Raymond  Aron

 và

  tôi

 

 
 

Đ̣an Thanh Liêm, California

 


                                    

         Tôi chưa bao giờ được giáp mặt và cũng chẳng được học với vị thầy nổi danh vào bậc nhất của nước Pháp

kể từ hồi sau thế chiến thứ hai. Nhưng Raymond Aron là một tác giả đă lôi cuốn sự say mê t́m hiểu của tôi trong lănh vực triết học, xă hội học về chính trị.

 

 I -Tóm lược  Thân thế  và Sự nghiêp

( Raymond  Aron  1905 -1983)

 

            Raymond Aron sinh năm 1905, là con của vị luật sư gốc Do thái. (xin viết tắt cho gọn : RA)  

 

          Ông  là người đương thời và cũng là bạn đồng môn với Jean Paul Sartre, khi cùng theo học tại Trường Cao Đẳng Sư Phạm (Ecole Normale Superieure) ở Paris.Cả hai vị này, mỗi người mỗi vẻ, đều để lại một sự nghiệp đồ sộ, làm vinh dự cho nước Pháp vào nửa sau của thế kỷ 20. 

 

          Ngay sau khi tốt nghiệp Trường Cao Đẳng Sư Phạm, RA đă được sang bên nước Đức nghiên cứu thêm về Triết học, Xă hội học, và trở về dậy học tại một trường trung học ở miệt tỉnh. Ông đậu bằng Thạc sĩ, rồi Tiến sĩ một cách dễ dàng, và được các bạn đồng môn đánh giá là có trí thông minh vượt trội hơn cả Sartre.

 

          Vừa mới bắt đầu  lên dậy bậc Đại học, th́ chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra. Và sau khi nước Pháp bại trận năm 1940, th́ RA phải lưu vong sang nước Anh. Tại đây RA đă nhận làm chủ biên cho Tập san “La France Libre” (Nước Pháp Tự Do) do Chánh Phủ lưu vong của Tướng De Gaulle chủ trương. Hết chiến tranh, RA tham gia vô ngành báo chí và viết cho báo Le Figaro là một tờ báo vào loại hàng đầu của Pháp với lập trường “thiên hữu” Từ giữa thập niên 1970, th́ ông sang viết cho tuần báo Express. Đồng thời ông cũng dậy ở Đại học Sorbonne, Học viện Chính trị (Sciences Po.), nhưng vẫn tham gia viết báo. Có thể nói RA vừa là nhà giáo, mà cũng vừa là nhà báo.

 

           RA không những dậy học ở Pháp, mà ông c̣n được mời đi dậy ở Đức, ở Mỹ và tại nhiều nước khác nữa.Ông c̣n được mời đến dậy ở College de France (Học viện Pháp quốc) là cơ sở giáo dục bậc cao nhất của nước Pháp.Về sự nghiệp viết báo, th́ ông đă có nhiều công tŕnh biên khảo được đăng trên những tập san chuyên môn hàng đầu của thế giới, kể cả trong bách khoa toàn thư Enclycopedia Britanica. RA c̣n là tác giả của trên 40 cuốn sách, mà phần đông đă được dịch ra nhiều thứ tiếng, kể cả tiếng Anh, và được rất đông người đọc mến chưộng.

 

           Khác với Sartre là người có lập trường thiên về phía cộng sản, RA phân tích mổ xẻ rành mạch những khuyết điểm, sai lầm tai hại của phe cộng sản, nhất là tại Liên Xô.Vào thập niên 1950-60, phần đông giới trí thức ở Pháp thiên vị về phía công sản, do vậy mà RA bị coi như là ở phe thiểu số. Dầu vậy, ông vẫn kiên định trong lập trường chống độc tài cộng sản và không hề bao giờ tỏ ra có sự chao đảo như một số nhà trí thức khác ở Âu châu thời sau chiến tranh. Cũng v́ thế mà RA đă không được bầu vào trong Hàn Lâm Viện của Pháp, danh dự mà ông rất xứng đáng.Những phân tích, nghiên cứu của ông rất nghiêm túc, chính xác theo tinh thần khách quan của giới hàn lâm khoa học. Điều này đă được thực tế xă hội chứng minh rành rành, sau khi chế độ cộng sản sụp đổ ở Đông Âu và nhất là ở chính Liên Xô, nơi xưa kia phe cộng sản vẫn tung hô là “thiên đường của chủ nghĩa xă hội”. Chỉ tiếc là đến lúc đó, th́ RA đă ra người thiên cổ mất rồi.

 

           Cuốn sách “L’opium des intellectuels” (Nha phiến của giới trí thức) xuất bản năm 1955 lúc ông vừa 50 tuổi,được coi là một công tŕnh biên soạn thời danh, gây chấn động khắp thế giới, cùng lúc với 2 cuốn khác là cuốn “Giai cấp mới” của Milovan Djilas người Nam Tư, và cuốn “Doctor Zhivago” của văn hào người Nga được giải thưởng Nobel về văn chương là Boris Pasternak.Khác với văn hào Andre Malraux là người chỉ biết xưng tụng De Gaulle, mà cũng khác với Jean Paul Sartre là người luôn thiên về phe cộng sản, Raymond Aron thật nghiêm túc trong sự phân tích khoa học về các vấn đề chính trị xă hội có tầm mức ảnh hưởng toàn cầu. Là nhà báo, ông có cơ hội tiếp cận thường xuyên với t́nh h́nh thực tế khắp nơi trên thế giới và trao đổi với các đồng nghiệp trong ngành truyền thông cũng như gặp gỡ tiếp xúc với giới lănh đạo chính trị tại nhiều nước. Mà cũng v́ là nhà giáo, RA rất thận trọng và khúc chiết trong cách tŕnh bày lư luận của ḿnh nơi các bài giảng cho sinh viên ở Sorbonne cũng như tại Mỹ, tại Đức v.v…Chính Henry Kissinger, một bậc kỳ tài của Đại học Harvard mà c̣n phải tôn Raymond Aron là sư phụ của ḿnh, như được ghi trong Lời Giới thiệu cuốn Hồi kư RA, bản dịch sang tiếng Anh xuất bản năm 1990.

 

             RA rất chững chạc trong lối phát biểu, cũng như trong lối viết. Ông không bao giờ dùng những lời đao to búa lớn như Sartre là người xử dụng những từ ngữ miệt thị vô trách nhiệm đối với giới tư bản trưởng giả, như là chữ “cochons, salauds” (đồ con heo, đồ đểu giả) nhằm mỵ dân, lôi cuốn giới trẻ người non dạ. Hoăc đưa ra câu nói như khẩu hiệu : “l’enfer c’est les autres” (người khác là địa ngục đối với ta) v.v…Về đời sống gia đ́nh riêng tư, RA cũng rất mực thước, phải chăng ,vợ chồng con cái ḥa thuận êm thắm. Khác hẳn Sartre thường tự cho ḿnh được quyền ở ngoài ṿng cương tỏa, tha hồ tung hoành vối lối sống phóng túng, bất cần đời, coi thường cái khuôn khổ luân thường đạo lư xưa nay của xă hội.

 

             Về cuối đời của ông, học giới tại nước Pháp đă thành lập một trung tâm nghiên cứu lấy tên ông là : “Centre  de Recherches Politiques Raymond Aron - CRPRA” đặt tại Trường Cao Đẳng Khoa Học Xă Hội (Ecole  des Hautes Etudes des Sciences Sociales – EHESS ). Trung Tâm được khởi sự từ năm 1982, đúng một năm trước khi RA qua đời vào năm 1983, và sau này được hoàn chỉnh nhằm khuếch trương công cuộc nghiên cứu thâm sâu về khoa học xă hội, đặc biệt dành cho giới sinh viên bậc cao học và tiến sĩ. Mỗi năm lại có việc Trao Giải Thưởng Raymond Aron cho các công tŕnh nghiên cứu xuất sắc về các đề tài đă được RA khai mở.Cho đến nay, vào tháng 12/2007, th́ đă có tới 38,120 vị ân nhân đóng góp cho Trung tâm CRPRA này

              Gần đây học giới ở Pháp đă phục hồi lề lối nghiên cứu khoa học xă hội theo “truyền thống Raymond Aron”, đó là tách việc nghiên cứu khoa học xă hội ra khỏi sự chi phối của “ư thức hệ” như các trí thức phe tả thường lấn áp trong thời kỳ sau chiến tranh thứ hai, với cao điểm của cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối cộng sản và tư bản. Và đây chính là sự đóng góp vĩ đại của RA trong lănh vực học thuật và tư tưởng hiện đại trên thế giới ngày nay.

Có thể nói RA đă góp phần rất đáng kể trong việc phát triển ngành xă hội học chính trị (political sociology) nối tiếp truyền thống của những Alexis de Tocqueville, Max Weber, Joseph Schumpeter v.v…Và RA cũng giống như  Karl Popper là những người đều chủ trương sự cải thiện xă hội bằng phương thức bất bạo động, kiên nhẫn và khiêm tốn, chứ không bằng lối cưỡng bức sắt máu như của cộng sản. Cái khẩu hiệu “Piecemeal Social Engineering” của Karl Popper hiện nay đang được người môn đệ nổi danh từ London School of Economics, là George Soros khai triển và ứng dụng qua chủ trương của “Open Society Foundation” để góp phần phục hồi Xă hội Dân sự tại các nước Đông Âu và Nga kể từ ngày chế độ cộng sản sụp đổ gần 20 năm nay.  

 

 II --  Raymond   Aron    và    Việt  Nam … và  tôi

 

 

               Là một nhà báo thượng thặng, ông chú trọng đến chuyện chiến tranh Việt nam ngay từ hồi cuối thập niên 1940. RA có kể lại chuyến viếng thăm VN vào năm 1953, nhưng coi như không có mấy tiếp xúc với chính quyền Bảo Đại trong dịp này. Măi đến năm 1968, RA mới chú ư đến tài liệu của cựu Đại sứ Phạm Duy Khiêm, người bạn cùng học chung ở Cao Đẳng Sư Phạm hồi 40 năm trước.Bản thông báo của Đại sứ Khiêm về cuộc thảm sát ở cố đô Huế hồi Tết Mậu Thân 1968 rơ ràng là có sức thuyết phục đối với giới trí thức ngay thẳng, lương thiện như Aron, sự kiện mà tác giả đă ghi lại khá chi tiết trong cuốn hồi kư với tựa đề nguyên văn là : “Cinquante ans de reflexion politique” (Năm mươi năm suy ngẫm chính trị). Nói chung, th́ lập trường của RA đối với cuộc chiến tranh VN trong suốt 30 năm là “thiên hẳn về phía Mỹ và Tây Âu”, chứ không có thiên vị về phe cộng sản như Bertrand Russel, Sartre v.v…

 

               Tư tưởng của RA được giới trí thức miền Nam VN theo dơi, tán thưởng. Cụ thể như Luật sư Trần văn Tuyên, học giả Nguyễn hiến Lê, các giáo sư Vũ quốc Thông, Nguyễn văn Bông, Nguyễn ngoc Huy …, các nhà báo Hà thượng Nhân, Phan lạc Phúc, Đỗ ngọc Yến, Đỗ quư Toàn v.v…Phần đông học giới ở VN hồi trước 1975 đều tỏ ra rất khâm phục cái lối lư luận sắc bén, khúc chiết, vô tư và thẳng thắn của vị giáo sư khả kính và khả ái này.Đă có một vài bản dịch sách của RA, nhưng hầu hết giới trí thức của ta thời ấy đều đọc trực tiếp từ nguyên tác bằng tiếng Pháp. Sinh viên các ngành thuộc khoa học xă hội ở miền Nam hồi trước 1975 phần đông cũng đều được học tập về môn xă hội học chính trị, mà RA là một giáo sư tiêu biểu cho sự chính xác, trung thực và sắc xảo.

 

                Bản thân tôi, th́ bắt đầu “mê RA” từ năm 65-66, lúc đang say sưa với công tác xă hội trong khuôn khổ Chương tŕnh Phát triển Quận 8 Saigon. Cuốn “18 lecons sur la societe industrielle” là tài liệu của khóa giảng tại Sorbonne và tiếp theo là cuốn “Lutte des classes” và cuốn “Democratie et Totalitarisme” đă làm tôi say mê theo dơi cái môn phân tích xă hội học về phương diện chính trị của vị “đại sư” này.

 

                Rồi sau 1975, với nhiều thời gian rảnh rỗi, tôi lại hay ra chợ sách phía sau rạp Đại nam để t́m kiếm thêm sách đọc về loại này. Nhờ vậy mà tích lũy thêm được một số kiến thức vững vàng hơn, mà thời trước v́ bận rộn với chuyện lám ăn, tôi đă không có dịp trau dồi, học tập để bắt kịp với sự tiến bộ của ngành khoa học xă hội này.

 

                Tôi có dịp thường xuyên trao đổi với cụ Nguyễn hiến Lê, và được cụ cho đọc thêm nhiều cuốn sách chỉ có trong tủ sách riêng của cụ.Vào năm 1979-80, cụ có cho tôi cuốn sách “Les desillusions du progres” do RA viết năm 1969. Đây là bản Pháp văn của mục phân tích về “t́nh h́nh xă hội đương thời” tác giả đóng góp cho Encyclopedia Britanica.Cụ đă đọc rất kỹ và ghi chú bằng bút ch́ trên lề nhiều trang sách. Tôi thật cảm động v́ lời đề tặng của cụ cho tôi như sau : “ Xin tặng ông Đoàn Thanh Liêm. Xin ông giữ làm kỷ niệm – NHL”.

 

 a/ --   “ Nước  Pháp  là  Nước  Pháp,  không  có tĩnh  từ”

  

                  Năm 1981, lần đầu tiên Đảng Xă Hội Pháp có đại diện là Francois Mitterand được bầu làm Tổng Thống. Lúc đó RA đă già yếu rồi, nhưng ông cũng đóng góp một bài báo gây chấn động với nguyên văn tựa đề như sau :  “La France, c’est la France ou la Republique Francaise; sans adjectifs” ( Nước Pháp là nước Pháp hay Cộng Ḥa Pháp quốc, chứ không cần thêm một tĩnh từ nào khác). Tư tưởng này đă nung nấu trong tôi suốt bao nhiêu năm, v́ kể từ năm 1976, đảng cộng sản đă tự ư ngang nhiên đổi tên nước Việt nam thành “Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa VN” (Socialist Republic of VN – SRV). Tức là người cộng sản đă gắn cái chủ nghĩa xă hội của họ vào danh tánh của nước Việt nam đă có từ ngàn đời do cha ông chúng ta xây dựng tạo thành và truyền lại cho thế hệ chúng ta ngày nay. Đó là điều không thể chấp nhận được.

 

                   Tuy nhiên vào thời đó, chế độ cộng sản c̣n quá hung hăn, bạo ngược. Với lại hoàn cảnh chiến tranh với Trung quốc, tại Cambodia; cho nên anh em trí thức chúng tôi cũng chưa thể làm cái ǵ cụ thể nhằm góp phần chấn chỉnh lại tính thế được. Mà phải đợi đến sau 1986 với phong trào “Đổi mới” từ Liên Xô lan tới Đông Âu và dĩ nhiên cũng bắt đầu ảnh hưởng tới Việt nam, th́ chúng tôi mới bắt đầu thảo luận trao đổi với nhau về những chuyện căn bản của đất nước, của dân tộc. Và với sự sụp đổ của cộng sản tại Đông Âu cuối năm 1989, cùng với sự rệu ră của hệ thống Xô Viết tại chính nước Nga, th́ vào đầu năm 1990, tôi đă soạn thảo một văn bản “Năm điểm thỏa thuận căn bản” chỉ ngắn gọn trong nửa trang giấy, nhằm góp phần vào việc làm “guideline cho vịec soạn thảo một bản Hiến pháp mới cho nước Việt Nam sau này”. Xin ghi lại điểm 1 trong văn bản này như sau  :

 

  “Điểm 1 :   Nước Việt nam không công nhận một tôn giáo nào làm quốc giáo.

 

Quốc gia cũng không áp đặt một chủ thuyết nào làm giáo điều chính thức của dân tộc.

Nhằm tôn trọng và bảo vệ tự do tôn giáo, Nhà nước không can thiệp vào chuyện nội bộ của các tổ chức tôn giáo”.

 

 Cũng v́ bản văn 5 điểm này, mà công an đă theo dơi và bắt giữ tôi, khi tôi mới từ Saigon bay ra Đà nẵng vào ngày 23 tháng Tư năm 1990. Rồi họ đưa tôi ra xét xử trong phiên ṭa ngày 14/5/1992 tại ṭa án Saigon, với bản án 12 năm tù về tội “Tuyên truyền chống chủ nghĩa xă hội”, y hệt như các vụ xử linh mục Nguyễn văn Lư, các luật sư Lê thị Công Nhân, Nguyễn văn Đài gần đây vậy.  

 

 b/ -- Tranh chấp chủng tộc, chứ không phải tranh đấu giai cấp 

 

 Tôi vẫn c̣n nhớ lối biện luận của RA, là  : Hầu hết các tranh chấp trên thế giới ngày nay đều phát sinh từ chuyện “tranh chấp chủng tộc” (lutte des races) chứ không phải là “tranh đấu giai cấp” (lutte des classes) như người cộng sản thường chủ trương. RA nêu ra trường hợp tranh chấp đẫm máu ở Bắc Ái nhĩ lan, căng thẳng ở Quebec, Canada v.v…, th́ đều là tranh chấp chủng tộc lồng trong sự khác biệt tôn giáo, chứ không hề có sự đấu tranh giai cấp tại các nơi như thế này. Điều này lại càng sáng tỏ hơn trong trường hợp của Bosnia, Kosovo sau khi chế độ cộng sản sụp đổ ở Nam tư vào đầu thập niên 1990.

 

Đó là lư do tại sao tôi viết “Điểm 2” trong  “bản văn 5 điểm” ghi trên .

 

 “Điểm 2   :   Dân tộc Việt nam gồm nhiều sắc tộc có truyền thống lịch sử và văn hóa khác nhau.

 

                       Như vậy nền tảng của xă hội VN phải được đặt trên cơ sở đa chủng tộc, đa văn hóa”. 

Tại phiên ṭa, chánh án Lê thúc Anh gọi tôi : “Anh là thứ cáo già chính trị”, v́ chủ trương “đa nguyên, đa đảng” mà khôn khéo ngụy trang trong điểm này. Cũng như Đại tá Quang Minh trong lúc điều tra, th́ lại gọi tôi là thứ “assassin de genie” (Kẻ sát nhân ngoại hạng). Nói chung là người cộng sản vẫn c̣n rất “dị ứng” (allergic) với loại suy nghĩ rất b́nh thường trong bất kể xă hội dân chủ, tự do nào.

                    

( Ghi chú  :  Toàn văn Bản “Năm điểm thỏa thuận căn bản ” sẽ được ghi nơi “Phần Phụ lục” kèm theo bài viết này.)

 

 

III  --   Đôi    lời    tâm    t́nh

 

                         Bài viết này được chuẩn bị vào cuối năm 2007. Năm hết, Tết đến, tác giả xin được ghi ra ít lời tâm t́nh sau đây :

 

                         Năm 2008 là năm kỷ niệm 25 năm ngày qua đời của Raymond Aron. Nhân dịp này, tôi xin được bày tỏ ḷng ngưỡng mộ và biết ơn đối với vị giáo sư và tác giả khả kính là người đă soi sáng, hướng dẫn rất nhiều cho kẻ hậu sinh, cả về phương pháp luận (methodology), cả về nội dung những khám phá t́m kiếm của ông trong lănh vực khoa học xă hội hiện đại. Đọc RA, tôi thấy toát ra một tinh thần nhân bản cao độ, một tác phong cao quư của bậc mô phạm, và nhất là sự kiên tŕ nhẫn nại hiếm có nơi lớp người trí thức thường bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh ư thức hệ tại Âu châu thời kỳ sau thế chiến thứ hai.Có thể nói RA là một thứ sĩ phu quân tử ở phương Tây.

 

                          Tiếp theo, người viết cũng xin bày tỏ niềm thương tiếc và quư mến đặc biệt đối với Luật sư Trần văn Tuyên, Học giả Nguyễn hiến Lê là những vị đă chỉ dẫn cho tôi trong các vấn đề chính trị xă hội mà Raymond Aron đă nêu lên. Tác giả cũng không thể nào quên được nhà báo Đỗ ngọc Yến, là người đă tặng cho tôi khá nhiều sách báo, trong đó có cuốn Hồi kư Raymond Aron, bản dịch tiếng Anh mà nhờ đó tác giả có thể đào sâu được nhiều chi tiết chính xác cho bài viết này.

 

                           Sau cùng tác giả c̣n muốn ghi nhận cái công lao của Anh Vũ ngọc Trân là thân phụ của nhạc sĩ Trường Kỳ v́ đă chuyển cho cuốn Hồi Kư RA nguyên tác tiếng Pháp vào đầu năm 1990 ở Saigon. Lúc đó tôi đă say sưa đọc cuốn sách này. Nhưng chưa kịp trả lại anh Trân, th́ tôi bị công an bắt giữ. Và khi ở trong tù, tôi đă ân hận v́ không kịp trả cuốn sách cho anh Trân. Nay anh lại vừa mới ra đi vài năm gần đây tại Saigon. Nhưng chắc anh cũng thông cảm cho hoàn cảnh bất khả kháng của tôi, khiến làm thất lạc mất cuốn sách quư này.Chuyện này có vài chi tiết lư thú khác nữa, người viết xin được kể lại đày đủ hơn trong một dịp khác, bởi lẽ bài này hiện đă quá dài rồi.

 

                                                     Westminster, cuối tháng 12, năm 2007.