Phong phú đổ quyên Việt Nam

 với các giống ngọai Đông Nam Á

 

G S Tôn thất Tŕnh

 

 

Phong phú đổ quyên Việt Nam với các giống ngọai Đông Nam Á, nhất là giả đổ quyên, lai tuyển chọn thành một bộ môn hoa cảnh đặc thù nước nhà, thưởng thức tao nhă, thư giản  

                 

 Hoa đổ quyên, tông chi khoa học là Rhododendron đă được G S Phạm Ḥang Hộ lựa chọn làm tên Việt Nam cho họ thực vật Ericaceae, một trong số  9 tông chi thực vật họ này. Và đă liệt kê và mô tả phân lọai thực vật được 29 ḷai ởViệt Nam. Một số ḷai mang tên địa danh Việt Nam như Rhododendron kontumensis, R. nhatrangensev.v...Một nhóm đổ quyên  đặc biệt có tên Việt mới đây là giả đổ quyên, tên Âu Mỹ là azalea cũng được xếp vào tông chi Rhododendron, nhưng thích nghi khí hậu của giả đổ quyên ḥan ṭan khác hẳn đổ quyên chánh hiệu. Chẳng hạn giả đổ quyên vạn niên thanh (evergreen azalea) lại thường được trồng hàng trăm ngàn cây (trong đó có vài thứ giống trồng chậu trưng bày trong nhà chúng tôi ở thị trấn Irvine, miền Nam bang Ca Li, mỗi Tết đều nở đầy hoa đỏ), trong khi đổ quyên chánh hiệu  lại rất hiếm, tương đối khó trồng hơn. Chúng tôi chỉ thấy có một khu vườn nhỏ bé ở ngôi chùa Vạn Phật là chùa Phật lớn nhất ở Ca Li, có lẽ là cả nước Mỹ, trồng đổ quyên lùm bụi chánh hiệu có lẽ đem từ Đài Loan sang, v́ chùa Vạn Phật là do dân Đài Loan xây cất nên? Thập niên 1960, mỗi lần tham quan nghiên cứu phát triển canh nông và công nghệ Đài Loan, chúng tôi đều được mời đi xem khu Đào Viên (TaoYuan), phía Bắc Đài Bắc thưởng thức hương hoa  vườn đổ quyên lùm bụi. Chỉ ở miền Bắc Ca Li tôi mới thấy trồng nhiều đổ quyên.  Thật sự th́ đây là một nhóm thực vật rất lớn, đếm được gần 800 ḷai (species) và ở Bảng ghi danh quốc tế (international Register)  liệt kê trên 10.000 thứ giống (varieties) , và có lẽ 2.000 thứ giống đă được trồng trọt. Các nhà thực vật học đă phân chia các ḷai đổ quyên thành hạng (series)hạng phụ (subseries), trong đó có các cây giả đổ quyên (azaleas). Đổ quyên, gồm luôn cả giả đổ quyên thường là cây lùm bụi (shrub) vạn niên thanh hay là cây rụng lá (deciduous), ít khi là cây tiểu hay đại mộc.

 

      Yêu cầu nước và đất đai

 

      Các yêu cầu này của đổ quyên hay giả đổ quyên đều giống nhau. Chúng đ̣i hỏi đất acid.  Chúng cần nhiều không khí ở vùng rễ hơn nhiều lọai hoa cảnh khác, nhưng lại 

luôn luôn cần đủ ẩm độ. Nói một cách khác, chúng cần đất ráo (thóat) nước mau lẹ, nhưng đồng thời cũng cần đất giữ được nhiều ẩm độ. Nghĩa là đất có nhiều chất hữu cơ. Nơi nào đất ít hữu cơ th́ phải trộn, rải thêm rêu than bùn (peat moss), vỏ cây nghiền, mặt cưa hay lá cây mục. Nếu đất vườn bạn chứa quá nhiều sét hay kiềm th́ lên vồn, lên líp cao 30 - 60 cm trên mặt đất, sẽ tốt cho cây sinh trưởng.  Hăy trộn thêm chất hữu cơ 30 cm dưới mặt vồng, líp và trộn thêm ở đất vồn, líp với 50 % chất hữu cơ (ít nhất phân nữa là rong than bùn), 30% đất, 20 % cát. Trộn như vậy, đất sẽ ráo và giữ ẩm độ và làm cho các muối kiềm trôi, trực di đi hết.  Trồng đổ quyên hay giả đổ quyên phải làm cho chóp vùng rễ hơi trồi lên mặt đất đôi chút. Không bao giờ nên để đất chôn vùi thân gốc.  Các cây này thuộc lọai rễ mọc ở mặt đất và như vậy bổi thêm chất mục sẽ rất hữu ích. Đừng bao giờ cày xới đất quanh cây. Mức chịu đựng ánh nắng tùy thuộc ḷai và thứ giống. Đa số chịu đựng được ánh nắng chan ḥa ở vùng cao mùa hè mát.  Cây cao th́ phải lượt bớt ánh sáng đi.  Nhiều bóng râm quá, cây sẽ cao lêu nghêu và ít đâm bông.  Phải bón phân vào mùa hoa nở và ngay sau đó.  Đổ quyên hay giả đổ quyên ít khi bị sâu, bệnh phá hại.  Nhưng nếu đất ít thóat thủy th́ cây hay bị thối rễ (root rot) làm cây vàng lá, héo và chết rụi.  Nhiều ánh nắng quá có thể làm cây cháy lá hay trắng bạch (bleaching) đi. Đông giá đỉnh cao có khi làm méo mó lá.  Bấm ngọn tăng trưởng sau khi đă trổ hoa xong  thường xuyên giả đổ quyên vạn niên thanh. Nếu bạn mốn có bụi dày dặc và nhiều hoa. C̣n đổ quyên hoa to nên xén cành vào đầu xuân, vào lúc hoa nở nếu cần.  Tuy như vậy sẽ hy sinh nhiều mầm hoa, như lúc này là thời gian tốt nhất để xén nhiều.  Năng lực của cây sẽ  chuyển qua các mầm tăng trưởng đang ngũ rồi đây sẽ đâm ra mạnh vào mùa tăng trưởng. Bấm ngọn cây con để cây ra nhiều cành. Xén cây lớn hay cây mảnh khảnh hầu tạo lại dáng bằng cách cắt đến cành ngang, ṿng xoắn lá hay hay cụm mầm ngũ. Xén hết hoa, hay bó hoa đă nở xong. Cẩn thận đừng làm hư hại các mầm tăng trưởng mới dưới bó. Đa số người thích trồng đổ quyên ở Hoa Kỳ cứ tưởng đổ quyên là những bụi  lớn lá như da thuộc , nở chùm hoa  tṛn màu trắng, hồng đỏ hay tím. Sự thật th́ cây đổ quyên có thể lùn, chỉ cao trên 8-15 cm (hay được dùng làm kiểng bonsai)  hay đại mộc 10-12m có khi cao đến 20 - 30m như nhiều cây đổ quyên nguồn gốc Đông  Nam Á ( kể cả Việt Nam ) và cả lọat  ḷai hay ḷai lai đủ mọi kích thước đủ màu sắc từ nhung tím, vàng, gần như xanh dương hay pha trộn các màu vàng mơ, vàng cam, đỏ cá hồi v.v... C̣n hội Đổ quyên Hoa Kỳ th́ chia giả đổ quyên vạn niên thanh ở miền Tây Hoa Kỳ  ra 12 nhóm và một ḷai, chiếu theo các cây mọc theo lùm bụi, tiểu mộc hay đại mộc, cách đâm bông và tăng trưởng mức chịu lạnh nhiều ít và cây thích nắng chan ḥa hay thích bóng râm.  Nhưng hoa đẹp th́ ít cây lùm bụi sánh nổi với các giả đổ quyên lọai rụng lá, màu sắc rực rở vàng cam hay đỏ lửa hay hai màu tương phản trên hoa.  Vào mùa thu màu sắc lá giả đổ quyên rụng lá từ đỏ cam chói lọi đến nâu, càng làm tăng giá trị chúng trên phương diện hoa cảnh.

 

Các ḷai đổ quyên t́m thấy ở Việt Nam

 

Sau đây là mô tả hoa và h́nh hoa  vài ḷai đổ quyên Việt Nam  của tiến sĩ Trần Đăng Hồng, nguyên là một kỷ sư Nông Lâm đại học Thủ Đức , nguyên là giảng nghiệm viên Đại học Cần Thơ, nay giảng dạy tại đại học Reading , Anh Quốc.

 

      1- Đổ quyên Madden, R. maddenii Hook.F. subspecies crassum ( fr ) Cull. T́m ra ở Ḥang Liên Sơn. Là một lùm bụi lớn, nhưng lêu khêu, hoa kèn dài đến trên 10cm. Hoa màu vàng, nhưng có thể là trắng, vàng kem hay vàng chanh, vàng xanh lục.  Lột vỏ, bên trong có màu nâu đỏ, lá có nhiều gân nổi bật. Đây là một loài hoa đổ quyên rực rở của tông chi đổ quyên. Trồng chậu có thể sống nhiều năm.  Cần đất thật ráo nước.  Nguồn gốc thật ra là ở miền Đông Hy-mă-lạp-sơn, cao độ 2000 - 3000m. Mọc kiểu tầm gửi hay trên ghềnh đá. Hoa nở tháng tư,tháng năm.

 

      2- Đổ quyên maiddennii, ḷai phụ crassum. Mới thật có nguồn gốc Bắc Việt, Vân Nam, Đông Tây Tạng, vùng cao Bắc Miến điện, vùng Manipur va Nagaland Ấn độ. Sinh thái đa dạng. Ở rừng rậm thường có khuynh hướng mọc ngang, nhưng cũng mọc ở b́a rừng hay sườn núi, dọc sông, suối,  ghềnh rừng thông hay rừng tre, trên cao độ 1500 -3700m . Hoa trắng, cuối hoa h́nh ống, cổ hoa thóang hồng, cam, tím hay vàng xạnh Hoa thơm. Bụi cao 1.2m. Chịu lạnh giỏi đến 12 độ C âm.

 

      3- Đổ quyên Fleury, R. fleuryi. Mọc ở núi cao 2000- 2500m vùng Khánh ḥa và vùng Langbian. Đây là một lùm bụi rộng và mọc sáng sủa, lá đầy lông. Hoa mới nở màu vàng kem, sọc hồng lợt, sau đó đổi ra màu trắng ngần và cổ hoa màu vàng kim xanh lục.  Cây cần đất thật ráo nước.  Keith Rusford thu thập ḷai cây này mới gần đây ở Việt Nạm Tuy nhiên càng ngày càng hiếm, do đó cần bảo tồn.

 

      4 - Đổ quyên Ly, R. lyi. Mọc ở cao độ 1300- 2800m ở Ngoc Pan, Phú Yên, Khánh Ḥa. Phiến lá không văy. Ṿi nơan dài hơn cánh hoa.  Cũng t́m thấy ở Qúi Châu Vân Nam, Đông Bắc Ấn độ, Myanmar.

 

      5- Đổ quyên Veitch, R. veitchianum. Mọc ở Nghệ Tĩnh, nhưng cũng t́m thấy ở Miến Điện , Thái Lan, Lào.  Hoa trắng bề ngang hơn 10cm, khá thơm, h́nh chuông, dôi khi lấm tấm vàng.  Có thể chịu lạnh khỏang 7 độ C âm, nhưng chịu nóng nực tốt hơn. Trồng hom (cành cắt) dễ dàng , hom mau sinh rễ.

 

      6- Đổ quyên lơm, R. emarginatum . Mọc lùm bụi cao 1-1,5m. Thường là cây tầm gửi, mọc trên cây, trên đá.  T́m thấy ở Ḥang Liên Sơn, Quảng Tây, Quí Châu , Đông Nam Vân Nam .

 

      7 - Đổ quyên rạng rở, R. triumphans .  Mọc ở Ḥn Bà (  Khánh Ḥa ) , nhưng cũng có nguồn gốcở nhiều nước Đông Nam Á khác.  Là một lùm bụi vạn niên thanh, cao 1-1,5 m , Hoa đỏ to.

      8- Đổ quyên mũi, R. mucronatum. Đây là một ḷai đổ quyên đă được trồng trọt ở nước ta, ở Hà Nội, Đà Lạt, chứ không phải hoang dại như các ḷai kể trên.  Bụi lùm hay tiểu mộc cao1-2m. Chùm có 2- 3 hoa, đường kính đài hoa 5-8cm. Cuống có tuyến lông . Nhật trồng hai nhóm, Oorukyu là giống có lá đài to và nhóm Shiroryuku.  Ca Li thường trồng các thứ giống hoa trắng, thóang hay lấm tấm hồng,  có tên là Indica rosea và  ladifolia rosea.

 

      9 - Đổ quyên sims, R. simsii, R. annamense. T́m thấy ở núi cao Quảng Trị, Bạch Mă , Kontum. Cũng như ở Đông Bắc Miến Điện, Trung Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Nam Nhật bổn. Tiểu mộc cao đến 2.5m. Chùm có 2- 6 hoa. Hoa h́nh ống, loa lớn, hồng hay đỏ.

 

      10- Đổ quyên cây, R. arboreum. Nhóm phụ subspecies delavayei ,t́m thấy ở núi cao Nghệ Tĩnh 2000 - 2500m  là một đại mộc có khi cao đến 8m. Chùm h́nh cầu, có nhiều hoa 10-30 hoa màu đỏ. Nhóm phụ cinnamomum, t́m thấy ở núi cao 2000 - 3000 m vùng Ḥang Liên Sơn .Lá lông dày dặc phía dưới. Hoa đỏ hay hồng.

 

      11 - Đổ quyên xinh, R. decorum . Ở vùng núi cao Lào, Việt. Đây là một tiểu mộc hay đại mộc cao đến 14m. Vỏ cây nứt nẽ và lá xanh đâm. Chùm hoa rộng rải, chứa 5-10 hoa. Hoa h́nh ống trắng, bên trong vàng , lấm tấm hồng, tím.

 

      12 - Đổ quyên Langbian, R. irroratum  ḷai phụ kontummense.  Đây là một tiểu mộc cao 2-5m. Hoa ống dài, đài hoa màu hường, lấm tấm đỏ, tím. T́m thấy ở đỉnh Lang bian và các núi cao Kontum.

 

      13 - Đổ quyên cao, R. excelsa. Mọc ở rừng núi cao 1800m vùng Phú Yên , Khánh Ḥa . Đại mộc cao 8m. Hoa trắng.

 

      14- Đổ quyên ṿi dài , R. tantastylum. Mọc ở vùng núi cao 1400 - 2500 m vùng Ḥang liên Sơn. Đại mộc  cao 6m. Lá không lông. Chùm có 4-8 hoa đỏ rượu hay trắng hồng.

 

      15 - Đổ quyên chén, R. sinofalconeri. Mọc ở núi cao 2200m, vùng Ḥang Liên Sơn.  Đại mộc cao 7m. Lá to, mặt duới có lông dày. Chùm có 7-10 hoa, màu vàng lợt.

 

      16- Đổ quyên vial, R. vialii .Mọc ở núi cao miền Bắc Việt và Vân Nam ở cao dộ 1300- 1800m. Bụi cao chừng 2m. Nhiều phát hoa 2-3 hoa ở chót nhánh .Hoa đỏ nhung.

 

      17 - Đổ quyên Moulmain, R. moulmainense.  Mọc ở núi cao 800- 2000m từ Bắc Việt đến Kontum  và ở Nam Trung Quốc , Đài Loan , Nhật bổn , Mă lai , Ấn độ , Miến điện. Là một đại mộc cao đến 15m  Lá không lông .Hoa h́nh phểu trắng, hồng hay tím lấm tấm vàng xanh. Chùm có 3-8 hoa. 

 

      18 - Đổ quyên Fortune, R. fortunei. Mọc ở Bạch Mă, có lẽ nhiều ở " Thác đổ quyên" thị trấn nghỉ mát miền Trung này,  nhưng cũng t́m thấy ở rừng núi cao 2000- 3000m ở Trung Quốc. Do nhà làm vườn giỏi dang Fortune t́m ra ở vùng núi cao tỉnh Triết Giang vào khỏang các năm 1853-1856. Những cây Fortune sưu tập đều không có hoa, nhưng nông dân vùng này nói là cây có hoa to. Fortune đem về rất nhiều hột, đem về trồng ở vườn bách thảo Chiswich, Anh Quốc, mọc lên những cây đổ quyên rất vạm vỡ  và là những cây đổ quyên Tàu nhập lần đầu tiên vào Anh Quốc. Sau đó nhiều người khác đă du nhập thêm nhiều dạng đổ quyên này. Một dạng R. fortunei được  nhà quyền qúi Edmond Loder đem lai với  phấn hoa vủa R.griffitianum, làm  ra các đổquyên Loderi năm 1901.  Loderi được xem là môt trong những giống lai (hybrids)  có hoa đẹp nhất.  Hoa Loderi mọc từng chùm mỗi hoa to 15- 18 cm màu trắng hay hồng.  Tuy nhiên cây mọc cao đến 2.4m cho nên không thích hợp  cho những gia thất nào có vườn nhỏ bé. Cây lại lâu trổ bông lần đầu tiên và khó trồng.  Nhiều vườn bang Ca Li  cũng c̣n duy tŕ các thứ giống Loderi hoa to như King George hoa màu trắng, Pink Diamond hoa màu phấn hồng, Venus hoa màu hồng vỏ ṣ . Ḷai R. Fortunei chịu lạnh rất giỏi. Cao đến 7- 8m. Hoa cũng nhỏ, chừng 3- 5cm, h́nh phểu ,chuông, hồng tím hay hoa cà , nhưng thơm dịu dàng. Đổ quyên ở Bạch Mă chỉ là tiểu mộc  hay lùm bụi.  Lá rất dai. Hoa chỉ to 5-7 cm mà thôi.   

     

      19- Đổ quyên Vân Nam, R. yunnannensis. Mọc ở vùng núi miền Bắc Việt. Là một tiểu mộc. Hoa trắng ửng hồng, tâm đốm đỏ hay nâu. 

 

      Những ḷai đổ quyên Việt Nam khác chưa có h́nh màu như R. natalii, crenulatum, sororatum, chevalieri, saxicolum,  cavalierei, hainanensis,  ninguyensis, nha trangensis, klossii, mong nhờ các bạn yêu đổ quyên chụp sưu tập cho Hoa Cảnh.

 

      Các ḷai đổ quyên ngọai

 

      Có lẽ không cần du nhập các ḷai, thứ giống  hay giống lai đổ quyên chịu đông giá giỏi làm ǵ,  tỉ như Madame Mason , Mars , Scarlet King, v́ nước ta it khi có đông giá, ng̣ai một vài đỉnh rất cao. Cũng như nhiều ḷai, thứ giống trồng được ở những vùng  Hoa Kỳ không đông giá , v́ nhiều ḷai này cũng du nhập từ các nước Đông Nam Á, nhất là nhóm có tên là đổ quyên Malesian Rhododendrons. Tuy rằng trong số này có nhiều ḷai, thứ giống lùn , trồng chậu , làm kiểng bonsai được và thường gọi lầm là giả đổ quyên . Ngọai trừ ḷai rất thơm tên là R. fragrantissimum. Ḷai này có hoa trắng to , h́nh phểu, đôi khi pha chút hồng, có thể tạodáng thân dây cho leo dậu , bờ tường dây thân dài trên 3m ,hay xén cành trồng chậu .

 

      Các giả đổ quyên hoa đẹp

 

 Giả đổ quyên (azalea)  trồng chậu hay cây lùn thấp bé làm cây phủ bồn hoa, hay làm kiểng bonsai thích hợp cho vườn gia thất nhỏ bé nước ta, đáng phổ biến hơn. Hội hoa đổ quyên Hoa Kỳ chia giả đổ quyên ra làm hai nhóm: nhóm vạn niên thanh và nhóm rụng lá (mùa thu đông). Ở nhóm vạn niên thanh, đáng kể ra là nhóm Belgian indica , v́ các thứ giống lai này có thể trồng giỏ treo rất đẹp mắt, như  Violetta hoa tím đậm và William Van Orange hoa đỏ cam ; nhóm Kurume lá mọc đầy cây , hoa nhỏ nhưng đầy cành; nhóm Southern indica, tuyển chọn từ nhóm Belgian indica chịu ánh nắng chan ḥa và mọc mạnh. Trong nhóm rụng lá , đáng kể là nhóm lai Knap Hill-Exbury hybrids cây lan rộng hay mọc thẳng cao 10cm đến 1,8m, hoa to 7-15 cm bề ngang,  mọc từng chùm 7-18 hoa, hoa thơm hay cánh hoa gợn sóng, nhóm lai Mollis giữa R. molle và R. japonicum hoa màu vàng hay đỏ mồng gà;  nhóm giả đổ quyên Nhật (japanese azaleas) R. japonicum tong đó có thứ giống aureum  màu vàng chói lọi; nhóm giả đổ quyên Tàu (chinese azaleas) hoa vàng kim hay cam vàng ,lá cuối thu trở thành màu  vàng hay màu camnhóm giả đổ quyên (pontic azalea - R. luteum), cây cao 2.4 m  chỉ có một hoa trên nhánh vết chấm đậm và hoa thơm . ...