|
Hành lang Đông Tây Xuyên Á qua quốc lộ số 9 nối Đà Nẳng - biển Đông Việt Nam với Mawlamyine gần biển Adaman, Myanmar (Miến Điện)
|
G S Tôn Thất Tŕnh
|
Một chút lịch sử : “Vương Quốc “ Quảng Nam bao gồm gần hết 4 tỉnh đường Hành Lang này.
Năm 982 vua Lê Đại Hành- Tiền Lê, sau khi đánh bại hai đạo quân nhà Tống: thủy của tướng Lưu Trừng ở gần sông Bạch Đằng, bộ của tướng Hầu Nhân Bảo ở ngă Ôn Châu, cất đại quân chinh phạt Chiêm Thành, chém.chết trận tiền vua Paramec Vara Varman, sử ta gọi là Tùy Mi Thuế, tại vùng B́nh Trị Thiên, bắt sống hàng mấy vạn binh lính Chiêm. Sau đó tiến phá thành b́nh địa kinh đô Chăm Đồng Dương - Indrapura - Quảng Nam, có khu Mỹ Sơn vô cùng tráng lệ, văn minh Ấn Độ giáo, thiết lập khỏang thế kỷ thứ 7, cách cảng Hội An chừng 25 km về phía tây. Vua Lê Đại Hành chia quân đánh các nơi xung yếu của Chiêm Thành đến tận Vijaya – Đồ (Chà) Bàn tỉnh B́nh Định, và lưu lại một đạo trú pḥng chiếm đóng phần phía Bắc nước Chiêm thành, từ Ḥanh Sơn đến Mũi Đèo Cả- Cap Varella. Vua kế vị Tuỳ Mi Thuế phải chạy trốn vào Phan Rang - Panduranga . Đến năm 990, vua Tiền Lê mới chịu nghị ḥa, rút quân khỏi châu Địa Lư, đem về giữ châu Bố Chính. Thuận theo chiếu vua Tống Thái Tông, Trung Hoa, quyết tâm ngăn cản Đại Cồ Việt [ tên nước Việt Nam thời vua Đinh Tiên Ḥang (Đinh Bộ Lĩnh) thủ đô là Hoa Lư, không cho Đại Cồ Việt ] thôn tính Chiêm Thành gửi cho Vua Lê Đại Hành, khi nhà Tống phong vua Lê làm Kinh Triệu Quận Hầu. Nhưng sau đó, năm 992 , Vua Lê lại sai Phụ Quốc Ngô tử An đem 3 vạn người mở đường bộ dọc theo bờ biển từ của Nam Giới (Cửa Sót ở Hà Tĩnh) vượt Đèo Ngang và xuyên suốt châu Bố Chính đến thẳng châu Địa Lư miền giữa Quảng B́nh . [77 năm trước khi Chế Củ dâng 3 châu Bố Chính, Địa Lư và Ma Linh năm kỷ dậu 1069, đời vua Lư Thánh Tôn] .
Đà Nẳng là tên Việt Nam của Đa Nak , có nghĩa là Cửa sông Cái, một phụ lưu sông Thu Bồn, sông dài nhất tỉnh Quảng Nam, trên 200 km . Sông Cái bắt nguồn từ vùng biên giới Lào – Việt , nhập chung với sông Thu Bồn ở huyện Đại Lộc. Một khúc sông Cái ở huyện Giằng tên là sông Bung và sông Tranh cũng là phụ lưu lớn của sông Thu Bồn, chảy qua các huyện Trà Mi, huyện Hiệp Đức vùng mỏ than An Ḥa – Nông Sơn . Cảng sông Cái thời Chiêm Thành thật ra là ở cửa biển Hội An . Đời nhà Trần, cảng Hội An đă là một nơi buôn bán sầm uất. Nhưng xây dựng thị trấn cảng Hội An biển Đông, chỉ mới thật sự xảy ra, khi Chúa Tiên Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng được chúa Trinh Kiểm bổ nhiệm làm tổng trấn Thuân Hóa, thu phục được tổng trấn Quảng Nam bộ hạ nhà Mạc, thiết lập giao thương với các nước Âu Á ở vùng biển Hội An, cách Đà Nẳng 30 km về phía Nam. V́ Chúa Tiên muốn Đàng Trong độc lập, khỏi phụ thuộc cảng sông là Phố Hiến –Kẻ Chợ miền Bắc và được các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha ủng hộ. Tuy nhiên Cửa Đại (Đại Chiêm) sông Thu Bồn chảy ra biển Hội An, bị bồi lấp cạn dần. Các vua Chúa Nguyễn Phước đă dần dần chuyễn cảng Hội An về vùng sông Hàn (tùy khúc có tên là sông Cẩm Lệ, sông Hà Thân ), về Đa Nak, Đà Nẳng; tên thời Pháp thuộc là Tourane . Sử ta đă chép là từ năm 1535, các giáo sĩ Âu Châu đă đến Tourane giảng đạo. Năm 1625, Alexandre de Rhodes người đầu tiên la mă hóa chữ nôm thành chữ Việt, quốc ngữ, đặt chân lên Đa Nak - Đà Nẳng. Năm 1847, tàu chiến Pháp đă đánh phá Đà Nẳng, gặp sư chống trả dữ dội của hải quân nhà Nguyễn, thời vua Tự Đức. Năm 1847, đô đốc Rigault de Genouilly cũng lại tấn công Tourane, nhưng bất thành, phải rút lui tàu chiến vào Nam, chiếm Sài G̣n, pḥng thủ yếu kém hơn Đă nẳng - Huế nhiều. Các địa danh , phong cảnh hửu t́nh khu vực Đà Nẳng, nay là những điểm du lịch đẹp đẽ thanh lịch, không kém Nha Trang- Vũng Tàu, đă được phổ cập từ lâu qua các câu thơ : Đứng bên đất Hàn , Ngó qua Hà Thanh, xanh như tàu lá, ( Hà là Hà Trung , Hà Trữ…, Thanh là Thanh Lam –ThủyTú ….) Đứng bên Hà Thanh, Ngó qua bên Hàn , phố xá nghênh ngang Em đứng nơi cửa sông Hàn, Ngó sang bải biển Tiên Sa, Ngũ Hành Sơn ở trên, Mũi Sơn Trà ng̣ai khơi, Nghe chuông chùa Non Nước ….
Vua Thiệu Trị đă gọi Hải Vân là ‘Đệ Nhất Hùng Quan’, đủ cao độ ‘đầu phủ mây trời, chân dầm nước biển’, để phân chia khí hậu phía Bắc, phía Nam đèo này, như Tản Đà nhận xét : Hải Vân đèo lớn vừa qua, Mưa Xuân ai bổng đổi ra nắng hè. Người Đă Nẳng ai lại chẳng xác định rằng : «Quê ta có dăi sông Hàn, có ḥn Non nước có hang Sơn Trà ». Bán đảo Sơn Trà trước là một đảo ven bờ, nơi dăy núi Bạch Mă nhô ra biển, với thời gian đảo đă nối đất liền, có ba ngọn núi chồm chổm như con Nghê, khoằm khoằm như Mỏ Diều hay vươn dài như Cổ Ngựa.
Tiến về Tây sau khi hoàn thành quốc lộ Xuyên Á, phát triển kinh tế xă hội một khúc đọan nghèo khổ kinh niên của bốn nước phụ vùng hạ lưu sông Mê Kông nới rộng- Greater Mekong Sub Region : Việt Nam , Lào, Thái Lan, Miến Điện .
Hành lang Kinh tế Đông Tây - East West Economic Corridor EWEC, dự trù sẽ ḥan tất cuối năm 2008 ( ? ), nối thành phố Đà Nẳng với biển Adaman ở Miến Điện – Myanmar . Hành lang EWEC dài 1450 km, do Ngân Hàng Phát triển Á Châu AsDB quan niệm lâp chương tŕnh năm 1992 và đến năm 1998 cách đây 10 năm, khởi sự công tác với dự trù chi phí lên đến 1.7 tỉ đô la , trong đó số vốn cho vay lớn nhất là của Ngân Hàng Hợp tác Quốc tế Nhật, chiếm 1/3 tổng kinh phí. Mục đích phát triển vùng trung lưu sông Cửu Long bốn nước Việt Nam, Lào, Thái Lan và Miến Điện, mà không đi ngang qua 4 thủ đô là Hà Nội, Viêng Chang (Vạn Tượng), Vọng Các (Bangkok) và Ran gun (Rangoon). Trước đây muốn đi từ Huế đến Savannakhet ( trên bờ sông Mê kông ) phải mất trọn một ngày đêm. Tháng 7 năm 2007, đă có thể ăn điểm tâm ở Huế, ăn trưa ở Savanakhet- Lào, rồi vượt cầu Hửu Nghị Trung Quốc thiết lập trên bờ sông Mê Kông Lào Thái, để ăn cơm tối tại Khon Kaen , Thái Lan . Đường hầm Hải Vân thực hiện xong sau 4 năm khởi công , khánh thành ngày 5 tháng sáu năm 2005, phí tổn 150 triệu đô la Mỹ, c̣n nối liền mau chóng cảng Đà Nẳng với các thị trấn kể trên . Thật sự th́ quan nịệm Hành lang Kinh tế này đă manh nha ở hội nghị phát triển kinh tế, xă hội Á châu – ESCAP, thập niên 1960 , ở Sài G̣n,Việt Nam Cọng Ḥa danh dự tổ chức. Hội nghị phải nói tiếng Anh, dù Việt Nam lúc đó giỏi Pháp ngữ hơn Anh Ngữ .Hội Nghị ESCAP 1960, đề nghị một đề án đường xe lửa Xuyên Á TransAsian Railway Project TAR, nối liền Singapore với Tô Cách Lan – Scotland , Anh Quốc, dài 81 000 km , xuyên qua 32 quốc gia Á Châu đến Âu Châu, phía đông là Ấn Độ và Trung Quốc , phía tây là Âu Châu. Mệnh danh là Đường Tơ Lụa Sắt ( Mới )– Iron Silk Road . C̣n dài hơn cả đường xe lửa Xuyên Tây Bá Lợi Á – TransSiberian ở Nga, chỉ dài 9288 km, nối thủ đô Moscow đến cảng Vladivostock, Bắc Thái B́nh Dương . Hiện nay đă có 18 nước kư thỏa ước chấp thuận đề án trong số này có Việt Nam. Ấn Độ mô phỏng con đường gọi là Stillwell Road ở Miến Điện thời Thế chiến thứ II; tên Trung Quốc lại là Tea House Road . Năm 2004, hội nghị ESCAP tại Thượng Hải, đề nghị thành lập thêm đề án Xa Lộ số 1 Á Châu – Asian HighWay 1, c̣n dài hơn đường xe lửa TAR nữa, đến 140 000 km . Phía đông là Nhật khởi đầu từ Tokyo, xuyên qua Nam - Bắc Hàn, phía tây là Thổ Nhĩ Kỳ đến Istanbul và Phần Lan , và phía nam là Inđônexia. Đọan Đông Nam Á dài 12 600km nối Singapore với Côn Minh, thủ đô tỉnh Vân Nam
Chiến tranh đă làm phát triển chậm trễ đoạn đường Đà Nẳng – Lao Bảo phía Việt Nam và đọan đường phía Lào, từ cửa khẩu Dansavan đến thị trấn Savanakhet .
Chúng tôi đă nói đến phát triển yếu kém phát triển nguồn tài nguyên nước vùng Trường sơn Tây phía Việt Nam và Lào, so vói những công tŕnh thủy lợi và thủy điện bên kia bờ sông Mekong, phía Thái Lan. Trong khi Việt Nam nổi danh « bất đắc dĩ » một cách đau khổ cho dân ta, v́ các trận chiến khốc liệt Cồn Tiên. Lang Vay, Tà Côn, Khe Sanh , A Sao , A Lưới… , từ thập niên 1970 đến thập niên 1990 , Thái Lan tuần tự phát triển mạnh mẽ các đập thủy điện và thủy nông ở Nậm Chern (tuới 8000 ha), Pak Mun (tưới 7160 ha) Nậm Loei (tưới 9272 ha) , Thượng (Upper) Chi (tưới 6200 ha) Maekhorn (tưới 5000 ha) Huai Pathao (tưới 4220ha) Huai bang Sai (tưới ? ), các đập thủy nông Nậm Sông Khram (tưới 45 568 ha), Nậm Suai (giai đọan 1 tưới 12 556 ha) , Nậm Suai (giai đoan 2 tưới 5200ha ), Thượpg (Upper) Hai Mong (tưới ? ha). Quốc tế lại chận đứng, nêu nhiều lư do nghiêng về chính trị cường quốc, tuy dưới danh nghĩa « bảo vệ môi sinh » , cản trở đầu tư thực hiện các dự án công tŕnh thủy điện Lào - Việt trong vùng như Nậm Thueum 1, 2, 3 ( gần Nậm Sông Khram ) Xê - Se Bang Phai gần Huai Bang Sai , Xê- Se Bang Hiêng, Sedon , gần Mun Chi … Mới đây ( năm 2007 ? ) chỉ khởi công làm đập thủy điên A Sap trên nguồn Sông Bồ và sông Hương (? ) . Không biết bao giờ làm đập Tân Lâm – Rào Quán , đem nước tuới tiêu đồi núi Cam Lộ , Cùa , đồng bằng Thạch Hản – Quảng trị , bổ sung đập nhỏ Triệu Phong . Đem điện về thắp sáng, cung cấp nước ngọt mùa nắng, và phát triển công nghiệp Cam Lộ , Đồng Hà, Quảng Trị, Cửa Tùng , Cửa Việt, e có khi cả Đồng Hới nữa . Một khuyết điểm lớn khác là khu hậu cứ Quảng Nam, nhiều mưa, nhiều sông thác nguồn, lại không thấy có dự kiến đập thủy điện, và thủy nông nào đủ sức tưới tiêu cứu hạn các đồng bằng Quảng Nam , Quế Sơn , Tam Kỳ … Việc chấp thuận vào tháng tám 2007, thiết lập Hành Lang Xuyên Á Đông Tây 2 ,bổ túc EWEC 2 , thông qua Quốc lộ 14 B và quốc lộ 14 D, mở rộng cảng Tiên Sa Đă Nẳng đến Dak Tô rồi Sekong, Pakse phía Lào đến Chrongmek và Nakhon – Thái Lan, trước khi kết thúc ở thủ đô Bang Kok. Không rỏ đă có cố gắng t́m ra những vị trí đập thủy điện- thủy nông thích nghi nào mới, cho vùng « Bốn núi Ngọc » (Tứ Ngọc Đảo Tây Nguyên , đối chiếu Ngũ Hành Sơn Đà Nẳng hay Tam Đảo miền Bắc), Ngọc Linh cao nhất 2598m, Ngọc Pan 2251m, Ngoc Niay 2259m, Ngọc Krinh 2025 m, giữa Bắc Kontum và các đồng bằng Quảng Nam – Quảng Ngải, giáp ranh hai huyện Dak gley va Dak To, phát triển cao nguyên Tà Hời, cao nguyên Kon Plong, và nhất là cao nguyên Boloven, nước Lào kế cận. Có lẽ cần thực hiện nhanh chóng hơn nữa cảng container Tiên Sa, 4 cầu cảng Cửa Việt, sông sông với dự liệu ḥan tất các khu chế xuất Đà Nẳng (An Đồn, Điện Ngọc, Điện Nam, Ḥa Khánh, Ḥa Cầm, Ḥa Khương, Thủy Tú ). Ng̣ai phát triển Tứ Ngọc Đảo, sáng kiến đáng khen, xây dựng khu Nghĩ mát rông rải Konplong, thành một Đà Lạt miền Trung và Tây Nguyên , bổ sung Bạch Mă , Bà Nà thời Pháp thuộc c̣n quá nhỏ bé, v́ hai trung tâm nghĩ mát Bạch Mă và Bà Nà, chỉ dự trù cho các « quan cai trị Pháp », thay v́ cho lớp trung lưu Việt Nam, Lào và ngay cả Đông Bắc Thái Lan đang có cơ hội dâng lên, nếu Việt Nam phát triển mau lẹ hơn ,đuổi kịp các con Rồng Dông Nam Á nay mai .
Tăng gia khảo sát và khai thác năng lượng khóang sản , quặng mỏ quanh vùng
Nguyên tổng cục trưởng tổng cục dầu lửa và khóang sản Trần văn khởi, thời Việt Nam Cọng Ḥa cho biết, hai vùng sa thạch Hạ Lào có nhiều vết thấm dầu lửa , nhưng đào sâu đến 174 m ở quốc lộ số 9 đường Xuyên Á Đông Tây này phía bắc Huế năm 1935 không kết quả. Nhưng nay đă có những phương tiện khảo sát địa chấn, trọng trường , từ trường v.v… t́m dầu tân tiến hơn , cũng như phương tiện khoan giếng sâu hơn , hầu khai thác được dầu các vịnh- biển cổ xưa lọt trong đất lục địa, tưởng cũng nên cố gắng đầu tư , khảo sát thêm năng lượng đầu khí vùng này . Ít nhất là cũng có thể t́m ra nhiều mỏ dầu khí thiên nhiên , như đă Thái Lan đă thành công thập niên 1990, t́m ra nhiều dầu khí ở vùng Nậm Phong, tỉnh Khon Kaen, cao nguyên Korat , Đông Bắc Thái lan, cùng một vĩ tuyến với Savannakhet, Quảng Trị - Đông Hà. H́nh như hảng dầu Pháp Agip ( có Petro Việt tham gia ) đang xúc tiến t́m dầu và khí dầu ở gần thị trấn Champassak , Hạ Lào phía Nam vùng này ; sa cấu, sa thạch có thể chứa dầu như nội địa Algeria chăng? ChiếnTranh cũng đă ngăn cản việc khảo sát t́m thêm khóang sản vùng đồi núi Quảng Nam, Quảng Ngải, Kon Tum, Gia Lai . Không rỏ mỏ than An ḥa Nông Sơn có t́m được các tầng than đá mới không ? H́nh như Việt Nam đă quyết định thiết lập nhà máy nhiêt điện chạy than đá Nông Sơn, trước đây chỉ làm than quả bàng thay thế than củi, than hoa, phá tan mọi rừng nhiệt đới liên hê. Lào đă khai thác mỏ đồng Sepone, xuất khẩu qua Đà Nẳng. Sao chưa thấy khai thác các mỏ đồng nicken, mỏ vàng Bồng Miêu, Trà Dương tỉnh Quảng Nam, mỏ graphit Tam Kỳ , và mỏ bauxit Krong Nừng, tỉnh Gia Lai kế cận ? …
Phát triển nông nghiệp vùng đồi núi , thung lũng , không phải chỉ chú trọng tăng gia mùa vụ , tăng gia năng xuất lúa gạo các đồng bằng ven biển qúa nhỏ hẹp
Vùng quanh quốc lộ số 1, số 9, 14 B, 14D đa số là vùng đồi núi, cao nguyên. Nông nghiệp địa phương cần hướng về phát triển kinh tế đồi núi nhiệt đới, phía Việt Nam lại mưa nhiều, khác cao nguyên Bolovens, Trường Sơn Tây hay cao nguyên đất mặn, đất muối biển sót tư cỗ xưa, nội địa Khorat Thái Lan, bên kia ḍng chánh Mê Kông. Lư do ǵ ngăn cản trà Đại lộc không phát triển được mạnh mẽ như trà Bảo Lộc sau thập niên 1950 . Tiêu Tiên Yên Vĩnh Linh, Gio Linh , Cam Lộ , Cùa , Cà Lu, Khe Sanh kiểu mới ( tỉ như nọc nọc trụ xi măng thay nọc trụ cây sống , cây chết, và xi măng nay đă sản xuất nhiều ở nhà máy Văn Xá ) thua kém tiêu Phú Quốc, Hà Tiên hay tiêu B́nh Phước Bù Gia Mập ( mà năm 195- 60 lại do một điền chủ người Huế khởi đầu ) cũng trên đất đỏ basalt. Mưa nhiều cũng c̣n là nơi thích hợp nhất trồng tiêu hột xanh ( đậu khấu Ammomum sp ), gừng … Sao không khảo cứu khuếch trương thay rừng, những cây ăn trái mới nhắm về xuất khẩu như mít nghệ và hột mít cao năng, hạch quả Brasil thích hợp cho vùng mưa nhiều , nguồn gốc Amazonia , các cây đặc thù địa phương như dâu ( ta ) Truồi cải thiện như các ḅn bon Malaysia , ḅn bon miền Namhạnh đào nhiệt đới bần ( hồng) quân , các ḷai dâu tằm ăn trái ( không phải chỉ lấy lá nuôi tằm mà thôi ), các cây dâu rượu ( Thanh Mai ) Myrica sp . có lúc đă là đặc sản rượu dâu Quảng B́nh. Vùng đồi núi Trường Sơn Tây khô hạn , gió Lào , có lẽ nên nghĩ đến nhiều hơn phát triển cao su, cà phê chè arabica theo lề lối tiểu điền cải thiện xen kẻ những cây trái giống mới cao năng hơn như na tây , đu đủ lùn kháng bệnh ṿng khảm Ấn Độ , Đài Loan, thơm dứa Smooth Cayenne , vườn giăng dây leo mâm xôi ( ré, sum ), trên đất đá vôi, sung ngot- ficus carica), giẻ bi macadamia, vườn giây leo kiwi – dương đào ruột xanh , ruột vàng , cách hạch quả , mày Carya sp ., mày châu …. Vùng mưa nhiều , có hang động nên t́m cách khuếch trương vĩ mô hơn nữa các lọai nấm ăn như nấm mỡ , nấm đông cô, nấm bào ngư… , ng̣ai nấm Linh Chi làm thuốc bổ dưỡng , trị bệnh hiểm nghèo đă khảo nghiệm thành công ở Đà Lat. Cố gắng hội nhập thêm các cây lương thực đồi núi như khoai ḿ ( sắn ), khoai mỡ ( khoai mài, khoai tía - igname- yam ) với nuôi trồng hải sản các đầm phá khu vục , chưa đươc khai thác cải thiên đúng mức bao nhiêu cả ,như đang làm ở phá Tam giang. Tuy rằng phải đặt ưu tiên chống động cát bồi, cát di chuyễn, sa mạc hóa quanh phá, quanh đầm . H́nh như khoai mỡ nuôi cá rô phi điêu hồng rất tốt và bột là khoai ḿ chứa nhiều protêin có thể làm thức ăn tốt cho cá . Nhưng cũng đừng quên phát triển những ḷai cá địa phương hạ lưu sông Mê kông nay đă thực hiện ở Thái Lan, Lào hay là lọai cá ngon xứ mát như cá mè – trout , cá hồi - salmon Phần Lan không cần giai đoan mặn ở những thung lũng , đầm lầy , đập trữ nước trong vùng .
Huế - Đă Nẳng nên tiến mạnh hơn về công nghệ tri thức
Mọi đề án phát triển quốc tế nêu trên, đều khởi đầu hay đổ về Đà Nằng. Từ một thị trấn dân số ít hơn cả Huế thời Pháp thuộc, nay Đă Nẳng đă có trên 800 000 người, sắp thành đô thị trên 1 triệu người , có sân bay quốc tế , có hê thống liên lạc vệ tinh từ lâu. Nhưng may mắn là giao thông Đă Nẳng chưa bị tắt nghẽn như Sài G̣n , Hà Nội . Tuy nhiên không chóng th́ chầy hạ tầng cơ sở Đà Nảng sẽ bảo ḥa , v́ Đà Nẳng chỉ có hạ tầng cơ sở dự liệu cho chừng 200-300 000 người . Chánh quyền đương thời đă khôn ngoan cấp một ngân khỏan đầu thầu quốc tế công khai mời các kiến trúc sư thiết kế đô thi hóa Đà Nẳng tương lai. Công việc c̣n lại là phát triển công nghiệp tri thức đặc biệt ở lảnh vực công nghệ điều khiển cybergenetics, phần cứng - phần mềm, công nghệ na nô và công nghệ sinh học - biotechnology, mà bước đầu là công nghệ hóa sinh chế tạo các thuốc tây, dược phẩm tương thích- bắt chước generics, rẽ tiền thay cho thuốc nhăn hiệu chính-brand names. Các công nghệ này luôn luôn khởi đầu bằng đào tạo, khảo cứu giáo dục cập nhật khoa học kỷ thuật đại học và hậu đại học.
Ca Li , cuối tháng 7 năm 2008
|