua các quyền cơ bản như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo, tự do lập hội... Một trong những nét đặc điểm của nền văn minh Việt Nam, là đức hạnh. Hai mươi thế kỷ qua, nhân dân Việt Nam là một tổ  hợp của quần chúng có tín ngưỡng. Các lực lượng tôn giáo, trong có Phật Giáo, hiện tập trung đông đảo nhất các tầng lớp nhân dân, với khả năng vô song, để thực hiện việc hoá giải thù hận và tái thiết đất nước sau 50 năm chiến tranh thừa sai cho cuộc tranh chấp lưỡng cực quốc tế. Do đó, đàn áp tôn giáo nói chung và Phật Giáo nói riêng, là tiếp diễn cuộc chiến tranh lạnh lỗi thời, đồng lúc phá hoại tiềm lực xây dựng Tổ Quốc. Phải chấm dứt ngay chính sách đàn áp GHPGVNTN.

4. Chủ trương "xoá bỏ mặc cảm, xóa bỏ thù hận, hướng về tương lai" của Đảng và Nhà Nước không thể ngủ ĺ trên diễn văn mang tính chiến thuật, hầu đánh lừa dư luận quốc tế về cái gọi là "đổi mới kinh tế" và "ổn định chính trị".

Một quốc gia tôn trọng nhân quyền và dân chủ lành mạnh, là một quốc gia có đối lập. Đối lập để xây dựng, để ngăn ngừa các khuynh hướng cực đoan độc tài, tạo sự tham gia b́nh đẳng và đồng đẳng của toàn dân. Áp dụng chính sách đàn áp và khủng bố tôn giáo cũng như các đoàn thể chính trị đối lập, Đảng và Nhà Nước CHXHCNVN chỉ ổn định được bộ máy cai trị theo chế độ toàn quyền, nhưng không khởi động được sinh lực phát triển của dân tộc. Phải thoát ly diễn văn, thực hiện "xoá bỏ mặc cảm, xoá bỏ thù hận" trong hành động cụ thể, và qua chính sách tôn trọng nhân quyền được pháp luật bảo vệ. Đối với quần chúng Phật tử, hăy tức khắc trả tự do cho các hàng giáo phẩm, Tăng Ni, Phật Tử thuộc GHPGVNTN bị tù đày, cải tạo, quản thúc từ 1975 trở đi. Nếu họ có tội, th́ phải đưa ra xét xử công minh và công khai trước quần chúng và báo chí quốc tế, với sự biện hộ của Luật sư Việt Nam hay quốc tế do họ chọn lựa.

5. GHPGVNTN yêu cầu Nhà Nước công khai xử lại vụ án Huế theo quy định của luật pháp và đúng với tiêu chuẩn quốc tế, ghi trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, và các Công ước của Liên Hiệp Quốc. Cuộc xử các Đại Đức Thích Trí Tựu, Hải Tạng, Hải Thịnh, Hải Chánh và những Phật tử thuộc GHPGVNTN ở Huế ngày 15.11.1993 vừa qua, pháp luật không ngồi vai chánh án, công an thay vai biện hộ của Luật sư mà Giáo Hội đề cử. Bốn ngày trước vụ xử, nhiều Bộ Ngoại Giao Tây phương muốn cử quan sát viên về Huế theo dơi, nhưng nhân viên Bộ Ngoại Giao ở Hà Nội đă nói lừa rằng vụ xử được dời lại chưa biết đến lúc nào. Ngày xử báo chí không được tham dự, hăng thông tấn AFP bị cấm tới, ba Luật sư Pháp do Liên Đoàn Quốc Tế Nhân Quyền chỉ định theo lời Giáo Hội yêu cầu, không được cấp chiếu khán lên đường về Huế biện hộ cho các Đại Đức. Sự phản đối rầm rộ của dư luận quốc tế đối với vụ xử mờ ám này là những lời tố cáo hùng hồn và khách quan về một Nhà Nước phi pháp quyền. Điển h́nh là các lời tố cáo đến từ Liên Đoàn Quốc Tế Nhân Quyền tại Pháp, các Thượng Nghị sĩ Hoa Kỳ Bill Bradley, và Robert Kerry, Thượng Nghị Sĩ Avebury đại diện cho 130 Thượng Nghị Sĩ và Dân Biểu thuộc Lưỡng Viện Quốc Hội Vương Quốc Anh, Tổng Liên Đoàn Lao Động Hoa Kỳ AFL-CIO, Ban Đặc Lănh Nhân Quyền Quốc Hội Hoa Kỳ gồm 200 dân biểu, Tổ Chức Nhân Quyền Hoa Kỳ Asia Watch, Chủ Tịch Ban Nhân Quyền Quốc Hội Âu Châu...

6. Một nhà nước Pháp quyền phải tôn trọng tam quyền phân lập, không để cho một đảng nào chỉ huy nhà nước. Nguyên nhân của các cuộc đàn áp liên miên những phong trào quần chúng mà chẳng có cơ quan pháp lư nào kiểm soát, xử lư, là t́nh trạng độc tài chính trị và độc tôn đảng phái. Do đó, yêu cầu nhà nước CHXHCNVN thực hiện nền dân chủ pháp trị bằng ba hành động cụ thể: Bỏ điều 4 trên bản Hiến pháp hiện hành, như hành động cụ thể thứ nhất, để toàn dân được phép tham gia kiến quốc. Bầu lại Quốc hội với sự tự do tham gia ứng cử và bầu cử của toàn dân, trong đó có mọi khuynh hướng chính trị và tôn giáo, như hành động cụ thể thứ hai, để Quốc hội là quốc hội của dân chứ không là quốc hội của Đảng.

Viết lại bản Hiến Pháp phù hợp với nguyện vọng về nhân quyền và dân chủ của toàn dân qua các đại biểu độc lập của họ, và cũng để thích nghi với xu thế tiến bộ của thế giới ngày nay, mà phương châm đang thực hiện khắp năm châu, là cộng tác để cộng sinh. Cần quét sạch những tàn dư lệ thuộc quá khứ phong kiến, thực dân, quốc tế phân tranh, mở ra trang sử mới cho dân và nước. Cần nói rơ, là bỏ điều 4 trên Hiến Pháp hiện hành không có nghĩa là loại trừ hay tiêu diệt Đảng Cộng Sản. Chỉ xoá bỏ tính chất độc tôn độc quyền, làm những điều sai lầm, gây nguy hại cho đất nước. Một cơ chế dân chủ thực sự trong tương lai phải là nơi tập họp của mọi thành phần dân chúng, mọi khuynh hướng chính trị hay tôn giáo. Đua tranh phục vụ, nhưng không tương tranh tiêu diệt. Hoà hiệp phát triển, nhưng không sát phạt thủ tiêu. Trước khi thành đảng viên cộng sản hay bất cứ đảng nào khác, người ấy là một người Việt Nam. Lấy quan điểm Việt Nam có chiều dài văn hiến năm ngh́n năm làm cơ sở cho mọi cuộc gặp gỡ, đối thoại, cộng tác mà mục tiêu chính yếu là làm cho nước Việt Nam tồn vững, văn minh, và cường thịnh trong cộng đồng nhân loại.

7. Sự sụp đổ của chủ nghĩa và chế độ XHCN tại các nước Liên Sô cũ và Đông Âu đến từ nguyên nhân nội tại của luật đào thải, chứ không do ai bên ngoài gây ra trước. Chủ nghĩa và chế độ này cũng đang trên đà hoại diệt tại Việt Nam, v́ những lư do nội tại trong nội bộ đảng, chứ không do ai hay thế lực nào khác. Chạy trời không khỏi nắng, như nhà Phật quan niệm có sinh th́ có diệt. Tuy nhiên, nếu sáng suốt và hành động kịp thời, Đảng và Nhà Nước CHXHCNVN có thể tránh khỏi một cuộc trả thù ghê gớm của nhân dân. Bởi v́ Đảng và Nhà Nước đă gây quá nhiều đau khổ tang tóc cho đông đảo quần chúng từ 40 năm hơn. Muốn thế, Đảng và Nhà Nước CHXHCNVN phải gây nhân lành từ bây giờ. Nhân lành ấy là để cho Phật Giáo và các tôn giáo lớn tự do sinh hoạt tôn giáo, hầu chận đứng sự phát triển thù hận và suy thoái đạo đức đang hoành hành tâm địa mọi tầng lớp xă hội Việt Nam ngày nay. Không có lực lượng hoá giải hận thù nào khác tại Việt Nam ngoài các tôn giáo. Hiện nay "Diễn Biến Hoà B́nh" là điều Đảng và Nhà Nước vô cùng sợ hăi. Dù kinh hăi và t́m cách ngăn chận đến đâu, th́ Hoà B́nh, tức an lạc tinh thần và ấm no thể xác cho quần chúng, cũng từ từ diễn biến tới phần đất quê hương này. Thử nghĩ xem, có phải "diễn biến hoà b́nh" vẫn hơn là "diễn biến chiến tranh" không? Thế th́ tại sao lại sợ, mà không vui vẻ chào đón và chấp nhận như một Sứ giả của sự cộng tác và hoà hiệp dân tộc, để cộng sinh trên giải đất quá thương đau hơn 300 năm rồi, từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh đến hai thời mất nước và nội chiến?

8. Đối với quân nhân Hoa kỳ mất tích trong chiến tranh, trước kia họ là kẻ tử thù của Đảng và Nhà Nước CHXHCNVN. Nhưng nay họ được công nhận như bạn, nên Đảng và Nhà Nước gia công ngày đêm t́m kiếm, báo cáo thành khẩn với chính phủ Hoa Kỳ. Đây là hành động đáng khen, đáng ca ngợi, v́ thể hiện "xoá bỏ thù hận", là đức tính từ bi của nền văn hiến Việt. Tuy nhiên, với người dưng nước lă th́ thế, c̣n với con dân đất nước th́ sao? Hàng triệu binh sĩ hai miền Nam Bắc vùi thây trong chiến trận, nơi rừng thiêng, sông lạch, biển cả, biên giới, như thập loại chúng sinh, có được t́m kiếm không? Gia đ́nh họ có được báo tin, an ủi, bồi thường xứng đáng không? Ngoài kẻ tử sĩ, c̣n hàng triệu thương binh hai miền, số phận họ và con em họ có được nhà nước chiếu cố không? Đây không c̣n là vấn đề trả nghĩa theo truyền thống dân tộc có từ thời vua Hùng, mà c̣n là sự tôn trọng linh quyền của người chết, mà tục thờ cúng Ông Bà và nhớ ơn các đấng anh hùng vị quốc vong thân đă được nhân dân ghi xương khắc cốt. Đối với thành phố Huế, các vị tướng lănh và chính trị viên cầm quân Cách Mạng tấn công năm Mậu Thân đă viết bài, viết sách thú nhận những lỗi lầm tàn sát dân lành. Nay đến lược Đảng và Nhà Nước phải công khai sám hối với nhân dân thành phố Huế về những hầm chôn tập thể vể những hầm chôn tập thể mà quân đội và lực lượng địa phương Cách mạng là tác giả. Sám hối trước những gia đ́nh nông dân bị bức tử trong thời Cải Cách Ruộng Đất, và phục hồi nhân phẩm cho gia đ́nh, con cháu họ. Hay tổ chức một Ngày Sám Hối Toàn Quốc để tạ lỗi và hướng vọng tới những vong linh vô tội bị chết oan, bị bức tử. Vừa sám hối với người chết, vừa nguyện hứa lo cho người sống được sống người.

9. Trung ngôn nghịch nhĩ. Nếu lời Tuyên Cáo hôm nay làm cho Đảng và Nhà Nước phẫn nộ, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, trong có tôi, can cứu Thích Huyền Quang bị quản thúc không lư do tại Quảng Ngăi từ năm 1982 và chưa bao giờ được xét xử, xin lănh hết mọi trách nhiệm. Chúng tôi chỉ sử dụng quyền tự do ngôn luận mà Hiến Pháp của Nhà Nước CHXHCNVN công nhận. Tuy nhiên, nếu Đảng và Nhà Nước CHXHCNVN muốn trừng phạt, th́ xin hăy đưa chúng tôi ra một phiên toà công khai có quần chúng và báo chí quốc tế tham dự, với sự biện hộ của Luật sư quốc tế, mà ngay giây phút này dôi xin nhờ Liên Đoàn Quốc Tế Nhân Quyền tại Paris chỉ định và lo liệu biện hộ cho chúng tôi, nếu một mai tôi bị truy tố ra toà.

Cũng kể từ giây phút bản Tuyên Cáo này được công bố, nếu có ǵ bất trắc xảy ra cho thân thể tôi, hay xảy tới ngôi chùa Hội Phước ở Quảng Ngăi nơi tôi bị quản thúc từ năm 1982 và nơi GHPGVNTN đặt Văn Pḥng Lưu Vong Viên Hóa Đạo, th́ trách nhiệm này hoàn tạn thuộc Đảng Cộng Sản và Nhà Nước CHXHCNVN. V́ hiện này, công an nhà nước canh gát, kiểm soát nghiệm mật quanh chùa, nội bất xuất ngoại bất nhập, không cho tôi liên lạc với bất cứ ai. Ai t́nh cờ đến thăm tôi đều bị công an theo dơi, bắt giữ, khám xét hành trang và tra hỏi. Đây là hoàn cảnh tôi bị lâm vào kể từ biến cố Huế ngày 24.5.1993.

Nhân Tuyên Cáo này, tôi xin ngỏ lời tri ân các Chính Phủ, Quốc Hội các nước Âu, Á, Mỹ, Phi, Úc, Quốc Hội Âu châu, Ban Đặc Lănh Nhân Quyền (Human Rights Caucus), Ban Nhân Quyền Lưỡng Viện Quốc Hội Vương Quốc Anh, các cơ quan Liên Hiệp Quốc, Liên Đoàn Quốc Tế Nhân Quyền, Tổng Liên Đoàn Lao Động Hoa Kỳ AFL-CIO, các Tổ Chức Nhân Quyền và Ân Xá Quốc Tế, các cơ quan truyền thông, hăng thông tấn, báo chí quốc tế đă ưu ái lên tiếng truyền thanh, hậu thuẫn cuộc tranh đấu cho tự do tôn giáo và nhân quyền mà GHPGVNTN phát khởi tại Việt Nam từ hơn một năm qua. Mặt khác, GHPGVNTN quốc nội và hải ngoại không bao giờ quên công đức của Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại qua các tổ chức tôn giáo, đảng phái, hiệp hội, báo chí khắp thế giới, đă tích cực và tự nguyện đóng góp mọi mặt hỗ trợ Phong Trào Giải Trừ Pháp Nạn do GHPGVNTN và quần chúng Phật tử trong nước phát động.

Mong tất cả chư liệt vị tiếp tục cuộc hỗ trợ, cho tới ngày dân tộc Việt Nam đạt đựơc tự do tôn giáo, nhân quyền và dân chủ đích thực.

Tỳ Kheo THÍCH HUYỀN QUANG

Viện Trưởng Viện Hoá Đạo GHPGVNTN

(Ấn Kư)

 

 Bản sao kính gửi:

- Ông Vơ Văn Kiệt, Thủ Tướng Chính Phủ nước CHXHCNVN, Hà Nội, do Văn Pḥng II Viện Hoá Đạo đặt tại Hoa Kỳ chuyển đạt với thư kèm. V́ tất cả mọi cơ quan, văn pḥng của Giáo Hội trong nước đă bị phong toả triệt để, "Để kính tŕnh việc".

- Ông Tổng Thư Kư Liên Hiệp Quốc, do Văn Pḥng II Viện Hóa Đạo Hoa Kỳ chuyển đạt "Để yêu cầu cứu xét và can thiệp hữu hiệu hơn".

- Quư vị lănh đạo các Chính phủ, các Quốc hội, các Tôn giáo, các Tổ chức Nhân Quyền, Ân Xá Quốc Tế, các Tổ chức Nghiệp Đoàn và các Cơ quan truyền thông, hăng thông tấn, báo chí quốc tế, do Pḥng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế của GHPGVNTN đặt tại Paris chuyển đạt, "Để xin tiếp tục hỗ trợ"

- Chư Liệt vị Giáo Phẩm cao cấp, trung cấp lănh đạo Giáo Hội Quốc nội và hải ngoại, "Để thay báo cáo và yêu cầu nghiên cứu, khai thác, và tùy nghi làm việc".

- Lưu chiếu tại Văn Pḥng Lưu Vong Viện Hoá Đạo tại Quảng Ngăi.

 

***

 

NHẬN ĐịNH Về NHỮNG SAI LẦM TAI HẠI CỦA ĐẢNG CộNG SẢN VIỆT NAM

ĐỐI VỚI DÂN TộC Và PHẬT GIÁO VIỆT NAM

 

Hoà Thượng Thích Quảng Độ

 

1.- ĐỐI VỚI DÂN TộC

Ai cũng biết, chủ nghĩa Cộng sản do Karl Marx hoàn thành nhằm tiêu diệt chủ nghĩa Tư bản trên toàn thế giới, và sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Lê nin đă thành công trong việc thiết lập chế độ cộng sản tại nước Nga vào năm 1917. Kể từ đó, nhất là sau đại chiến thế giới lần thứ hai và bắt đầu cuộc chiến tranh lạnh, thế giới đă chia làm hai phe rơ rệt là Cộng sản và Tư bản đối nghịch nhau một cách không khoan nhượng. Phe cộng sản nhằm "đào mồ chôn sống phe Tư bản" để làm bá chủ thế giới, v́ cộng sản là phong trào quốc tế.

Cộng sản chủ trương độc tài chuyên chính, do giai cấp công nhân lănh đạo, gây căm thù đấu tranh giai cấp kẻ giàu người nghèo, hứa hẹn lấy của nhà giàu chia cho người nghèo để mang lại cơm no áo ấm cho họ và dùng cách mạng bạo lực để thực hiện mục đích ấy - sức mạnh phát ra từ ṇng súng là châm ngôn. Cộng sản cũng chủ trương tiêu diệt tôn giáo, v́ họ là những người vô thần duy vật, và tôn giáo đối với họ, cũng như Karl Marx đă nói, là "thuốc phiện" của loài người mà bọn Tư bản đă lợi dụng để ru ngủ nhân dân lao động ḥng dễ bề bóc lột. Người dân Nga đă từng sống trong cảnh nghèo khổ và bị áp bức dưới chế độ Nga hoàng từ lâu, khi được nghe chủ trương và những lời hứa hẹn như trên đây th́ tất nhiên là đă tán thành chủ nghĩa cộng sản, nhờ thế mà cộng sản đă thành công tại Nga.

Nhưng nói thế nhất thiết không có nghĩa là cái ǵ tốt cho nước Nga cũng sẽ tốt cho Việt Nam. Mỗi nước có những vấn đề riêng của nó và những vấn đề ấy phải được giải quyết theo bối cảnh lịch sử, văn hóa và phong tục tập quán của mỗi nước. Cái bất hạnh cho dân tộc Việt Nam là những người cộng sản Việt Nam đă không ư thức được điều đó.

Như vừa nói ở trên, thế giới đă chia làm hai phe Cộng sản và Tư bản, hễ ở đâu, nhất là các nước thuộc địa nhược tiểu ở Phi châu, Á châu và Mỹ châu La tinh mới giành được độc lập sau thế chiến thứ hai, theo Cộng sản th́ Tư bản núp dưới chiêu bài "chống cộng sản để bảo vệ thế giới tự do" mà can thiệp vào công việc nội bộ của nước ấy. Cũng thế, nếu theo Tư bản th́ Cộng sản lại cũng núp dưới chiêu bài "giải phóng dân tộc" để bành trướng chủ nghĩa cộng sản. Việt Nam là một trường hợp.

Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, hầu hết các nước thuộc địa ở Á châu đều được độc lập và đa số chẳng theo phe nào, cho nên dân các nước ấy được sống trong ḥa b́nh để xây dựng đất nước và củng cố nền độc lập c̣n non trẻ của họ, chỉ có nước Việt Nam là khốn khổ v́ chiến tranh tàn phá suốt hai mươi chín năm trời (1946-1975) là bởi những người cộng sản Việt Nam đă đưa vận mệnh của nước Việt Nam ràng buộc vào với sự sống c̣n và quyền lợi của phe cộng sản quốc tế. Giá như những người Việt Nam thời ấy không là cộng sản quốc tế mà v́ dân tộc thật sự, như những Nehru của Ấn Độ, Sukarno của Nam Dương hay Nasser của Ai cập v.v.. th́ dân tộc Việt Nam đă có thể tránh được hai mươi chín năm chiến tranh ư thức hệ Quốc Cộng tương tàn do các thế lực ngoại bang chi phối.

Năm 1946, thực dân Pháp trở lại Việt Nam với hy vọng chiếm lại thuộc địa cũ. Nhưng, như mọi người c̣n nhớ, sau thế chiến thứ hai, nước Pháp đă kiệt quệ, làm ǵ c̣n đủ khả năng để thực hiện giấc mơ ấy? Song phe Tư bản đă chi tiền của và súng đạn đề nhờ thực dân Pháp "ngăn chặn cộng sản tiến xuống vùng Đông Nam Á để bảo vệ thế giới tự do", v́ Việt Nam là thuộc địa cũ của Pháp, cho nên người Pháp có lí do để trở lại hơn là các nước Tư bản khác trực tiếp nhảy vào. Ngược lại, cộng sản Việt Nam cũng kêu gọi toàn dân đứng lên chống đế quốc xâm lược để "bảo vệ tiền đồn của phe Xă hội chủ nghĩa". Thế là Việt Nam đă nghiễm nhiên trở thành đấu trường để hai phe Cộng sản và Tư bản đọ sức.

Để tạo cho ḿnh một lí do chính đáng, người Pháp đă đưa cựu hoàng Bảo Đại về dựng lên một chính phủ Bảo hoàng chống cộng để bảo vệ độc lập quốc gia, dùng người Việt bắn giết người Việt, thế là cảnh "nồi da xáo thịt" bắt đầu và kéo dài măi đến năm 1975 (sẽ nói sau). Khốn nỗi, bên cạnh những ông Bảo hoàng ấy là các ông mũi lơ, mắt thau, tóc quăn da đen, th́ người dân Việt yêu nước nào mà tin được là các ông Bảo hoàng ấy "bảo vệ độc lập quốc gia"? Về điểm này, phe Cộng sản khôn hơn phe Tư bản, họ dùng ngay người bản xứ, họ chỉ cho vay tiền bạc, súng đạn và cố vấn ở hậu trường mà thôi, chứ họ không đưa quân lính các nước cộng sản khác đến trực tiếp chiến đấu ngoài chiến trường. Bởi thế, những người Cộng sản bản xứ đă tạo cho ḿnh được cái vẻ "chính nghĩa chống ngoại xâm", cho nên tuyệt đại đa số nhân dân tin và hết sức ủng hộ họ v́ ḷng yêu nước. V́ lẽ đă tám mươi năm phải sống dưới ách thống trị của thực dân Pháp, bây giờ đánh đuổi quân Pháp để giành độc lập th́ ai mà chẳng hoan nghênh và sẵn sàng hy sinh, cho nên cuối cùng Cộng sản đă thắng.

Sau cuộc thảm bại tại trận Điện Biên Phủ, người Pháp thấy không c̣n đủ sức theo đuổi chiến tranh, mà nếu cứ tiếp tục, th́ rồi sẽ có thể mất luôn cả nước Pháp v́ nợ nần chồng chất. Do đó, năm 1954, Pháp đă thỏa hiệp với cộng sản Việt Nam chia đôi nước Việt Nam theo hiệp định Genève, cắt từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc cho cộng sản để Pháp rút quân về, sau chín năm bắn giết đốt phá.

Sau khi Pháp rút đi, cộng sản tiếp thu Hà Nội và cai trị toàn miền Bắc, bắt đầu thực hiện chủ nghĩa cộng sản (mà trong thời kháng chiến chưa dám làm v́ sợ mất ḷng dân) và chuẩn bị cho cuộc căm thù đấu tranh giai cấp, tức là đă đánh đuổi được kẻ thù bên ngoài rồi, bây giờ phải thanh toán những kẻ thù bên trong. Những kẻ thù bên trong ấy là ai ? Đó là: "Trí, Phú, Địa, Hào, Tôn giáo, Lưu manh" và phải "đào tận gốc trốc tận rễ". Nghĩa là trí thức - đặc biệt là Quốc Dân Đảng - người giầu, địa chủ, cường hào, tôn giáo, lưu manh, đào tận gốc trốc tận rễ có nghĩa là phải tiêu diệt cho bằng hết! Và cuộc căm thù đấu tranh giai cấp ấy đă diễn ra năm 1956, dưới h́nh thức Cải cách Ruộng đất và "ôn nghèo gợi khổ" kéo dài suốt sáu tháng trời.

Mỗi xă có một đội cải cách do Trung ương đảng phái về, gồm toàn người xa lạ, từ miền Trung ra. Những người miền Bắc th́ được phái vào miền Trung, v́ những người khác xứ như thế sẽ không có t́nh cảm địa phương và dễ bề thẳng tay tàn ác mà không sợ bị nhận diện. Khẩu hiệu của đội cải cách là: "Nhất đội nh́ trời". Cũng như trong miền Nam năm 1975, cộng sản đang trong cái khí thế "thừa thắng xông lên", tại các công trường làm thủy lợi, cộng sản trương khẩu hiệu "Thằng trời đứng ra một bên, để cho thủy lợi tiến lên thay trời!" và "vắt đất ra nước, thay trời làm mưa", c̣n ǵ ngông cuồng hơn! Một ông vua thời phong kiến bất quá cũng chỉ xưng là "thiên tử" (con trời), nhưng ngày nay đội cải cách của đảng cộng sản c̣n là "bố trời" và mọi người nếu muốn kêu xin điều ǵ phải nói:"Con cúi đầu xin đèn trời soi xét". Oái ăm thay! Một đảng chính trị như đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đánh đổ vua chúa phong kiến, thực dân đế quốc để mang lại "độc lập tự do hạnh phúc" cho toàn dân, th́ giờ đây nghiễm nhiên lại là bố trời! Quyền lợi và lợi lộc làm hư hỏng con người đến thế.

Khi đội về xă nào th́ họ đến ở trong các nhà nghèo nhất xă, xưa nay chuyên đi cày thuê cuốc mướn, hoặc ở chăn trâu cắt cỏ cho nhà giàu, hoặc là người làm mơ trong xă. Những người này được gọi là "thành phần cốt cán" và được đội cải cách giao cho công việc "nghiên cứu điều tra" xem ai là địa chủ, cường hào, phú nông, trí thức (tức đảng viên Quốc dân đảng), nếu ai rơi vào những thành phần ấy th́ bị bắt giam riêng ở một nơi để chờ ngày đem ra đấu tố và coi như đă nắm chắc cái chết trong tay rồi. Trong thời gian các khổ chủ bị giam được canh gác rất cẩn mật, thân nhân không ai được đến gần, nếu đến cũng bị tội lây. Sở dĩ đội cải cách giao cho những người nghèo nhất xă làm công việc quan trọng như vậy là v́ những người nghèo khổ hay mang ḷng ghen ghét oán hận, đúng như kinh Phật đă nói "bần khổ đa oán" (nghèo khổ nhiều oán), cho nên dễ bị kích động để trở thành căm thù, mà có căm thù th́ cuộc tố khổ mới thành công.

Sau khi thành phần cốt cán nghiên cứu điều tra xong, đội cải cách quyết định ngày giờ đưa các khổ chủ ra đấu tố. Các khổ chủ được đưa đến đấu trường mà đội gọi là "Ṭa án nhân dân", thường là ở giữa cánh đồng hoặc trên một băi đất rộng. Ơệ giữa đấu trường, một cái đài cao được dựng lên (như lễ đài) dành cho đội cải cách và "bồi thẩm đoàn" (dĩ nhiên là những người nghèo nhất và mù chữ trong xă) của Ṭa án nhân dân ngồi. Các khổ chủ cúi đầu qú ở dưới, hai tay bị trói giặt về sau lưng. Khi đội cải cách luận tội, có điều oan ức muốn kêu, th́ các khổ chủ phải nói: "Con cúi đầu xin đèn trời soi xét...". Ngày ấy tất cả dân trong xă (mỗi gia đ́nh chỉ để một người già ở nhà giữ nhà) phải đến dự để tố khổ chủ (tất nhiên là họ đă được học tập trước rồi). Đại khái họ kể: "Ngày trước chúng mày đă bóc lột chúng tao, cho chúng tao vay nặng lăi; ngày giỗ ngày tết chúng tao phải đưa gà, trứng gà, thịt lợn, gạo nếp đến biếu chúng mày, tính đến nay đă có hàng ngàn hàng vạn con gà, quả trứng; làm thuê cho chúng mày th́ chúng mày cho chúng tao ăn đói, lại c̣n đánh đập hành hạ chúng tao, v.v.. và v.v...". Có nhiều trường hợp con tố cha, vợ tố chồng, tṛ tố thầy, anh em họ hàng tố lẫn nhau v́ những nguyên nhân bất ḥa trong gia đ́nh trước kia. Tố xong, ṭa án nhân dân định tội và kết án tử h́nh, tất cả đám đông ở dưới phải hô to ba lần: "Tử h́nh! Tử h́nh! Tử h́nh!" vừa hô vừa giơ tay đấm lên hư không ba cái. Thế rồi khổ chủ bị bịt mắt lại đưa đến trói vào cây cột đă được dựng sẵn và đội hành quyết gồm năm người đứng nhắm bắn, khổ chủ gục đầu xuống và kết liễu một cuộc đời! Người ta kể có trường hợp bắn đi bắn lại mấy lần khổ chủ mới chết. Sau một hồi vỗ tay hoan hô, đám đông lần lượt ra về, để rồi ngay mai đi hoan hô nữa, hết xă này đến xă khác! Sau đó, tài sản của các khổ chủ tử h́nh, gọi là "quả thực" được chia cho thành phần cốt cán, người được gian nhà, người được cái giường, cái bàn, cái ghế, cái ḥm, cái cối xay, cối giă, cái cày, cái bừa, bát đĩa nồi niêu, giần sàng rổ rá, cho đến cái chổi cùn, rế rách..., nghĩa là có cái ǵ chia cái ấy.

Như đă nói ở trên, cuộc đấu tranh căm thù giai cấp diễn ra suốt sáu tháng trời, trên toàn miền Bắc chết chóc quá nhiều, đến bảy trăm ngh́n người (trong đó, có nhiều trường hợp, như một cán bộ đă nói với tôi nguyên văn như sau:"Cộng sản chặt đầu cộng sản mới đau chứ") đến nỗi đảng cộng sản Việt Nam đă phải ra lệnh sửa sai và, cũng người cán bộ kể trên đă nói: "Hồ chủ tịch đă đích thân đứng ra xin lỗi nhân dân". Nhưng có điều mỉa mai ở đây là đảng cộng sản Việt Nam thường tự hào không bao giờ sai lầm, thậm chí, hồi tôi bị cộng sản giam trong nhà tù Phan Đăng Lưu ở Bà Chiểu, Gia Định, năm 1977, tôi được nghe bài hát trên loa đài, ca tụng đảng là "chân lí", đảng là "mặt trời", thế sao lại phải sửa sai? Một điều đau đớn nữa là dù có sửa sai, có xin lỗi th́ bảy trăm ngh́n con người cũng đă mất mạng và tài sản của họ cũng đă tiêu tan rồi!

Tuy nhiên, vẫn chưa hết chết chóc. V́ sau khi sửa sai, người ta lại chém giết nhau nữa. Chả là, trong thời gian tố khổ, có nhiều người v́ thù oán riêng tư, đă "mượn gió bẻ măng" dựa vào cuộc đấu tố mà tố bậy, tố oan để trả tư thù. Do đó, khi sửa sai, thân nhân của những khổ chủ đă chết v́ bị tố oan, trở lại giết những kẻ tố oan để trả thù. Chẳng hạn như trường hợp một anh "cốt cán" ở một xă nọ bị cụt mất ngón tay trỏ từ thuở nhỏ, đến thời cải cách tố khổ, anh ta dùng cái ngón tay cụt ấy mà tố đến mười người. Đối với người nào anh ta cũng nói: "Tao ở chăn trâu cắt cỏ cho mày, mày đă cho tao ăn đói và không trả công th́ chớ, mày lại c̣n chặt ngón tay tao!". Sau này anh bị giết lại trong thời gian sửa sai. Con số những người chết trong trường hợp này cũng khá nhiều. Thật là một bầu không khí căm thù ngút trời mà từ bốn ngh́n năm lịch sử chưa từng có.

Sư cụ chùa Long Khánh xă Vũ Đoài - nơi tôi bị quản thúc hơn mười năm nay (1982-1992) - bị tố là đảng viên Quốc dân đảng và bị giam hai tháng, đến khi sửa sai mới được tha, không th́ cũng chết. C̣n một người nọ, tuy nghèo phải đi làm công, nhưng rất thật thà nhân hậu, cho nên người chủ nhà cũng thương t́nh, mỗi khi túng thiếu vay thóc ăn th́ người chủ cho vay mà không lấy lăi. Đến thời cải cách, người ta buộc ông phải tố người chủ, ông ta đành phải lên tố. Ông ta nói: "Tao nghèo khổ phải đi làm thuê làm mướn cho mày, mày cho tao ăn hai bữa cơm no, tối về mày c̣n trả công tao đấu gạo; khi tao túng thiếu đến vay thóc mày, th́ mày cho vay không, không lấy lăi...". Đội cải cách phải cho người ra lôi cổ ông ta xuống, không cho tố nữa. Lại ở một xă nọ, ông Linh mục bị đưa ra đấu tố, người đứng ra tố là một bà đanh đá nhất xă, bà ta tên Đức. Khi ông Linh mục qú giữa đấu trường, bà Đức (Đức mà thất đức) đứng trước xỉa xói vào mặt ông Linh mục chửi bới thậm tệ, rồi bà ta nói: "Tu hành ǵ mày, có mà tu hú; tu ǵ mà ăn những thịt gà cá gỡ cho béo vào, cái mặt phèn phẹt ra thế kia ḱa rồi đi theo cộng sản mà làm hại dân hại nước!?". Lập tức đội cải cách sai người lên kéo bà ta ra, nhưng bà c̣n đang hăng máu, không chịu ra và nói: "Chưa hết! Nó c̣n nhiều tội lắm, chưa tố hết". Nhưng một người bịt miệng bà ta và một người cầm tay lôi bà ta ra. Có lẽ bà ta đă được dạy nói là "đi theo Quốc gia, theo Tây mà làm hại dân hại nước", nhưng lúc đó bà đang hăng say, quên bẵng đi mà nói lầm là "đi theo cộng sản" chăng? Sau đó ông Linh mục được đưa đi và cho đến nay (1992) vẫn chưa về!

Kể từ sau ngày cải cách và đấu tố trở đi, những thân nhân họ hàng của địa chủ, cường hào, trí thức, sư, linh mục bị gọi là thằng nọ con kia và mỗi khi ra đường gặp bất cứ người nông dân lớn bé già trẻ nào, cũng phải khoanh tay cúi đầu chào: "Con xin chào ông nông dân, con xin chào bà nông dân!". Người ta kể chuyện một em bé gái sáu tuổi bế em trai đi chơi, một bà già thân nhân của địa chủ gặp và khoanh tay cúi đầu chào: "Con xin chào bà nông dân bế ông nông dân đi chơi!"! Thật là chuyện cười ra nước mắt. Chưa hết, sư cụ chùa Long Khánh xă Vũ Đoài, sau khi được tha về, hôm ấy là ngày 15 (ngày rằm), cụ nấu xôi cúng Phật, cụ đang đơm xôi vào đĩa, mấy bà già tín đồ trong xă ra, trông thấy, họ nói: "Mày không được đơm xôi cúng Phật, đồ phản động dơ dáy! Việc của mày ở ngoài vườn. Để xôi đó cho chúng tao đơm, ra vườn làm cỏ!". Ôi! Luân thường đạo lí: "Than ôi ! Văn minh Đông Á trời thâu sạch, này lúc cương thường đảo ngược ru?" (Tản Đà). Nhà thơ đă biết trước, nhưng nay cũng đă qua đời, khỏi phải chứng kiến cảnh đau ḷng.

Kể từ sau ngày cải cách, tôn ti trật tự xă hội đảo lộn, luân thường đạo lí đổ nát, v́ cảnh con tố cha, vợ tố chồng, anh em họ hàng tố lẫn nhau, tất cả giá trị tinh thần truyền thống đều sụp đổ. Cuộc cải cách này và cuộc chiến tranh ư thức hệ huynh đệ tương tàn ṛng ră hai mươi chín năm, khiến ba triệu người chết, bốn triệu người bị thương và nửa triệu trẻ em sinh quái thai là một cái giá quá đắt mà dân tộc Việt Nam phải trả để đổi lấy một học thuyết phi nhân và vô luân mà nay nó đă bị loại bỏ ngay trên mảnh đất nó đă được thí nghiệm lần đầu tiên cách đây bảy mươi tư năm (1917-1991). Những ai phải chịu trách nhiệm cho thảm họa ấy?

Trên đây tôi chỉ kể sơ qua mấy nét tổng quát về cuộc đấu tố mà thôi, c̣n những chi tiết liên quan đến cách làm việc, những thủ đoạn khủng bố, cách đối xử với các khổ chủ trong thời gian họ bị giam cầm trước khi chính thức đưa ra đấu trường để bị tố và xử bắn, th́ thật là khủng khiếp, không thể diễn tả được.

Sau khi đă thanh toán những kẻ thù "có nợ máu" với nhân dân rồi, đảng cộng sản Việt Nam hứa với nhân dân sẽ xây dựng một xă hội công bằng, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng như ai, không có kẻ giầu người nghèo, không c̣n nạn người bóc lột người, không ai phải làm thuê làm mướn cho ai, nông nghiệp sẽ được cơ giới hóa toàn quốc; các cụ già sáu mươi tuổi trở lên, không c̣n sức lao động, sẽ có "An dưỡng đường", mỗi cụ một căn pḥng khang trang đẹp đẽ, có người phục vụ chu đáo. Xă hội cộng sản sẽ không có ăn mày, trộm cướp, đĩ điếm, nghiện ngập, hút xách, ai cũng có công ăn việc làm, không có nạn thất nghiệp, tóm lại là một thiên đường trên mặt đất. Và sau này trên mặt đất nếu dân số tăng lên đông quá, không đủ chỗ ở, th́ sẽ đưa bớt lên mặt trăng!!

Để thực hiện lời hứa lấy ruộng của địa chủ chia cho nông dân, đảng cộng sản đă chia ruộng cho dân một cách đồng đều và cấp bằng "Sở hữu chủ" hẳn hoi. Bằng sở hữu chủ phải được cắm ngay trên thửa ruộng của ḿnh để chứng tỏ quyền sở hữu của mỗi người. Và để thực hiện không ai làm thuê làm mướn cho ai, đảng bảo dân thành lập Tổ đổi công (một loại Hợp tác xă nhỏ), nghĩa là mỗi Tổ năm nhà hoặc hơn tùy ư, hợp lại với nhau, rồi hôm nay cày cấy cho nhà này, ngày mai cày cấy cho nhà khác, cứ như thế cho đến hết lượt. Thuế nông nghiệp lúc này rất nhẹ, nhân dân vui mừng lắm, nói theo danh từ thời thượng là rất ư "hồ hởi phấn khởi". Từ bao đời nay, bây giờ "ơn Bác ơn Đảng", người nông dân mới thực sự có được mảnh ruộng và làm chủ mảnh ruộng của ḿnh. Đời sống nông dân trong giai đoạn ấy tương đối sung túc, cho nên dân rất tin yêu đảng. Nhưng tiếc rằng sự hồ hởi phấn khởi ấy chẳng được bao lâu, v́ đến năm 1960, đảng bắt dân phải góp hết ruộng vào Hợp tác xă lớn để "làm chủ tập thể" chứ không sở hữu riêng nữa. Nông dân có ǵ đem góp hết vào Hợp tác xă: trâu ḅ, cày bừa, cối xay, cối giă, trục lúa v.v... tóm lại tất cả các nông cụ riêng trước đây đều sung vào Hợp tác xă. Người nông dân bỗng nhiên thấy ḿnh hoàn toàn là người vô sản, chỉ c̣n hai bàn tay để đi làm thuê lấy điểm, có khác là trước kia làm thuê cho "bọn địa chủ tàn ác bóc lột", nó cho ăn ngày hai bữa cơm no, tối về nó trả công đấu gạo; c̣n bây giờ th́ làm thuê cho Hợp tác xă không cơm, tối lại được trả cho tám lạng hay một cân thóc đựng vào cái mo cau mang về (một cân thóc bằng sáu lạng gạo, người khỏe ăn một bữa không no). Bởi thế người dân đă nói với nhau là "Hợp tác lên to lấy mo đựng thóc". Một ông "cắc cớ" nào đó lại nói "Hợp tác lên to đói hết rồi", bị gọi ra Uệy ban nhân dân xă. Xă bảo: "Anh nói thế là nói xấu cách mạng, bôi nhọ chế độ đấy hả?". Ông cắc cớ trả lời: "Đâu dám! Ư tôi muốn nói là Hợp tác xă lên to hết cái đói rồi, nghĩa là không c̣n ai đói nữa, ai cũng no đủ cả". Thế rồi ông cắc cớ thong thả ra về. Lại một "nhà thơ" nào đó làm mấy câu thơ như sau:

Sáng bước chân ra bụng đói rồi

Trưa về lưng lửng tối ta thôi

cũng bị gọi ra Uệy ban và gán cho tội bôi bác chế độ. Nhà thơ phủ nhận và bảo bài thơ tôi có bốn câu tứ tuyệt, nhưng nhân dân chỉ truyền tụng có hai câu đầu mà bỏ hai câu cuối của tôi đi. Làm cho bài thơ không trọn nghĩa. Ông xă hỏi thế hai câu cuối của anh như thế nào? Nhà thơ đọc:

Đói no chi quản thời chinh chiến

Mỹ cút đi rồi bác với tôi.

Ông xă nói: "Ừ, vậy th́ hay quá chứ c̣n ǵ!". Thế là nhà thơ thung dung ra về.

Đến năm 1980, Đảng cộng sản thấy cách làm ăn tập thể kiểu Hợp tác xă bết bát quá, v́ chẳng ai chịu gắng sức làm, lại c̣n lăng phí, có khi phá ngầm nữa, bởi lẽ họ có làm mà không được hưởng, không đúng như lời đảng đă nói "làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu", nên họ chẳng thiết tha ǵ, chỉ làm qua loa cho xong việc rồi về nhà chăm lo con lợn con gà là chính. Do đó, sản lượng nông nghiệp mỗi ngày mỗi giảm sút nặng nề, đảng bèn đưa ra chính sách khoán sản phẩm, hy vọng cải thiện t́nh h́nh. Nhưng v́ Hợp tác lấy sản quá nặng nên ông dân cũng chẳng c̣n được bao nhiêu thóc và đói vẫn hoàn đói. C̣n các cụ già hơn sáu bảy mươi tuổi, không làm được ruộng th́ sung vào đội trồng cây theo khẩu hiệu của Bác Hồ "Trăm năm trồng người mười năm trồng cây". Loại cây chính được trồng ở hai bên lề đường là cây bạch đàn, xà cừ và phi lao. Hợp tác xă dùng chúng làm củi đốt nung gạch hoặc làm nhà kho.

Một hôm, có bảy tám cụ ông cụ bà vác cây đến trồng ở hai bên con đường đi vào chùa Vũ Đoài, các cụ vào chùa nghỉ giải lao, tôi hỏi các cụ đi đâu th́ các cụ cho biết đi trồng cây lấy điểm. Tôi ṭ ṃ hỏi các cụ trồng như vậy được bao nhiêu điểm, các cụ cho biết cứ năm cây được một điểm bằng một lạng thóc. Tôi nói: "Nghe đâu các cụ đă có An dưỡng đường, có người phục vụ chu đáo rồi mà, thế sao các cụ c̣n phải đi trồng cây lấy điểm?" Các cụ trả lời: "Chả biết sau này thế nào, chứ hiện giờ th́ chúng tôi đang c̣n "ăn đứng đường". An dưỡng đường mà các cụ nói chệch ra là ăn đứng đường th́ cũng lạ thật. Đă vậy, những cây các cụ trồng xong, chỉ ít ngày sau là người ta đă bẻ hoặc nhổ hết vào ban đêm, bởi vậy các em bé chăn trâu cho Hợp tác xă (trước kia th́ chăn trâu cho địa chủ bóc lột) mới làm vè hoan hô các cụ:

Hoan hô các cụ trồng cây

Mười cây chết chín một cây gật gù!

Các cụ cũng chẳng vừa, cũng làm vè "phản pháo" lại:

Các cháu có mắt như mù

Mười cây chết tiệt gật gù ở đâu?!

Nghĩa là trong con mắt các cháu th́ mười cây c̣n sống sót được một cây, nhưng dưới mắt các cụ th́ mưới cây chết hết cả mười! Thực ra th́ các cụ chỉ trồng chúng xuống để lấy điểm sống qua ngày thôi, c̣n chúng sống hay chết cũng mặc, các cụ đâu có quan tâm. C̣n những người bẻ hoặc nhổ cây đi th́ lại nghĩ chúng có lớn lên ḿnh cũng chẳng được dùng, thôi th́ nhổ phứt đi cho khuất mắt.

Nạn tham ô ở nông thôn cũng rất phổ biến. Nông dân phải trả sản nặng, thiếu phải bù lỗ, bởi thế phải nói khó với các ông lái máy cày máy bừa làm kĩ ruộng để cấy cho tốt lúa, bởi v́ các ông máy cày hay cày lỏi; hoặc hợp đồng bừa ba lượt th́ các ông chỉ bừa hai lượt thôi. Làm như vậy sẽ dối số dầu xăng mà hăng máy cày cấp cho mỗi máy. Các ông lái máy cày lấy dầu xăng dối ra ấy đem đi bán chợ đen, mà cày bừa như thế th́ ruộng không kĩ, lúa sẽ xấu. Bởi vậy nông dân phải nói khó với các ông cày bừa cho kĩ. Nhưng muốn thế th́ phải luộc gà nấu xôi cho các ông ăn mới được, v́ thế trong dân gian mới có câu "Trâu đen ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà". Trâu đen là con trâu thật, trâu đỏ là cái máy cày v́ nó được sơn màu đỏ cách mạng. Thật cũng trớ trêu, ngày xưa phải biếu gà cho địa chủ bóc lột, c̣n ngày nay th́ phải đút lót gà cho máy cày. Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa! Nhưng sau máy cày nghĩ, ăn gà chỉ ăn được một ḿnh thôi, không vui, nên máy cày bèn lấy tiền và gạo đưa về nhà cùng vợ con ăn cho vui.

Rồi đến điện lực cũng vậy. Điện ở nông thôn chỉ được dùng để bơm nước vào đồng để cày bừa. Đến thời vụ, Hợp tác xă nào muốn có nước vào đồng trước để cày bừa, th́ phải đưa thịt và gạo nếp đến "lót tay" mấy ông cán bộ coi trạm điện bật cầu dao cho điện, nếu không th́ cứ chờ, quá thời vụ cũng mặc. Nhưng Hợp tác xă sợ quá thời vụ lúa sẽ xấu, không đủ thóc đóng thuế cho nhà nước cũng nguy, cho nên đành phải mang gạo thịt đi, chứ không thể chờ được. Bởi vậy, dân gian lại có câu tiếu lâm thời đại: "Có kí lô oét nới có kí lô oắt". Oét là tiếng kêu oen oét của con lợn, c̣n oắt (watt) là chỉ đơn vị điện lực. Hoặc câu nữa cũng không kém phần hóm hỉnh, như: "Có cầu thớt mới có cầu dao". Cái thớt dùng để thái thịt luôn luôn đi với con dao, c̣n cầu dao là cầu dao của công tơ điện, hễ có gạo thịt th́ nó bật lên, không th́ nó cúp xuống! Lại trong làng xóm, nhà nào khá giả muốn có ngọn đền điện thắp sáng trong nhà, nhất là vào ba ngày tết, hoặc đám cưới, đám ma v.v.. th́ xin ông cán bộ trạm điện cho phép câu điện vào, dĩ nhiên, cũng phải có gà lợn và gạo nếp chỉ đường dẫn lối. Cho nên người dân lại có câu ca dao:

Muốn cho điện sáng về nhà

Ruột lợn ruột gà phải nối đến nơi!

Thật cũng buồn cười, trước kia cộng sản lên án tư bản là nắm lấy các phương tiện sản xuất để thao túng bóc lột dân lao động, th́ giờ đây cộng sản có máy cày, có trạm điện cũng có tha dân đâu! Những câu tiếu lâm, ca dao về nạn tham ô ở nông thôn c̣n nhiều lắm, như:

Mỗi người làm việc bằng hai

Để cho cán bộ mua đài (radio) mua xe

Mỗi người làm việc bằng ba

Để cho cán bộ xây nhà xây sân...

và những tiếu lâm về các lănh vực khác cũng khá nhiều, nhưng ở đây tôi không chủ trương nói về điều đó, chỉ nêu mấy câu làm điển h́nh thôi.

Cuối cùng, chính sách khoán sản phẩm cũng thất bại, đến năm 1985 th́ đảng cho khoán trắng. Nghĩa là cho dân thuê ruộng rồi đóng thuế cho nhà nước, hệt như chính sách phát canh thu tô của "địa chủ bóc lột và bị giết" trước kia, chỉ khác trước kia là địa chủ cá thể, bây giờ là địa chủ tập thể đảng hoặc nhà nước. Thế là mèo lại hoàn mèo. Rồi bắt đầu phá Hợp tác xă: nào nhà kho, sân kho, nhà nuôi lợn, nhà chăn tằm, nhà thuốc, vườn ươm cây, cửa hàng hợp tác xă, ao cá Bác Hồ, vườn cây Bác Hồ v.v.. phá hết, bán đấu giá hết. Một hôm, có người trong xóm ra chùa rủ tôi đi xem chỗ máy bay B52 của Mỹ bỏ bom, tôi hết sức ngạc nhiên. Tôi hỏi bỏ bao giờ, ông ta bảo mới vài hôm nay, tôi lại càng ngơ ngác không hiểu ra sao. Sau một lát ông ta mới nói dân chúng mua nhà nuôi lợn của Hợp tác xă, họ đang đập phá lấy gạch, trông y như B52 bỏ bom. Lúc đó tôi mới vỡ lẽ. Mấy hôm trước có người ở thành phố Nam Định sang thăm và cho tôi một món quà hiệu Liên xô, bên ngoài hộp có mấy chữ CCCP, không hiểu, tôi đưa ra hỏi ông ta là nghĩa ǵ, ông ta bảo đó là chữ viết tắt của các câu: Các cha cứ phá, các chú cứ phá, các cô cứ phá, các cậu cứ phá, các con cứ phá, các cháu cứ phá, các chắt cứ phá, các chút cứ phá, các chít cứ phá,... nói xong ông ta cười sằng sặc. Tôi nghĩ bụng, thật là mấy chữ quái ác, đây là định mệnh của dân tộc chăng? Thảo nào mà đ́nh chùa miếu mạo họ cũng phá, và bao nhiêu thế hệ mà cứ phá như thế th́ liệu đất nước sẽ c̣n ǵ. Tôi nhớ lại thời "tiêu thổ kháng chiến".

Bao nhiêu công của sức lực, mồ hôi và cả nước mắt của nông dân đổ ra suốt một phần tư thế kỷ để xây dựng, gom góp hết vào Hợp tác xă, bây giờ tan thành mây khói, và số tiền bán đấu giá các tài sản ấy chui vào đâu, ngườ́ dân không biết.

Tổ tiên Việt Nam qua bao nhiêu đời, bằng kinh nghiệm sống của ḿnh đă đúc kết thành những câu ngạn ngữ, ca dao ngắn gọn rất hay rất đúng để dạy con cháu đời sau về mọi lănh vực. Như về luật nhân quả th́ các cụ nói "Đời cha ăn mặn đời con khát nước", nghĩa là những kẻ làm điều ác th́ sớm muộn ǵ cũng sẽ phải chịu quả báo ác. Về số phận th́ các cụ nói "Số giàu của đến dửng dưng, số nghèo con mắt tráo trưng vẫn nghèo". Đúng vậy, như thời cải cách, những địa chủ và cường hào bị tịch thu hết nhà cửa ruộng vườn, thóc gạo đồ dùng và tiền bạc họ lấy sạch, chỉ để cho cái chuồng trâu cho con cái ở, giường chiếu không có, phải nằm đất, không c̣n ǵ ăn, phải đi ṃ cua bắt ốc sống qua ngày. Vậy mà bây giờ họ lại giầu có, nhà xây sân gạch, dư thóc lúa tiền bạc. Trái lại, những người ngày trước lấy của họ chia nhau ăn, chỉ sau ít lâu là ăn hết, rồi người được chia nhà th́ bán nhà, người được đồ đạc th́ bán đồ đạc, rút cuộc nghèo vẫn hoàn nghèo. Có điều mỉa mai là sau ngày cải cách, thân nhân con cái địa chủ, cường hào bị gọi thằng nọ con kia, khi gặp họ phải cúi đầu chào ông nông dân bà nông dân, th́ bây giờ lại chính những người ấy đến nhà các thân nhân con cháu của địa chủ, cường hào vay tiền vay thóc và gọi họ bằng cụ hoặc ông bà tùy tuổi tác, chứ không dám gọi thằng nọ con kia nữa.

Nhưng không lănh vực nào mà các cụ dạy bảo con cháu kĩ như lănh vực làm ăn tập thể theo kiểu cộng sản. Các lănh vực khác th́ thường chỉ có một câu hay hai câu là cùng, riêng lănh vực làm ăn tập thể th́ có tới ba câu, đó là : "Cha chung không ai khóc; nhiều săi không ai đóng cửa chùa; nhiều thầy rối ma nhiều cha con khó lấy chồng". Ngày nay những người cộng sản Việt Nam đă không chịu học bài học của tổ tiên ông cha, mà lại đi học ông Karl Marx, ông Lê-nin, tin rằng các ông ấy nói đúng hơn, hay hơn, nên mới bắt dân làm ăn tập thể, hao tiền tốn của phí công mà chẳng nên việc ǵ. Rồi đến lănh vực chính trị cũng thế, tổ tiên Việt Nam thiếu ǵ đường lối chính sách hay, như vua Thánh Tôn (1054-1072) đời Lư, một hôm ngồi xử án tại điện Thiên Khánh, có công chúa Động Thiên đứng hầu bên cạnh. Vua chỉ vào công chúa mà nói với các quan: "Ḷng trẫm yêu dân cũng như yêu con trẫm vậy, chỉ hiềm trăm họ dại dột, làm bậy phải tội, trẫm thương lắm. Từ nay về sau tội nhẹ th́ tha, tội nặng th́ giảm bớt đi". Hoặc như Nguyễn Trăi: "Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, đem trí nhân trừ cường bạo". Những giá trị nhân bản cao quí đầy nhân tính như thế, tại sao người cộng sản Việt Nam không học, lại đi học chính sách hận thù đấu tranh giai cấp, tố khổ nhân dân khiến hằng trăm ngh́n đồng bào vô tội phải chết oan?!

Trở lại vấn đề khoán trắng sau khi tập thể Hợp tác xă thất bại. Nghĩa là bây giờ (1985) ruộng đem khoán trắng cho dân, nhưng khốn nỗi trâu ḅ cày bừa và tất cả nông cụ khác trước đây đă góp hết vào Hợp tác xă, khi Hợp tác xă giải thể, tài sản bán đấu giá, nông dân không được trả lại một món ǵ, bây giờ lại phải mua sắm đồ mới. Nhưng khó nhất là trâu ḅ, hàng trăm ngh́n đồng một con trâu, dân lấy tiền đâu mà mua; xăng dầu lại đắt, không đủ sức thuê máy cày. Vả lại, trước kia, khi vào Hợp tác xă th́ các bờ ruộng phải phá hết đi để làm thành "ruộng đồng c̣ bay thẳng cánh chó chạy cong đuôi" để cày máy. Bây giờ ruộng khoán trắng, mỗi nhà vài ba sào (một sào Bắc bộ bằng 366m vuông), dân lại phải đắp bờ lên để đánh dấu và giữ nước, th́ dù người có khả năng thuê máy cày cũng chẳng cày được. Cho nên đa số nông dân dùng cuốc và mai để cuốc và bẩy ruộng, và cứ mỗi nhát cuốc giơ lên bập xuống, họ lại nói "Cơ giới hóa toàn quốc"! Họ bảo "đảng ta" nói nông nghiệp sẽ được cơ giới hóa toàn quốc mà! Trẻ em bảy tám tuổi cũng phải cơ giới hóa toàn quốc. Cuốc xong, nhà nào có nhiều người trẻ khỏe th́ bừa lấy. Cứ hai người kéo, một người cầm bừa, mấy người đi trên đường thấy thế khen: "Gớm, hai con trâu khỏe nhỉ!" rồi họ cười với nhau thông cảm.

Cảnh ấy làm tôi nhớ lại năm 1975 được xem cuốn phim chiếu trên Tivi ở Sàig̣n kể lại cuộc đời của cụ Hồ Chí Minh (lúc đó trong phim cụ được gọi là anh Ba), từ bến Nhà Rồng Saigon cụ xuống tàu ra đi t́m đường cứu nước, mà một trong những nguyên nhân khiến cụ phải ra đi là cụ thấy người dân phải làm thân trâu kéo cày. Bây giờ đây, sau gần nửa thế kỷ cách mạng thành công, xây dựng chủ nghĩa cộng sản, th́ người dân lại phải kéo bừa thay trâu! Ơệ Vũ Đoài tôi chỉ thấy người kéo bừa chứ không ai kéo cày, v́ nặng lắm. Cuộc đời thật là cái đèn cù, quay hết ṿng th́ trở lại. C̣n các tệ nạn xă hội như trộm cướp, trấn lột, ăn mày, ăn hối lộ, nghiện ngập v.v...th́ vẫn nhan nhản.

Thế là từ sau ngày cải cách đấu tố giết chết bảy trăm ngh́n người, đảng cộng sản đă hứa hẹn với nhân dân miền Bắc xây dựng một xă hội thiên đường trên mặt đất, đến nay đă ba mươi sáu năm (1956-1992) mà vẫn chưa thực hiện được, có lẽ nó chỉ là cái bánh vẽ chăng?

Bây giờ đến lượt miền Nam th́ sao? Như đă nói ở đoạn trên, sau trận Điện Biên Phủ, người Pháp đă thỏa hiệp với cộng sản chia đôi nước Việt Nam, từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc thuộc cộng sản, từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam thuộc Pháp. Nhưng phe Tư bản do Mỹ cầm đầu, thấy Pháp đă kiệt quệ, chín năm trời hao tiền tốn của mà chẳng làm nên việc, cho nên gạt Pháp ra để trực tiếp can thiệp vào Việt Nam bằng cách đưa ông Ngô Đ́nh Diệm về dựng lên một chính quyền Quốc gia chống cộng mạnh để bảo vệ thế giới tự do. Sau đó, cộng sản vin vào cớ ấy mà lập ra cái gọi là "Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam" để chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc. Thế là cuộc chiến tranh giữa Quốc gia và Cộng sản lại bắt đầu tại miền Nam.

Chính quyền ông Ngô Đ́nh Diệm càng ngày càng trở nên độc tài, gia đ́nh trị và có tính ḱ thị tôn giáo, nên ít được ḷng dân. Sau khi đă tiêu diệt các giáo phái khác, như Cao Đài, Ḥa Hảo, năm 1963, ông Ngô Đ́nh Diệm ra tay đàn áp Phật giáo, toàn thể tăng ni Phật tử miền Nam đă phải đứng lên chống lại để bảo vệ đạo pháp. Đến tháng 11 năm 1963, chế độ ông Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ.

Năm 1965, sau cái gọi là "sự kiện vịnh Bắc Việt", chính phủ Mỹ bắt đầu ném bom miền Bắc, đến năm 1966 đổ vào miền Nam nửa triệu quân Mỹ và hàng chục ngh́n quân các nước đồng minh Thái Lan, Nam Hàn, Úc Đại Lợi để trực tiếp chiến đấu, từ đó cuộc chiến trở nên ác liệt, sự chết chóc tàn phá cực ḱ khủng khiếp. Với nửa triệu quân Mỹ và quân đồng minh mà phe Tư bản vẫn không thắng được phe Cộng sản. Có nhiều nguyên do, nhưng nguyên do chính vẫn là sự hiện diện đông đảo của những đoàn quân ngoại bang trên đất nước Việt Nam đă tạo thêm "chính nghĩa" bề ngoài cho cộng sản Việt Nam, khiến khẩu hiệu "chống Mỹ cứu nước giải phóng dân tộc" của họ trở thành hiện thực, nhờ thế, cộng sản đă động viên được toàn lực nhân dân miền Bắc và một bộ phận lớn nhân dân yêu nước miền Nam có thiện cảm với cộng sản ủng hộ họ, cho nên cuối cùng cộng sản đă thắng. Về điểm này, như đă nói ở trên, phe Cộng sản khôn hơn phe Tư bản, v́ họ chỉ dùng người cộng sản bản xứ đánh nhau ngoài chiến trường, chứ không có lính Tàu, Nga, Ba Lan, Tiệp Khắc v.v... những nước ấy chỉ cho cộng sản Việt Nam vay tiền bạc, súng đạn và cố vấn ở hậu trường mà thôi. Do đó, cộng sản Việt Nam dễ tuyên truyền là nước Việt Nam đang bị quân ngoại bang xâm lăng, mà chống xâm lăng để bảo vệ đất nước là chính nghĩa, th́ người dân b́nh thường và có ḷng yêu nước nào mà chẳng tin cộng sản có chính nghĩa. Và bất cứ cuộc chiến đấu nào, hễ có chính nghĩa th́ dù có khó khăn, khổ cực đến mấy đi nữa, cuối cùng tất cũng sẽ thắng. Hơn nữa, cộng sản c̣n vận động được một số nước trong phe Tư bản ủng hộ họ, đồng thời, nhân dân Mỹ thấy cuộc chiến ở Việt Nam chẳng có liên quan ǵ đến quyền lợi thiết thân của nước Mỹ mà con em của họ phải chết, bởi thế họ đ̣i chính phủ Mỹ phải đưa trả con em về. Đó cũng là những yếu tố rất lợi cho cộng sản, cho nên họ càng khai thác t́nh cảm ấy bằng cách tỏ cho thế giới biết rằng ḿnh là một chú tí hon đang bị một anh khổng lồ cậy khỏe bắt nạt, ức hiếp.

Cũng như người Pháp năm 1954, đă không thắng được th́ phải rút quân, nhưng rút cách nào cho khỏi mất thể diện, Mỹ bèn dùng máy bay B52 bỏ bom Hà Nội để buộc cộng sản Bắc Việt phải ngồi vào bàn hội nghị nói chuyện ḥa b́nh. Bởi thế, hội nghị Ba Lê đă được mở ra, đến tháng 1 năm 1973 th́ hai bên thỏa thuận đ́nh chiến và Mỹ bắt đầu rút quân. Bây giờ c̣n lại một ḿnh Việt Nam Cộng Ḥa cố gắng kháng cự cộng sản, nhưng đến ngày 30-4-1975, Việt Nam Cộng Ḥa đầu hàng và cộng sản đă chiếm toàn miền Nam. Họ thực sự đă làm đúng khẩu hiệu "đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào".

Ngay từ trước ngày 30-4-1975, rồi sau ngày cộng sản toàn thắng và mở cuộc đấu tranh căm thù giai cấp, đánh Tư sản miền Nam, đă có cả triệu người bỏ nước ra đi, thậm chí cho đến nay (1992) người ta vẫn tiếp tục ra đi. Trong số những người vượt biển ra đi ấy, đă có bao nhiêu người bất hạnh vùi thân dưới đáy biển hoặc làm mồi cho cá? Bao nhiêu người đă đến được nước nào đó, nhưng thuyền của họ lại bị đẩy ra khơi trở lại và số phận họ sau đó ra sao? Bao nhiêu người đă bị hải tặc cướp bóc hăm hiếp rồi quăng họ xuống biển? Bao nhiêu người tuy đă đến được bến bờ tự do, nhưng quá sợ hăi v́ đă nh́n thấy những điều xẩy ra trong cuộc phiêu lưu mạo hiểm, nên đă trở thành điên khùng, mất trí? Và hiện đang c̣n bao nhiêu chục ngh́n người đang sống lây lất như những con vật hai chân trong các trại tị nạn trên khắp vùng Đông Nam Á?

Bao nhiêu người đă chết trong các trại tù trong số hàng trăm ngh́n sĩ quan binh sĩ và nhân viên của chế độ cũ mà cộng sản bắt đi học tập cải tạo?

Rồi ngay trên đất nước Việt Nam hiện giờ đây c̣n bao nhiêu nhà trí thức, giáo sư, văn nghệ sĩ, tu sĩ, đang phải sống đọa đày trong các nhà tù cộng sản hoặc bị lưu đày quản thúc chỉ v́ họ nói lên tiếng nói của lương tri, muốn cho dân tộc được tự do dân chủ thực sự? Tất cả đều không ai biết được. Thật là khủng khiếp. Suốt bốn ngh́n năm lịch sử dân tộc, chưa từng có giai đoạn nào đau thương khổ thảm như giai đoạn này. Ngay cả dưới chế độ thực dân phong kiến thống trị, người dân chẳng ai bỏ nước ra đi, vậy mà ngày nay được "độc lập tự do hạnh phúc" th́ hàng triệu người lại ùn ùn bỏ nước ra đi bất chấp hiểm nguy chết chóc là nghĩa làm sao? Có nhiều người bảo v́ nghèo khó mà người Việt bỏ nước ra đi để t́m một cuộc sống khá hơn. Không phải thế. Gần hai mươi năm qua đă biết bao nhiêu người bỏ hết tài sản cơ nghiệp mà có thể họ ăn đến mấy đời không hết để thoát thân, nếu không may phải chết đuối ngoài biển họ cũng vui ḷng và bảo chết thế càng mát! Ngay cả bây giờ đây (1992), các nước tư bản đă vào Việt Nam kinh doanh, kinh tế đang phát triển, đời sống tương đối đở đói hơn trước; nhưng giả sử có nước nào hào hiệp sẵn sàng đón nhận người Việt Nam đến sinh sống, hoặc có một ḥn đảo nào sinh sống được mà quốc tế giúp đỡ cho người Việt đến đó làm ăn và nhà cầm quyền Hà Nội cho họ tự do ra đi không hạn chế, th́ tôi tin chắc rằng sẽ có một nửa dân số Việt Nam, nếu không nói là hơn thế nữa, sẽ bỏ nước ra đi một cách không vấn vương thương tiếc.

Tại sao vậy? Bởi v́ ở Việt Nam hiện nay có cái tội danh "phá rối trật tự an ninh xă hội" nó mông mênh lắm, không giới hạn nào, không biêứt đâu mà tránh, cho nên người dân sống trong t́nh trạng nơm nớp lo sợ, như con cá nằm trên thớt, không biết ḿnh bị bắt lúc nào nếu lỡ mồm lỡ miệng nói điều ǵ đó mà đảng cộng sản không vừa ḷng là bị khép ngay vào cái tội danh trên và sẽ biến mất vào ban đêm, hàng xóm không ai biết. Bởi thế mỗi khi muốn nói điều ǵ có liên quan đến chính trị một chút th́ phải nh́n trước nh́n sau, thậm chí nh́n cả dưới gầm giường, gầm bàn xem có ai nghe lén không rồi mới dám nói, nhưng cũng không dám nói to đâu, chỉ nói thầm như bàn nhau đi ăn trộm ấy thôi, v́ sợ có người núp ở sau nhà nghe lén.

Một người ở xă Vũ Đoài ra chùa, xin tôi mấy chữ Hán về treo trước bàn thờ tổ tiên trong ba ngày tết. Tôi nghĩ treo trước bàn thờ tổ tiên th́ không có chữ nào hợp t́nh hợp cảnh bằng bốn chữ xưa nay rất thông dụng, đó là bốn chữ ẨM THUệY TƯ NGUYÊN, nghĩa là uống nước nhớ nguồn. Vậy mà công an đến hỏi người chủ nhà những chữ ǵ, v́ anh ta không biết chữ Hán. Sau khi nghe chủ nhà giải nghĩa, anh công an nói: "Coi chừng hắn (tức là tôi) định nói chính trị trong đó đấy!". Sống trong một xă hội luôn luôn bị ŕnh rập và nghi kỳ như vậy, đến mấy chữ uống nước nhớ nguồn mà cũng nghi là chính trị, cũng như tôi bị quản thúc lưu đày đă mười năm nay (1982-1992) chỉ v́ cái tội "làm việc tôn giáo cũng là làm chính trị", th́ tôi thiết nghĩ dù có ngồi trên đống vàng cũng chẳng cảm thấy hạnh phúc. Bởi vậy bất cứ lúc nào có cơ hội là người Việt Nam sẵn sàng bỏ nước ra đi, chứ không phải v́ nguyên do nghèo khó, kinh tế thiếu thốn đâu. Tôi xin kể một câu truyện cổ để chứng minh. Đức Khổng Tử sang nước Tề, đi qua núi Thái Sơn, thấy một người đàn bà đang khóc ở ngoài đồng, nghe thảm thiết lắm. Ngài nói với đoàn tùy tùng: "Người đàn bà kia h́nh như trong nhà có trùng tang". Rồi sai Tử cống đến hỏi. Người đàn bà nói: "Ơệ đây lắm hổ (cọp), bố chồng tôi chết v́ hổ, chồng tôi chết v́ hổ, bây giờ đến lượt con tôi cũng lại chết v́ hổ. Thảm lắm ông ơi!". Tử cống bảo: "Thế sao không bỏ chỗ này đi ở chỗ khác?". Người đàn bà trả lời: "Tuy vậy nhưng ở đây chính sách quan trên không đến nỗi hà khắc như ở các nơi khác".

Tử cống đem chuyện thưa lại với đức Khổng Tử. Ngài nói: "Các ngươi nhớ đấy: chính trị hà khắc khốc hại hơn mănh hổ!".

Cũng thế, hàng triệu người Việt Nam ngày nay bỏ nước ra đi là v́ sợ một chế độ chính trị hà khắc chứ không phải v́ sợ đói khổ, như tôi đă tŕnh bày ở trên, có những người ăn đến mấy đời không hết của mà vẫn bỏ nước ra đi và có chết ngoài biển cũng vui ḷng, như vậy chứng tỏ họ sợ chính trị hà khắc c̣n hơn cả sợ chết, cho nên ngài Khổng Tử mới nói "chính trị hà khắc khốc hại hơn mănh hổ" là thế.

Suốt hai mươi mốt năm trời (1954-1975), cộng sản Việt Nam đă tận dụng nhân lực vật lực của nhân dân miền Bắc và của đại bộ phận nhân dân miền Nam, để ra sức "đánh cho Mỹ cút đánh cho Ngụy nhào", th́ năm 1973 Mỹ đă "cút" thật sau hai mươi năm trút hàng triệu tấn bom đạn và chất độc hóa học xuống đất nước Việt Nam, rồi đến năm 1975 th́ "Ngụy" cũng đă "nhào" thật, cộng sản đă "toàn thắng", chiến công đạt đến tuyệt đỉnh vinh quang. Nhưng sau mười tám năm (1975-1992) vinh quang oanh liệt, đến khi phe cộng sản Đông âu và Liên xô tan ră, th́ giờ đây cộng sản Việt Nam thấy ḿnh hụt hẫng, không c̣n chỗ dựa, và để cứu văn nền kinh tế kiệt quệ v́ không c̣n được ai cho vay nên đành phải cúi mặt mà mời người Mỹ trở lại hy vọng bỏ cấm vận. Nhưng khốn nỗi người Mỹ lại làm cao, đặt ra các điều kiện này nọ, mà điều kiện tiên quyết là phải t́m kiếm đào bới cho đủ số hơn hai ngh́n lính Mỹ c̣n bị liệt kê mất tích trong chiến tranh tại Việt Nam. Cộng sản Việt Nam phải trần lực ra đi đào bới t́m kiếm từng mẩu xương khô, và cứ mỗi lần cộng sản giao trả cho Mỹ mấy bộ xương th́ Mỹ lại "tưởng thưởng" cho cộng sản một cái ǵ đó theo như lộ tŕnh họ đă định. Các ông cộng sản Việt Nam có cảm thấy "khó chịu" không? Nhân đây tôi cũng xin nói với quí ông trong chính phủ Mỹ rằng, nếu quí ông tưởng thưởng cho cộng sản th́ cứ nói rơ là tưởng thưởng cho cộng sản, chứ dân tộc Việt Nam chúng tôi với truyền thống Lư Thái Tổ, Lư Thường kiệt, Trần Nhân Tôn, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trăi v.v... có đi đào thuê cuốc mướn cho quí ông đâu mà quí ông tưởng thưởng cho Việt Nam. Kể cũng chua chát, người Mỹ đă trút hàng triệu tấn bom đạn và chất độc da cam xuống đất nước Việt Nam tàn sát hơn một triệu người dân Việt, bao nhiêu người tàn phế và trẻ em quái thai v́ chất độc hóa học, và hậu quả khốc hại của nó c̣n kéo dài trong nhiều thế hệ nữa; nhưng v́ họ có nhiều đô la (mà trước kia cộng sản cho là đồng tiền "vấy máu") cho nên cộng sản phải cố làm vừa ḷng họ. C̣n những người dân Việt Nam yếu hèn th́ cộng sản đối xử như những con vật, cho nên người dân miền Bắc đă phải nói "ăn như lợn (tức ăn độn), ở như chuột, làm như trâu, đối xử như chó". Lại như H.T. Huyền Quang và tôi chỉ v́ cộng sản làm bậy, đập tượng phá chùa, lấy chùa làm nhà hộ sinh (nhà đỡ đẻ), làm rạp chiếu bóng, bắt bớ tăng ni Phật tử một cách bừa băi, chúng tôi buộc ḷng phải phản đối những hành động ngông cuồng và phi pháp ấy của cộng sản, chứ có tranh giành quyền lợi ǵ với họ đâu, vậy mà họ giam cầm đày ải suốt mười mấy năm nay!

Hơn hai ngh́n lính Mỹ mất tích c̣n có người t́m kiếm đào bới, thế c̣n hơn ba trăm ngh́n lính cộng sản Bắc Việt mất tích th́ ai t́m kiếm đào bới? C̣n các ông "Ngụy" đă "nhào" mà thoát thân trước ngày 30-4-1975, và những người vượt biên sau đó, đều bị cộng sản lên án là phản quốc, bây giờ trở thành người nước ngoài gốc Việt, nếu muốn về thăm quê cũ với đô la đầy túi, th́ cũng được hoan nghênh là "Việt kiều yêu nước"!

C̣n một điều trớ trêu nữa là năm 1954 tại miền Bắc và năm 1975 tại miền Nam, bao nhiêu nhà tư sản Việt Nam cộng sản đánh gục hết để rồi giờ đây phải trải thảm đỏ mà mời tư bản nước ngoài vào, c̣n ǵ nghịch lư hơn? Vậy tại sao cộng sản Việt Nam không mời tư bản nước ngoài vào ngay từ 1945 hoặc 1954 hay ít nữa là 1975 có tốt hơn không? Tại sao lại đợi đến sau bốn mươi mốt năm (1945-1986) cố sức "đào mồ chôn sống bọn tư bản" chẳng được, gây ra bao nhiêu tang thương khổ thảm đổ nát chết chóc rồi mới chịu rước tư bản vào? Đảng cộng sản thường nói, "giữa con đường xă hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa ai thắng ai?". Ngày nay rơ ràng tư bản nó thắng rồi đó: nó đă vào nằm trong sân, trong đầu giường, thậm chí chui cả vào túi của đảng rồi đó. Xă hội chủ nghĩa chỉ c̣n cái vỏ thôi, lột vỏ luôn đi cho hợp thời! Danh có chính ngôn mới thuận, đảng lănh đạo là đảng cộng sản, tên nước là Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam, kinh tế là kinh tế thị trường tư bản, chắp vá như vậy nghĩa là làm sao? Nghe nó không ổn. Giá như Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Sô viết c̣n tồn tại th́ nghe c̣n đỡ, bây giờ c̣n một ḿnh cộng sản Việt Nam nghe lạc lơng lắm.

Cộng sản giết địa chủ bóc lột để rồi trở lại chính sách canh thu tô của địa chủ, đào mồ chôn tư bản nội địa để rước tư bản nước ngoài vào. Thật cái ṿng lẩn quẩn. Thế mà mồm vẫn cứ nói là cách mạng! Rồi đây, tài nguyên của đất nước, thượng vàng hạ cám, có ǵ cũng sẽ bị những con bạch tuộc nước ngoài ấy moi móc cho bằng hết. Giá như người Việt Nam ḿnh, một nửa thế kỷ qua, làm được cách mạng kiểu Minh trị duy tân của Nhật Bản thay v́ cuộc cách mạng vô sản căm thù đấu tranh giai cấp tàn hại lẫn nhau, th́ ngày nay người Việt ḿnh đă có thừa nhân tài và kỹ thuật để làm chủ và khai thác tài nguyên của đất nước, chứ không đến nỗi phải lẹt đẹt theo sau các nước láng giềng và phải mất ba, bốn mươi năm nữa mới đuổi kịp họ như hiện nay. Nhưng trong khi ḿnh đuổi theo ba, bốn mươi năm ấy th́ họ lại tiến xa hơn nữa rồi, thành thử ḿnh cứ phải theo sau măi. Nên nhớ những nước láng giềng ấy, như Thái Lan, Tân Gia Ba v.v... trước đây cộng sản Việt Nam cho họ là tay sai đế quốc Mỹ, vậy mà bây giờ phải theo sau tay sai đó! Và vinh dự hơn nữa là c̣n xin gia nhập khối "tay sai" và mời tay sai làm cố vấn kinh tế!

Nhân đây tôi cũng xin nói với các ông tư bản nước ngoài rằng, các ông cứ nói Việt Nam là một thị trường béo bở với bảy mươi hai triệu con người tiêu thụ. Các ông nghĩ lầm rồi đó, không béo bở như các ông tưởng đâu. Này nhé, nhân dân Việt nam tám mươi phần trăm là nông dân sống ở nông thôn, mà người nông dân Việt Nam th́ chỉ lo sao cho có đủ hạt gạo để ăn no bụng lá khó lắm rồi, chứ đâu dám mơ tưởng đến những món hàng đắt tiền của các ông. Các ông nên nhớ rằng, Việt Nam đang c̣n là một trong những nước nghèo nhất, lạc hậu nhất trên thế giới, với lợi tức đổ đồng mỗi đầu người trên dưới hai trăm đô la một năm, trong khi lợi tức đổ đồng của Nhật Bản mỗi đầu người bảy ngh́n đô la một năm. Cứ đó suy ra th́ Việt Nam phải mất mấy trăm năm nữa mới đuổi kịp Nhật Bản! Vậy các ông lấy đâu ra bảy mươi hai triệu người tiêu thụ mà cho là béo bở?. Có béo bở chăng là béo bở mấy ông tư bản đỏ, các ông tham ô và những người buôn lậu thôi, chứ tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam không dám đụng đến chai coca-cola của các ông đâu, chứ nói chi đến các món hàng khác. Như vậy, nếu các ông tính cả bảy mươi hai triệu người tiêu thụ để thu lợi th́ các ông sẽ lỗ to đấy!

Tóm lại, đảng cộng sản Việt Nam đă phạm những sai lầm tai hại sau đây đối với dân tộc Việt Nam:

1) Đảng đă đưa vận mệnh nước Việt Nam ràng buộc vào với ư thức hệ cộng sản quốc tế, dùng dân tộc Việt Nam đấu tranh tiêu diệt chủ nghĩa tư bản để truyền bá chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới bằng khẩu hiệu "Giữa con đường tư bản chủ nghĩa và xă hội chủ nghĩa ai thắng ai", chống Pháp, chống Mỹ để bảo vệ "tiền đồn (tức là nước Việt Nam) của phe Xă hội Chủ nghĩa" khiến dân tộc Việt Nam đă phải gánh chịu cuộc chiến tranh giành ảnh hưởng giữa hai phe Tư bản và Cộng sản quốc tế ṛng ră hai mươi chín năm trời (1946-1975) trên đất nước Việt Nam, làm cho ba triệu người chết, bốn triệu người bị thương, nửa triệu trẻ em sinh ra quái thai và tàn phế, và hàng triệu tấn bom đạn, thuốc khai quang đă tàn phá đất nước Việt Nam mà hậu quả c̣n di hại đến không biết bao nhiêu thế hệ sau.

2) Thiết lập một chế độ độc tài độc đảng độc quyền chính trị, không chấp nhận đối lập, một ḿnh một chợ, coi như đất nước này là của riêng ḿnh, thu tóm hết quyền lực vào trong tay một nhóm người, thao túng lũng đoạn, đưa đến t́nh trạng lạm dụng quyền hành, tham ô thối nát, cai trị tùy hứng, muốn giết ai th́ giết, muốn bỏ tù ai th́ bỏ, bóp chết mọi mầm mống tư tưởng tự do; những người thông minh có nhiều sáng kiến có thể làm lợi cho đất nước dân tộc, nhưng không hợp với đường lối chủ trương của đảng, th́ không dám nói ra, phải giả điếc giả dại để bảo toàn tính mệnh, kết quả đă khiến cho bao nhiêu nhân tài của đất nước phải thui chột và đất nước rơi vào t́nh trạng nghèo khó nhất, lạc hậu nhất trên thế giới hiện nay. Không nói đến quá khứ nữa mà ngay bây giờ đây, có bao nhiêu người Việt tài giỏi trên khắp thế giới, đủ mọi ngành nghề, có thể phát triển đất nước một cách mau chóng, nhưng có ai dám về để góp phần xây dựng đất nước đâu? Không những thế, nếu c̣n ai sót lại trong nước th́ cũng t́m mọi cách thoát thân ra nước ngoài làm giầu cho thiên hạ! Cái tai hại của một chế độ độc tài hà khắc là thế đó! Trong khi ấy th́ đảng cộng sản Việt Nam phải đi mời ông Lư Quang Diệu của Singapour (một đảo quốc mấy triệu dân), mà trước kia cộng sản Việt Nam cho là tay sai đế quốc Mỹ, làm cố vấn kinh tế cho cộng sản, nhưng ông ta từ chối! Mới chỉ mười tám năm trước (1975-1992) những người cộng sản Việt Nam thường nói một cách tự hào rằng "Việt Nam ra ngơ gặp anh hùng! Hà Nội là trái tim của loài người", và chính ông Lê Duẩn lúc đó (1975) là Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam đă nói ở Sàig̣n rằng: "Từ nay trở đi không c̣n một ngoại bang nào dám nḥm ngó Việt Nam nữa". Vậy mà bây giờ phải hạ ḿnh đi mời "tay sai Mỹ" làm cố vấn, nhưng lại bị từ chối! C̣n ǵ mỉa mai hơn? C̣n ǵ đau đớn hơn? C̣n ǵ đáng hổ hơn?

3) Kích động căm thù đấu tranh giai cấp bằng cuộc cải cách đấu tố năm 1956 tại miền Bắc, khiến bảy trăm ngh́n người phải mất mạng và tài sản tiêu tan.

4) Giết địa chủ, cường hào lấy ruộng chia cho nông dân, sau lại bắt dân gom hết ruộng vào Hợp tác xă để thiết lập hệ thống kinh tế chỉ huy theo chủ nghĩa cộng sản. Công việc xây dựng Hợp tác xă nông nghiệp đă làm hao tổn bao nhiêu công của sức lực của dân suốt hai mươi sáu năm (1960-1986) khiến dân đói khổ để rồi giờ đây giải thể, phá tan Hợp tác xă mà trở về chế độ phát canh thu tô của địa chủ cũ tại nông thôn, và giải tư các xí nghiệp nhà nước, tuyên bố phá sản để theo hệ thống kinh tế thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản tại thành thị.

5) Năm 1954 tại miền Bắc và năm 1975 tại miền Nam, phát động căm thù đấu tranh giai cấp đánh tư sản Việt Nam, khiến hàng triệu người phải bỏ đất nước chạy trốn ra nước ngoài, để rồi giờ đây lại rước tư bản ngoại quốc vào làm ăn khai thác để học tư bản.

6) Lấy học thuyết Mác Lê làm nền tảng cho tất cả mọi lănh vực sinh hoạt trong xă hội, dạy dân căm thù đấu tranh giai cấp để giành giật miếng ăn mà bỏ hết luân thường đạo lư, truyền thống nhân ái, hiếu nghĩa và phá hoại các di sản tinh thần và vật chất của tổ tiên, ông cha Việt Nam mà cho là tàn dư của phong kiến.

 

2.- ĐỐI VỚI PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Như đă nói trong đoạn trước, cộng sản là những người vô thần duy vật, chủ trương tiêu diệt các tôn giáo, v́ Marx cho tôn giáo là thuốc phiện của loài người mà "bọn" tư bản dùng làm công cụ ru ngủ nhân dân lao động bằng cách khuyên họ cố gắng chịu những khổ cực ở đời này rồi sẽ được đền bù một thiên đường ở kiếp sau để dễ bề bóc lột, trong khi chủ nghĩa cộng sản chủ trương xây dựng thiên đường cộng sản ngay trên mặt đất này. Bởi vậy, cộng sản cho tôn giáo là một trở lực cần phải tiêu diệt.

Tại Việt Nam có hai tôn giáo chính là Thiên chúa giáo và Phật giáo. Cộng sản gọi Thiên chúa giáo là Công giáo mà tiếng lóng của họ là "cứt gà", c̣n Phật giáo th́ tiếng lóng của họ là "phân gà". Tại sao họ lại gọi là cứt gà và phân gà? Tức họ cho Công giáo khó tiêu diệt hơn Phật giáo. Họ phân tích rất kỹ và v́ nhiều lư do, nhưng quá dài không thể kể hết ra ở đây, tôi chỉ tóm tắt sự phân tích của họ như sau: cộng sản đánh giá Công giáo tuy là số ít, nhưng là những con sư tử, khó tiêu diệt, cũng như cứt gà sáp (cứt gà ướt sền sệt) đă dính vào quần áo th́ chỉ c̣n cách cắt bỏ chỗ ấy đi thôi, chứ giặt khó sạch lắm; c̣n Phật giáo tuy là số nhiều, nhưng chỉ là những con cừu, dễ tiêu diệt, cũng như phân gà khô, chỉ cần gạt một cái là sạch! Nhưng dù khó hay dễ th́ cuối cùng cũng phải tiêu diệt. Nhưng cách thức tiêu diệt th́ tùy từng giai đoạn, tùy từng nơi chỗ. Người cộng sản có đường lối gọi là "biện chứng", nghĩa là mục tiêu họ đă đặt ra là phải đạt cho bằng được; nhưng trên đường đi đến mục tiêu ấy mà êm xuôi th́ đi đến ngay, c̣n nếu gặp trở ngại th́ tạm thời dừng lại, nếu cần phải lùi th́ lùi, cần phải rẽ ngang cũng rẽ ngang, nhưng cuối cùng vẫn phải đạt mục tiêu, châm ngôn của họ là "lùi một bước tiến ba bước". Đối với việc tiêu diệt các tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng, cũng vậy, nếu nơi nào xóa bỏ được ngay mà không gặp chống đối hoặc phản ứng bất lợi, th́ họ làm ngay, nếu thấy trở ngại th́ họ ngưng lại. Không những ngưng lại, mà nếu xét thấy tôn giáo trong giai đoạn ấy có lợi cho cộng sản th́ họ lại lợi dụng tôn giáo tối đa. Trong chủ trương tiêu diệt Phật giáo Việt Nam cũng không ngoài đường lối ấy.

Chẳng hạn, trong thời gian kháng chiến chống Pháp, cộng sản Việt Nam cần phải đoàn kết toàn dân, hơn nữa, cũng chưa rảnh tay để nghĩ đến việc tiêu diệt Phật giáo, cho nên họ lại lợi dụng Phật giáo bằng cách lập ra cái gọi là PHẬT GIÁO CỨU QUỐC nằm trong mặt trận Liên Việt. Lúc đó "sư cụ" Phạm Thế Long trụ tŕ chùa Cổ Lễ tại phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định, đưa ra lời kêu gọi thanh niên tăng "Tạm xếp cà sa khoác chiến bào", nghĩa là hăy tạm thời cởi bỏ áo nhà tu để đi cầm súng giết Tây. Thế là hàng loạt sư trẻ bỏ chùa bỏ Phật để đi "yêu nước". Đây là chính sách dùng một mũi tên bắt hai con chim một lúc: trước mắt có thêm người cầm súng, đồng thời, lại được cái lợi (mà cái lợi này mới là chủ yếu) là tiêu diệt mầm non của Phật giáo trong tương lai! Mà lại dùng chính sư ra lời kêu gọi để tiêu diệt mầm non Phật giáo mới hợp thức, ai trách được cộng sản bắt sư đi lính! Điều đó cũng dễ hiểu thôi: nếu muốn bắt c̣ th́ phải dùng con c̣ làm chim mồi, muốn bắt cu th́ phải dùng con cu làm chim mồi, chứ nếu muốn bắt c̣ mà dùng cu làm chim mồi th́ bắt sao được.

Lại nữa, xét thấy những ngôi chùa lịch sử danh tiếng, điển h́nh như chùa Thiên Trù (chùa Hương - chùa ngoài) ở huyện Mỹ Đức tỉnh Hà Đông, chùa Quỳnh Lâm tại làng Cổ pháp xưa (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) do Thiền sư Định Không (729-808) sáng lập vào khoảng năm Trinh Nguyên đời Đường bên Tàu, cộng sản thấy sau này, khi đă thành công, khó mà tự ḿnh ra tay phá được v́ sẽ có ảnh hưởng rất lớn, chi bằng mượn tay quân Pháp cho tiện. Cộng sản bèn đưa quân lính đến đóng tại các chùa đó, treo cờ đỏ sao vàng lên, máy bay thám thính của Pháp đến, thấy có cờ Việt Minh liền báo cho oanh tạc cơ đến bỏ bom (dĩ nhiên là Việt Minh đă rút trước rồi), thế là chùa tan nát! Trong trường hợp này cũng lại một mũi tên bắt hai con chim: một mặt kích động ḷng căm thù của nhân dân, lên án giặc Pháp phá chùa và kêu gọi toàn dân hết ḷng đánh Pháp; mặt khác, sau này, khi thành công rồi khỏi phải phá để tránh tiếng cộng sản phá chùa lịch sử danh tiếng !

Tôi cảm thấy xót xa vô hạn khi đến nh́n lại nền chùa Quỳnh Lâm nơi thờ pho tượng là một trong "Việt Nam tứ khí" do Thiền sư Không Lộ, Quốc sư đời Lư, kiến tạo. Tôi đến đây vào cuối năm 1991. Nghe người ta kể lại, sau khi Pháp dội bom phải mất hơn một tháng trời mới cháy hết ngôi chùa. Hiện c̣n lại những cái tảng đá chân cột rất lớn, chứng tỏ những cây cột gỗ lim ngày xưa phải đến một ṿng tay người ôm; một vài ngôi tháp đá không bị cháy. Sau ngày cải cách tố khổ, những gạch của chùa của tháp c̣n sót lại được dùng để xây nhà nuôi lợn của Hợp tác xă ngay trước cửa chùa cũ. Sau ngày "đổi mới", Hợp tác xă giải thể, nhà nuôi lợn đă được bán đấu giá. Tôi thấy một vài tấm bia đá đổ úp xuống đất, nhờ người lật lên xem th́ thấy khắc Pháp danh của mấy vị Tăng thống đời Trần. Ngày tôi đến đây, sau sáu năm đổi mới, dân chúng địa phương đă góp sức làm được ba gian nhà gạch sơ sài trên nền chùa cũ để thờ Phật. Hiện có một vị sư trụ tŕ, vị sư duy nhất tại tỉnh Quảng Ninh, nhưng cũng là người Hà Nam Ninh lên, chứ ở địa phương không c̣n sư nữa. Tôi được biết hầu hết các tỉnh trên Việt Bắc không c̣n chùa c̣n sư nữa. Ngay tại tỉnh Thái B́nh chỗ tôi ở, cả tỉnh cũng chỉ c̣n tám vị sư tăng già tuổi, từ bảy mươi trở lên và mấy chục sư ni vừa già vừa trẻ. Sau khi về Vũ Đoài được vài tuần, tôi nghe bộ Văn Hóa của nhà nước cộng sản Việt Nam đă xếp hạng chùa Quỳnh Lâm vào hàng "di tích lịch sử" có cấp bằng và tổ chức rước hẳn hoi. C̣n ǵ nữa đâu mà di tích với lịch sử! Đến ngay cái nền nhà nuôi lợn Hợp tác xă trước cửa chùa cũng chẳng c̣n !

Chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử bị đốt cháy, chùa Phật Tích ở Bắc Ninh xây dựng ở đời Lư cũng đă bị phá hủy. Chùa Thầy ở huyện Thạch Thất tỉnh Sơn Tây, nơi thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh, cũng được xây dựng vào đời Lư, đang trong t́nh trạng xuống cấp nặng nề, ngôi nhà Tổ phải chống đỡ bằng nhiều cây tre, chưa biết sẽ sụp đổ lúc nào. Chùa Pháp Vũ (chùa Đậu) ở phủ Thường Tín tỉnh Hà Đông, nơi có nhục thân (xác khô) của hai vị Thiền sư đời Lê, một vị đă bị cưa trán ra để khám nghiệm! Chùa chính đă bị phá, c̣n ngôi bái đường và nhà tổ trong t́nh trạng xuống cấp. Chỉ có chùa Thiên Trù và chùa Quỳnh Lâm là mỗi chùa có một vị sư, c̣n các chùa kia không có sư. Những chùa được xếp hạng di tích lịch sử do ti Văn hóa địa phương quản lí. Du khách đến tham quan hoặc khách hành hương phải mua vé vào cửa và trả tiền bến đậu xe. Hôm đoàn chúng tôi đến lễ, đậu xe chưa đến nửa giờ mà phải trả năm ngh́n đồng. Diệt Phật, đồng thời, bán Phật!

Trên đây là mấy ngôi chùa điển h́nh mà tôi đă đến tận nơi thấy tận mắt và kể lại sơ qua thế thôi, chứ nếu đi sâu vào chi tiết th́ c̣n nhiều điều thương tâm lắm, việc ấy để cho các nhà viết sử Phật giáo sau này.

Đến năm 1954, cộng sản về tiếp thu Hà Nội, đă hoàn toàn làm chủ miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra, bắt đầu thực hiện chủ nghĩa cộng sản, nhất là sau cuộc căm thù đấu tranh giai cấp, cải cách tố khổ, th́ ở nông thôn, việc phá chùa đ́nh miếu mạo không c̣n phải e ngại ǵ nữa. Nhiều đ́nh chùa bị trưng dụng làm nhà kho chứa thóc lúa, nông cụ, hoặc phá đi lấy gạch, gỗ để làm nhà kho, sân kho, nhà nuôi lợn v.v... của Hợp tác xă; cột đ́nh cột chùa bằng gỗ lim đưa ra bắc cầu qua các rạch nước ở ngoài đồng cho những người gánh phân gánh lúa đi qua; các tấm gỗ câu đối sơn son thếp vàng th́ dùng đóng ghế dài cho học sinh ngồi học, úp mặt chữ xuống dưới. Đó là ở nông thôn, c̣n ở thành thị th́ chùa được trưng dụng làm cơ sở sản xuất công nghệ, làm trụ sở Uệy ban, làm nơi hội họp, cũng có chỗ làm nhà chăn nuôi. Và để thế tục hóa, chùa nào có sư ở th́ dân chúng vào chiếm các nhà phụ cận của chùa để ở, chỉ trừ chùa và nhà Tổ là để cho sư, c̣n các nhà họ chiếm hết. Họ nấu nướng, ăn uống, phơi áo quần chăn mền, nh́n vào không c̣n ǵ là vẻ tôn nghiêm của ngôi chùa nữa.

Tôi c̣n nhớ năm 1975, Ḥa thượng Thích Đôn Hậu về chùa Ấn Quang kể lại t́nh trạng chùa Quán Sứ tại Hà Nội, dân chúng vào ở đầy trong chùa, hệt như dăy chung cư, chứ không c̣n là chùa nữa. Rồi Ḥa thượng kể Ḥa thượng có nói với sư cụ Trí Độ như sau: "Cụ ở đây mà để cho ngôi chùa thế này à?". Sau đó Hoà thượng Đôn Hậu kể tiếp, tại một cuộc họp ở Liên minh Dân chủ Dân tộc và Ḥa b́nh do ông Trịnh Đ́nh Thảo chủ tọa, trong bài phát biểu của ḿnh, sư cụ Trí Độ nói: "Từ ngày được ánh sáng của chủ nghĩa Mác soi đường, tôi mới thấy rơ con đường ḿnh đi!". Th́ ra hàng mấy chục năm xuất gia theo Phật, sư cụ vẫn đi trong đêm tối; nhưng đến ngày đó và măi cho đến lúc chết, tuy không mặc áo Phật, mà mặc áo cộng sản, nhưng sư cụ vẫn cứ ở chùa và ăn cơm Phật! Khi nghe sư cụ Trí Độ nói thế, một bà Phật tử trước là hiệu trưởng trường Đồng Khánh (bà Nguyễn Đ́nh Chi) ở Huế, cũng ra "bưng" năm Mậu Thân (1968), tỏ vẻ khinh thị. Rồi đến bữa ăn, bà này đến chỗ Ḥa thượng Đôn Hậu xin một món ăn chay, v́ bà ăn mười ngày chay mỗi tháng, mà ngày hôm ấy là ngày 15; một cán bộ nói với bà: "Chị đă đi làm cách mạng mà ăn chay làm ǵ? Sư cụ Trí Độ kia có kiêng ǵ đâu?". Bà ta trả lời: "Trước đây tôi đă qui y Phật và tự nguyện sẽ ăn chay mười ngày, chứ Phật không bắt buộc. Đă tự nguyện như thế mà không giữ th́ tức tôi đă phản bội chính tôi, vậy là một Phật tử xấu. Và đă là một Phật tử xấu th́ làm sao trở thành người cách mạng tốt cho được". Người cán bộ kia phải xin lỗi.

Tóm lại, các chùa đều bị trưng dụng để làm cơ sở này cơ sở khác, c̣n không th́ cho người tại gia vào ở làm mất vẻ tôn nghiêm của chùa và thế tục hóa dần dần. Về các cơ sở vật chất th́ phá hoại bằng những cách như trên, c̣n đối với cơ cấu tổ chức của giáo hội th́ cộng sản dùng thủ đoạn quen thuộc là "gậy ông đập lưng ông", nghĩa là dùng tăng ni chia rẽ tăng ni để phá hoại nội bộ giáo hội.

Trước năm 1954, Ḥa thượng Thích Tố Liên là Trị sự trưởng lănh đạo Giáo hội Phật giáo miền Bắc nằm trong Tổng hội Phật giáo Việt Nam toàn quốc, gồm sáu tập đoàn Tăng già và Cư sĩ Bắc Trung Nam. Tổng hội Phật giáo Việt Nam là thành viên sáng lập của hội Phật giáo thế giới. Năm 1957, một số tăng ni hoặc bị hăm dọa, hoặc v́ sợ hăi, hoặc cũng có những người v́ động cơ danh lợi thúc đẩy, nên đă họp nhau tại chùa Quán Sứ để tố khổ Ḥa thượng Thích Tố Liên (ta c̣n nhớ trong thời cải cách tố khổ, con tố cha, vợ tố chồng, tṛ tố thầy, tín đồ tố sư, tố Linh mục, anh em họ hàng tố lẫn nhau. Bây giờ đến lượt tăng ni tố tăng ni! "văn hóa" cộng sản là thế đó!), rồi đem chùa Quán Sứ hiến cho "Phật giáo cứu quốc", mời sư cụ Trí Độ về ở chùa Quán Sứ và thành lập hội Phật giáo mới là Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam do cụ Trí Độ làm Hội trưởng, thế là Giáo hội Phật giáo truyền thống tại miền Bắc tan ră. Hai mươi bốn năm sau (1957-1981) họ cũng làm hệt như vậy đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại miền Nam (sẽ nói sau).

Về mặt tinh thần th́ phá hoại bằng cách chùa nào cũng phải nuôi lợn nghĩa vụ, thậm chí các sư giết lợn gà là thường. Nuôi lợn là để phá bầu không khí thanh tịnh trang nghiêm của cảnh chùa, giết lợn giết gà là hủy hoại tinh thần từ bi và giới sát của đạo Phật để thế tục hóa đạo Phật, đó là cách tiêu diệt đạo Phật nhanh nhất.

Trước năm 1954, chùa Quán Sứ là trụ sở Trung ương của Giáo hội Phật giáo miền Bắc, trong đó có viện Phật học đào tạo tăng ni, trường trung học Khuông Việt dạy chương tŕnh thế học, nhà in Đuốc Tuệ in Nguyệt san Phương Tiện và kinh sách, có thư viện v.v..., nhưng sau khi cộng sản tiếp thu Hà Nội th́ Viện Phật học phải giải tán để tăng ni ở đâu về đó lo việc tăng gia sản xuất, trường Trung học Khuông Việt đóng cửa, thư viện khóa kín, Nguyệt san Phương Tiện đ́nh bản và nhà in Đuốc Tuệ bị chiếm dụng. Nghĩa là tất cả mọi hoạt động của Giáo hội hoàn toàn bị đ́nh đốn, hệt như trong miền Nam năm 1975.

Bây giờ Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam về đóng đô ở chùa Quán Sứ đă làm được những ǵ cho Phật giáo miền Bắc? Phải trả lời ngay là chẳng làm được ǵ cả. Tại sao ? Bởi v́ chủ trương của cộng sản là tiêu diệt Phật giáo trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn, như vậy làm sao họ để cho Hội Phật giáo hoạt động được? Hơn nữa, như lời Ḥa thượng Thích Đôn Hậu kể mà tôi vừa nhắc lại ở trên, cụ Trí Độ được ánh sáng của chủ nghĩa Mác soi đường cụ mới thấy rơ đường đi, th́ dĩ nhiên bây giờ cụ phải đi con đường sáng của cụ để truyền bá chủ nghĩa Mác, chứ cụ đâu có làm ǵ cho Phật giáo nữa. C̣n cái Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam của cụ chẳng qua chỉ dùng để phục vụ đường lối chính trị của đảng cộng sản Việt Nam bằng cách thỉnh thoảng đi dự một vài hội nghị về ḥa b́nh do phe cộng sản quốc tế tổ chức họp tại Liên xô, Mông Cổ để lên án giặc Mỹ xâm lược, đồng thời, cũng để cho miền Nam và thế giới biết, dưới chế cộng sản miền Bắc, tôn giáo vẫn được tôn trọng, thế thôi, chứ thực chất th́ Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam của cụ Trí Độ chẳng làm ǵ cho Phật pháp, nếu không nói là ngồi làm bù nh́n để hợp thức hóa cho việc cộng sản tiêu diệt Phật giáo. Không phải tôi nói ngoa đâu, lịch sử c̣n đó.

Xuất phát từ âm mưu tiêu diệt Phật giáo ngắn hạn cũng như trong dài hạn, từ năm 1954 trở đi, cộng sản chỉ cho mỗi chùa một sư già ở làm chủ hộ, c̣n sư trẻ (nếu có, hiếm lắm ) phải về quê cũ sản xuất làm ăn. Sau khi sư già chết, không ai kế tiếp, chùa bỏ không, nếu ở thành thị th́ bị trưng dụng làm cơ sở sản xuất, c̣n ở nông thôn th́ ủi bằng đi để làm ruộng cấy lúa. Giả sử (hiếm lắm) có ai muốn đi tu th́ phải làm đơn và khai lí lịch nộp cho công an, với lí do nhà nước chọn công dân tốt cho đi tu để ích đạo lợi đời, nhưng có người chờ đến già mà vẫn chưa được phép! V́ Hiến pháp nhà nước cộng sản có điều khoản "tự do tín ngưỡng, tự do không tín ngưỡng" (một cách chơi chữ), vậy người có tín ngưỡng muốn đi tu, chẳng lẽ lại nói huỳch toẹt ra rằng anh hay chị không được phép đi tu à? Thôi th́ nại lí do "chọn công dân tốt ích đạo lợi đời" để ngăn chặn là hợp hiến hợp pháp nhất! Tôi nghe người ta kể lại thị xă Thái B́nh có mấy người xin đi tu, chờ đợi đă lâu mà chẳng được phép, bèn tổ chức "thụ giới chui" ở một chùa nọ bị công an đến tóm cổ hết! Dưới chế độ cộng sản tất cả thượng vàng hạ cám đều do nhà nước quản lí, nếu tư nhân muốn làm ǵ riêng phải làm lén lút, họ gọi là "làm chui" như những người vượt biên gọi là đi chui, bán phở lén gọi bán chui, rồi đến đi tu cũng thụ giới chui! Những người muốn xuất gia làm tăng ni th́ như thế. C̣n thanh thiếu niên nam nữ ngoài đời th́ đoàn thể nào vào đoàn thể ấy rồi, nếu em nào lai văng đến chùa th́ bị đoàn thể phê b́nh chế giễu, v́ thế chẳng em nào dám bén mảng đến chùa; câu "Trẻ vui nhà già vui chùa" được ứng dụng một cách triệt để. Như thế là ngoài đời cũng vậy, chỉ c̣n một số rất ít các cụ già trầu móm mém hơn bảy tám mươi thuộc lớp người cũ c̣n lại là được tự do tín ngưỡng đến chùa, những người ấy qua đời rồi th́ tín đồ tại gia cũng hết !

Một em bé trai mười hai tuổi ở thị xă Thái B́nh chỉ thích đi tu, em thường đến chùa Kỳ Bá tụng kinh, có khi ở lại chùa mấy hôm liền. Tối đến công an vào chùa đuổi, em chui vào gầm giường hoặc trèo lên cây để trốn. Sau nhiều lần như thế, bố mẹ em được gọi lên ty công an bảo phải đến chùa bắt em về và ra lệnh cho sư già ở chùa không được chứa chấp, nếu không nghe sẽ bị "xử lí". Đó là âm mưu tiêu diệt mầm non của Phật giáo và cộng sản hy vọng trong ṿng năm mươi năm là Phật giáo sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn trên cả nước. Nhưng người xưa đă nói "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên", người Tây phương cũng có câu tương tự: "Man proposes, God disposes", nghĩa là con người mưu tính là một chuyện, nhưng nên việc hay không th́ lại do trời. Mà thực vậy, bức tường Bá Linh đă sụp đổ, khối cộng sản Đông âu và Liên xô đă tan ră, cộng sản Việt Nam không c̣n đủ th́ giờ để thực hiện được việc đó nữa đâu. Thời đại "nhất đội nh́ trời" không c̣n nữa và chủ nghĩa duy ư chí "Thằng trời đứng ra một bên, để cho thủy lợi tiến lên thay trời" cũng chẳng c̣n giá trị ǵ nữa. Khối cộng sản Liên xô sụp đổ cũng chỉ v́ thái độ kiêu căng ngạo mạn và ngông cuồng ấy. Nhà sử học Hy Lạp sống vào thế kỷ thứ năm trước tây lịch là ông Herodotus đă nói: "Vận mệnh của một chế độ chia làm ba giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là thành công, giai đoạn thứ hai là kiêu căng, giai đoạn thứ ba là sụp đổ".

Đến năm 1975, cộng sản toàn thắng miền Nam về tiếp thu Sài g̣n. Đối với Phật giáo, đại khái cộng sản cũng làm y hệt như ngoài miền Bắc, nghĩa là cũng chiếm dụng các chùa, các cơ sở giáo dục, văn hóa, như các trường Trung tiểu học Bồ đề, viện Đại học Vạn Hạnh, các Trung tâm văn hóa, từ thiện xă hội từ Trung ương đến các địa phương trên toàn miền Nam, tất cả đều bị chiếm dụng vào các mục đích đại để cũng như ngoài miền Bắc. Các viện Phật học phải giải tán để tăng ni sinh về quê sản xuất, các chùa chỉ để một vài sư già, sư trẻ phải đi nghĩa vụ hoặc về quê làm ruộng, đại khái cũng hệt như ngoài miền Bắc. Về cơ cấu tổ chức của Phật giáo th́ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) là đối tượng chính mà cộng sản, bằng mọi cách, phải triệt hạ cho bằng được và, dĩ nhiên, cũng dùng thủ đoạn gậy ông đập lưng ông. Nhưng thủ đoạn nầy chỉ áp dụng được với Phật giáo mà thôi, chứ không dùng được với Công giáo mà họ gọi là "cứt gà sáp" như đă nói ở trên.

Trước hết, cộng sản đẻ ra cái gọi là "Ban liên lạc Phật giáo yêu nước" do sư cụ Minh Nguyệt làm trưởng ban, đặt trụ sở tại chùa Vĩnh Nghiêm ở đường Công Lư Sàig̣n. Đứng về phương diện luận lí mà nói, đă có phật giáo yêu nước th́ tất phải có Phật giáo không yêu nước, hoặc nói theo ngôn ngữ của cộng sản là "Phật giáo phản động". Vậy cái Phật giáo phản động ấy là Phật giáo nào? Đích thị là GHPGVNTN rồi chứ c̣n ai nữa. Như vậy, theo chủ trương căm thù đấu tranh giai cấp của đảng cộng sản th́, tất nhiên là Phật giáo yêu nước phải đấu tranh để tiêu diệt Phật giáo phản động. Oái ăm thay! Một đảng chính trị như đảng cộng sản Việt Nam, lúc nào cũng hô hào đoàn kết, đại đoàn kết, mà lại chủ trương căm thù đấu tranh giai cấp, th́ đoàn kết làm sao? Thật là mâu thuẫn.

Phật giáo Việt Nam có mặt trên đất nước này suốt ḍng lịch sử trên dưới hai ngh́n năm, đă cùng chung một vận mệnh thăng trầm vinh nhục, qua các thời đại, đă có lần nào Phật giáo phản bội dân tộc chưa, để giờ đây phải lập ra Phật giáo yêu nước, yêu chủ nghĩa xă hội để đấu tranh căm thù với Phật giáo phản động ? Từ đó, cộng sản dùng các vị tăng "yêu nước, yêu chủ nghĩa xă hội" đi hăm dọa thúc ép tăng ni trong GHPGVNTN gia nhập Ban liên lạc Phật giáo yêu nước. Hai người hăng hái và đắc lực nhất trong việc này là sư cụ "nằm vùng" Pháp Lan và sư Từ Hạnh. Tuy bị hăm dọa, ép buộc, khủng bố, nhưng chỉ có một số rất ít tăng ni nằm vùng hoặc v́ quá sợ hăi mà phải tham gia cho yên thân, c̣n tuyệt đại đa số tăng ni trong Giáo hội, từ Quảng Trị vào đến Cà mau, vẫn một ḷng trung thành với Giáo Hội và kiên tŕ chịu đựng.

Đến tháng 11 năm 1975, xẩy ra vụ tự thiêu tập thể của mười hai vị tăng ni ở Thiền viện Dược sư tại Rạch G̣i thuộc tỉnh Cần Thơ để phản đối cộng sản đàn áp Phật giáo. Măi đến tháng 12 năm 1976 vụ ấy mới được báo cáo lên Giáo hội Trung ương. Viện Hóa Đạo GHPGVNTN gửi văn thư khiếu nại với nhà nước cộng sản, yêu cầu điều tra sự việc. Ông Mai Chí Thọ, lúc đó là Giám đốc sở Công an thành phố Sàig̣n, đến chùa Ấn Quang đề nghị Viện Hóa Đạo cử người đi điều tra (xin nói lại ở đây là kể từ ngày 30-4-1975 đến hôm ấy, Viện Hóa Đạo đă gửi tất cả sáu mươi hai (62) văn thư lên nhà nước cộng sản phản đối và yêu cầu giải quyết các vụ bắt bớ tăng ni Phật tử và đập tượng phá chùa, lấy chùa làm nhà đở đẻ, nhưng không hề được trả lời. Đây là lần đầu tiên một thư khiếu nại của Viện Hóa Đạo được đáp ứng và dĩ nhiên họ đă sắp đặt như thế nào để có lợi cho họ rồi đó). Bấy giờ Thượng tọa Trí Tịnh đề nghị rằng sự việc xẩy ra đă hơn một năm rồi, thôi, xin bỏ qua! Nhưng cố Thượng tọa Thiện Minh, Thượng tọa Huyền Quang và tôi phản đối đề nghị ấy và yêu cầu Viện Hóa Đạo cử người đi điều tra, Viện liền cử Đại Đức Hộ Giác và tôi đại diện Viện đi điều tra, nhưng sau Đ.Đ. Hộ Giác bận việc khác nên chỉ có tôi đi. Tất nhiên, như tôi vừa nói ở trên, mọi việc đă được nhà nước cộng sản sắp đặt cả rồi, đi điều tra chẳng qua chỉ là để hợp thức hóa cho cái kết quả mà họ đă định sẵn.

Trong cuộc điều tra này, có ông Huỳnh Châu Sổ, Phó Thanh tra Trung ương từ Hà Nội vào, chủ tŕ cuộc họp. Ngoài ra có nhiều cán bộ địa phương, trong đó tôi để ư có một người to béo vạm vỡ, lúc nào cũng nh́n tôi trừng trừng với nét mặt hầm hầm dữ tợn, đằng đằng sát khí như muốn ăn tươi nuốt sống người ta, h́nh như để uy hiếp tinh thần tôi. Về giới sư th́ có sư cụ Thiện Hào và sư Huệ Thành là thầy của Đại Đức Thích Huệ Hiền. Có một số "nhân chứng" được lựa chọn từ địa phương xẩy ra vụ tự thiêu được đưa lên ngồi sẵn đó. Sau ngày đầu làm việc tại thành phố Cần Thơ, tôi yêu cầu được về tận Thiền viện Dược sư cách thành phố Cần Thơ năm mười cây số để xem xét hiện trường, nhưng họ bảo là về đó không an ninh! Tôi nói bây giờ chính quyền cách mạng làm chủ cả nước c̣n ai làm ǵ nữa mà không an ninh?. Nhưng đó chỉ là cái cớ, chứ thực th́ Thiền viện Dược sư đă bị san bằng và xới đất lên trồng chuối rồi. Sau khi mười hai tăng ni tự thiêu, cán bộ địa phương kéo mười hai cái xác ra để bên lề đường cho những người qua lại được thấy, sau đó hai ngày họ phun xăng vào đốt rồi tất cả phần c̣n lại của mười hai xác chết được dồn vào hai cái quan tài và họ đưa đi chôn ở đâu, không ai biết.

Sau ba ngày làm việc, ông Huỳnh Châu Sổ đúc kết biên bản cuộc điều tra qua mấy điểm dưới đây:

1) Huệ Hiền (tức vị trụ tŕ Thiền viện Dược sư đứng đầu trong mười hai tăng ni tự thiêu) trước đây làm chỉ điểm (CIA) cho Mỹ Ngụy, sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, y sợ bị cách mạng trừng trị nên đă tự tử và bắt mười một người khác chết theo y;

2) Trước đây Huệ Hiền được Mỹ Ngụy cung cấp lương thực đầy đủ, nhưng nay thấy không c̣n phương tiện sinh sống nên phải tự tử tập thể.

3) Huệ Hiền đă dâm ô hủ hóa với mấy ni cô, sợ việc ấy đổ bể, nên y đă tự tử và đốt chùa cùng với mười một người khác.

Các nhân chứng cũng nói hệt như vậy và nhất là sư Huệ Thành, thầy của Đ.Đ. Huệ Hiền cũng công nhận như vậy! Sau đó họ bảo tôi kí vào biên bản đúc kết ấy. Tôi nói tôi không kí, v́ nội dung biên bản đúc kết hoàn toàn trái ngược với bức thư tuyệt mệnh của Đ.Đ. Thích Huệ Hiền đề ngày 29 tháng 9 năm Ất Măo (2-11-1975) nên tôi không kí. Để chứng minh, tôi đọc nguyên văn bức thư tuyệt mệnh ấy như sau:

Ngày 29-9 Âm lịch 75

Nam mô Đông phương Giáo chủ Lưu Ly Quang Như Lai tác đại chứng minh.

Đệ tử chúng con xuất gia, Thiền viện Dược sư, kính dâng lên chư Phật Bồ tát Thánh hiền tăng lời tâm huyết phát nguyện của đệ tử tăng ni toàn chùa, thiêu thân ngày 29 tháng 9 năm Ất Măo, tức ngày 2 tháng 11 năm 75.

- Để bảo vệ tiền đồ Phật pháp, chánh pháp Như lai bất diệt;

- Để bảo vệ phẩm giá và đức hạnh người xuất gia trường cửu;

- Để bảo vệ ngôi Tam bảo Thiền viện Dược sư bất diệt;

- Tha thiết kêu gọi chính phủ cách mạng lâm thời cộng ḥa miền Nam Việt Nam, Mặt trận giải phóng tôn trọng triệt để tự do tín ngưỡng của các tôn giáo đúng mức;

- Tha thiết kêu gọi tăng ni đồng bào Phật tử các giới Việt Nam thân yêu phải nhứt quyết nhứt tâm bảo vệ trái tim Bắc và Nam theo lời di chúc Hồ chủ tịch vĩ đại, Bắc và Nam chỉ một trái tim, nếu một ai xé nát trái tim người Việt Nam, không luận kẻ thù hay kẻ thân đều là phản bội lời di chúc của Bác Hồ chí minh vĩ đại. Kẻ ấy là nối giáo cho giặc, phản bội dân tộc cách mạng.

- Lá cờ Phật giáo thế giới, GHPGVNTN tiêu biểu cho sáu hào quang chư Phật và Lục thông chư Phật bất diệt trường cửu;

Cầu nguyện độc lập tự do ḥa b́nh trường cửu bất diệt.

Sau đó, Đ.Đ. Thích Huệ Hiền ghi tên mười hai tăng ni do Đại Đức đứng đầu, phát nguyện tự thiêu v́ bảy thỉnh nguyện kể trên và Đại Đức kết luận:

- Chết vinh hơn sống nhục

- Chấp nhận chết bảo vệ lí tưởng

- Chấp nhận chết bảo vệ lương tâm

- Chấp nhận chết bảo vệ chân lí

Đại diện tăng ni Trụ Tŕ

Ấn kư

Đại Đức Thích Huệ Hiền

Trên đây là bức thư tuyệt mệnh của Đ.Đ.Thích Huệ Hiền viết trước khi tự thiêu cùng với mười một vị tăng ni khác. Nội dung bức thư, như tôi đă nói trên, hoàn toàn khác với ba điểm đúc kết biên bản điều tra của ông Huỳnh Châu Sổ, do đó tôi đă không thể kí vào biên bản ấy. Họ giữ tôi lại thêm một ngày một đêm để làm áp lực buộc tôi phải kí, họ định dùng tôi để hợp thức hóa cho những điều dối trá của họ, nhưng tôi đă kiên quyết từ chối. Sau cùng họ thấy không lung lạc được nên đành phải đưa tôi về chùa Ấn Quang. T.T. Huyền Quang và các sư thấy tôi về rất mừng, v́ đă ba bốn hôm không thấy tôi về cũng lo. Cuộn băng ghi lại những điều tôi phát biểu trong cuộc họp điều tra th́ họ tịch thu, không cho tôi mang về, viện lí do đó là "bí mật quốc gia"!

Trong chuyến đi này, tôi được biết một số chi tiết nhỏ, nhưng mang một ư nghĩa quan trọng. Vào một buổi sáng, tôi vừa điểm tâm xong, một ông cán bộ vào chỗ tôi nói chuyện chơi trước khi ra pḥng họp. Ông nói về việc phát triển đất nước, về xây dựng chủ nghĩa xă hội. Nhưng ông nói: "Chúng tôi chưa phải là những người xây dựng chủ nghĩa xă hội chuyên môn, chỉ c̣n đang thực tập thôi, nhưng làm măi cũng phải được. Cũng như người thợ mới tập đóng cái bàn (vừa nói ông vừa chỉ vào bàn ăn), đóng cái này chưa được th́ đóng cái khác, cứ đóng măi rồi cũng phải được". Tôi nghe mà giật ḿnh, v́ người cộng sản quan niệm việc quản lư một đất nước sao mà quá đơn giản! Đến tháng 2 năm 1982, cộng sản đưa tôi ra Bắc quản thúc tại xă Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái B́nh, tôi mới nghiệm ra là lời nói của ông cán bộ kia quả đă đúng. Về nông nghiệp, như tôi đă nói ở phần 1, năm 1956, sau cuộc căm thù đấu tranh giai cấp, giết các địa chủ, đảng cộng sản chia ruộng cho dân làm chủ và lập Tổ đổi công làm lẫn cho nhau: đây là người thợ đóng cái bàn đầu tiên. Đến năm 1960, đảng bắt đầu góp hết ruộng vào Hợp tác xă lớn để làm chủ tập thể: đây là đóng cái bàn thứ hai. Đến năm 1980, thấy lối làm ăn tập thể thất bại, đảng đề ra chính sách khoán sản phẩm: đây là đóng cái bàn thứ ba. Đến năm 1985, chính sách khoán sản phẩm cũng chẳng ra ǵ, đảng bèn cho khoán trắng: đây là đóng cái bàn thư tư! Nhưng cái bàn thứ tư này lại càng méo mó, xấu xí hơn ba cái trước nhiều, v́ nó đă quay 180 độ để trở lại chế độ phát canh thu tô của địa chủ ngày trước mà cộng sản đă giết! Thế mới vỡ lẽ họ chỉ ṃ mẫm gặp ǵ làm nấy, hễ được th́ làm, hỏng th́ bỏ. Chỉ khổ cho những người dân hiền lành đă phải làm vật hy sinh để cho một nhóm người thử nghiệm cái tư tưởng ngông cuồng và thiển cận của họ; suốt một phần tư thế kỷ (1960-1985), đă phải đổ ra bao nhiêu của, sức lực và mồ hôi nước mắt để xây dựng Hợp tác xă làm chủ tập thể kiểu cộng sản, th́ tất cả giờ đây đă bị phá toang. Đây tôi chỉ nói về nông nghiệp thôi, v́ tôi sống ở nông thôn, c̣n các lănh vực kinh tế cộng sản chỉ huy khác th́ tôi không được biết. Nhưng chắc cũng thế thôi, bởi v́ cái bàn đóng lần chót này cũng là cái bàn kinh tế thị trường tự do kiểu tư bản!

Trở lại cuộc điều tra vụ mười hai tăng ni tự thiêu tại tỉnh Cần Thơ để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo, mà cộng sản định gán cho Đ.Đ.Thích Huệ Hiền tội làm chỉ điểm cho Mỹ Ngụy và tội hủ hóa để khiến cho cái chết của mười hai vị tăng ni trở thành vô nghĩa, nhưng mưu đồ ấy đă thất bại, v́ tôi đă không kí vào biên bản đúc kết để hợp pháp hóa cho mưu đồ ấy của họ.

Từ đó t́nh h́nh mỗi ngày một căng thẳng và ngày 3-3-1977 đă đến điểm cao nhất khi cộng sản đến chiếm dụng Cô Nhi Viện Quách Thị Trang ở đường Trần Quốc Toản (phía sau Việt Nam Quốc tự mà trước đó họ đă chiếm rồi và bây giờ một rạp chiếu bóng rất lớn đă được xây lên tại đó), giật tấm bảng mang danh hiệu GHPGVNTN và liệng xuống lề đường. Ngay 11 giờ hôm ấy, nhân danh Tổng Thư Kí Viện Hóa Đạo, tôi đă kí một thông tư kêu gọi tăng ni sẵn sàng hy sinh để bảo vệ đạo pháp và danh dự của Giáo hội. Đến ngày 6-4-1977, T.T. Huyền Quang và tôi cùng một số vị khác bị bắt vào nhà tù Phan Đăng Lưu ở Bà Chiểu Gia Định. Ít lâu sau, tôi được biết cố T.T. Thích Thiện Minh cũng bị bắt và đă chết một cách bí ẩn tại sở công an Sài g̣n ở đường Trần Hưng Đạo. Thật là đau đớn, xót xa. Đến ngày 10-12-1978, chúng tôi bị đưa ra ṭa xét xử, T.T. Huyền Quang và tôi được tha về, c̣n các vị khác phải ở thêm mỗi người mấy tháng tù nữa.

Sau khi được tha về, chúng tôi lại tiếp tục làm việc Giáo hội như cũ. Khoảng đầu năm 1980, lần đầu tiên cố Ḥa thượng Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, T.T. Trí Tịnh, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Tăng sự và TT. Minh Châu, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Giáo dục, được nhà nước cộng sản mời với tư cách cá nhân đi dự cuộc "gặp mặt đầu năm", do ông Nguyễn Văn Linh, Bí Thư Thành ủy chủ tŕ. Ba vị về cho chúng tôi biết có cả Ḥa thượng Thích Đôn Hậu và các vị đứng đầu các tổ chức Phật giáo trong cả nước cũng có mặt và mục đích cuộc họp mặt là bàn việc thống nhất Phật giáo Việt Nam. Tôi nghĩ hơi lạ, việc thống nhất Phật giáo mà sao ông Bí Thư Thành ủy của đảng cộng sản lại chủ tŕ cuộc họp bàn, thế đảng cộng sản c̣n kiêm cả Giáo hội nữa à? Sao mà tham thế? Nhưng lúc ấy chúng tôi nghe các vị thuật lại th́ cũng chỉ biết thế thôi chứ không có ư kiến ǵ, bởi lẽ ba vị được mời dự họp với tư cách cá nhân chứ không liên quan ǵ đến Giáo hội.

Từ đó trở đi, thỉnh thoảng ba vị lại đi họp rồi về tŕnh bày lại với Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo các ư kiến trong cuộc họp và yêu cầu Viện Hóa Đạo cho biết ư kiến. T.T. Huyền Quang và tôi chủ trương chỉ khi nào Viện Hóa Đạo chính thức được mời và cử đại diện dự họp đường hoàng th́ Viện sẽ có ư kiến ngay giữa cuộc họp, c̣n giờ đây ba vị đi họp với tư cách cá nhân th́ Viện không dám lạm bàn. Vả lại, việc thống nhất Phật giáo là việc của chư tăng hai miền, sao không để cho chư tăng Bắc, Nam họp lại với nhau bàn bạc, mà nhà nước lại can thiệp vào làm ǵ. Đất nước đă thống nhất, dĩ nhiên Phật giáo cũng mong được thống nhất, nhưng chúng tôi cho đó là việc của Phật giáo hai miền chứ không phải công việc của nhà nước.

Về sau, cố Ḥa thượng Trí Thủ được ai đó bầu làm Trưởng ban vận động Thống nhất Phật giáo, T.T. Trí Tịnh Phó trưởng ban và T.T. Minh Châu làm Thư kí. Từ đó ba vị đi họp luôn, có khi ra họp ngoài Hà Nội, và cứ mỗi lần đi họp về, các vị đưa vấn đề ra trước Viện Hóa Đạo xin góp ư kiến, chúng tôi vẫn không dám bàn đến, lí do là Viện Hóa Đạo có chính thức được mời dự bất cứ cuộc họp nào bàn việc thống nhất Phật giáo đâu, kể cả cái Ban vận động thống nhất Phật giáo do ai lập ra và lập ra tại đâu, Viện Hóa Đạo cũng không biết, th́ làm sao Viện góp ư cho được.

Thế rồi vào khoảng cuối năm 1980, văn pḥng Viện Hóa Đạo nhận được một văn thư do cố Ḥa thượng Trí Thủ kư tên với tư cách Trưởng ban vận động thống nhất Phật giáo, xin đến thăm xă giao Viện Hóa Đạo và các vị giáo phẩm của Viện và sẽ được tiếp đón vào ngày giờ nào. Tôi thảo văn thư phúc đáp là sẽ hân hạnh tiếp đón phái đoàn vào ngày giờ đó và xin cho trước một bản danh sách các thành viên và chức vụ trong phái đoàn để tiện việc sắp xếp. Hôm sau tôi nhận được bản danh sách từ chùa Xá Lợi gửi đến, gồm có: sư cụ Phạm Thế Long (ngày trước ngoài Bắc các sư đều lấy họ Thích, nhưng từ khi cộng sản cai trị, họ bắt phải gọi theo họ thế tục, cho nên mới là Phạm Thế Long. C̣n chùa th́ cũng được coi như một hộ, tức như một gia đ́nh, chứ không gọi là chùa (đây cũng nằm trong âm mưu tiêu diệt Phật giáo dần dần), người mà ba mươi năm về trước (1945-1980) đă từng kêu gọi thanh niên tăng miền Bắc lúc bấy giờ là "hăy tạm xếp cà sa khoác chiến bào", hiện là Phó chủ tịch Quốc hội cộng sản, làm Trưởng đoàn, cố Hoà thượng Trí Thủ Phó trưởng đoàn, T.T. Trí Tịnh đoàn viên, T.T. Minh Châu đoàn viên, Đ.Đ.Từ Hạnh (cựu Chánh đại diện GHPGVNTN tỉnh Gia Định) đoàn viên. Khi nh́n qua danh sách của phái đoàn Ban vận động thống nhất Phật giáo đến thăm "xă giao" Viện Hóa Đạo, tôi cứ cười thầm một ḿnh và liên tưởng đến hai câu thơ đầu trong bài thơ "Nói chuyện với ảnh" của nhà thơ Tản Đà:

Người đâu cũng giống đa t́nh

Ngỡ là ai lại là ḿnh với ta...

v́ trong bản danh sách, trừ cụ Phạm Thế Long ra, c̣n đều là người "trong nhà", và cái "tréo cẳng ngỗng" đến mỉa mai ở đây là các vị "chủ nhân ông" đă tự biến ḿnh thành những người khách xa lạ về "thăm xă giao" nhà ḿnh !

Đúng ngày giờ đă định, phái đoàn đến Viện Hóa Đạo, T.T. Huyền Quang, T.T. Pháp Tri và tôi tiếp phái đoàn. Sau khi nghi thức giới thiệu, sư cụ Phạm Thế Long đứng lên nói: "Thưa qúi vị! Hôm nay phái đoàn Ban vận động thống nhất Phật giáo chúng tôi đến đây, trước hết, để thăm Tổ đ́nh Ấn Quang và tăng ni chùa Ấn Quang, cầu chúc quí vị dồi dào sức khoẻ và đạt nhiều thành tích tốt đẹp. Sau xin thưa để quí vị rơ là Đảng chủ trương đất nước đă thống nhất, th́ Phật giáo cũng phải thống nhất. Vậy mục đích chúng tôi đến đây hôm nay, như vừa nói ở trên để thăm Tổ đ́nh Ấn Quang và cũng để xin quí vị góp ư kiến cho việc thống nhất Phật giáo mà sẽ là ngôi nhà chung cho Phật giáo cả nước".

Khi cụ Phạm Thế Long dứt lời, ngồi xuống, tôi gọi thư kí đưa ra hai văn thư của Ban vận động thống nhất Phật giáo xin đến thăm xă giao Viện Hóa Đạo và các vị giáo phẩm trong Viện, và văn thư của Văn pḥng Viện Hoá Đạo trả lời định ngày giờ đón tiếp phái đoàn như đă nói ở trên. Tôi đọc lại hai văn thư thật rơ ràng, rồi nói: "Thưa phái đoàn, theo tinh thần nội dung văn thư của Ban vận động thống nhất Phật giáo như tôi đă đọc th́ hôm nay phái đoàn đến đây là để thăm xă giao Viện Hóa Đạo và các vị giáo phẩm của Viện. Song, như cụ Trưởng đoàn vừa nói, th́ các vị đến đây là để thăm Tổ đ́nh Ấn Quang và tăng ni chùa Ấn Quang để hỏi ư kiến về việc thống nhất Phật giáo, chứ có thăm Viện Hóa Đạo đâu? Vậy, Văn pḥng của Tổ đ́nh Ấn Quang ở đầu ngơ vào, mời quí vị ra ngoài đó, chứ đây là Văn pḥng của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN". Nói xong, tôi mời T.T. Huyền Quang và T.T. Pháp Tri giải tán. Bấy giờ tôi mới thấy cái "lắt léo" và "lật lờ đánh lận con đen" của sư cụ cộng sản: khi muốn đến thăm th́ nói thăm ông A, nhưng khi đến nơi th́ lại bảo thăm ông B! Có ǵ đâu, thâm ư của sư cụ nhà ta là cố t́nh tránh né, không thừa nhận tính hợp pháp của GHPGVNTN, thế thôi. Nhưng nếu hôm ấy mà chúng tôi góp ư kiến th́ về sư cụ lại tuyên bố đó là ư kiến của GHPGVNTN!

Thấy t́nh h́nh không êm xuôi, cụ Phạm Thế Long định "lùi một bước" để rồi sẽ "tiến ba bước" bằng cách đứng lên chắp tay xin sám hối và xác nhận lại là phái đoàn đến thăm Viện Hóa Đạo và các vị giáo phẩm của Viện đúng như nội dung văn thư. Lúc đó tôi mới mời T.T. Huyền Quang và T.T. Pháp Tri ngồi lại tiếp Phái đoàn.

Thượng tọa Huyền Quang phát biểu: "Quí Ngài là những người đề xướng việc thống nhất theo chủ trương của Đảng muốn thống nhất Phật giáo, quí ngài là những kiến trúc sư của ngôi nhà Phật giáo cả nước, vậy quí ngài đă có đồ án nào chưa? Kiểu mẫu ngôi nhà ấy như thế nào? Tuy nhiên, theo như lời Ḥa thượng Thích Đôn Hậu kể lại, th́ Giáo hội chúng tôi khó có vinh dự được sống chung trong ngôi nhà Phật giáo cả nước ấy. V́ khi Ḥa thượng chúng tôi có lần bàn với ông Nguyễn Văn Hiếu, lúc đó Bộ trưởng Văn hóa của chính phủ cách mạng lâm thời cộng ḥa miền Nam Việt Nam, xin thống nhất Phật giáo cả nước, th́ ông Bộ trưởng trả lời Ḥa thượng chúng tôi rằng: "Thống nhất th́ tốt, nhưng thống nhất các tổ chức Phật giáo yêu nước, chứ thống nhất làm ǵ với Phật giáo phản động?". Ḥa thượng chúng tôi hỏi: "Phật giáo phản động là Phật giáo nào?". Ông Bộ trưởng không trả lời. Như vậy, chắc nhà nước muốn ám chỉ Giáo hội chúng tôi là phản động, không được dự phần vào việc thống nhất Phật giáo cả nước, nên chúng tôi không dám đóng góp ư kiến".

Khi H.T. Huyền Quang dứt lời, tôi nói: "Mấy chục năm qua, quí vị ở ngoài Bắc may mắn được sống trong ḥa b́nh, độc lập, tự do, hạnh phúc, chắc quí vị đă làm được rất nhiều việc cho Phật pháp ngoài ấy, c̣n tại miền Nam này chúng tôi phải sống trong chiến tranh, lại bị ḱm kẹp, đàn áp, nên chẳng làm được bao nhiêu Phật sự. Mà có làm được chút nào th́ nhà nước cũng trưng dụng cả rồi. Như quí vị chắc đă thấy, các trường Trung Tiểu học Bồ Đề, viện Đại học Vạn Hạnh, các Trung tâm văn hóa và các cơ sở từ thiện xă hội từ Trung ương đến các địa phương đều đă phải giao cho nhà nước. Các Phật học viện th́ phải giải tán cho tăng ni sinh ở đâu về đó lo việc sản xuất, thành thử bây giờ Giáo hội chẳng c̣n ǵ cả. Cho nên, nếu được vinh dự thống nhất với quí vị th́ cũng chỉ với hai bàn tay không thôi. Như vậy, ai cần thống nhất với ai?".

Lúc đó đă đến giờ ngọ trai, chúng tôi mời phái đoàn ở lại dùng cơm trưa, v́ chúng tôi đă chuẩn bị cả rồi. Thế là cuộc thăm xă giao và hỏi ư kiến cũng chẳng mang lại kết quả ǵ.

Từ đó, cố H.T. Trí Thủ, các T.T. Trí Tịnh, Minh Châu trong Ban vận động thống nhất Phật giáo tiếp tục vận động, tiếp tục đi họp, và mỗi lần đi họp về, các vị lại thúc ép T.T. Huyền Quang và tôi gia nhập thống nhất. T.T. Huyền Quang và tôi chủ trương một cách cương quyết là GHPGVNTN phải chính thức được mời dự họp, họp với ai, ai đứng ra tổ chức họp để bàn việc thống nhất Phật giáo, thống nhất trên cơ sở nào, theo h́nh thức nào, cơ cấu tổ chức ra sao, và sau khi thống nhất rồi, th́ các tổ chức Phật giáo trước kia, không riêng ǵ GHPGVNTN, mà các tổ chức của các giáo phái khác đều xóa bỏ hẳn, hay c̣n được giữ lại dưới một h́nh thức nào đó để lo những sinh hoạt nội bộ, đó là những điều Giáo hội cần phải biết rơ, cần phải bàn cho thấu đáo trước khi thống nhất hoàn toàn, chứ không thể cứ nói thống nhất một cách khơi khơi như vậy được.

Kết luận, chúng tôi cùng đưa ra một ư kiến: "Ngôi nhà GHPGVNTN đây là do tăng ni miền Nam, từ Quảng Trị đến Cà Mau xây dựng nên với sự đóng góp xương máu, nước mắt của toàn thể tăng ni Phật tử miền Nam, họ không thể tất cả tập trung về đây để trông nom ngôi nhà ấy được, nên họ nhờ quí vị và chúng tôi trông nom giữ nhà giùm họ. Nếu bây giờ v́ một lư do nào đó, quí vị thấy không thể tiếp tục giữ nhà giùm họ nữa, th́ quí vị phải gọi họ về mà trả nhà lại cho họ để họ quyết định, nếu họ muốn giữ lại nhà, th́ họ sẽ nhờ người khác, c̣n nếu họ muốn bán hoặc cho ai thuê th́ đó là quyền của họ, chứ quí vị cũng như chúng tôi ở đây không ai có thẩm quyền quyết định việc này. Nói cách khác, Hiến chương Giáo hội đă qui định, Đại hội Giáo hội thường niên là hai năm một kỳ, nhưng khi có vấn đề liên quan đến sự tồn vong của Giáo hội, th́ phải triệu tập Đại hội bất thường để giải quyết, chứ Ban chỉ đạo Viện Hóa Đạo không có quyền quyết định. Bây giờ đây chính là lúc có liên quan đến sự tồn vong của Giáo hội, vậy xin Ḥa thượng Viện trưởng thay mặt Đức Tăng Thống, triệu tập Đại hội bất thường để Đại hội quyết định vấn đề này".

Sau đó ít hôm, tôi nhận được văn thư của sở Công an thành phố mời ra gặp ông Quang Minh (xin nói nhỏ ở đây là tại đất nước Việt Nam độc lập tự do hạnh phúc này, ai nhận được thư sở công an mời là "dựng tóc gáy" rồi đó). Riêng tôi đă có "vinh dự" được nhiều lần như vậy. Khi tôi đến nơi, sau vài câu nói xă giao, ông Quang Minh bảo "Đảng" cần thống nhất Phật giáo trong lúc này và buộc tôi phải đồng ư (tất nhiên với giọng hăm dọa quen thuộc). Tôi nói tôi cũng đă được nghe sư cụ Phạm Thế Long nói tại chùa Ấn Quang như vậy, rồi tôi đưa Hiến chương Giáo hội ra tŕnh bày cũng như tôi vừa nói ở trên, phải do Đại hội quyết định chứ không có cá nhân hoặc một nhóm người nào quyết định được. Và tôi, yêu cầu ông Quang Minh cho chúng tôi triệu tập Đại hội bất thường. Tôi nói rơ b́nh thường th́ mỗi tỉnh cử năm đại biểu hoặc ba, nhưng trong t́nh h́nh hiện nay, tôi chỉ yêu cầu cho mỗi tỉnh cử một vị Chánh đại diện, nếu Chánh đại diện đau ốm, th́ vị Phó hoặc Thư Kí, hay bất cứ ai trong ban đại diện đi thay cũng được. Rồi tôi nói với ông Quang Minh thông cảm v́ chúng tôi phải làm theo đúng nguyên tắc Hiến chương mà chắc ông làm hành chính th́ cũng thế thôi. Nhưng ông Quang Minh bảo không c̣n th́ giờ nữa! Tôi nói việc thống nhất Phật giáo chứ đâu phải là việc hành quân mà gấp rút như vậy. Ông Quang Minh bảo tôi nguyên văn như sau: "Tính ông th́ chỉ thích làm anh hùng!". Tôi nói: "Tôi là một nhà sư tu hành mà anh hùng cái nỗi ǵ, anh hùng rơm ấy à?". Ông Quang Minh nói: "Sư thứ dữ chứ phải sư vừa đâu!". Tôi đứng dậy chào ông và "thong thả" ra về.

Đến khoảng tháng 9 năm 1981, cố H.T. Trí Thủ, với danh nghĩa Trưởng ban vận động thống nhất Phật giáo, đề nghị Viện Hóa Đạo cử Đại diện Giáo hội đi dự Đại hội thống nhất Phật giáo sẽ họp tại Hà Nội vào cuối năm đó. Tôi đề nghị nhà nước đă không cho triệu tập Đại hội bất thường th́ bây giờ phải triệu tập Hội đồng Viện Hóa Đạo gồm mười một quận Giáo hội Đô thành để thông báo cho họ biết về việc này. Cố Ḥa thượng Trí Thủ đồng ư.

Hôm sau tôi gửi văn thư mời các vị trong Ban Đại diện Giáo hội của mười một quận về chùa Ấn Quang họp. H́nh như họ đă đoán trước được là cuộc họp này rất quan trọng nên họ về dự rất đông, không những chỉ có các vị Đại diện chính thức của mười một quận, mà c̣n có cả tăng ni về dự thính, ngồi chật giảng đường, đứng ngoài sân và trên các hành lang trong chùa. Cố H.T. Trí Thủ chủ tọa cuộc họp (xin nhắc lại, với tư cách Trưởng ban vận động thống nhất Phật giáo th́ ngài là khách, nên lần trước ngài đă về "thăm xă giao" nhà Ngài. Nhưng hôm nay với tư cách Viện trưởng Viện Hóa Đạo nên Ngài chủ tọa cuộc họp). Với tư cách Tổng thư kí Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, tôi đứng lên tuyên bố rơ lư do triệu tập cuộc họp. Trước hết, tôi đọc lại các văn thư mà Viện Hóa đạo đă gửi ra phủ Thủ tướng tại Hà Nội nói rơ quá tŕnh thành lập Giáo hội và các cơ cấu tổ chức cùng các hoạt động của Giáo hội tại miền Nam Việt Nam trước ngày đất nước thống nhất, đồng thời, gửi kèm bản Hiến chương và nội qui của Giáo hội để tường tŕnh với nhà nước. Kế đó, tôi nói với các vị Đại diện Giáo hội trong cuộc họp như sau: "Nay H.T. Viện trưởng Viện Hóa Đạo đứng ra làm Trưởng ban vận động thống nhất Phật giáo, không biết ai đă thành lập ban này, thành lập ở đâu và ai đă bầu Ḥa thượng làm Trưởng ban, Viện Hóa Đạo hoàn toàn không được biết điều đó, và cho đến nay, Giáo hội cũng chưa chính thức được mời dự bất cứ cuộc họp nào bàn về thống nhất Phật giáo. Bởi vậy, Giáo hội chưa biết thống nhất trên cơ sở nào, theo h́nh thức nào và sau khi thống nhất, tư cách pháp lư của GHPGVNTN sẽ ra sao. Đây là vấn đề tồn vong của Giáo hội, mà theo Hiến chương Giáo hội, phải do Đại hội quyết định. Cách đây mấy hôm, tôi đă được sở Công an mời ra bảo tôi phải đồng ư thống nhất, tôi đă nói với ông Quang Minh (người tiếp tôi) là Ban chỉ đạo Viện Hóa Đạo không đủ thẩm quyền quyết định việc quan trọng này, mà phải do Đại hội Giáo hội. Và tôi đă yêu cầu ông Quang Minh cho chúng tôi triệu tập Đại hội bất thường, mỗi tỉnh cần một vị Chánh đại diện hay Thư kí cũng được, nhưng ông Quang Minh đă không đồng ư, viện lẽ không c̣n đủ th́ giờ! Bây giờ đây H.T. Viện trưởng đề nghị Viện Hóa Đạo cử Đại biểu Giáo hội đi dự Đại hội thống nhất Phật giáo sẽ họp ngoài Hà Nội, tôi nhận thấy Đại hội bất thường th́ nhà nước không cho, bởi thế hôm nay Viện Hóa Đạo mời quí vị về họp để hỏi ư kiến và tùy quí vị quyết định". Trước khi dứt lời để trao quyền điều khiển cuộc họp cho Ḥa thượng chủ tọa, tôi có bày tỏ một vài ư kiến như sau:

"Kính bạch Ḥa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo chủ tọa cuộc họp, kính thưa toàn thể quí vị, chắc quí vị cũng như tôi đều thấy rơ hiện nay con thuyền GHPGVNTN đang lênh đênh giữa biển khơi và gặp sóng to gió lớn, chưa biết sẽ ch́m lúc nào. Vậy, nếu những ai trong quí vị có mặt ở đây hôm nay cảm thấy nguy nan sợ hăi mà muốn bước sang thuyền khác để thoát thân, th́ xin quí vị ấy cứ việc tự do, không ai ngăn cản cả. Nhưng tôi chỉ xin quí vị ấy một điều là: trước khi bước sang thuyền khác qúi vị cứ để mặc cho con thuyền Giáo hội lênh đênh trôi dạt trong sóng gió với những người c̣n ở lại trên đó, họ sẽ cố sức lèo lái, nếu may mắn vượt qua cơn nguy nan mà đến được bờ b́nh an th́ họ sống, c̣n nếu chẳng may con thuyền ch́m th́ họ cũng sẽ sẵn sàng chết theo nó, chứ quí vị ấy đừng đang tâm nhận ch́m con thuyền của ḿnh mà có lần đă từng đưa quí vị đến bờ danh vọng, lợi lộc, trước khi bước sang thuyền khác. Tôi chỉ xin quí vị có thế thôi. Tôi dứt lời và cảm ơn quí vị".

Khi tôi nói xong th́ cả trong hội trường và ngoài sân, ngoài các hành lang nổi lên những tràng pháo tay vang dội, rồi tôi thấy T.T. Trí Tịnh đứng dậy đi ra trước tiên, kế đó là T.T. Minh Châu và sau cùng là Ḥa thượng Viện trưởng chủ tọa! Thế là cuộc họp tự nhiên cũng tan. Sau đó tôi nghe có tiếng vọng lại: "Hôm nay thầy Quảng Độ mời chúng tôi về đây để thóa mạ chúng tôi". C̣n lại Thượng tọa Huyền Quang và tôi, chúng tôi nh́n nhau một lúc rồi cũng giải tán!

Ba hôm sau, Văn pḥng Viện Hóa Đạo nhận được bản "Thông báo" của Ban vận động thống nhất Phật giáo đề ngày 17-9-1981, do T.T. Minh Châu kí tên, dài lắm, tôi chỉ c̣n nhớ một đoạn ngắn, v́ có lẽ nó là đoạn quan trọng nhất trong bản Thông báo. Đoạn ấy như sau:

"...Thượng tọa Thích Quảng Độ, Tổng thư kí Viện Hóa Đạo, đă triệt hạ uy tín của toàn Ban vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam, phá hoại công cuộc thống nhất Phật giáo, ngang nhiên thách thức với chính phủ và Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam là những người đang khuyến khích và hỗ trợ sự nghiệp thống nhất Phật giáo cả nước!".

Bản Thông báo của Ban vận động thống nhất Phật giáo trên đây sau được ai đó gửi đi khắp các tỉnh miền Nam, bắt tăng ni học tập rồi kí tên kiến nghị gửi về chùa Ấn Quang, yêu cầu Giáo hội trục xuất tôi ra khỏi Giáo hội và không được đặt chân đến chùa Ấn Quang! Không biết ai đă làm việc đó giúp Ban vận động thống nhất Phật giáo, nhưng dù ai th́ tôi thấy cũng có trách nhiệm giúp thêm một tay bằng cách cho dán bản Thông báo trước Văn pḥng Viện Hóa Đạo và cho in ronéo ra thêm hàng chục ram giấy để phân phát cho tăng ni và Phật tử "học tập" cho có hiệu quả hơn. Một Phật tử nói với tôi: "Người ta đ̣i trục xuất thầy ra khỏi Giáo hội và chùa Ấn Quang mà sao thầy lại quảng cáo thêm cho người ta vậy?". Tôi trả lời: "Bao giờ người ta trục xuất hăy hay, bây giờ thầy c̣n làm việc ở đây th́ thầy giúp thêm họ một tay có làm sao, và nếu đạo hữu c̣n giấy cũ th́ cho thầy thêm ít nữa!".

Nhân đây tôi cũng xin thanh minh rằng tôi không chủ trương "phá hoại thống nhất Phật giáo" mà tôi chỉ muốn thống nhất trong tinh thần ḥa hợp, đồng thuận theo đúng luật Phật "Ḥa hợp phủ? - Ḥa hợp!" (chư tăng có ḥa hợp không? - Ḥa hợp!); nghĩa là việc thống nhất Phật giáo là việc của chư tăng hai miền Nam Bắc, phải do chư tăng hai miền quyết định một cách ḥa hợp và đồng thuận, chứ tôi không muốn nhà nước cộng sản can thiệp vào rồi bắt chúng tôi phải thống nhất theo ư muốn của nhà nước để sau dễ bề lợi dụng Giáo hội cho những mục đích chính trị và hợp thức hóa cho chủ trương tiêu diệt Phật giáo của đảng và nhà nước cộng sản.

C̣n bảo tôi "ngang nhiên thách thức với chính phủ và Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam", th́, trời ơi, ai dám làm điều đó? Bởi v́ ai cũng biết chính phủ và Mặt trận Tổ quốc là do đảng cộng sản Việt Nam lập ra, là hai cơ quan quyền lực nhất nước, cộng thêm biết bao nhiêu máy bay tàu ḅ, xe tăng thiết giáp, hỏa tiễn thần công, súng đạn đầy người, nhà tù khắp nước, công an như ruồi; c̣n một nhà sư như tôi trong tay không có lấy một tấc sắt, vậy họa có là điên rồ hoặc muốn về chầu tổ tiên ông bà th́ mới dám "ngang nhiên thách thức"! T.T. Minh Châu ác lắm, muốn nhờ cái búa tạ để đập nát một hạt đậu nhỏ đó! tu hành từ bi mà sao dữ quá vậy. T.T. Minh Châu với tôi có xa lạ ǵ đâu, cùng đi học với nhau bên Tích Lan rồi sau cùng sang học bên Ấn Độ, chỉ học khác trường mà thôi. Khi Giáo hội mở Viện Đại học Vạn Hạnh th́ chúng tôi vừa làm việc trong Viện Hóa Đạo, vừa làm việc ở Đại học Vạn Hạnh rất là thân mật quí hóa. Mỗi khi Thượng tọa có việc phải xuất ngoại th́ Thượng tọa giao cho tôi Quyền Viện trưởng Xử lư Đại học Vạn Hạnh. Thế mới biết danh lợi dễ làm cho con người hư hỏng, và thế cũng mới biết cộng sản đến đâu là làm t́nh người tan nát đến đấy. Và chỉ mấy tháng sau là T.T. Huyền Quang và tôi bị đưa đi quản thúc lưu đày v́ bản Thông báo đó. Tôi biết được điều này là v́ sau khi tôi bị đưa ra Bắc ít lâu, người ta nói với tôi là họ thắc mắc hỏi công an tại sao lại bắt tôi ra đây, th́ công an bảo tôi ở trong Nam chống phá Giáo hội, bởi vậy các ông Trí Thủ, Trí Tịnh, Minh Châu yêu cầu nhà nước đưa "hắn" (tức là tôi) ra đây để trong ấy họ dễ làm việc, chứ nhà nước có bắt bớ ǵ hắn đâu. Cái lợi thống nhất Phật giáo do cộng sản chỉ huy là thế.

Có lẽ T.T. Minh Châu chỉ muốn một ḿnh ḿnh sống trong "Thiên đường" thôi, v́ trong một chuyến đi Liên xô với cố H.T. Trí Thủ về, T.T. Minh Châu đă tuyên bố "Mạc Tư Khoa" (thủ đô của Liên xô cũ) là Thiên đường trên mặt đất. T.T. Minh Châu cũng đă từng chu du nước Mỹ đến Hoa Thịnh Đốn, nhưng chắc bơ sữa Hoa Thịnh Đốn không ngon bằng bơ sữa thiên đường Mạc Tư Khoa! Chưa hết, sau khi T.T. Minh Châu xuất gia, bát cơm đầu tiên mà T.T. Minh Châu ăn là cơm Bắc Tông (tức Đại Thừa), bổn sư của Thượng tọa là đức Đệ nhất Tăng Thống của GHPGVNTN. Sau ngài sang Tích Lan và Ấn Độ học Nam Tông (tức Tiểu Thừa), ngài mặc áo vàng rồi vào tuyên bố các kinh điển Đại Thừa (tức Bắc Tông) không phải Đức Phật nói (ngụ ư là ma nói), mà đức Phật chỉ nói có các bộ Trường bộ kinh, Trung bộ kinh, Tăng nhất bộ kinh v.v... mà ngài đă dịch ra tiếng Việt thôi. Vậy theo quan điểm của T.T. Minh Châu, những người tu theo Bắc Tông như tôi là những kẻ ngoại đạo th́ không có tư cách được sống ở Thiên đường, v́ Sài g̣n cũng sẽ là một thiên đường, cho nên phải đuổi nó xuống địa ngục!

Đến cuối năm 1981, Đại hội thống nhất Phật giáo chính thức được mở ra tại Hà Nội. Tôi được biết, T.T. Thích Thiện Siêu cầm đầu một phái đoàn mười người nói là đại diện cho GHPGVNTN, có văn thư đề cử đóng khuôn dấu Viện Hóa Đạo đường hoàng, tôi rất ngạc nhiên. Bởi v́ T.T. Thiện Siêu có chức vụ ǵ trong Viện Hóa Đạo đâu, mà Viện Hóa Đạo cử T.T. Thiện Siêu làm đại biểu của Viện đi dự họp, c̣n khuôn dấu Viện Hóa Đạo do tôi cất giữ, khi đến văn pḥng th́ tôi mang đến, hết giờ làm việc th́ tôi mang về, vậy khuôn dấu ở đâu ra? Lúc đầu tôi không tin, bởi lẽ tôi biết T.T. Thiện Siêu là bậc học thức, có đức hạnh, tôi rất kính trọng Thượng tọa và tuyệt đại đa số tăng ni miền Nam cũng thế, không tin Thượng tọa lại có thể làm một việc như vậy, nhưng sau tôi mới biết rơ đó là sự thật!

Trong Đại hội ấy, cố Ḥa thượng Trí Thủ được bầu làm Trị sự trưởng Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam (do cộng sản chỉ huy), T.T. Trí Tịnh Đệ nhất Phó trị sự trưởng, T.T. Minh Châu Thư kí Văn pḥng II đặt tại chùa Xá Lợi ở Sài g̣n, T.T. Thiện Siêu và các vị khác đều có chức vụ, nghĩa là tùy theo công lao nhiều ít, đều được tưởng thưởng cả !

Tôi c̣n nhớ tháng 12 năm 1978, sau khi tôi được tha từ nhà tù Phan Đăng Lưu về, một vị đệ tử của T.T. Trí Tịnh, trước kia có học tôi ở Đại học Vạn Hạnh, từ Thủ Đức lên thăm tôi, vị ấy nói với tôi là "thầy con (tức T.T. Trí Tịnh) bảo thầy con là bậc đại trí mới tránh được những tai nạn". Đến nay tôi nghĩ lại th́ thấy T.T. Trí Tịnh và T.T. Minh Châu quả thực là hai bậc đại trí. Năm 1963, ông Ngô Đ́nh Diệm đàn áp Phật giáo, tăng ni Phật tử buộc ḷng phải đứng lên chống lại; nửa đêm 20 tháng 8 năm 1963, ông Diệm cho cảnh sát tấn công tất cả các chùa trên toàn miền Nam, bắt hết tăng ni. Sáng hôm sau các Phật tử ở Thủ Đức biết tin ấy, vào chùa Vạn Đức báo cho T.T. Trí Tịnh biết và khóc lóc. T.T. Trí Tịnh bảo họ: "Các sư tu hành mà làm chính trị th́ người ta bắt là phải, c̣n khóc lóc ǵ!".

Nhưng, sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm đổ, GHPGVNTN được thành lập th́ T.T. Trí Tịnh ra giữ chức Tổng vụ trưởng Tổng vụ Tăng sự. Đến tháng 4 năm 1975 th́ T.T. Trí Tịnh không dự một cuộc họp nào của Viện Hóa Đạo nữa. Ngày 30-4-1975 cộng sản toàn thắng về tiếp thu Sài g̣n; ngày 15-5-1975 cộng sản tổ chức ăn mừng chiến thắng có diễn binh trước dinh Độc Lập và truyền h́nh trực tiếp. Khi nh́n vào Tivi, trên khán đài danh dự, tôi đă thấy T.T. Trí Tịnh đang ngồi chễm chệ trên đó rồi, thật là bậc đại trí!

C̣n T.T. Minh Châu th́ năm 1964 mới từ Ấn Độ trở về và được Giáo hội mời làm Tổng vụ trưởng Tổng vụ giáo dục kiêm Viện trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh. Năm 1972 cuộc chiến Việt Nam đă đến giai đoạn khốc liệt. Người ta chưa quên Quảng Trị mùa hè rực lửa. Lúc đó, Hội nghị Tôn giáo Thế giới về Ḥa b́nh (The World Conference on Religion and Peace) vận động ḥa b́nh cho Việt Nam và mời Giáo hội tham gia. T́nh h́nh chiến sự càng ngày càng sôi động và đến khoảng tháng 3 năm 1975, T.T. Minh Châu cũng không dự cuộc họp nào của Viện Hóa Đạo nữa và tuyên bố tách rời khỏi đường lối vận động ḥa b́nh của Giáo hội. T.T. Minh Châu nói ngài chỉ chuyên về lănh vực văn hóa giáo dục mà thôi. Nhưng đến năm 1976 th́ T.T. Minh Châu lại ra ứng cử vào Quốc hội thống nhất đầu tiên của cộng sản và cho đến nay (1992) ngài vẫn c̣n ngồi trong cơ quan đó. Th́ ra T.T. Minh Châu thích làm chính trị cộng sản chứ không thích vận động ḥa b́nh. Cũng là một bậc đại trí hiếm có.

Kể từ ngày cố H.T. Trí Thủ được bầu làm Trị sự trưởng của Giáo hội nhà nước th́ GHPGVNTN không c̣n Viện trưởng Viện Hóa Đạo. Không có Viện trưởng th́ Phó Viện trưởng lên Quyền Viện trưởng cho đến khi có Đại hội bầu lại đúng như Hiến chương Giáo hội đă qui định. Do đó, T.T. Huyền Quang là Đệ nhất Phó Viện trưởng lên làm Quyền Viện trưởng và chúng tôi vẫn tiếp tục làm việc Giáo hội như thường. Có lẽ nhà nước cộng sản Việt Nam nghĩ rằng, nếu cứ để T.T. Huyền Quang và tôi tiếp tục làm việc như vậy, th́ sau này Giáo hội nhà nước sẽ khó ḷng đến chiếm Văn pḥng Viện Hóa Đạo được; mà nếu không chiếm được Văn pḥng và trụ sở Trung ương của Giáo hội th́ cũng khó bắt các Giáo hội địa phương theo Giáo hội nhà nước, cho nên việc phải đến đă đến và dựa vào bản Thông báo của T.T. Minh Châu tố cáo tôi "ngang nhiên thách thức với chính phủ và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam" như tôi đă nói ở trên làm cơ sở.

Lúc 4 giờ chiều ngày 24-2-1982, tôi nhận được một văn thư của sở Công an thành phố, ngoài b́ đề "Hỏa tốc". Tôi mở ra xem th́ biết tôi được "mời" đến sở Công an vào đúng 8 giờ ngày 25-2-1982, lí do cho biết sau, do ông Quang Minh tiếp đón (lại Quang Minh!). Kể ra tôi cũng có "duyên" với ông này lắm, có lẽ đă từ bao kiếp trước! Tôi không biết chức vụ của ông, nhưng chắc là cấp cao. Suốt thời gian tôi ở trong nhà tù Phan Đăng Lưu, cứ mỗi tuần, dần dần mỗi tháng, tôi lại được "tiếp" ông ta một lần để "làm việc" (tức lấy khẩu cung). Rồi sau khi ra khỏi nhà tù, tôi cũng được ông "tiếp" luôn và có lẽ lần này là lần chót. Người thứ hai mà tôi cũng "kết duyên thắm thiết" đó là ông Mai Chí Thọ Giám đốc sở Công an thành phố và sau là Bộ trưởng Bộ Nội vụ; tôi cũng được "hỏi thăm sức khỏe" luôn. Lại một lần "dựng tóc gáy".

Đúng 8 giờ ngày 25-2-1982, tôi tới sở Công an, được đưa đến một căn pḥng ngồi chờ và có hai anh công an đồng phục mang súng lục đứng canh gác. Đúng là dựng tóc gáy rồi. Tôi nghĩ bụng lại một phen đi nghỉ mát? Khoảng một tiếng đồng hồ sau, chắc họ cho là khủng bố thế là đủ, tôi được đưa vào gặp ông Quang Minh. Ông ta nói: "Ông làm việc tôn giáo cũng là làm chính trị (!), chúng tôi sẽ có thái độ với ông". Thế rồi khoảng năm phút sau, ông Quang Minh đứng dậy đọc bản quyết định, do ông Lê Quang Chánh kư tên, ông này là Phó Chủ tịch Uệy ban Nhân dân Thành phố, trục xuất tôi ra khỏi thành phố. Sau ít phút, một người gọi là Trưởng toán đưa tôi đi đến lănh nhiệm vụ và bốn anh công an vũ trang đầy đủ áp giải tôi xuống xe đưa đi, hệt như một vụ bắt cóc người đ̣i tiền chuộc! Lúc ấy là 9 giờ 30. Khi đến ngă ba Dầu Dây thuộc tỉnh Long Khánh, đoàn xe chừng mười cái dừng lại tại một khu rừng cao su nghỉ để ăn cơm trưa, tôi thấy T.T. Huyền Quang ngồi cách tôi độ mười mét, lúc ấy tôi mới biết T.T. Huyền Quang cũng được đi "ngao du sơn thủy" trong chuyến này.

Kể từ ngày đó, các sinh hoạt của GHPGVNTN hoàn toàn bị đ́nh đốn. Sau đó, cố H.T. Trí Thủ, Trị sự trưởng Trung ương của Giáo hội nhà nước về chiếm Văn pḥng Viện Hóa Đạo tại chùa Ấn Quang làm Văn pḥng "Thành hội Phật giáo" của Giáo hội nhà nước. Ḥa thượng Thích Đôn hậu, Chánh thư kí kiêm Xử lí Viện Tăng thống GHPGVNTN, đă gửi văn thư phản đối việc làm ấy của cố H.T. Trí Thủ. Rồi từ đó trở đi, tất cả tổ chức của GHPGVNTN từ Trung ương đến các địa phương đều bị buộc phải hạ bảng hiệu của Giáo hội xuống và trương bản hiệu của Giáo hội nhà nước lên thay, luôn cả trụ sở, nhân viên của của GHPGVNTN trước đây, cũng được biến thành trụ sở, nhân viên của Giáo hội nhà nước, cũng Chánh đại diện, Thư kí và ban này ban nọ, hệt như cơ cấu tổ chức của GHPGVNTN, chỉ khác có tên gọi "Giáo hội Phật giáo Việt Nam" tức Giáo hội nhà nước mà thôi. Thật là một đ̣n gậy ông đập lưng ông hiểm độc. Đây mới chỉ là mưu đồ ngắn hạn, tức mới chỉ dùng người của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất để triệt hạ GHPGVNTN, c̣n về dài hạn, th́ cái Giáo hội Phật giáo nhà nước ấy được dùng để tiêu diệt Phật giáo một cách hợp thức hợp pháp, cũng như cái Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam do sư cụ Trí Độ làm Hội trưởng ngoài miền Bắc trước đây vậy. Và cuối cùng, khi đă thực sự tiến lên "thiên đường cộng sản" rồi th́ chính cái Giáo hội nhà nước ấy cũng sẽ bị tiêu diệt.

Nhưng cái viễn tượng thiên đường cộng sản ấy xem ra c̣n xa vời lắm, nhất là từ khi bức tường Bá Linh sụp đổ, khối cộng sản Đông âu và Liên xô tan ră, khiến thế đứng của cộng sản Việt Nam lung lay, th́ giờ đây cộng sản lại lợi dụng Phật giáo làm chỗ dựa, đưa vận mệnh của Phật giáo Việt Nam ràng buộc vào với chủ nghĩa xă hội, cũng như nửa thế kỷ trước, cộng sản Việt Nam đă đưa vận mệnh nước Việt Nam ràng buộc vào với khối cộng sản quốc tế. Cũng như mấy chục năm qua, cộng sản đâu có nhắc đến ngày giỗ Tổ Hùng Vương, nhưng bây giờ ngày 10 tháng 3 âm lịch mới dở tṛ tế Tổ. Rồi nghe đâu bây giờ trong miền Nam, cộng sản cho các chùa thu nhận người xuất gia và cho mở các trường Phật học cơ bản để đào tạo tăng ni. Cũng nghe đâu vào ngày Phật Đản và ngày tết, các quan chức đảng và nhà nước có đến các chùa "lễ Phật"! Chao ôi, quí hóa thay! Các ngài vô thần đến lễ Phật, Phật tổ chứng minh công đức! Nhưng giá như từ năm 1945, 1954 hay ít ra từ năm 1975 mà các ngài nhà ta làm thế th́ có tốt hơn không? Tuy nhiên, màn thưa chẳng che nổi mắt Thánh đâu. Bất quá "Giết chẳng được th́ tha làm phúc" đó thôi, chưa tiêu diệt được th́ hăy lợi dụng đă, "lùi một bước để tiến ba bước" mà! "Phân gà" th́ gạt lúc nào mà chẳng được. Thật vậy, nói đổ xuống sông xuống biển, nếu mai mốt đây bức tường Bá Linh lại được xây lại, khối cộng sản Đông âu và Liên xô được khôi phục, và cộng sản Việt Nam lại có cái thế "thừa thắng xông lên" của năm 1975, th́ làm ǵ c̣n chùa để các ngài vô thần đến lễ Phật! Tôi c̣n nhớ sau ngày 30-4-1975, khẩu hiệu: "Chủ nghĩa Mác-Lê bách chiến bách thắng muôn năm!", "Chủ nghĩa Mác-Lênin vô địch bất diệt" được treo trên khắp các nẻo đường ở Sài g̣n, và hang cùng ngơ hẻm nào cũng thấy các tấm bảng đỏ sao vàng trông chói cả mắt. Rồi đến ngày cách mạng tháng 10 Nga th́ tổ chức kéo dài cả tháng. Lúc đó có ông cộng sản nào nhắc đến ngày 10 tháng 3 giỗ Tổ Hùng Vương hoặc đến chùa lễ Phật đâu? Cũng như nếu cộng sản đă đào mồ chôn sống được "bọn" Tư bản rồi th́ bây giờ làm ǵ c̣n tư bản để các ngài rước vào Việt Nam và xin gia nhập khối Tư bản Đông Nam Á mà trước kia các ngài cho là tay sai đế quốc Mỹ? Đập tượng phá chùa để rồi đến lễ Phật, chôn sống tư bản để rồi đi theo tư bản, kể cũng giỏi, cũng hay!

Tóm lại, đạo Phật đă truyền vào Việt Nam trên dưới hai ngh́n năm, đă cùng chung vận mệnh thăng trầm vinh nhục với dân tộc Việt Nam trong suốt ḍng lịch sử ấy. Đạo Phật đă cống hiến những ǵ cho dân tộc Việt Nam? Vấn đề này đă được ghi rơ trong sử sách, ở đây tôi không dám nhắc lại sợ dài ḍng và có thể cho là chủ quan. Tôi chỉ xin trích một đoạn rất ngắn trong cuốn sách Lư Thường Kiệt của giáo sư Hoàng Xuân Hăn ở phần thứ ba chương XIV, trang 429, nói về đạo Phật đời Lư và kết luận như sau:

"Nói tóm lại, sau các đời vua hung hăn họ Đinh, Lê, ta thấy xuất hiện ra những kẻ cầm quyền có độ lượng khoan hồng, những người giúp việc ít tham lam phản bạn. Đời Lư có thể gọi là đời THUẦN TỪ nhất trong lịch sử nước ta. Đó chính là nhờ ảnh hưởng đạo Phật. Mà thực vậy, mỗi lúc ta thấy có Nho gia bài xích Phật giáo, th́ ta biết rằng trong nước sẽ có cuộc tranh quyền lợi mà giết lẫn nhau. Sau khi Đàm Dĩ Mông sa thải tăng già, th́ có Trần Thủ Độ tàn sát họ Lư. Cuối đời Trần, Nho học lên thịnh. Có Trương Hán Siêu, Lê Quát chỉ trích Phật giáo, th́ sau lại có Hồ Quư Ly sát hại họ Trần. Trần Thủ Độ, Hồ Quư Ly làm những việc kia, ấy cũng v́ muốn thi hành chính sách vị danh, xa hẳn ḷng bác ái từ bi của Phật".

C̣n một điều rất căn bản tôi muốn nói ở đây là: Bất cứ ai, muốn trở thành một Phật tử chân chính, th́ trước hết phải lănh nhận ba Quy y Phật Pháp Tăng và sống theo năm giới điều: Không giết hại, không trộm cướp, không gian dâm, không nói dối, không uống rượu. Đó là đời sống đạo đức.

Ngày xưa, sau khi đánh bại Sở Bá Vương Hạng Vũ thống nhất Trung Hoa, Hán Cao Tổ Lưu Bang rất kiêu căng ngạo mạn, hay chế giễu chửi bới các nhà Nho, có khi gặp Nho sinh th́ bắt họ bỏ mũ ra rồi Cao Tổ đi tiểu vào mũ của họ! Nhà trí thức Giả Nghị thấy thế khuyên Cao Tổ đọc sách, Lưu Bang trả lời: "Năi công cư mă thượng nhi đắc thiên hạ an sự thi thư?". Nghĩa là "Ta đây ngồi trên lưng ngựa mà được thiên hạ, cần ǵ phải đọc sách?". Rơ là giọng kẻ vơ biền gặp thời, kẻ tiểu nhân đắc thế. Giả Nghị thưa: "Chúa công có thể ngồi trên lưng ngựa mà được thiên hạ, nhưng không thể ngồi trên lưng ngựa mà trị thiên hạ!". Thật là chí lí. Các vua chúa Việt Nam đời Lư, Trần thông minh và khiêm tốn hơn Hán Cao Tổ của Tàu; họ tự biết giới hạn của ḿnh, họ biết không thể cứ cậy có nhà tù, quân đội, công an mà làm được tất cả mọi việc, mà khiến được dân trở nên lương thiện. Bởi thế họ đă làm chùa và khuyến khích việc làm chùa ở khắp mọi nơi để thờ Phật, nhờ Tăng dạy dân sống theo ba Qui y và năm giới điều để xây dựng một xă hội có đạo đức, nhân ái, lễ nghĩa, hiếu thảo và độ lượng, nhờ đó xă hội được yên vui.

Tâm lư con người kể cũng lạ. Ngày nay tôi nhận thấy thanh niên ở miền Bắc, phần nhiều họ không sợ nhà tù, họ ra rồi vào, vào rồi ra, cứ như là đi... nghỉ mát ấy. Thậm chí họ c̣n nói thanh niên nếu không vào tù ít ra là vài ba lần trong cuộc đời th́ không phải là thanh niên! Vậy mà khi đến chùa Vũ Đoài, nghe tôi nói về đạo Phật, về nhân báo quả ứng, về địa ngục v.v... các anh đâm ra sợ và bỏ nghề bất chính, nhất là nghề đồ tể th́ nhiều anh bỏ.

Như vậy, khi đảng cộng sản Việt Nam, theo giáo điều vô thần duy vật của chủ nghĩa cộng sản quốc tế, nhằm tiêu diệt đạo Phật, phá hủy đ́nh chùa, tức là đă đạp đổ nền đạo đức của dân tộc, hủy hoại di sản kiến thức văn hóa của tổ tiên, phản bội tinh thần nhân ái truyền thống của dân tộc, tinh thần "dĩ ḥa vi quí" của ông cha từ ngàn xưa để thay bằng căm thù đấu tranh giai cấp, cộng thêm với việc dạy dỗ con tố cha, vợ tố chồng, anh em họ hàng và thầy tṛ tố lẫn nhau trong cuộc cải cách ruộng đất "ôn nghèo gợi khổ" tại miền Bắc năm 1956 và đánh tư sản tại miền Nam năm 1975, đă khiến cho cả nền đạo đức nhân nghĩa của dân tộc gây dựng hàng ngh́n năm bị đổ nát tan hoang, tôn ti trật tự xă hội bị đảo lộn và luân thường đạo lư phải bại hoại. Hậu quả là ngày nay con lợn chết th́ người ta khóc, bố mẹ chết th́ người ta mừng; khi con lợn đau ốm th́ người ta lo chạy chữa thuốc thang, tráng trứng gà cho lợn ăn, c̣n bố mẹ ốm đau th́ nằm khô chờ chết! Người ta kể câu chuyện một anh nọ ở thành phố nuôi chó Tây để bán, mua giường sắm màn cho nó ngủ, mua thịt ḅ, trứng gà cho nó ăn; bà mẹ ốm đau nằm không, thấy thế thèm quá, nói với con "Tao ốm nằm đây, chẳng có ǵ ăn mà thấy mày cho chó ăn thịt ḅ, trứng gà thao thèm quá!". Người con trả lời: "Bà biết không? Bạc triệu đấy! C̣n bà th́ làm ra được đồng nào mà đ̣i ăn thịt ḅ với trứng gà? Bà chết mau đi c̣n may nữa!". Khủng khiếp chưa, con Rồng cháu Tiên! C̣n t́nh trạng con cái chửi bố mẹ th́ xẩy ra như cơm bữa, thậm chí giết cả bố mẹ. Đáng lo lắm thay! Sự tàn phá về vật chất, khi sửa chữa hoặc xây dựng lại, tương đối c̣n dễ, nhưng sự hủy hoại về tinh thần này không biết đến đời nào mới văn cứu được. Đó là sự sai lầm tai hại của đảng cộng sản Việt Nam đối với Phật giáo nói riêng và đối với văn hóa truyền thống của dân tộc nói chung.

Kết luận. Tôi chắc rằng, khi đảng cộng sản Việt Nam đọc bản nhận định này, sẽ cho tôi là chống đảng, mà chống đảng tức là chống Tổ quốc, hơn thế nữa là chống trời, th́ chắc chắn là sẽ bị đấu tố đến chết rồi. Tôi đă ư thức rơ điều đó, nhưng tôi sẵn sàng đón nhận, bởi v́ những điều tôi nói trong bản nhận định này đều là sự thật, vậy nếu phải chết cho sự thật, th́ cũng chẳng có ǵ đáng ân hận hối tiếc cả. Vả lại, tôi cũng chẳng c̣n ǵ trên đời này nữa: bố tôi đă chết sớm, mẹ tôi th́ đă bị cộng sản Việt Nam bắt đi đày cùng với tôi năm 1982 và đă chết thảm thương tại xă Vũ Đoài năm 1985; sư phụ (bổn sư) tôi là Ḥa thượng Thích Đức Hải, từng du học nước Pháp, đă bị Việt Minh đến chùa bắt vào lúc 8 giờ sáng ngày 19-8-1945, tức ngày 12 tháng 7 năm Ất Dậu, ngày cách mạng thành công, đưa đến sân đ́nh làng Bặt, gần nhà ông Bùi Bằng Đoàn, ở phủ Ứng Ḥa tỉnh Hà Đông xét xử tử và kết án tử h́nh về tội "Việt gian bán nước", rồi đưa thầy tôi ra băi cỏ trước đ́nh bắn vào màng tai thầy tôi ba phát súng lục, một ḍng máu đỏ tươi phun lên thẳng tắp, cho đến nay, tôi vẫn c̣n nhớ như in, v́ lúc đó tôi đă 18 tuổi. Nhân đây tôi cũng xin minh oan cho thầy tôi không phải Việt gian bán nước mà nguyên nhân như sau:

V́ năm Giáp Thân (1944), nhiều nơi người Nhật bắt dân phá lúa đi để trồng đay, và tháng 10 năm ấy lại mất mùa, nên năm Ất Dậu (1945) dân đói lắm, nhất là hai tỉnh Thái B́nh, Nam Định, người chết đói nằm ngổn ngang đầy đường. Những ai c̣n sức đi được, họ kéo nhau lên Hà Nội, Hà Đông để xin ăn, nhiều người đến nơi th́ kiệt sức nằm chết ngoài đường phố. Lúc đó thầy tôi đang ở chùa làng Thanh Sam phủ Ứng Ḥa tỉnh Hà Đông, nghe người ta nói thương tâm lắm, thầy tôi bèn ra Thị xă Hà Đông, lập hội cứu tế giúp người đói, lúc ấy là tháng 3 năm 1945. Thầy tôi mở một khu trại và đưa những người đói về đó để nuôi. Bấy giờ thầy tôi có nhờ ông Hồ Đắc Điềm là Tổng đốc Hà Đông, can thiệp với người Nhật xin một số gạo để cứu đói. Hội đă cứu được nhiều người qua cơn đói, đến tháng 6 năm 1945 th́ những người đói đă khỏe mạnh, tất cả họ đă trở về quê cũ để thu hoạch vụ chiêm, trại đóng cửa và thầy tṛ tôi cũng về chùa. Có thế thôi. Vậy mà đến ngày 19-8-1945 cách mạng thành công, Việt Minh lên án thầy tôi là theo Nhật, bán nước, rồi giết như tôi vừa nói ở trên. Ngày ấy có rất nhiều người chết tương tự như thế.

Đến lượt sư bá tôi (tức là anh trong đạo của thầy tôi), là Ḥa thượng Thích Đại Hải, trụ tŕ chùa Pháp Vân (chùa Dâu) ở tỉnh bắc Ninh, cũng bị Việt Minh bắt năm 1946 và sau đó đă chết về tội đảng viên Quốc dân đảng! (Tôi mở ngoặc đơn để nói thêm rằng, những người Quốc dân đảng là ai? Họ cũng là những người yêu nước, đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, mồ các liệt sĩ Quốc dân đảng tại Yên bái c̣n đó, họ có nợ máu ǵ với cộng sản Việt Nam đâu mà sao cộng sản nỡ đang tâm giết họ?). Trong cuộc cải cách đấu tố năm 1956, Quốc dân đảng được xếp vào kẻ thù hàng đầu (tức là trí thức) và nếu bị phát hiện đều phải giết hết. Chẳng qua cộng sản Việt Nam học chính sách của cộng sản Tàu mà thôi. V́ Quôc dân đảng Trung Hoa (Tưởng Giới Thạch) đă từng nắm chính quyền và đánh nhau với cộng sản Tàu, khiến Mao Trạch Đông phải mở cuộc "Vạn lí trường chinh". Đến tháng 12 năm 1949, Mao Trạch Đông chiếm toàn lục địa Trung Hoa, Tưởng Giới Thạch phải chạy ra đảo Đài Loan, sau đó họ Mao ra lệnh giết hết những đảng viên Quốc dân đảng Trung Hoa c̣n lại không chạy kịp để trả thù. Tuy vậy họ Mao vẫn chưa hả dạ, c̣n ngờ có kẻ len lỏi trốn thoát trong hàng ngũ các nhân viên của chế độ cũ, phải phát giác để tiêu diệt cho bằng hết. Bởi vậy, đến năm 1956, họ Mao tung ra chiến dịch "Trăm hoa đua nở", nghĩa là cho phép tất cả mọi người được tự do nói ra những điều ḿnh không bằng ḷng với chế độ cộng sản để đảng sửa sai. Ai cũng tưởng thật và có điều ǵ dấu kín trong tâm tư đem phun ra hết. Thế là họ Mao tiêu diệt tất cả những người nhẹ dạ, hầu hết là đảng viên Quốc dân đảng, đă tin vào chiến dịch trăm hoa đua nở? Nhưng c̣n ở Việt Nam th́ Quốc dân đảng đă nắm chính quyền bao giờ đâu, đă có đánh nhau với cộng sản Việt Nam đâu mà cứ hễ ai là Quốc dân đảng là phải giết hết?

Rồi đến sư Tổ tôi (ông nội trong đạo), trụ tŕ chùa Trà Lũ Trung, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định, năm 1954, cộng sản vào chùa bảo Tổ tôi là dùng thuốc phiện tôn giáo ru ngủ nhân dân, sẽ bị qui định thành phần và đưa ra đấu tố, thế là Tổ tôi sợ quá phải tự thắt cổ chết!

Nay đến lượt tôi cũng đă bị cộng sản Việt Nam giam cầm đày đọa suốt mười mấy năm rồi, chỉ v́ cái "tội" trung thành với lí tưởng đạo Phật, muốn bảo vệ nền văn hóa truyền thống của dân tộc, di sản tinh thần và kiến trúc vật chất của tổ tiên, thế thôi, chứ có tranh giành quyền lợi ǵ với ai đâu. V́, theo tôi, văn hóa truyền thống và di sản tinh thần của tổ tiên rất là quan trọng, nhờ đó mà dân tộc Việt Nam đă không bị đồng hóa bởi các thế lực phong kiến, đế quốc và thực dân xưa cũng như nay, khi thống trị Việt Nam trước sau có tới hơn ngh́n năm. Dĩ nhiên, v́ đă lâu đời nên nền văn hóa cổ truyền của chúng ta cũng đă có những cái lỗi thời, ta nên bỏ đi, rồi học hỏi những cái hay cái đẹp của thế giới mà bồi bổ thêm cho mạnh th́ được; chứ nếu chúng ta bảo nó đă lâu đời quá rồi, không c̣n thích hợp với đời nữa, thôi bỏ hết nó đi để thay vào đó một thứ văn hóa hoàn toàn mới, hoàn toàn xa lạ, th́ chúng ta sẽ bị rơi vào trạng huống:

Tây chẳng phải Tây Đông chẳng Đông

Quỉ quái sinh ra lũ cuồng ngông

Mồ mả tổ tiên cày xới hết

Đ́nh chùa miếu mạo phá bằng không

Ông bà xem nhẹ hơn con lợn

Bố mẹ coi như khúc gỗ thông

Phảng phất non sông hồn Lạc Việt

Bốn ngh́n tuổi sử tủi hay không?

Tóm lại, như tôi đă nói ở trên, mẹ tôi, sư phụ tôi, sư bá tôi, sư Tổ tôi đều đă chết thảm, nay đến lượt tôi nếu lại chết thảm, th́ xin góp thêm một giọt máu nữa vào trang sử đau thương của dân tộc.

 

Viết tại xă Vũ Đoài huyện Vũ Thư, tỉnh Thái B́nh

Tháng 1 năm 1992 (Ngày 14 tháng 12, Tân Mùi)

Kỉ niệm năm thứ 10 bị quản thúc lưu đày.

Thích Quảng Độ

Tổng Thư Kư Viện Hóa Đạo

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất

 

***

 

Một khía cạnh của vấn đề nhân quyền tại VN:

Tham nhũng, một quốc nạn?

 

Bài tham luận của Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ gửi đọc tại Hội Nghị Quốc Tế về Phát Triển Việt Nam ở Ḥa Lan (tháng 5/2000)

 

(Thượng tọa Tuệ Sỹ được chính phủ Ḥa Lan mời sang Ḥa Lan, nhưng Hà Nội không cho phép xuất cảnh)

 

Kính thưa quí vị.

Hân hạnh gửi đến quư vị một vài ư nghĩa phiến diện về những điều đè nặng tâm trí tôi trong suốt thời gian ở tù. Nhưng điều trước tiên tôi muốn bày tỏ ở đây là sự tri ân của tôi đối với đồng bào hải ngoại, với sự cộng tác của quốc tế đă can thiệp một cách có hiệu quả khiến cho bản án tử h́nh dành cho tôi trở thành bản cáo trạng dành cho những người tự cho có quyền xét xử tôi và phán xét những người đă hành động theo lương tâm. Tiếp theo, sự can thiệp đă khiến cho Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam phải tuyên bố trả tự do cho tôi. Nhưng nhiều người bạn tù của tôi vẫn c̣n bị khổ trong các trại tù. Trong số đó có nhiều người bị giam cầm gần 25 năm, vượt quá thời hạn mà luật H́nh sự của Nhà nước Việt Nam quy định đối với việc thi hành các bản án giam giữ có thời hạn.

Ở đây tôi cũng xin bầy tỏ sự cảm kích sâu xa đối với các cộng đồng Việt Nam hải ngoại đang đấu tranh cho một nước Việt Nam trong sáng và tự do. Tôi cũng xin gởi lời cám ơn đến các nhân sĩ Ḥa Lan, trong t́nh cảm nhân loại đă trực tiếp can thiệp với chính phủ Việt Nam cho tôi được sang thăm viếng đất nước Ḥa Lan, để có thể có điều kiện tự do hơn nói lên tiếng nói thầm lặng mà đă một phần tư thế kỷ bị bóp nghẹt. Trong những năm gần đây, trước cả khi tôi được lịnh phải rời khỏi nhà tù để trở về chùa, có rất nhiều đồng bào ta từ nước ngoài về thăm và càng ngày càng chứng kiến những đổi thay được nói là đáng khích lệ. Khích lệ theo chiều hướng nào, c̣n tùy theo cách nh́n mỗi người. Riêng tôi, tôi không có được may mắn là chứng nhân trực tiếp trước những thay đổi của đất nước, mặc dù tôi đang sống trong ḷng quê Cha đất Tổ. Đó là điều tốt hay xấu, cũng c̣n tùy cách nh́n của mỗi người.

Mặc dù không có cái may như nhiều đồng bào sau khi sống tự do 15. 20 năm ở nước ngoài về thăm quê. thấy được những đổi thay từ trên thượng tầng, thấy được sự giầu sang của đất nước qua những tiện nghi vật chất từ các khách sạn năm sao dành cho cán bộ cao cấp và khách nước ngoài, từ những tiếp đón niềm nở và linh đ́nh của những nhân vật thuộc thượng tầng xă hội, với những đặc quyền xă hội mà điều kiện chính trị dành cho, nhưng tôi có cái "may mắn" khác -- nếu cho đó là may mắn -- được sống chung trong một thời gian rất dài với thành phần được xem là "cặn bă" của xă hội. Chính từ xă hội gọi là cặn bă ấy tôi đă chứng kiến những đổi thay trong nhà tù như là ánh chiếu của những "đổi thay to lớn" của đất nước. Sự chứng kiến đơn giản và dễ hiểu thôi. Cũng như người ta chỉ cần nh́n vào rác rưởi phế thải được dồn ra sân sau mà có thể biết những thứ đă được tiêu thụ ở sân trước. Chúng tôi, một số người từ lâu đă được học tập để thành thói quen suy nghĩ số phận dân tộc từ những đống rác, đă tự ḿnh đặt thành nhiều câu hỏi cho lương tâm nhân loại, cho ư nghĩa tiến bộ của xă hội loài người, và trên tất cả là một câu hỏi lịch sử: đất nước đă thấm bao nhiêu xương máu của bao nhiêu thế hệ ông cha và bè bạn để dồn lại thành những đống rác như thế; những đống rác càng ngày càng to ph́nh lên một cách khủng khiếp.

Việt Nam đang là một đống rác khổng lồ. Đó không phải là ư nghĩ riêng của tôi, mà là nhận xét của nhân vật cao cấp nhất của đảng Cộng Sản Việt Nam. Đây không phải là ư nghĩa kinh tế. Nó bao trùm tất cả mọi khía cạnh đời sống: văn hóa. chính trị, và cả tôn giáo. Vậy th́, một câu hỏi cần phải được đặt ra cho những ai c̣n có chút tự trọng dân tộc: tại sao một dân tộc luôn luôn tự hào với truyền thống bốn ngh́n năm văn hiến. bỗng nhiên để cho đất nước ḿnh trở thành một đống rác, kho chứa tất cả những ǵ xấu xa nhất của nhân loại văn minh? Nguyên nhân từ đâu và do ai?

Trong gần mười lăm năm trong tù, điệp khúc tôi phải thường xuyên học tập để ca ngợi tính can đảm của đảng Cộng Sản Việt Nam: "Cán hộ làm sai, đảng trị. Đảng làm sai, đảng sửa". Tôi cũng thường xuyên trả lời: đó không phải là sự can đảm, mà là thái độ cai trị khinh dân; xem dân như là vật thí nghiệm cho những tư duy không tưởng, học thuyết viễn vông của ḿnh.

Tôi cũng thường xuyên bị học tập rằng, chính sách đoàn kết dân tộc của đảng là làm cho "dân tin đảng và đảng tin dân." Tôi cũng thường xuyên trả tời: làm cho dân tin đảng, đó là điều tất nhiên và dễ hiểu thôi v́ có đáng tin th́ người ta mới tin được; v́ đảng cần được dân ttn tưởng để tồn tại, dù chỉ là tin tưởng giả tạo. Nhưng "dân tin đảng" có nghĩa là thế nào? Nếu đảng không tin dân th́ đảng xứ lư dân như thế nào? Câu trả lời thực tế: Cả nước trở thành một nhà tù vĩ đại. Ngày nay, khi không c̣n ở trong nhà tù nhỏ như mười lăm năm trước nữa, tôi không c̣n có đIều kiện để được lên lớp chính trị. Tôi hy vọng đảng Cộng Sản Việt Nam không c̣n có cái can đảm như xưa, để thử nghiệm học thuyết của ḿnh thêm nhiều lần nữa: và cũng không thi hành chính sách "đại đoàn kết" như xưa để dân có thể sống tự tại mà không bị đáng nghi ngờ.

Mặc dù có những thay đổi lớn nh́n từ góc độ nào đó, nhưng thực tế tôi biết chắc rằng có một điều không thay đổi. Đó là: đảng Cộng Sản vẫn tự coi ḿnh là ân nhân của dân tộc và do đó có độc quyền quyết định số phận của dân tộc (mà là ân nhân hay tội đồ ǵ th́ quần chúng và lịch sử trước mặt sẽ phán xét). Đó là điểm khác biệt với các chế độ chuyên chính lừng danh trong lịch sử. Đây cũng chính là nguyên nhân của một trong những điều mà các đảng viên bảo thủ cho là "rác rưởi tư bản." Điều đó là nạn tham nhũng. Bởi v́, quan liêu, hách dịch, thái độ kẻ cả ban ơn, vừa là bản chất và vừa là dưỡng chất của tệ nạn tham nhũng của Việt Nam hiện nay. Mọi tội phạm xảy ra đều do một bên gây hại và một bên bị hại. Trong tham nhũng, mới nh́n th́ không có ai bị hại một cách rơ ràng. Trước mắt, người đưa hối lộ và người nhận hối lộ đều nhận được những điều lợi nhất định. Như vậy người bị hại chính là quần chúng, không đủ đặc quyền để tham gia nhằm hưởng lợi trực tiếp từ nạn tham nhũng. Nghĩa là những thành phần cùng khốn của xă hội chẳng có ǵ để cho nên chẳng nhận được ǵ, nên v́ vậy họ trở thành nạn nhân. Tính cá biệt của nạn nhân tham nhũng ở Việt Nam hiện tại là do thái độ ban ơn của những kẻ có chức quyền đối với "thần dân" dưới sự cai trị của ḿnh.

Tham nhũng ở Việt Nam không chỉ là thỏa thuận song phương để dành những hợp đồng kinh tế béo bở. Nó ḅn rút xương tủy của nhân dân; những người cùng khốn phải c̣ng lưng lao động để có tiền đóng thuế.

Tham nhũng là gốc rễ của các tệ nạn xă hội khác. V́ nó tổ chức bao che và nuôi dưỡng chung. Nó xói ṃn mọi giá trị, đạo đức truyền thống. Bảo vệ hay phát huy văn hóa dân tộc trên cơ sở đó chỉ là lá chắn cho tệ nạn tràn lan mà thôi. Tôi nói, tham nhũng là sân sau của quyền lực. Bởi v́ chính những người dân cùng khốn, là tiếng nói luôn luôn bị áp chế bằng sự dọa nạt, là những người bị trấn áp bởi bạo quyền chuyên chính khốc liệt nhất, nhưng cũng lặng lẽ chịu đựng nhất. Đó là những chứng nhân cho mặt trái của tham nhũng và quyền lực, nạn nhân trực tiếp của tất cả sự áp chế của nó đối với giá trị nhân phẩm.

Có lẽ tôi muốn kể lại đây một câu chuyện thương tâm, để chúng ta hiểu phần nào bản chất tham nhũng trong một chế độ thường tự hào là không có người bóc lột người. Chuyện xảy ra trong trận lụt vào cuối năm vừa qua. Tại xă Hương Thọ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên có một gia đ́nh nghèo khổ sống lênh đênh trên một chiếc đ̣. Khi cơn lụt ập đến, gia đ́nh này là duy nhất có ghe ở địa phương miền núi này, do đó đă vớt được trên 80 người khỏi cảnh chết ch́m. Sau nước rút. thỉnh thoảng có vài phái đoàn đến cứu trợ. Các gia đ́nh khác đều nhận được cứu trợ. Chỉ trừ gia đ́nh anh. Lư do: không có hộ khẩu, v́ lâu nay gia đ́nh này nghèo quá, phải sống "vô gia cư" phiêu bạt trên các sông suối nên không có hộ khẩu thường trú. Dân làng biết ơn anh, xin chính quyền địa phương cấp hộ khẩu cho. Nhưng thiếu điều kiện nhập hộ: gia đ́nh anh không có đủ 4OO,OOO đồng VN để hối lộ. Khi các thầy của tôi lên cứu trợ, dân làng tự động đến tường thuật sự việc để các thầy giúp đỡ. Các thầy giúp đủ số tiền, nhưng với điều kiện phải giấu kín nguồn gốc. V́ sẽ c̣n nhiều vấn đề rắc rối khác.

Điều tôi muốn nói ở đây không phải nhắm đến tệ nạn tham nhũng. Mà là nhân cách của gia đ́nh nghèo khốn ấy; và thái độ chịu đựng sự bất công một cách thầm lặng đáng kính phục. Dù sống dưới mức tận cùng khốn khổ, anh vẫn giữ vẹn giá trị nhân phẩm của ḿnh. Làm ơn cho nhiều người, nhưng không kể ơn để được đền bù. Chỉ có dân làng biết ơn và tự động đền đáp. Nhưng dân ai cũng nghèo khổ và lại gặp hoàn nạn như nhau, lấy ǵ chu cấp cho nhau? Khắp cả đất nước này, có bao nhiêu trường hợp như vậy? Đó là những cuộc sống ở sân sau của quyền lực, sống trong bóng lối của xă hội. Nếu họ không lên tiếng, ai biết họ ở đây. Nhưng họ lại không lên tiếng. V́ không thể, hay v́ không muốn? Do cả hai. Điều mà quư vị biết rơ là tôi đang nói chuyện ở đây cũng chỉ là cách nói "lén lút qua mặt chính quyền." Tôi chưa biết ngày mai của tôi ra sao, khi những điều tôi nói không làm hài ḷng Đảng và Nhà nước.

Hoàn cảnh đất nước Việt Nam như thế cho nên dân ta phải chịu quá nhiều đau thương và tủi nhục. Đối với giới trí thức nói riêng., mà xă hội Việt Nam truyền thống rất tôn trọng, điều tủi nhục lớn nhất là họ không thể thay những người dân thấp cổ bé miệng nói lên một cách trung thực tất cả những uất ức, những khổ nhục mà họ phải chịu. Bởi v́, tại Việt Nam ngày nay những người có thể nói th́ ng̣i bút đă bị cong; những người muốn nói th́ ng̣i bút đă bị bẻ gẫy.

Nhưng tôi biết rơ một điều, và điều đó đă được ghi chép trong lịch sử: trí thức chân chính của Việt Nam không bao giờ khiếp nhược.

 

Trân trọng kính chào quí vị.

Tu Viện Quảng Hương Sài G̣n, Việt Nam

Ngày 13 tháng 5, 2000

 

 

Tài Liệu Lịch Sử

 

- Nh́n lại Chặng Đường dài ĐẤU TRANH

CỦA GIÁO HộI PHẬT GIÁO VIệT NAM THỐNG NHẤT

 (Từ sau năm 1975 đến nay)

 

Phan V. Anh

(VNN)

 

Như hoà nhập vào gịng đấu tranh của dân tộc sau khi cộng sản Việt Nam tiến chiếm xong miền Nam, đặt ách thống trị lên cả nước, tiến hành chính sách triệt hạ tôn giáo, thực thi khẩu hiệu "một sư một chùa", giải tán tăng ni buộc đi nghĩa vụ..., cuộc đấu tranh bảo tồn đạo pháp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) đă được khởi xướng ngay những năm sau biến cố tháng 4-1975.

Năm 1977, Đại Hội Kỳ 7 của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tổ chức tại chùa Ấn Quang đă suy cử Ḥa Thượng Thích Đôn Hậu giữ trách vụ Chánh Thư Kư Viện Tăng Thống.

Trong thời gian 1976-1977, có tất cả 14 Tăng Ni ở Cần Thơ, Quảng Ngăi, Khánh Ḥa đă đồng loạt tự thiêu phản đối sự đàn áp của chính quyền CSVN, sau khi CSVN bắt giam một số giáo phẩm cao cấp, trung cấp của Giáo Hội PGVNTN như Ḥa thượng Thích Đức Nhuận, Thượng tọa Thích Thiện Minh, Thích Tuệ Sĩ, Thích Trí Siêu... Ngày 6-4-1977 CSVN bắt giam H.T Thích Quảng Độ trong trại giam Phan Đăng Lưu ở Bà Chiểu, Gia Định đến ngày 12-12-1978, v́ tội "làm việc tôn giáo cũng là làm chính trị".

Năm 1978: Chánh Thư Kư Viện Tăng Thống, Ḥa thượng Thích Đôn Hậu, viết thư cho nhà cầm quyền Cọng sản phản đối "Những vụ bắt bớ, giam cầm nhiều vị Thượng tọa trong Hội đồng lănh đạo cao cấp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và trong các Ban Đại diện Tỉnh" trong suốt 2 năm qua, mà không được trả tự do, cũng không xét xử v́ tội trạng ǵ họ bị giam giữ. Đặc biệt là vụ công an bắt giam và tra tấn Thượng tọa Thích Thiện Minh đến chết.

Năm 1979, ngay khi đức Đệ Nhị Tăng Thống GHPGVNTN viên tịch, Đại Hội kỳ 8 chưa kịp tổ chức th́ Hà Nội đă gia tăng đàn áp tối đa GHPGVNTN bằng cách quản thúc Ḥa Thượng Thích Huyền Quang, Hoà thượng Thích Quảng Độ, và tra tấn đến chết Ḥa Thượng Thích Thiện Minh trong nhà tù Hàm Tân (10/1978). Trong t́nh trạng trên, Hội Đồng Lưỡng Viện của Giáo Hội đă cung thỉnh Ḥa Thượng Thích Đôn Hậu, đang là Tổng Thư Kư Viện Tăng Thống, kiêm luôn trách vụ Xử Lư Viện Tăng Thống.

Năm 1980, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đă triệu tập một phiên họp tại trụ sở Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc tại Sài G̣n để thống nhất Phật Giáo theo sự chỉ đạo của Đảng, để làm chỗ dựa vững chắc cho Đảng, do Tổng Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam đương thời là ông Nguyễn Văn Linh chủ tọa. Ḥa Thượng Thích Đôn Hậu, Ḥa Thượng Thích Trí Thủ đă phản đối âm mưu này.

Đến năm 1981 nhà cầm quyền CSVN mới áp đặt dựng lên một giáo hội mới của nhà nước với tên gọi là Giáo Hội PGVN, ép buộc một số giáo phẩm tham gia và trưng dụng tất cả cơ sở của Phật Giáo. Ban tổ chức Đại hội Thống nhất Phật giáo của Nhà nước gởi thư mời Ḥa thượng tham dự đại hội, tổ chức tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, từ ngày 4 đến 7.11 dương lịch. Nhưng Hoà thượng từ chối không tham dự. Mặc dù vắng mặt, Đại hội này vẫn cung cử Ḥa thượng vào chức Đệ nhất phó Pháp chủ kiệm Giám luật Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Nhà nước). Hoà thượng lại viết thư từ khước, v́ lư do Ḥa thượng "c̣n một trách nhiệm lớn đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, trong cương vị Chánh Thư kư kiêm Xử lư Viện Tăng Thống". Kể từ đó GHPGVNTN bị trù dập cấm đoán gắt gao hơn.

Tháng 2.1982 nhà cầm quyền CSVN trục xuất Hoà Thượng Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang khỏi thành phố Sài G̣n, lưu đày quản chế tại quê quán.

Ngày 14.7.1982, nhân danh Chánh Thư kư kiêm Xử lư Viện Tăng Thống, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Ḥa thượng Thích Đôn Hậu đă kư công văn số 02-82/Viện Tăng Thống, gởi cho Ḥa thượng Thích Trí Thủ, Chủ tịch Hội đồng Tri sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam của Nhà nước, cực lực phản đối việc Ban Tri sự Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ chí Minh ngang nhiên đến đoạt thủ Trụ sở Trung ương của Hội đồng Lưỡng viện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại chùa Ấn Quang, Sài G̣n. Cũng trong năm này, H.T Đôn Hậu bắt đầu lặng lẽ một ḿnh trong liêu, tự ḿnh điều chỉnh máy ghi âm, và tự thuật khoảng đời giông tố đă qua vào hai cuốn băng từ, dài 135 phút. Các câu chuyện kể trong "Lời tự thuật" này là sử liệu quan trọng và vô giá cho dân tộc và Phật giáo Việt Nam ở hậu bán hế kỷ XX

Từ ngày 25-3 đến ngày 1.4.1984, Nhà cầm quyền CSVN lại lục soát chùa Già Lam, bắt giam các Đại Đức Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát), Thích Nguyên Giác, cùng lúc bắt Đại Đức Thích Như Minh và Sư Cô Thích Nữ Huệ Khương tại trường Cao cấp Phật học Vạn Hạnh, và bắt Sư Cô Thích Nữ Trí Hải đang hướng dẫn Phật tử tu tập tại chùa Diệu Pháp, Hố Nai.. Sau đó đem xử kết án tử h́nh Đại đức Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu vào tháng 9.1988, gán cho tội tàng trữ vũ khí tại chùa Già Lam, cùng sách báo phản động, và tội tổ chức kháng chiến vơ trang để lật đổ Nhà Nước Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Do sự can thiệp của quốc tế, bản án được hạ xuống c̣n 20 năm. Ḥa thượng Thích Trí Thủ được ghi nhận bị bức tử ngày 1-4 sau nhiều ngày làm việc căng thẳng với công an.

Ngày 10.12. 1985, Ḥa thượng Thích Đôn Hậu đă viết thư cho Bộ trưởng Bội Nội vụ CSVN Mai chí Thọ, yêu cầu trả tự do cho các Đại Đức Tâm Phật Trí Siêu (Lê Mạnh Thát), Nguyên Chứng Tuệ Sỹ và Thích Nguyên Giác.

Ngày 31.10. 1991, nhân danh Chánh Thư kư kiêm Xử lư Viện Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Ḥa thượng Thích Đôn Hậu gởi Thông Điệp đến chư Tôn Ḥa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni và Đồng bào Phật tử Việt Nam ở Hải ngoại gồm 4 điều. Qua đó, Ḥa thượng khuyến thỉnh thành lập một Giáo hội hợp nhất, lấy tên là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại Hải ngoại. Nguyên tắc tổ chức căn bản dựa theo Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đă ban hành ngày 04.1.1964 và đặt dưới sự điều hành của Hội đồng Lưỡng viện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại quê nhà. Bức Thông Điệp của Ḥa thượng đă được sự hưởng ứng nồng nhiệt của tất cả mọi tổ chức Phật giáo Việt Nam trên thế giới.

Ngày 15.11.1991, Ḥa thượng XLTV Viện Tăng Thống gởi bản "Chúc Thư" đến chư Tôn Ḥa thượng, chư Thượng tọa trong Hội đồng Lưỡng viện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Bản Chúc thư gồm 5 điều, thể hiện quyết tâm cao cả của Ngài, là mong quư Ḥa thượng, Thượng tọa trong Hội đồng Lưỡng viện đặc biệt lưu tâm đến những vấn đề quan trọng của Giáo hội, dù ở hoàn cảnh khó khăn nào cũng phải bảo vệ và phát huy cho được sự toàn vẹn và lớn mạnh của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. V́ GHPGVNTN là Giáo hội duy nhất được sự truyền thừa của chư Lịch đại Tổ sư, qua suốt ḍng lịch sử huy hoàng 2000 năm của Phật giáo Việt Nam. Ngài trao quyền điều hành Giáo hội cho các Ḥa thượng Thích Huyền Quang, Thích Pháp Tri và Thích Quảng Độ, cùng tiến hành tổ chức Đại hội VIII, và đặc việt lưu tâm đến Giáo Hội ở Hải ngoại.

Ngày 23.4.1992, Ḥa Thượng Thích Đôn Hậu viên tịch tại chùa Linh Mụ ở Huế. Ngài để Chúc thư lại trao quyền Viện Trưởng VHĐ cho Ḥa Thượng Thích Huyền Quang. CSVN muốn phủ đầu Phật Giáo bằng hành động t́m cách biến nghi thức tang lễ Tôn giáo của Hoà Thượng Thích Đôn Hậu thành lễ truy điệu cán bộ Đảng và ngăn cản không cho Hoà Thượng Thích Huyền Quang và các hàng giáo phẩm GHPGVNTN về dự tang lễ. Âm mưu này gặp phải sự chống đối quyết liệt của chư tăng ni giáo phẩm GHPGVNTN. Ngày 24.4.1992, HT Thích Huyền Quang tuyên bố sẽ cùng nhiều tăng sĩ tuyệt thực và tự thiêu, nếu Nhà nước CSVN không cho Ngài đứng ra tổ chức Tang Lễ Cố HT Thích Đôn Hậu, đồng thời vào ngày 26.4.1992, HT Thích Huyền Quang chuyển thư đến Ủy Ban Nhân Quyền tại Liên Hiệp Quốc, tố cáo CSVN chà đạp tôn giáo, vi phạm nhân quyền, và yêu cầu Liên Hiệp Quốc can thiệp. Nhà cầm quyền CSVN đă đặt các nút chặn trên các ngả đường về Huế khiến xảy ra nhiều cuộc ngồi ĺ của chư tăng ni phản đối làm ùn tắc lưu thông trên quốc lộ, nên đă nhượng bộ cho chư tăng ni và H.T Thích Huyền Quang vào Huế dự tang lễ. Cùng lúc đó, trong lúc chuẩn bị cho tang lễ, ngày 30.4.1992 Đại Đức Thích Hải Tạng, chánh thư kư Ban Trị Sự của GHPGVNTN, đă gởi thư cho Thầy Thích Hạnh Tuấn ở Hoa Kỳ, cáo giác cho biết CSVN đă cố ư đặt huân chương Hồ Chí Minh trước linh đài của Cố HT Thích Đôn Hậu. Tưởng cũng nên biết cũng nằm trong âm mưu này, hồi Mậu Thân năm 1968, HT Thích Đôn Hậu đă bị CSVN cưỡng bức bắt cóc ra đem ra Bắc. Ngày 2.5.92, các Tăng sĩ Thích Nhật Liên, Thích Trí Tựu, Thích Hải Tạng cùng một số tu sĩ miền Trung đă gởi thơ lên Hội đồng Nhà Nước và Ban Tôn Giáo, cho biết sẽ tuyệt thực tập thể trước kim quan của Hoà Thượng Thích Đôn Hậu, yêu cầu Nhà Nước tách ra khỏi Ban Tang Lễ, và không đọc điếu văn. Tang lễ được Hội đồng Lưỡng viện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cùng Ban tổ chức tang lễ cử hành đúng theo lời Di huấn tha thiết của Ngài là đơn giản, trang nghiêm, đạo vị, và yêu cầu "các cơ quan, đoàn thể công tư có ḷng đến thăm viếng, phúng điếu, xin mời giữ yên lặng tưởng niệm là đủ. Miễn tất cả sớ ai, điệp ai, tiểu sử hoặc tuyên dưong công đức... trái với tinh thần vô ngă, vô tướng của Phật Pháp.

Trong thời gian tang lễ diễn ra, ngày 3.5.1992, lần đầu tiên, toàn thể Ban Lănh Đạo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đă hội họp công khai tại Huế, khẳng định cứu nguy Đạo Pháp và Dân Tộc, theo tinh thần Chúc Thư của cố Đại Lăo Thích Đôn Hậu. Cùng ngày, Lễ Trao Ấn Tín Viện Tăng Thống và Chúc Thư tại tang lễ ở chùa Linh Mụ (Huế), do Hoà Thượng Thích Nhật Liên, trưởng đệ tử của Cố Hoà Thượng Thích Đôn Hậu, đại diện toàn thể Phật Tử Việt Nam, trao cho Hoà Thượng Thích Huyền Quang, Quyền Viện Trưởng Viện Hoá Đạo GHPGVNTN.

Ngày 25.6.1992, trước sự can thiệp ngày càng thô bạo vào nội t́nh tôn giáo, Hoà Thượng Thích Huyền Quang, Quyền Viện Trưởng Viện Hoá Đạo, gởi lên 6 cơ quan của Nhà Nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam một văn kiện 8 trang, với tựa đề là ĐƠN XIN CỨU XÉT NHIỀU VIệC, nội dung yêu cầu nhà nước giải quyết 9 điểm, liên quan đến việc áp chế Giáo Hội PGVNTN. Trong đó 4 nguyện vọng đáng chú ư như sau: - Trả lại cho GHPGVNTN quyền sinh hoạt b́nh thường trong pháp luật nhà nước như trước năm 1975. - Trả tự do cho tất cả Tăng ni, Phật tử, nhà văn, nhà báo, các nhà chính trị... đă bị giam giữ lâu ngày không xét xử hoặc xét xử bất công. Tôn trọng tự do tôn giáo và quyền làm người của những ai đă bị tước đoạt, trong đó có tôi (cá nhân Thích Huyền Quang) và chư vị Thích Quảng Độ, Thích Đức Nhuận, Thích Tuệ Sĩ, Thích Trí Siêu,... và tu sĩ các tôn giáo khác. - Trả lại tất cả các Tu viện, các cơ quan, văn pḥng trụ sở, các cơ sở văn hóa, xă hội từ thiện... của giáo hội chúng tôi từ trung ương đến địa phương, đă bị nhà nước và giáo hội do nhà nước dựng lên chiếm dụng phi pháp hơn 11 năm qua. Kể cả các Tu viện ở miền Bắc bị nhà nước chiếm dụng sau năm 1945.

Hành động "cắt đứt chân tay" của CSVN đă được áp dụng. Sáng ngày 5.9.1992, Đại Đức Thích Thiện Ân 28 tuổi, tại chùa Hoa Nghiêm Thủ Đức. Thầy Thiện Ân bị công an tra tấn đến chết tại Sở Công An, lúc 3 giờ chiều cùng ngày. Măi đến ngày 9.9.1992, thân nhân Đại Đức Thích Thiện Ân được thông báo đi lănh xác Thầy tại nhà thương Chợ Rẫy, với lời giải thích "tự tử trong lúc giam cầm".

Ngày 2.10.1992, tại Sài G̣n, Thượng Tọa Thích Không Tánh, trụ tŕ ở chùa Liên Tŕ Thủ Đức, bị bắt v́ lư do "ra khỏi chùa không có giấy phép". Sau đó bị kết thêm tội "mang tài liệu chống phá Cách Mạng và Nhà Nước". Biên Bản Khám Xét Chùa của công an TP Hồ Chí Minh ghi có 9 tài liệu (nội bộ Phật Giáo) bị tịch thu. Thầy Thích Trí Lực cũng bị bắt trong thời gian này.

Ngày 3 và 4.11.1992, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (tức Giáo Hội Nhà Nước) tổ chức Đại Hội Phật Giáo kỳ III tại thủ đô Hà Nội, tái phối trí nhân sự và kế hoạch hoạt động của Giáo Hội này. Trong thời gian này, Ḥa Thượng Thích Huyền Quang phổ biến TUYÊN CÁO (số 24/VPLV-VHD), ngày 7.11.1992, gởi thủ tướng CSVN, tố cáo Đảng đă lợi dụng và lũng đoạn Phật Giáo. Tuyên Cáo phủ nhận Đại Hội Phật Giáo nhà nước cộng sản kỳ III, khẳng định sức mạnh vô uư của Phật Giáo trong cuộc đấu tranh bất bạo động hiện nay, và yêu cầu thế giới hăy tiếp tục yểm trợ cho Phật Giáo Việt Nam. Ngài viết: "Nếu trong những ngày sắp tới, trong cuộc vận động phục hồi sinh hoạt của GHPGVNTN bị nhà nước dẹp tan bằng bạo lực, th́ coi như GHPGVNTN chết, và đương nhiên, tất cả mọi thứ nhân quyền, dân chủ, tự do trên đất nước này cũng sẽ không c̣n".

Trong thời gian này GHPGVNTN tại Hải ngoại đă được thành lập, và Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN ra quyết định số 27-VPLV-VHĐ công nhận GHPGVNTN Hải Ngoại tại Hoa Kỳ, được coi như Văn Pḥng II Viện Hóa Đạo Lưu Vong, đại diện toàn quyền Giáo Hội PGVNTN quốc nội trong thời gian vô hạn định.

Ngày 6.1.1993, 56 Hoà Thượng, Thượng Tọa ở 17 Chùa tại Huế đồng kư KIẾN NGHị THƯ SỐ 1, gởi cho Ban Tôn Giáo CSVN, phủ quyết toàn bộ danh sách nhân sự tấn phong vào đơn vị Thừa Thiên-Huế, qua Đại Hội Phật Giáo (Nhà nước) Kỳ III. Bản Kiến Nghị yêu cầu Ban Tôn Giáo nhà nước "đừng can thiệp và nội bộ Phật Giáo, nhất là đừng cử cán bộ vào làm việc trong guồng máy lănh đạo của Giáo Hội, để Phật Giáo tự định liệu lấy công việc của chính ḿnh, nhằm phù hợp với tinh thần tôn trọng tự do tín ngưỡng mà Hiến Pháp nước CHXHCN Viêt Nam đă quy định" (có nhiều vị kư tên thuộc Giáo Hội Nhà Nước)

Tinh thần đấu tranh được ảnh hưởng lan rộng ra hải ngoại với những chiến dịch vận động bảo vệ đạo pháp, giải trừ pháp nạn với sự hưởng ứng của các tổ chức đoàn thể đấu tranh cùng Tăng Ni Phật tử các nước. Ngày 6.4.1993, Phật tử Phạm Gia B́nh, pháp danh Viên Lạc, đă vị pháp thiêu thân tại tiểu bang Mass. Hoa Kỳ. Phật tử Viên Lạc đă để lại nhiều lá thư nhằm kêu gọi thế giới hỗ trợ công cuộc đấu tranh cho tự do tín ngưỡng của Phật giáo tại Việt Nam,

Ngày 12.4.1993, Thượng Toạ Thích Long Trí hướng dẫn 3 đoàn xe, vượt được đèo Hải Vân, tới Huế dự lễ. Khi bị công an chận, tất cả Tăng ni Phật tử đă xuống xe, tràn ra ngoài ḷng đường, ngồi trong tư thế kiết già và tuyên bố "chúng tôi sẽ ngồi đây tuyệt thực cho tới chết, nếu không được phép về Huế dự lễ Tiểu Tường của Cố Ḥa Thượng Thích Đôn Hậu". Trước sự quyết liệt của họ, và v́ sự lưu thông tắt nghẽn, công an đành nhượng bộ để 3 đoàn xe này về Huế. Trong thời gian này, tất cả khách du lịch ngoại quốc đến tham quan Huế đều bị cấm thăm và đến sát gần chùa Linh Mụ trong chu vi 1 cây số.

Ngày 12.4.1993, một Ni cô 16 tuổi đă tự thiêu, tại phiá nam tỉnh Quảng Ngăi. Cùng thời gian này, một cụ ông 80 tuổi đă tự thiêu tại phiá Bắc tỉnh Quảng Ngăi. Ngày 30.4.1993, một Phật tử đă tự thiêu trước rạp hát Rex, Sài G̣n.

Ngày 21.5.1993, một cư sĩ Phật tử khoảng 50 tuổi đă tự thiêu, lúc 9 giờ sáng, trước ngôi Bảo Tháp Đức Cố Đại Lăo Ḥa Thượng Thích Đôn Hậu, trong khuôn viên chùa Linh Mụ. Công an đă ập đến, bao vây, khủng bố, cướp xác người này, cùng tất cả tâm thư, xắc tay, giấy tờ, và ảnh chụp được của du khách. Sau vụ tự thiêu này, Đài Phát Thanh CS ở Huế đă loan báo: "một thanh niên nghiện ngập, mắc bệnh Sida, đă quá thất vọng việc đời, nên chết bỏng v́ tự thiêu". Chùa Linh Mụ đă thiết lập một bàn vong trước bảo tháp, với ḍng ghi: "Một Phật tử đă vị Pháp thiêu thân 9 giờ sáng ngày 21.5.93", nhưng công an liền đến dẹp bàn vong này. Ngày 22.5.1993, Đại Đức Thích Trí Tựu gởi văn thư khiếu nại đến Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh, đ̣i trả lại xác người Phật tử để lo tang lễ, cùng xách tay, và giấy tờ tuỳ thân.

Ngày 24.5.1993, buổi sáng, Công an đến chùa Linh Mụ bắt Đại Đức Thích Trí Tựu. Liền đó trong ngày, khoảng 40.000 Phật tử và đồng bào Huế đă kéo xuống đường biểu t́nh chống nhà nước CSVN, giải vây cho Đại Đức Thích Trí Tựu. 20 vị sư đă ngồi tuyệt thực trên đường Lê Lợi, trước Uỷ Ban Nhân Dân. nhà nước CSVN đă dùng lựu đạn cay, gậy, roi điện, xe tăng, và ṿi rồng để đàn áp cuộc biểu t́nh theo chỉ thị của Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ CSVN Bùi Thiện Ngộ. Tuy nhiên Đại Đức Thích Trí Tựu cũng đă được tăng ni phật tử giải thoát đưa về chùa. Ngày 27.5.1993, Đại Đức Thích Trí Tựu lại kư gởi một Thỉnh Nguyện Thư gồm 5 yêu sách viết từ chùa Linh Mụ, đến thủ tướng CSVN và Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh Thừa Thiên-Huế, yêu cầu nhà cầm quyền hăy "chấm dứt các bắt bớ, cấm đoán, khủng bố, đàn áp", "trả tự do cho các vị lănh đạo Phật Giáo Việt Nam đang c̣n bị tù đày, hay quản chế không hạn định, không tội cớ, cùng lúc trả tự do cho các nhà trí thức, những tù nhân lương tâm", và "trả lại toàn bộ các cơ sở của GHPGVNTN". Cùng ngày 27.5.1993, HT Thích Huyền Quang viết "đơn tố cáo nhà nước CSVN xâm phạm trầm trọng tự do tôn giáo và nhân quyền tại Việt Nam", gởi ông Tổng Thư Kư Liên Hiệp Quốc nhân Đại Hội Nhân Quyền ở Áo Quốc, xác nhận: "Từ 12 năm qua, tôi c̣n bị quản thúc tại Quảng Ngăi, không xét xử ǵ cả".

Ngày 5.6.1993, khoảng 6 giờ chiều, công an CS xông vào chùa Linh Mụ, với roi điện, vũ khí, dùi ba-ton, và xe tăng bao vây bên ngoài. Với lời lẽ tục tằn chưởi rủa, công an đọc lệnh bắt giam Đại Đức Thích Trí Tựu Giám tự Chùa Linh Mụ. Ngay khi đó Thầy bị vật sấp xuống đất, lột áo tu sĩ, bắt mặc áo quần tù, c̣ng tay, đưa ra xe bít bùng chở về nhà lao Thừa Phủ (Huế), không xét xử. Hai Đại Đức Thích Hải Tạng, Giám tự Chùa Long An Quảng Trị, và Thích Hải Thịnh cũng bị bắt trong hoàn cảnh bạo động, mạ lỵ nhân phẩm như vậy. Cả 3 thầy đều là thành viên của Văn Pḥng Viện Hoá Đạo, GHPGVNTN, bị lệnh "bắt tạm giam 4 tháng", với tội danh "gây rối trật tự công cộng" và "cố ư huỷ hoại tài sản xă hội chủ nghĩa". Vài ngày sau, thêm 300 Phật tử Huế bị bắt. Các chùa chiền đều bị lục soát, cô lập hoàn toàn. Mọi đường dây điện thoại bị cắt đứt, như Chùa Hội Phước (Quảng Ngăi), Chùa Linh Mụ (Huế), Chùa Viên Giác (Quảng Nam)... Quần chúng được kích động bằng chiến dịch tố khổ, mạ lỵ các Thầy. Ông Vũ Quang, Trưởng Ban Tôn Giáo Nhà Nước c̣n đùa cợt rằng: "nhà sư Thích Hải Tạng nhảy Lambada". Đại Đức Thích Trí Tựu quyết định tuyệt thực vô thời hạn trong lao Thừa Phủ (Huế)

Trong thời gian này, Tăng Đoàn Bảo Vệ Chánh Pháp Thừa Thiên-Huế lên tiếng "để nối tiếp cuộc đấu tranh bảo vệ Chánh Pháp đă nổi lên cao điểm vào ngày 24.5.1993 vừa qua". Tăng Đoàn ra Thông Báo Số 1, chống đối CSVN bắt bớ phi pháp ba Đại Đức Thích Trí Tựu (Giám tự chùa Linh Mụ), Thích Hải Tạng (thư kư Viện Hoá Đạo), và Thích Hải Thịnh. Tăng Đoàn nhận định: "đánh phá Giáo Hội PGVNTN, là đánh phá toàn dân. Việc làm này chưa có chế độ nào thành công trong lịch sử Việt Nam". Tại Chùa Viên Giác (Hội An), cuộc lễ cầu siêu cho Phật Tử Phạm Gia B́nh tự thiêu (tại Hoa Kỳ, chống CSVN đàn áp Phật giáo) đă bị nhà nước cấm cử hành. Hai đội cảnh sát cơ động được sai tới đàn áp. Cùng lúc, Ban Tôn Giáo Chính Quyền đưa chỉ thị xuống Ban Trị Sự Trung Ương Giáo Hội Nhà Nước, ép buộc Tăng Ni phải khai lư lịch chính trị, trong bản Sơ Yếu Lư Lịch Tăng Ni gồm 10 trang. Phần 1 là "Quan Hệ Gia Đ́nh", kê khai rơ tên tuổi nghề nghiệp, thái độ chính trị trước và sau ngày giải phóng, chổ ở của cha mẹ, anh em ruột, người đỡ đầu... Phần 4 là phần kê khai chi tiết "quá tŕnh hoạt động cách mạng". Thượng Toạ Thích Tâm Trí, trụ tŕ chùa An Dưỡng Nha Trang đă đại diện chư Tăng Ni tỉnh Khánh Hoà viết kháng thư phản đối việc này.

Ngày 1.7.1993, Văn Pḥng II Viện Hóa Đạo Lưu Vong tại Hoa kỳ đă khẩn báo chiến dịch bôi nhọ Giáo Hội PGVNTN một cách quy mô trong nước bằng các phương tiện truyền thông nhà nước và qua giáo hội nhà nước tại nhiều thành phố tại Việt Nam. Ngày 9.7.1993, chùa Sơn Linh ở Bà Rịa, Vũng Tàu, bị tấn công vơ trang. Đại Đức Thích Hạnh Đức cùng 33 tăng chúng bị trục xuất ra khỏi chùa, lấy cớ là không có hộ khẩu. 2000 đồng bào làm ṿng đai bảo vệ Chùa bị giải tán bằng xe tăng, lựu đạn cay, dùi cui, ma trắc. Trong vụ này có thêm 25 tăng sĩ (phần đông thuộc Giáo Hội Nhà Nước) bị bắt, cùng với trên 100 Phật tử. Các Tăng sĩ này đă tham gia hỗ trợ Thích Huyền Quang, bị Uỷ Ban Nhân Dân ra công văn số 457 chỉ thị trục xuất khỏi chùa.

Ngày 27-30.8.93, tại hải ngoại, 700 huynh trưởng và gia đ́nh Phât Tử đă mở trại Họp Bạn mang danh hiệu "Trại Huyền Quang", kỷ niệm 50 năm thành lập tổ chức Gia Đ́nh Phật Tử, đồng thời để khẳng định vị trí, lập trường và tâm nguyện "tất cả để bảo vệ Đạo Pháp Giáo Hội PGVNTN do Ḥa Thượng Huyền Quang lănh đạo". Ḥa Thượng đă gửi một Huấn Từ chúc mừng Trại Họp Bạn và nhắc nhở quốc nạn và pháp nạn trong nước. Một Quyết Nghị sau nhiều ngày hội thảo xác định trung kiên với với Giáo Hội PGVNTN trước đại Pháp Nạn và Quốc Nạn hiện nay, nguyện xă thân cho sự sống c̣n của Đạo Pháp.

Chiến dịch "Nước Lũ 2", mà chỉ thị Mật của nhà nước CSVN ban ra trước đây để tiêu diệt Phật Giáo, đă được thi hành nhắm vào lănh đạo GHPGVNTN. Trong một văn thư gởi toàn thể Giáo Hội trong ngoài nước ngày 2.8.93, nhân dịp lễ "Vu Lan Bồn" đă ghi nhận t́nh trạng thê lương của Giáo Hội qua chiến dịch này.

Ngày 19.9.1993, Hoà Thượng Thích Huyền Quang cho phổ biến THÔNG BẠCH ĐẶC BIệT trước những biện pháp ngăn chận cô lập GHPGVNTN một cách khắt khe trong nước. Tất cả cộng đồng, chư Tôn Giáo Phẩm, Tăng Ni Phật Tử đă căm phẩn và dồn nỗ lực vận động quốc tế lên tiếng nói ngăn chận hành động dă man của nhà cầm quyền CSVN đối với Tôn Giáo lớn tại Việt Nam. Ngày 22.9.93, toàn thể thành viên Tăng Già Thừa Thiên - Huế, với 52 tu sĩ đại diện đồng kư tên trong một bản kiến Nghị Thư gởi H.T Thích Trí Tịnh, chủ tịch Hội Đồng Trị Sự Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Nhà nước, phản đối quyết định 193 QĐ/HĐTS đề ngày 16.8.93 băi miễn chức vụ UV Giáo Dục Tăng Ni của T.T Thích Thiện Hạnh v́ lư do đă nhận đại diện cho Tăng Đoàn Thừa Thiên - Huế

Ngày 1- 15.11.93, Toà Án Nhân Dân CSVN, Huế, bắt đầu xét bàn vụ xử các Đại Đức Phật Giáo bị bắt trong vụ biểu t́nh tháng 5.93 tại Huế, và tuyên án vào ngày xử chính thức 15.11.93 ở Huế, với Đại Đức Thích Trí Tựu và Thích Hải Tạng 4 năm tù, các Đại Đức Thích Hải Thịnh, Thích Hải Chánh mỗi người 3 năm tù, cùng một số 6 người Phật tử khác, từ 6 tháng đến 3 năm tù. Việc xét xử này đă gặp sự lên tiếng phản đối của cộng đồng cùng các tổ chức nhân quyền và chính giới ngoại quốc. Ngày 20.11.93, cùng những phản ứng đồng loạt khắp nơi lên tiếng phản đối vụ xử các tu sĩ Phật giáo tại Huế, Ḥa Thượng Viện Trưởng Viện Hóa Đạo thuộc GHPGVNTN đă ra một tuyên cáo sắc bén và dứt khoát tố giác đảng CSVN là nguyên do nghèo đói và là cản lực trên con đường tiến thủ của dân tộc VN. Đ̣i phải viết lại bản Hiến Pháp Việt Nam, xóa bỏ tính chất độc tài đảng trị như điều 4 Hiến Pháp CSVN đă quy định, chấm dứt đàn áp và khủng bố tôn giáo cũng như các đoàn thể chính trị đối lập nếu đảng CSVN muốn tồn tại . Tuyên cáo được người Việt trong và ngoài nước đón nhận và ngưỡng mộ, trước sự dấn thân can đảm v́ quốc nạn và pháp nạn của vị lănh đạo một tôn giáo lớn của Việt Nam, bất kể nguy nan cho thân ḿnh.

Các ngày 10,11 và 12.12.93, Đại Hội GHPGVNTN Âu Châu lần thứ nhất, đă diễn ra tại chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc. Đại hội đă phổ biến một tuyên cáo lên án nhà cầm quyền CSVN đàn áp tôn giáo và là nguyên do băng hoại đất nước, Đồng thời khẳng định "Pháp nạn là quốc nạn, Không thể có tự do tôn giáo trong một nước không có tự do dân chủ. Pháp nạn không riêng ǵ cho Phật Giáo mà tất cả tôn giáo đều là nạn nhân. Quốc nạn là nạn chung của toàn dân chứ không riêng một giới nào".

Ngày 15.1.1994, T.T Thích Tuệ Sĩ từ trại tù Xuân Phước đă gởi thư đến Ḥa Thượng Huyền Quang tán thành việc Giáo Hội PGVNTN định triệu tập Đại Hội kỳ VIII của Phật giáo. Ngày 21.1.94, Đoàn Tăng Ni và Phật Tử Bảo Vệ Chánh Pháp tại Việt Nam sau Hội nghị Đặc biệt ngày 21.1.94 tại Đà Lạt, đă ra Thông cáo phản kháng Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên - Huế về hành động thô bạo nhúng tay vào nội bộ tôn giáo qua Thông Báo số 1108 TB/UBND, ra lệnh buộc Thượng Tọa Thích Thiện Hạnh phải giải tán Tăng Đoàn Bảo Vệ Chánh Pháp Thừa Thiên Huế. Ngày 24.1.94, các thành viên Ủy Ban Liên Kết Đ̣i Tự Do Tôn Giáo và Nhân Quyền cho Việt Nam đă treo cờ PG quốc tế và biểu ngữ đồng loạt tại nhiều địa điểm ở Việt Nam: Nghĩa trang quận Long Hồ, cách thị xă Vĩnh Long 5Km, dọc Quốc lộ 4; Băi rác Cần Thơ, cách thị xă Cần Thơ 3Km dọc Quốc lộ 4; một địa điểm khác thuộc tỉnh Long An. Các biểu ngữ đọc được tại Cần Thơ và Vĩnh Long có nội dung 1/ Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Muôn Năm. 2/ Tăng Ni Phật Tử đứng lên để hưởng ứng 9 điểm của Ḥa Thượng Huyền Quang. 3/ Ủy Ban Liên Kết Đ̣i Tự Do Tôn Giáo và Nhân Quyền cho Việt Nam Kêu Gọi Đồng Bào và Phật Tử Đứng Lên đ̣i Chính Quyền VN Tự Do Tôn Giáo Và Nhân Quyền Cho Việt Nam.

Ngày 14.5.1994, Tăng Đoàn BVCP Thừa Thiên - Huế báo động sức khoẻ nguy kịch của bốn Đại Đức Trí Tựu, Hải Tạng, Hải Thịnh, Hải Chánh, sau 7 tuần tuyệt thực trong tù ở trại Ba Sao, Nam Hà, đ̣i 3 yêu sách liên quan đến vụ xử ngày 15.11.93 tại Huế. Cuộc tuyệt thực khởi đầu ngày 1.4.94, và sau đó toàn thể tù nhân chính trị tại Phân trại A, Ba Sao, đă cùng tuyệt thực để hỗ trợ. Có 49 đơn của Tăng Ni Phật tử gửi đến H.T Huyền Quang xin phát nguyện tự thiêu để cúng dường và bảo vệ Chánh Pháp. Ḥa thượng Huyền Quang viết văn thư khuyên các Tăng Ni Phật tử ngưng các việc đau ḷng này và bảo trọng thân mạng. (văn thư 66/VPLV-VHĐ ngày 10.5.94. Reuter May 23.94).

Ngày 25.5.1994, Sau khi cử hành Lễ Phật Đản, Đại Đức Thích Huệ Thâu đă cầm cờ Phật giáo dẫn đầu một phái đoàn gồm 47 Tăng Ni và Phật Tử kéo đến Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Vĩnh Long phản đối nhà cầm quyền không giải quyết và trả lời những yêu sách gởi lên trước đó. Các yêu sách gồm 1/ Yêu cầu nhà nước tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo, được sửa chữa chùa viện, được tự do đến chùa lễ Phật, tu học giáo lư không pha lẫn chính sách chỉ thị Đảng; 2/ Yêu cầu nhà nước để cho Giáo hội PGVNTN được quyền phục hồi sinh hoạt như trong quá khứ; 3/ Yêu cầu nhà nước giảm sưu cao thuế nặng mà nông dân và đồng bào đồng bằng sông Cửu Long đang bị khốn khổ chịu đựng. Cuộc biểu t́nh bị công an đàn áp giải tán và bắt một số người. Ngày 28.5.94, Ba ngày sau khi bị nhà cầm quyền đàn áp, Đại Đức Thích Huệ Thâu đă tự thiêu như đă tuyên bố trước đó. Các thỉnh nguyện thư và tài liệu giao cho đệ tử bị nhà cầm quyền tịch thu, bưng bít. Gần hai tháng sau, "Tăng Đoàn Bảo Vệ Chánh Pháp" tỉnh Vĩnh Long mới t́m cách liên lạc phổ biến nội vụ. Được biết Đ.Đ. Thích Huệ Thâu, trú tŕ tại Tịnh Xá Ngọc Phật, ở Ba Càng, huyện Tam B́nh, Vĩnh Long.

Ngày 26.6.1994, Tại hải ngoại, đại diện hai khối phật giáo Việt Nam Quốc Tự và Ấn Quang cũ thuộc GHPGVNTN đă công bố một bản tuyên bố chung, xem những sự việc xảy ra trong quá khứ là nghiệp vận của cá nhân mà tổ chức chung chịu, nay đều hỷ xả tất cả và kêu gọi Chư Tôn Đức Tăng Ni cùng đồng bào Phật Tử trong ngoài nước đồng tâm nhất trí trong tinh thần xây dựng Quốc gia và Đạo pháp hầu tránh bị lợi dụng. Tuyên Cáo Chung do H.T Thích Tâm Châu và H.T Thích Hộ Giác cùng kư tại chùa Bát Nhă, Gia Nă Đại, ngày 26.6.94.

Cũng trong tháng 8-1994, H.T Thích Quảng Độ trong lá Thư đề ngày 9-8 gửi TBT đảng CSVN Đỗ Mười, nhân việc nhà nước CSVN dành một ngày quốc tang cho cái chết Kim Nhật Thành đặt vấn đề hàng trăm ngh́n người Việt Nam đă bị giết hại trong cuộc đấu tranh giai cấp, cải cách tố khổ năm 1956 tại miền Bắc, mặc dầu sau đó đảng cộng sản đă sửa sai, xin lỗi (tức đă giết lầm), nhưng đảng đă làm "Quốc tang" cho họ chưa? Cũng như c̣n không biết bao nhiêu người Việt Nam tị nạn đă chết đuối ngoài biển khơi từ ngày 30-4-1975. Ai để tang họ? Theo H.T Thích Quảng Độ, nếu toàn dân Việt Nam phải để tang, th́ để tang những người ấy, chứ không để tang ông Kim Nhật Thành của Bắc Triều Tiên! Gửi kèm c̣n có là bản NHậN ĐịNH VỀ NHữNG SAI LẦM TAI HạI CỦA ĐẢNG CộNG SẢN VIệT NAM ĐỐI VỚI DÂN TộC Và PHậT GIÁO VIệT NAM của Tổng Thư Kư VHĐ, H.T. Thích Quảng Độ, biên soạn từ tháng 1-1992, đánh năm thứ 10 bị quản thúc lưu đày ở quê quán xă Vũ Đoài, Thái B́nh, H.T Thích Quảng Độ đă gửi

Ngày 27-28.9.1994, Giáo Hội PGVNTN Âu Châu đă tổ chức cuộc tuyệt thực cầu nguyện tập thể 26 người trước trụ sở Quốc Hội Âu Châu ở Strasbourg, nhân ngày họp đầu tiên của tân Quốc Hội Âu Châu để kêu gọi các nước Âu Châu áp lực nhà cầm quyền CSVN phục hồi sinh hoạt của GHPGVNTN trong nước và thả tất cả Tăng ni Phật tử cùng các tù nhân đang bị giam giữ v́ bất đồng chính kiến. Có 26 người ghi tên tham gia cuộc tuyệt thực này.

Ngày 10.10.1994, H.T Quảng Độ sau khi công khai dựng lên bảng "Văn Pḥng Tổng Thư Kư Viện Hóa Đạo Lưu Vong" tại chùa Thanh Minh Thiền Viện ở đường Trần Huy Liệu, Phú Nhuận, Sài G̣n, đă ra bản Thông cáo ngày 10.10.94 kêu gọi các cấp Giáo Hội trên toàn quốc "dựng lại bảng tên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại các cơ sở, chùa chiền thuộc Giáo Hội".

Ngày 24.10.1994, Giáo Hội PGVNTN đă phát động chiến dịch cứu trợ đồng bào bị lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long, thuộc miền Miền Tây, do một phái đoàn Tăng Ni Phật tử tiến hành. Liền đó, nhà cầm quyền CSVN lại ra tay càn quét triệt hạ hoạt động của GHPGVNTN dù là hoạt động nhân đạo. Ngày 29.10.94, T.T Thích Long Trí, Chánh Văn Pḥng Lưu Vong VHĐ, trưởng đoàn Cứu Trợ nạn lụt đồng bằng sông Cửu Long bị bắt giam tại SàiG̣n khi trên đường vào Nam thanh sát nghiên cứu kế hoạch cứu trợ. Ngày 30.10.94, H.T Thích Huyền Quang gửi thư đến Thủ Tướng CSVN Vơ Văn Kiệt phản đối việc bắt bớ T.T Long Trí. Cùng ngày, từ Văn pḥng lưu vong TTK Viện Hóa Đạo, đặt tại Thanh Minh Thiền Viện tại SàiG̣n, H.T Thích Quảng Độ đă ra một Thông Cáo về việc bắt giữ này để chất vấn nhà cầm quyền Hà Nội. Những cuộc bố ráp đàn áp đă diễn ra liên tục trong nhiều ngày kế tiếp sau đó. Ngày 5.11.94, Công an TP đến vây chùa Pháp Vân ở quận Tân B́nh, Sài G̣n, từ sáng sớm trước khi đoàn xe cứu trợ tập họp khởi hành, và bắt đi Đại Đức Thích Trí Lực. Công an và cảnh sát cơ động cũng đă bao vây bố ráp các nẽo đường đổ về đường Kỳ Ḥa, gần Ngă Bảy, Q.10, ngăn chận hành hung các đoàn xe tụ họp lên đường. Cuộc xô xát đă xảy ra khi công an cưỡng bức lột những bảng hiệu cứu trợ miền Tây của GHPGVNTN và vứt cờ Phật giáo trên xe. Một số Tăng Ni và Phật tử đă bị bắt. Vào lúc 1 giờ khuya cùng ngày công an cũng đă đến nhà bắt Phật tử Phạm Văn Xua, và lúc 9 giờ sáng lại đến nhà bắt Phật tử Đồng Ngọc Nguyễn Thị Em. Những ngày trước đó, nhiều vị phụ trách đoàn cứu trợ đă bị triệu đến sở Công An TP "làm việc" và bị hăm dọa và ngăn cấm tham gia cuộc cứu trợ của GHPGVNTN. Ngày 6.11.94, Công an tiếp tục vây bắt trên đường phố Sàig̣n. T.T Thích Không Tánh và T.T Thích Nhật Ban cũng đă bị bắt. Ngày 10.11.94, Sau nhiều ngày cô lập theo dơi, Nhà cầm quyền thuộc P1, Q.8, TP. HCM đă cho người ngang nhiên xông vào chùa Từ Hiếu, áp đảo các Phật tử trong chùa, cướp lấy tất cả các phẩm vật cứu trợ.

Bất ổn xảy ra nhiều nơi. Ngày 26.11.94, ngay trong khuôn viên chùa Từ Đàm, Huế, T.T Thích Thiện Hạnh, Ủy Viên Giáo Dục Tăng Ni thuộc Ban Trị Sự Phật Giáo tỉnh Thừa Thiên, căng biểu ngữ tuyên bố tuyệt thực để đ̣i H.T. Thích Thiện Siêu giải quyết tất cả các yêu sách mà Tăng Đoàn Thừa Thiên - Huế vừa đệ tŕnh một giờ trước đó. Các điểm yêu sách gồm 1/ "Thỉnh cầu H.T có biện pháp cụ thể giải quyết những vấn đề bất ổn của Phật giáo Huế. 2/ Thỉnh cầu H.T nhân danh Phó C.T Thường Trực HĐTSTƯ thu hồi 2 văn bản do H.T Thích Trí Tịnh (193-QĐ/HĐTS ngày 16.8.93) và H.T Thích Thiện Hào kư (283-CV/HĐTS ngày 23.11.93). V́ 2 bản văn có nội dung xúc phạm đến Tăng thể Thừa Thiên - Huế và đánh mất chủ quyền vào tay người khác. 3/ Thỉnh cầu H.T nhân danh Dân biểu QH, có tiếng nói trung thực với Ban Tôn Giáo chính quyền không nên can thiệp vào nội bộ Tôn giáo. Ngày 27.11.94, tại buổi lễ khai giảng Trường Cơ Bản Phật Học Thừa Thiên - Huế tại chùa Báo Quốc lại xảy ra xô xát khi công an ngăn cản không cho các Tăng Ni sinh Huế dâng Thỉnh Nguyện thư lên H.T Thích Thiện Siêu trên bàn chủ tọa. Các Tăng sinh phản đối và bị công an đánh đập bạo hành. Được biết thỉnh nguyện thư viết bởi 105 Tăng, Ni sinh gợi H.T Thiện Siêu phản đối "các quy định nghiệt ngă của chính quyền đối với Tăng Ni sinh, làm mất đi tính tự chủ", đồng thời yêu cầu H.T dàn xếp đem lại ḥa hợp cho Tăng trước lúc khai giảng, v́ Tăng Ni sinh không an tâm ngồi nh́n Thầy Thích Thiện Hạnh ngồi tại tiền đường chùa Từ Đàm chờ sự giải quyết của H.T. Ngày 7.12.94, Công an bắt H.T Thích Như Đạt và 12 Tăng sinh về sở công an "làm việc". H.T Thích Như Đạt là Ủy Viên Trung Ương/ Giáo Hội Phật Giáo VN của nhà nước, người đă viết bản nhận định 8 trang gửi Thủ Tướng CSVN Vơ Văn Kiệt và Ban Tôn Giáo phản đối việc chính trị hóa Trường Cơ Bản Phật Học Thừa Thiên - Huế khai giảng hôm 27.11. Tất cả 12 Tăng sinh bị bắt thuộc 105 Tăng, Ni sinh kư tên trong bản Thỉnh Nguyện Thư phản đối. Ngày 25.12.94, Công an Huế cùng lúc tràn vào khám xét 2 chùa Phước Duyên và Linh Quang, bắt đi hai Tăng sĩ Thích Thái Hưng và Thích Hạnh Đức. Công an cũng đă mở những cuộc truy lùng Tăng, Ni sinh kư vào bản Thỉnh Nguyện trong ngày khai giảng Trường Phật Học tại Huế, khám xét, điều tra hộ khẩu tất cả các chùa không theo Giáo Hội nhà nước.

Ngày 27.12.1994, H.T Huyền Quang bắt đầu cuộc tuyệt thực tại chùa Hội Phước ở Quảng Ngăi để phản đối nhà cầm quyền CSVN khủng bố và đàn áp Phật giáo trong công tác cứu trợ nạn lụt tại miền Tây. Hai ngày sau, công an vào chùa bắt vị lănh đạo GHPGVNTN đi khỏi chùa Hội Phước, giam tại chùa Quang Phước thuộc một vùng núi hẻo lánh, xă Nghĩa Hành, cách thị xă 10 cây số. Công an đă tịch thu tất cả khuôn dấu, giấy tín chỉ và tài liệu của Văn Pḥng VHĐ Lưu Vong. Kế đó, ngày 31.12.94, Công an lại tràn vào chùa Thanh Minh Thiền Viện ở đường Trần Huy Liệu, Sài G̣n, nơi trụ tŕ của H.T Thích Quảng Độ, TTK Viện Hóa Đạo để lục soát. Đến chiều ngày 4.1.95, Công an trở lại chùa Thanh Minh Thiền Viện bắt H.T Thích Quảng Độ đưa đi. tạm giam tại một ngôi chùa nhỏ ở Vụ Bản, tỉnh Nam Định miền Bắc Việt Nam và sau đó chuyển về giam giữ tại trại tù B14 Hà Nội. Trước sự cáo giác của thế giới, ngày 15.8.95 Hà Nội cho dựng phiên ṭa xét xử những nhân vật lănh đạo Phật giáo và phật tử phản kháng chế độ gồm 6 người, trong đó có Ḥa thượng Thích Quảng Độ. Mặc dầu không nhận tội do đảng áp đặt, nhưng Ḥa thượng cũng đă bị kết án 5 năm tù, bất chấp sự lên án mạnh mẽ của thế giới.

Ngày 30-8-1998, Trước áp lực thế giới, CSVN đă trả tự do cho H.T Thích Quảng Độ. Khi đáp máy bay về Sài G̣n, hàng trăm tăng ni phật tử đă có mặt nghênh đón bất chấp lệnh cấm của nhà cầm quyền CSVN.

Ngày 19-3-1999 Bất chấp lệnh quản thúc, Ḥa thượng Thích Quảng Độ tự ư đáp xe lửa đi Quảng Ngăi để viếng thăm Ḥa thượng Thích Huyền Quang sau 18 năm xa cách. Sau 2 ngày ở chùa Phước Quang, đến ngày 23-3, Ngài đă bị công an Quảng Ngăi bắt thẩm vấn và giữ 6 tiếng đồng hồ trước khi bị hộ tống quay ngược về Sài G̣n. Thượng Toạ Thích Hải Tạng từ Quảng Trị vào cũng bị bắt trục xuất. Theo lời H.T Thích Quảng Độ cho biết th́: "Thực tế là chúng tôi chỉ bàn củng cố nhân sự của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đă có từ năm 1964, cũng như hoạch định cho Đại Hội VIII GHPGVNTN chứ có lập giáo hội ǵ mới đâu? Họ cho rằng việc đó là bất hợp pháp." V́ theo lời các viên chức nhà nước CSVN mà chính công an trong lúc thẩm vấn cũng xác định với Hoà thượng rằng: "Cái giáo hội của các ông không c̣n tồn tại nữa... Nhà nước chỉ thừa nhận Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Bất cứ cá nhân, đoàn thể, tổ chức mang danh nghĩa Phật giáo mà hoạt động ngoài cái Giáo Hội Phật Giáo VN đều là bất hợp pháp. Bởi vậy cái việc hôm qua hai ông đă làm là trái với luật pháp qui định."

Từ ngày 14 đến 16-5-1999, v́ hoàn cảnh bị đàn áp liên tục Đại Hội VIII GHPGVNTN đă phải diễn ra tại hải ngoại, do Văn Pḥng II VHĐ lưu vong tổ chức ở Hoa Kỳ. Đại Hội đă thông qua một bản Quyết Nghị của Đại hội VIII, và đă được Viện Tăng Thống phê chuẩn. Quyết Nghị này đúc kết mục đích, ngưỡng vọng và mục tiêu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, và tái xác định sự liên hệ mật thiết với nhân quyền, khoan dung và tự do của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, mà Giáo hội không ngừng công khai ủng hộ từ nhiều thập kỷ qua. Một trong những điểm chính của bản Quyết Nghị này là yêu sách phục hồi quyền sinh hoạt của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Mặc dù Chính phủ Việt Nam chưa có văn bản pháp quy nào ra lệnh cấm Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hoạt động, hưng trong thực tế Giáo hội chúng tôi đă bị ngăn cấm hoạt động từ năm 1982.

Đại Hội công bố thành phần lănh đạo vừa được bổ sung vào Hội đồng lưỡng viện (tức Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạo), theo kết quả quyết định cuộc họp bất thường ở trong nước. Mọi người rất phấn khởi và cùng suy tôn các Chư Tôn Đức Giáo Phẩm vừa được bổ nhiệm như H.T. Thích Huyền Quang, XLTV Viện Tăng Thống; H.T. Thích Đức Nhuận, Cố vấn chỉ đạo VHĐ; H.T. Thích Quảng Độ, Viện trưởng VHĐ; TT Thích Tuệ Sỹ, Phó Viện trưởng kiêm Tổng Thư Kư VHĐ.

Năm 2000, trước nạn lụt lớn ở miền Trung vào tháng 11/1999, GHPGVNTN lại phát động đứng ra kêu gọi quyên góp cứu trợ đồng bào nạn nhân thiên tai. V́ không thể công khai trực tiếp Giáo Hội đă phải "hóa thân" vào bất cứ nơi nào có thể, không danh tướng, không h́nh thức để thu. Vậy, một lần nữa, Giáo 75c hiện việc cứu trợ mà nhà cầm quyền không thể cấm đoán hay bắt bớ.

Ngày 21-4-2000, nhân kỷ nhà nước CSVN kỷ niệm 25 "chiến thắng", H.T Thích Huyền Quang gửi lá thư đến các lănh đạo Đảng và Nhà nước CSVN đ̣i thực thi "Linh quyền cho người chết và Nhân quyền cho người sống, lấy ngày 30.4. làm "Ngày Sám hối và Chúc Sinh toàn quốc", sám hối với người chết và Chúc Sinh người sống. V́ lá thư này, ngày 5-7-2000, H.T. T5 hích Huyền Quang đă bị công an Quảng Ngăi đến chất vấn và khủng bố tinh thần một cách rất hung hăng và giận giữ.

Từ tháng 5-2000, Tăng đoàn Thừa Thiên Huế đă gởi bản Nhận Định Và Kiến Nghị Thư đến nhà cầm quyền địa phương Thừa Thiên Huế tŕnh bày một số vấn đề có liên quan đến Phật Giáo như vụ bờ kè chùa Long Quang; vụ không cho giấy phép xây dựng nhà kinh sách Chùa Từ Hiếu, chùa Từ Vân; việc chiếm đoạt Trung tâm Văn hoá Liễu Quán, vụ ngăn cấm trùng tu chùa Phước Thành, vụ không hoàn trả chùa Phước Hải, chùa Quan Âm, chùa Châu Hoàn Liên Xă... Yêu cầu nhà cầm quyền Thừa Thiên Huế chấm dứt mọi sự khủng bố và không được phân biệt đối xử Tăng Ni và Phật tử bên này hoặc bên kia.

Ngày 4 đến 12-2-2001, bất chấp sự đe doạ cấm đoán của nhà cầm quyền CSVN địa phương, chùa Từ Hiếu đă tổ chức tuần lễ Cầu nguyện Thiên niên kỷ: Trai đàn - Thiền hành tụng niệm sám hối, với sự tham dự của hàng ngàn tăng ni Phật tử.

Ngày 21-2-2001, H.T Viện trưởng VHĐ Thích Quảng Độ đă đưa ra LờI KÊU GọI CHO DÂN CHỦ VIệT NAM CỦA GIÁO HộI PHậT GIÁO VIệT NAM THỐNG NHẤT, nhân chuẩn bị kỷ niệm Quốc tổ Hùng vương lần thứ 4880 và năm Thế giới đón chào thiên niên kỷ thứ III, trong đó nêu ra sách lược 8 điểm cụ thể để cứu nguy đất nước.

Ngày 21-3-2001, sau Tuần Lễ Cầu Nguyện Thiên Niên Kỷ của Tăng Đoàn Thừa Thiên Huế, Ḥa Thượng Thích Thiện Hạnh đă lên đường vào Tu Viện Quảng Hương Già Lam tại Sài G̣n để dự lễ kỷ niệm 17 năm ngày thị tịch của Cố Ḥa Thượng Thích Trí Thủ - Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Ngày 25 tháng 03 năm 2001, Ḥa Thượng Thích Thiện Hạnh cùng với Ḥa Thượng Thích Đức Nhuận - Cố Vấn Chỉ Đạo VHĐ/GHPGVNTN, Ḥa Thượng Thích Quảng Độ Viện Trưởng VHĐ/GHPGVNTN, Thượng Tọa Thích Tuệ Sĩ - Phó Viện Trưởng VHĐ kiêm Tổng Thư Kư GHPGVNTN và chư Tôn Đức trong Hội Đồng Viện Hóa Đạo đă đến tại tu viện Quảng Hương Già Lam, với sự đón tiếp long trọng của Ḥa Thượng Thích Đức Chơn - Giám Viện Tu Viện Quảng Hương Già Lam và Tăng Đoàn tại trú xứ này, để chính thức làm lễ tưởng niệm 17 năm ngày Cố Hoà Thượng Thích Trí Thủ viên tịch. Sau đó, Ḥa Thượng Thích Thiện Hạnh rời Sài G̣n về ghé Quảng Ngăi, hầu thăm Hoà Thượng Thích Huyền Quang - Xử Lư Viện Tăng Thống GHPGVNTN đang bị giam quản chế ở chùa chùa Quang Phước - huyện Nghĩa Hành.

Tháng 6-2001, từ khi đưa ra lời kêu gọi cho dân chủ nay H.T Thích Quảng Độ lại quyết tâm đi Quảng Ngăi rước Ḥa Thượng Thích Huyền Quang khiến nhà cầm quyền CSVN lại phải áp dụng QĐ 31/CP ra lệnh quản thúc H.T Thích Quảng Độ 2 năm, đồng thời CSVN cho cơ quan truyền thông, báo chí đảng mở chiến dịch vu khống Ḥa thượng một cách dối láo, vô văn hóa.

Ngày 2-9-2001. Ông Hà Tấn Anh, có pháp danh Hạnh Minh, một huynh trưởng GĐPTVN, đă tự thiêu trước công viên "Tượng đài mẹ dũng sĩ Thanh Khê thuộc thành phố Đà Nẵng". Ông là Phó Thư Kư GHPGVNTN Quảng Nam Đà Nẵng và đại diện Ban Hướng Dẫn GĐPT Quảng Nam tại huyện Duy Xuyên. Ông đă để lại nhiều thư tố cáo nhà cầm quyền CSVN đàn áp tôn giáo. Một trong 4 bức thư để lại nhờ chuyển gửi cho TTK liên Hiệp Quốc, ông Hồ Tấn Anh mô tả chi tiết chính sách tiêu diệt Phập Giáo có hệ thống của CSVN, từ những ngày đầu nhuộm đỏ miền Nam Việt Nam hồi 1975, đồng thời ông đ̣i hỏi CSVN phải tôn trọng nhân quyền, dân chủ ,tự do của dân chúng đúng theo tinh thần hiến pháp quy định.

Ngày 30-10-2001, tại Quảng Nam Đà Nẵng, thêm một cựu Huynh Trưởng Gia Đ́nh Phật Tử Việt Nam và là một cư sĩ tu tại gia tên Hứa Văn Xuân đă tự thiêu trước Chùa Lan Hương, thuộc thị trấn Nam Phước, xă Duy Phước Quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, để phản đối chính sách đàn áp tôn giáo khắc nghiệt của nhà cầm quyền CSVN.

Ngày 21-1-2002, H.T Thích Đức Nhuận viên tịch, lợi dụng lúc này công an cho niêm phong pḥng riêng của H.T Đức Nhuận, và không cho mang nhục thân ngài về đặt trong pḥng riêng như yêu cầu của chư tăng. Sự ra đi của H.T Thích Đức Nhuận khiến GHPGVNTN mất đi một vị cao tăng trong hàng lănh đạo Tăng Ni Phật tử Việt nam vượt qua những thử thách gian nan nhất trong những ngày đen tối của lịch sử dân tộc và đạo pháp.

Tháng 2-2002, nhà cầm quyền CSVN địa phương tại Huế xúc tiến kế hoạch đập phá lấn chiếm Trung Tâm Phật Giáo Liễu Quán nhằm xây cất khu ăn chơi cho Festival 2002. H.T Thích Thiện Hạnh, Tăng Đoàn Thừa Thiên cáo giác, và đă ra kháng thư phản đối, buộc chính quyền địa phương phải nhượng bộ cho đ́nh hoăn công tŕnh.

Ngày 26-4-2002, nhân tưởng niệm 30 năm vụ thảm sát đ̣an người di tản từ Qủang Trị vào Huế trên Quốc lộ số 1 vào mùa Hè Đỏ Lửa 1972 , Tăng Đ̣an Thừa Thiên Huế phối hợp với Ban Đại Diện giáo Hội Phật GiáoViệt Nam Thống Nhất ở Quảng Trị đă trọng thể tổ chức tuần lễ Cầu Siêu cho những nạn nhân xấu số đă bị CS tàn sát trên đoạn đường từ Bến Đá đến Mỹ Chánh (tức đoạn đường Đại Lộ Kinh Ḥang) . Có khoảng 2000 phật tử và đồng bào của hai Tĩnh Thừa Thiên và Quăng Trị đă tề tựu về Chùa Long Quang thuộc Tỉnh Quăng Trị do Thầy Thượng Tọa Thích Hải Tạng trụ tŕ , để dự lễ cầu siêu kéo dài cả tuần lễ này. Đây là lần đầu tiên vong linh đồng bào Quảng Trị chết oan ức chính thức được tụng niệm cầu siêu thoát. Cùng thời gian, tin ghi nhận từ Huế có một Phật Tử đă tự thiêu tại cầu Nguyễn Ḥang, mà người dân Huế quen gọi là Cầu Mới, cầu nầy bắt ngang sông Hương và nằm giữa cầu Trường Tiền và Bạch Hổ . Phật tử nầy là một thanh niên đă tự thiêu ở đoạn giữa Cữa Ngăng và Cầu Mới , trong khu vực mà Nhà cầm quyền Thừa Thiên Huế đang tổ chức Khai mạc Huế Festival 2002, Công An CSVN đă vội vă phong tỏa và đem xác nạn nhân đi ngay sau đó.

Ngày 4-1-2003, Văn pḥng II Viện Hóa Đạo GHPGVNTN đă tổ chức Đại hội Văn hóa Phật giáo Việt Nam tại San Diego, bang California, Hoa Kỳ. Trong một nghị quyết được thông qua trong Đại hội, với nhận thức qua quá khứ lịch sử 2000 năm qua, từ cuộc xâm lăng đến từ phương Bắc rồi phương Tây, nền Văn hóa Phật giáo do tính chất trí tuệ và sự đóng góp ḥa hài, hỗ tương với nền văn hóa dân tộc, nên luôn luôn bị các thế lực ngoại lai d́m đè, hăm hại, tiêu diệt, qua nỗ lực đồng hóa và nô dịch hóa nếp sống con người Việt vào với nền văn hóa ngoại xâm của chúng ; rồi ngày nay, mối hiểm nguy của nền văn hóa ngoại lai Mác - Lê đang hoành phá truyền thống văn minh Việt Nam, thui chột tinh thần của tuổi trẻ Việt Nam; nền văn hóa ngoại lai Mác - Lê này chủ trương đấu tranh giai cấp, gây kỳ thị, chia rẽ con người và xă hội, dựng lên hai đẳng cấp thống trị và bị trị, bạn và thù xung đột cố tín trong đời sống quốc gia ; và bằng một chủ trương nô dịch đă thành quốc sách của Đảng và Nhà nước CSVN như thế, chế độ Xă hội chủ nghĩa Việt Nam đă đi ngược lại nếp sống khoan ḥa, t́nh nghĩa, nhường cơm sẻ áo và âu lo cho hạnh phúc toàn dân theo truyền thống dân tộc có tự ngh́n đời. Do đó Đại hội đưa ra một nghị quyết 8 điểm nhằm quyết tâm bảo tồn trong ư thức dung hóa, phát huy trong nỗ lực tiến bộ và sáng tạo nền Văn hóa Việt Nam và Phật giáo trong sinh hoạt cộng đồng người Việt ở hải ngoại đồng thời với cuộc giao lưu văn hóa toàn cầu. Trong dịp này, TT Thích Tuệ Sỹ cũng đă gửi phổ biến bài thám luận với đề tài "Văn minh tiểu phẩm" nêu thẳng vấn đề được Thượng toạ cô động qua h́nh ảnh nguy hiểm cho nền văn hoá PG: "Phật giáo tại miền Bắc chỉ tồn tại trên một h́nh thức như một tổ chức chính trị. Nói một cách tượng h́nh, nó chỉ hiện diện như một cái cúc áo cài trên bộ đại cán mỗi khi các lănh đạo xuất hiện trước cộng đồng thế giới mà không bị "hở lưng".... "Những ǵ mà Phật giáo tại miền Nam đă làm được trong suốt thời kỳ chiến tranh và chia cắt, nay chỉ c̣n là những hoài niệm trong trí nhớ với nhiều tiếc nuối của thế hệ lớn tuổi. Tầng lớp trẻ hầu như không biết ǵ nhiều về quá khứ đó. Chỉ mới trong khoảng chưa đầy 30 năm thôi, mà một quá khứ đáng tự hào của Phật giáo Việt Nam trong ḷng dân tộc đang bị quên lăng, và đang có nguy cơ biến mất. Với ư nghĩa biến mất, chúng ta muốn nói đến sự biến chất. Bởi v́, dưới phương châm "Đạo pháp, Dân tộc và Chủ nghĩa Xă hội", Phật giáo Việt Nam sẽ không tồn tại và trưởng thành như đă từng trong quá khứ".

Ngày 4-3-2003, sau cả tháng gây khó dễ và không cho đưa H.T Thích Huyền Quang vào Sài G̣n giải phẩu khối u trên mặt theo khuyến cáo của bệnh viện Quảng Ngăi, nhà cầm quyền CSVN cuối cùng quyết định chuyển H.T Huyền Quang ra Hà Nội để điều trị. H.T Huyền Quang liên lạc điều động TT. Thích Tuệ Sỹ, TTK Viện Hoá Đạo cùng ra Hà Nội trong chuyến đi chữa trị này.

Ngày 6-3-2003, sau khi giải phẩu khối u và đưa về pḥng điều trị, ông Phạm Thế Duyệt, chủ tịch MTTQ/CSVN đến thăm H.T Huyền Quang và ngỏ ư mời H.T. đến thăm Mặt Trận. H.T nhận lời với điều kiện "chính phủ phải trả lời cho rằng GHPGVNTN có tội ǵ với đất nước mà bị cấm hoạt động?". Ngày 7-3-2003, phái đoàn đại diện Hội Đồng Trung ương GHPGVN do H.T Thành Tứ hướng dẫn cùng các Thượng toạ ở chùa Quán Sứ đến thăm H.T Huyền Quan tại bệnh viện.

Ngày 12-3-2003, Đại diện phái đoàn Ủy hội Châu Âu tại Việt Nam đến thăm hỏi H.T Huyền Quang. Công an ra lệnh cho nhân viên và bác sĩ bệnh viện gây cản trở cuộc thăm hỏi., cũng như t́m cách quấy nhiểu ông Watson, đệ nhị bí thư ṭa Đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội đến thăm sau đó.

Ngày 13-3-2003, phái đoàn Ủy hội Âu Châu đă mời đón T.T Thích Tuệ Sỹ, Tổng thư kư GHPGVNTN về trụ sở Liên Hiệp Âu Châu để họp trao đổi t́m hiểu t́nh trạng khó khăn và bị nhà cầm quyền trù dập từ bấy lâu nay.

Ngày 25-3-2003, nhà cầm quyền CSVN lại t́m cách khống chế khủng bố phái đoàn GHPGVNTN bằng cách cô lập H.T Thích Huyền Quang với tất cả các thành viên trong phái đoàn và cả các thị giả có nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ cho H.T đang tạm trú tại chùa Kim Liên, buộc các thành viên phải rời Hà Nội. Ngày 28-3-2003, sau nhiều ngày t́m cách liên lạc tiếp cận H.T Huyền Quang để biết rơ t́nh trạng sức khoẻ của Ngài, nhưng không được, T.T Thích Tuệ Sỹ phải gởi công bố một thư khẩn thông báo t́nh h́nh giam giữ Hoà thượng được "ngụy trang bằng cách biến nhà chùa thành nhà giam." của nhà cầm quyền Hà Nội.

Ngày 2-4-2003, trong khi mọi người chú trọng theo dơi chuyến đi chữa bệnh của H.T Thích Huyền Quang tại Hà Nội, cùng với kiến nghị về vấn đề pháp lư của GHPGVNTN đặt ra cho chính phủ CSVN và MTTQ, không thể né tránh nên Thủ tướng CSVN Phan Văn Khải đă thu xếp tiếp kiến H.T Huyền Quang, một người tù lương tâm không tội suốt 21 năm ṛng ră, nhưng không quên tuyên truyền coi đây là những bước đi tự do hóa dần để vận động các nước tự do.

Ngày 4-4-2003, Đại sứ Hoa Kỳ Raymond F. Burghardt tại Hà Nội đến chùa Kim Liên thăm vấn an H.T Thích Huyền Quang và cho biết Hoa kỳ luôn quan tâm và không ngừng can thiệp với nhà cầm quyền CSVN trả tự do cho H.T Huyển Quang và H.T Quảng Độ.

Ngày 7-4-2003, H.T Huyền Quang trở về và ghé Huế thăm các chùa và chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử tại đây. H.T Huyền Quang được chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử tiếp đón rất trọng thể mà không bị ngăn cấm nhứ trước đây, mặc dầu việc theo dơi quản chế chưa giải toả. Sau đó, ngày 9-4-2003, H.T Huyền Quang trở về B́nh Định, ở Tu viện Nguyên Thiều, nơi cư trú mới theo sự chỉ định của nhà cầm quyền CSVN.

Ngày 2-5-2003, sau nhiều trở ngại ngăn cản, H.T Huyền Quang cũng được công an hộ tống vào Sài G̣n và được chỉ định trú ngụ tại chùa Ấn Quang (Ban trị sự Thành hội GHPGVN). Ngày 4-5-2003, H.T đến thăm Tu Viện Quảng Hương Già Lam ở G̣ Vấp.

Ngày 5-5-2003, mặc dầu bị Ban Tôn Giáo TP. Sài G̣n ngăn cản, nhưng H.T Huyền Quang nhất quyết đến thăm H.T Quảng Độ tại Thanh Minh Thiền Viện sau nhiều năm bị ngăn cách. Trong thời gian này, H.T Huyền Quang cũng thăm viếng các H.T Thích Trí Quang, Thích Trí Tịnh và nhiều Tăng Ni Cư sĩ các chùa, viện tại Sài G̣n trong thời gian này.

Ngày 6-5-2003, H.T được đưa đến gặp tiếp kiến với Chủ tịch UBND Thành phố HCM, ông Lê Thanh Hải. Trong buổi tiếp kiến, H.T lại đặt vấn đề là "Giáo hội PGVNTN có tội t́nh ǵ mà không cho hoạt động?". Sau đó, ngày 7-5-2003, H.T Huyền Quang đă gặp H.T Quảng Độ lần thứ hai tại Thanh Minh Thiền Viện để đàm đạo những vấn đề liên quan đến Giáo hội.

Ngày 9-5-2003, bà Emi Yamauchi, Tổng lănh sự Hoa Kỳ tại Sài G̣n, đă đến thăm viếng H.T tại chùa Ấn Quang và trao đổi riêng một số vấn đề liên quan đến GHPGVNTN. Và sau đó, ngày 21-5-2003, H.T Huyền Quang lại gặp H.T Quảng Độ lần thứ ba để bàn thảo việc quản chế H.T Quảng Độ, và đưa ra chương tŕnh tái tổ chức chỉnh đốn lại nội bộ GHPGVNTN để đi đến việc thống nhất Phật Giáo.

Ngày 17-6-2003, một phái đoàn thuộc Tổng lănh sự Hoa Kỳ đă viếng thăm Tăng đoàn Thừa Thiên-Huế/ GHPGVNTN t́m hiểu ghi nhận những khó khăn của GHPGVNTN đang bị ngăn cấm trù dập từ bấy lâu nay.

Ngày 27-6-2003, trước sự lưu tâm và phản đối quyết liệt của dư luận quốc tế, nhà cầm quyền CSVN chính thức chấm dứt việc quản chế H.T Viện trưởng Viện Hóa Đạo Thích Quảng Độ. Ngay sau khi chăm lo sức khoẻ sau thời gian dài bị cô lập bởi lệnh quản chế, H.T Viện trưởng VHĐ tiếp tục bắt tay ngay vào việc chấn chỉnh phục hoạt Giáo Hội PGVNTN.

Ngày 8.7.2003, H.T Viện Trưởng VHĐ đă viết thư đệ tŕnh lên Hội Đồng Lưỡng Viện về t́nh h́nh GHPGVNTN đang bước sang trong giai kỳ mới. H.T Thích Huyền Quang, Xử Lư Thường Vụ Viện Tăng Thống, đă triệu tập phiên họp Lưỡng Viện tại chùa Nguyên Thiều, B́nh Định, vào các ngày 16 và 17 tháng 7 với sự hiện diện của hai vị lănh đạo tối cao Giáo Hội để giải quyết những vấn đề cấp bách, bổ sung nhân sự chấn chỉnh lại Giáo Hội. Theo quyết định của Hội Đồng Lưỡng Viện, và v́ t́nh h́nh Giáo Hội trong nước chưa đủ thuận duyên, nên Viện Tăng Thống đă ra giáo chỉ số 04/VTT/XLTV gửi đến Ḥa thượng Thích Hộ Giác, Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo kiêm Chủ tịch Hội đồng Điều hành Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ - Văn pḥng II Viện Hóa Đạo, chỉ định "Văn pḥng II Viện Hóa Đạo cấp tốc triệu tập Đại hội này trong thời gian nhanh nhất ở hải ngoại"

Ngày 17, 18 và 19.9.2003, Đại lăo Ḥa thượng Thích Huyền Quang đă triệu tập một cuộc họp của Hội đồng Lưỡng viện, mời chư Tăng về họp bàn việc chấn chỉnh nội bộ GHPGVNTN. Công an ở các địa phương đă gây khó khăn bằng cách cản trở và cấm đoán các Phái đoàn chư Tăng lên đường. T́nh h́nh trở nên căng thẳng và trầm trọng từ nhiều tuần lễ trước đó với những bài viết vu khống và mạ lỵ hàng giáo phẩm và thành viên cao cấp thuộc Giáo hội PGVNTN được tung ra khắp nơi, gửi qua đường Internet và bưu điện tới các chùa, các cơ sở Phật giáo trên toàn quốc cũng như ở hải ngoại. Các chư Tăng đại diện Giáo hội ở Thừa Thiên - Huế, Quảng Trị và Saigon bị Công an tra hỏi và răn đe, như trường hợp HT Thích Đức Chơn, TT Thích Thanh Huyền, TT Thích Viên Định, TT Thích Nguyên Lư tại Sài G̣n; HT Thích Đổng Minh tại Nha trang; HT Thích Minh Tuấn tại Đà Nẵng... Nghiêm trọng nhất là tại Quảng trị và Huế. Tại Quảng trị, Công an đă cấm các xe khách chở TT Hải Tạng, sau đó áp tải Thượng tọa đưa trở về chùa giam lỏng và đặt an ninh canh gác ngay tại chùa, không cho phép di chuyển đi bất cứ đâu. Tại Huế, các tài xế bị Công an cấm không được hợp đồng chở các Thầy đi B́nh định. Khi có một tài xế không biết nên nhận lời, nhưng đi đến đèo Hải Vân th́ nhận được lệnh của Công an phải quay trở lại bỏ các vị trơ trọi ngay tại đèo. Sự nhẫn tâm này không thể chấp nhận được đối với hai vị Ḥa thượng trên 70 tuổi.

Ngày 22.9.2003, HT Viện trưởng VHĐ đă gửi một kháng thư cho thủ tướng CSVN Phan Văn Khải, đặt vấn đề công an địa phương khủng bố và ngăn chận không cho chư Tăng về chùa Nguyên Thiều để họp bàn việc chấn chỉnh nội bộ GHPGVNTN theo lời triệu mời của H.T Thích Huyền Quang. Trước những biến chuyển thuận lợi, một tuần sau đó, Hội Đồng Lưỡng Viện đă tái họp với sự hiện diện của hơn 80 chư tăng các nơi tựu về. Hội Đồng lưỡng Viện đă thông qua việc bổ sung nhân sự thuộc hàng Giáo phẩm vào hai Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạo, đồng thời suy tôn H.T Thích Huyền Quang là đệ tứ Tăng Thống của GHPGVNTN.

Ngày 8.10.2003, từ mờ sáng khi xe riêng của Giáo hội từ Saigon ra đưa Đại lăo Ḥa thượng Thích Huyền Quang và Ḥa thượng Thích Quảng Độ cùng chư Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ, Thích Thanh Huyền, Thích Nguyên Lư, Thích Minh Hạnh, hai Đại đức Thích Nguyên Vương, Thích Đồng Thọ... đi Saigon, xe vừa rời khỏi Tu viện Nguyên Thiều chừng 200 thước, th́ công an cho một chiếc xe nằm chắn ngang cản lối và tổ chức một nhóm khoảng 20 người nói là "quần chúng nhân dân" bao quanh xe ngăn chận, vỗ vào cửa kiến yêu cầu Đại lăo Ḥa thượng Thích Huyền Quang "đừng đi Saigon, xin hăy chở về chùa...", đồng thời phá x́ 4 lốp xe. Tất cả chư Tăng quyết định ngồi yên trong xe để phản đối. Ḥa thượng Huyền Quang quyết định sẽ không rời xe đi đâu hết, và tuyên bố "tuyệt thực để phản đối sự vi phạm tự do đi lại của chư Tăng Phật giáo. Tất cả chúng tôi sẽ ngồi trong xe này cho đến khi công an giải tỏa đường sá...". Đến trưa, dân chúng Phật tử và gần 200 Tăng ni tại B́nh Định hay tin kéo đến đông đảo để bảo vệ nhị vị Hoà thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ và chư Tăng đang ngồi an tọa trong xe, ngăn cản không cho công an kéo chiếc xe về Tu viện Nguyên Thiều như họ ra lệnh. Không làm ǵ được trước khối quần chúng Phật tử đông đảo quyết tâm bảo vệ hàng Giáo phẩm lănh đạo của họ. Một phái đoàn của nhà nước đến xin gặp Đại lăo Ḥa thượng Thích Huyền Quang để thương thảo "làm việc". Cuối cùng, vào buổi chiều cùng ngày công an đă phải nhượng bộ để phái đoàn lên đường đi vào Sài G̣n.

Ngày 9.10.2003, quá mệt mỏi v́ sự việc xẩy ra kéo dài suốt ngày trong điều kiện thời tiết nóng bức, cũng như để ngăn ngừa bất trắc trong đêm tối, xe phái đoàn đă tạm dừng chân trú ngụ qua đêm tại chùa Linh Sơn ở Vạn Giả, phiá bắc tỉnh Khánh Hoà. Lúc 7 giờ sáng ngày 09.10, phái đoàn tiếp tục lên đường, nhưng vừa rời khỏi điểm khởi hành chưa đầy 50 cây số nơi địa điểm hẻo lánh th́ xe bị chận bắt tại đồn công an Lương Sơn, khoảng gần đèo Rù Ŕ,. Công an lấy cớ rằng t́nh nghi trên xe có chở hàng lậu, và bắt tất cả 11 vị trên xe c̣ng tay áp giải chuyển qua xe bít bùng đem đi. Tin tức được loan truyền, cùng lúc Viện Hóa Đạo II/ GHPGVNTN tại Úc đang chuẩn bị cho Đại hội bất thường, thư khẩn báo gửi đi khắp nơi cho các tổ chức nhân quyền, truyền thông ngoại quốc và các toà đại sứ các nước yêu chuộng tự do nhân quyền tại VN. Đại diện Tổng Lănh sự Mỹ quan tâm liên lạc t́m hiểu. Trước phản ứng bất lợi, nhà cầm quyền đă vội đưa các vị lănh đạo Giáo Hội về cô lập riêng và quản chế giam lỏng tại các chùa và tu viện nơi cư ngụ. Đồng thời tiếp tục chính sách triệt hạ Giáo hội PGVNTN, công an mở chiến dịch liên tục càn quét các chùa liên hệ Giáo Hội PGVNTN, bằng cách xâm nhập ruồng bố xét hộ khẩu trục xuất và làm khó dễ các tăng sĩ giáo hội, năng nề nhất là các chùa ở Thừa Thiên - Huế. Riêng T.T Thích Tuệ Sỹ, nhà nước đă vội lập ra cái ṭa "nhân dân đấu tố" để kết án quản chế hành chánh 2 năm ngay trước khi áp tải về chùa Già Lam.

Ngày 10.10.2003, ngay khi được khẩn báo các tổ chức tranh đấu nhân quyền và chính giới quốc tế đă lưu tâm theo dơi và lên tiếng phản đối nhà cầm quyền CSVN. Trong một lá thư  chung kư gửi các lănh đạo CSVN ngày 10.10.2003, 6 Dân Biểu Hoa Kỳ đă bầy tỏ sự quan tâm sâu xa về sự an nguy về  việc đàn áp bắt giữ các vị lănh đạo GHPGVNTN và yêu cầu hăy ngưng mọi sự đàn áp và bắt bớ đối với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và những người lănh đạo giáo hội.

Các ngày 10, 11 và 12. 10.2003, Đại hội Bất thường theo lệnh của Giáo hội trong nước do Văn pḥng II Viện Hóa Đạo kết hợp tổ chức đă diễn ra long trọng tại Tu viện Quảng Đức, trong không khí khẩn trương Giáo Hội bị khủng bố đàn áp tại VN. Đại hội được tổ chức nhân dịp Đại lễ khánh thành cơ sở của Giáo hội là Tu viện Quảng Đức tại thành phố Melbourne, Úc châu, do Thượng tọa Thích Tâm Phương làm Viện chủ. Đại hội đă thảo luận về  đường lối hoạt động của GHPGVNTN ở trong và ngoài nước vào khúc quanh mới của t́nh h́nh,và xu thế mới của thế giới liên quan đến VN. Đặc biệt là vấn đề chấn chỉnh nội bộ và bổ sung nhân sự. Đại hội cũng đă long trọng làm lễ suy tôn đức đệ Tứ Tăng Thống và chư tăng thuộc hàng Giáo phẩm vào hai Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạo.

Sau 3 ngày, ĐH đă đồng thanh Quyết nghị: "Toàn thể Chư Tôn Đức lănh đạo Giáo Hội tại các châu và đồng bào Phật Tử nhất tề  đứng sau lưng Hội Đồng lưỡng viện GHPGVNTN  kiện toàn giáo hội phát huy chánh pháp , phục hồi quyền sinh hoạt của giáo hội PGVNTN và yêu cầu nhà cầm quyền VN thực thi tức khắc hoàn trả cơ phận của giáo hội  bị chiếm dụng  sau năm 1975, trả tự do cho tất cả các tăng ni phật tử hiện c̣n bị giam cầm, quản chế v́ lư do hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng , đồng thời Tu sĩ Phật gíáo quyết tâm xây dựng một xă hội ôn ḥa  phát huy dân chủ ... phát huy tinh thần từ bi, trí huệ  lên các  lănh vực văn hóa, giáo dục, kinh bang tế thế, và chú tâm  đào luyện thế hệ trẻ ở hải ngoại ....."