Siêu tiểu thuyết của thời hậu hiện đại

Trịnh Thanh Thủy

 

 

Nhân lúc đọc lại bộ trường thiên tiểu thuyết lịch sử Sông côn mùa lũ của nhà văn Nguyễn Mộng Giác, và tác phẩm Linh sơn của Cao Hành Kiện, tôi bỗng nhớ tới một thể loại tiểu thuyết mới. Đó là tiểu thuyết siêu hư cấu hay tôi tạm gọi nó là siêu tiểu thuyết   (metafiction) của thời hậu hiện đại. Những đặc tính tiêu biểu của siêu tiểu thuyết cũng như văn chương thời hậu hiện đại đều được t́m thấy trong các tác phẩm trên. Tôi sẽ phân tích và đi sâu vào chi tiết từng tác phẩm ở phần dưới.

 

Trước hết chúng ta thử t́m hiểu xem siêu tiểu thuyết là ǵ.

 

Siêu hư cấu hay siêu tiểu thuyết (metafiction) là một loại tiểu thuyết về tiểu thuyết, hư cấu giữa hư cấu. Từ ngữ này thường dùng để ám chỉ loại tiểu thuyết có những yếu tố tự tham chiếu. Siêu tiểu thuyết không những nghiên cứu cấu trúc căn bản của nghệ thuật kể chuyện truyền thống, nó c̣n khám phá thêm tính hư cấu của thế giới bên ngoài văn bản văn chương tiểu thuyết. Nó cũng cống hiến cho chúng ta một h́nh thái khác lạ, chính nó phê b́nh cấu trúc riêng của nó. Trong lối viết này, nhà văn bàn về kỹ thuật viết và tiến tŕnh xây dựng tác phẩm ngay trong tác phẩm của ḿnh

 

Tác phẩm siêu tiểu thuyết giống như một tṛ chơi tự tŕnh bày cách chơi của nó. Sự tương tác giữa người đọc và người viết được thể hiện qua sự mời gọi tham gia vào một cuộc chơi. Cảm nhận của độc giả sẽ bị lầm lẫn v́ những sự kiện có thực được kể bị nhiễu loạn. Người viết đôi khi c̣n tự bước vào truyện như một nhân vật, nói chuyện trực tiếp với độc giả. Người đọc sẽ t́m thấy một đặc điểm nổi bật của siêu tiểu thuyết cũng như văn chương hậu hiện đại mà họ không thể thấy ở lối kể chuyện truyền thống, đó là phương thức đa kết, phương thức chống lại sự kết thúc bằng cách ban cho một cốt chuyện rất nhiều hệ quả có thể có được.

 

Một ví dụ điển h́nh là cuốn The French Lieutenant's Woman (1969) của John Fowles.

Đây là chuyện t́nh của nhà tự nhiên học tài tử, Charles Smithson và một cô gái vô gia cư, Sarah Woodruff, bị đồn đăi có quan hệ với một viên trung úy Pháp. Trong tác phẩm người đọc bị hoang mang v́ Fowles đă làm rối loạn ḍng kể chuyện bằng cách tŕnh diễn sự thông thuộc của ông về Marx, Darwin và những người khác. Ông chọn phương cách đa kết cho phần kết cuộc câu chuyện.

 

Tác phẩm Linh sơn của Cao Hành Kiện cũng vậy. Kỹ thuật dựng chuyện phản cấu trúc, nhân vật chính không rơ ràng, các t́nh tiết rất mơ hồ, lăng đăng. Độc giả rơi vào trạng thái hoang mang, bất định, lẫn lộn.

 

Siêu tiểu thuyết là một từ ngữ co giăn có thể bao trùm rất rộng phạm vi của tiểu thuyết.

Tuy nhiên chúng ta có thể nhận ra một tác phẩm siêu tiểu thuyết qua một vài đặc điểm như tự nó có chủ ư, tự nhận thức, tự nhận biết v.v.

 

Siêu tiểu thuyết đă tự đặt nó vào giữa ranh giới của tiểu thuyết và phê b́nh. Liên hệ giữa tiểu thuyết và phê b́nh là điểm hội tụ nơi mà tiểu thuyết và phê b́nh đồng hoá lẫn nhau một cách thật sáng suốt để sản xuất một năng lực tự giác cho cả hai phía.

Về phía phê b́nh, đây là một khẳng định tính văn chương trong ngôn ngữ. Đồng thời siêu tiểu thuyết cũng làm gia tăng sự nhận thức sáng suốt được đặt vào khuôn khổ một tiểu thuyết.

 

Về phía tiểu thuyết, siêu tiểu thuyết đồng hoá phối cảnh phê b́nh vào trong lối kể chuyện hư cấu. Nó tạo thêm tính tự nhận biết sự không thật của cấu trúc câu chuyện và nối chặt lại sự liên hệ của ngôn ngữ và thế giới bên ngoài.

 

Darrida đă xem việc phân tích ranh giới giữa tiểu thuyết và phê b́nh là tối quan trọng trong thập niên 60,70. Ông đă đặt nghi vấn với Joyce để xác định tính văn chương trong phê b́nh. Ông cũng quả quyết tác động của phê b́nh trong siêu tiểu thuyết có tính liên văn bản, nhại lại và tự tham chiếu. Ông bác bỏ giả thuyết của Saussure về việc ngôn ngữ

nói gần với biểu hiện của trí tuệ hơn ngôn ngữ viết.

 

Những lập luận của Darrida đưa ra được người đọc cảm nhận và h́nh dung ông như một nhà h́nh thức luận ít lưu ư đến tiến tŕnh lịch sử đă tác dụng làm sâu sắc ngôn ngữ và văn chương. Ông xác quyết ngôn ngữ trong lịch sử không nhiều bằng lịch sử trong ngôn ngữ.

 

Trong cuốn Surfiction, Raymond Federman đă bàn về từ "siêu tiểu thuyết" như một lấn lướt ra ngoài phạm vi nghệ thuật kể chuyện truyền thống. Nó tập trung vào việc tự châm biếm lấy ḿnh hơn là nói về một văn bản có tính châm biếm. Nó như một phát minh cá nhân mà sự tự ư giả tạo được nhấn mạnh bằng hiện thực qua cấu trúc ngữ học và những văn bản đang tồn tại.

 

Có những vấn đề chồng chéo lên nhau giữa hiện thực và hư cấu trong siêu tiểu thuyết. Chúng ta có thể nhận ra dấu hiệu tiêu biểu của nó như:

 

- Ngôn ngữ như một hệ thống độc đoán. Chúng ta có thể t́m ra trong tác phẩm: Lost in Funhouse, Pale fire, Breakfast of Champion và Tristram Shandy.

 

- Tính liên văn bản. Sự nhại lại văn bản nguyên thủy hay lịch sử trong Tin Drum, Midnight’s Children.

 

- Trạng thái hai nguyên lư đối nghịch nhau giữa quyền lực. Đó là sự mấu thuẫn xảy ra trong tác phẩm Mystery của Stephen King khi độc giả và tác giả mâu thuẫn lẫn nhau trong môi trường tranh giành quyền phán quyết. Hành động của các nhân vật trong truyện ra ngoài sự kiểm soát của tác giả.

 

- Hiện thực không c̣n dễ hiểu nữa, lịch sử chỉ là hư cấu. Độc giả có thể nh́n thấy cốt truyện được kế hoạch hoá quá nhiều để vạch ra những bí mật của lịch sử hay nó được diễn dịch qua nhiều ngữ nghĩa. Hoặc ngược lại cốt truyện thiếu kế hoạch hoá để giới thiệu sự phản tác dụng của ngôn ngữ truyền thống hay ngôn ngữ của tṛ chơi.

 

Nhắc đến lịch sử, chúng ta phải nhắc đến siêu tiểu thuyết lịch sử (historiograhic metafiction).

Theo Linda Hutcheon, siêu tiểu thuyết lịch sử là một loại tiểu thuyết hậu hiện đại phản kháng lại những niềm tin được hoạch định sẵn của hiện tại và các tiểu chuẩn vốn sẵn có của quá khứ. Hutcheon cũng phân tích sự khác biệt giữa biến cố (event) và sự kiện (fact).

Sự kiện như một cuộc đàm thoại đă được định nghĩa. Biến cố không phải vậy, chính nó không có nghĩa trong khi sự kiện th́ được gán cho một ư nghĩa.

 

Foucault xem siêu tiểu thuyết lịch sử như một phương cách chống đối lại giá trị của lịch sử truyền thống. Ông đă gạch bỏ đi những khác biệt của biến cố để viết lại thành một lối kể chuyện vững chăi, hướng trung tâm. Cấu trúc độc đoán của sự dẫn giảng lịch sử là tượng trưng của cấu trúc quyền lực. Ông chủ trương xét lại lịch sử và phản kháng những liên hệ cưỡng bức của quyền lực. Ông hướng về một ư niệm lịch sử đầy phức tạp để đi t́m những chuỗi căn nguyên lịch sử qua một quá khứ hoàn toàn khác biệt.

 

Do đó siêu tiểu thuyết lịch sử đă thoát ra khỏi những phân tích đặt căn bản ở ngôn ngữ của chủ nghĩa giải cấu trúc năm 1980 mà hướng về một chủ nghĩa lịch sử văn bản tự nhận biết, tự nhận thức.

 

Tác phẩm trường thiên tiểu thuyết Sông côn mùa lũ của nhà văn Nguyễn Mộng Giác có nhiều đặc điểm của một tác phẩm Siêu tiểu thuyết lịch sử.

 

Sông côn mùa lũ là một kết hợp nhịp nhàng giữa nghệ thuật và đời sống. Nguyễn Mộng Giác đă dùng ng̣i bút giải thích lịch sử, kéo nó gần hơn với sự thật. Ông sử dụng lại biến cố lịch sử “Hội nghị diên hồng”, cùng những sự kiện có thật ghi chép trong cuốn Hoàng Lê nhất thống chí, cuốn Tuyển tập thi văn Ngô Th́ Nhậm rồi hư cấu, tái dựng chúng vào diễn biến câu chuyện. Điển h́nh là Ngô Văn Sở có ư định hội họp và triệu tập một Hội nghị Diên Hồng thứ hai.

 

Đời sống nhân vật Trần Bá Lăm đă bị ông phức tạp hoá. Trong truyện, mỗi nhân vật sống, ăn nói, vui buồn, hờn giận, theo một thế giới riêng tự họ tung hoành trong đó. Tác giả không can thiệp vào được v́ đă ra ngoài sự kiểm soát của ông. Ông đă ứng dụng tính đa dạng, phức tạp, hỗn loạn của thời thế, xă hội Việt Nam (giai đoạn viết, 1979 -1980) vào tâm lư nhân vật. Họ có lập trường chao đảo, hoang mang, bất ổn, sợ nguy hiểm, sợ bất trắc, mong yên thân, mong ăn cho no, co cho ấm.

 

Những cá tính nhân vật đời thường này trùng lặp với tâm lư phức tạp của giới sĩ phu Bắc Hà thời Tây Sơn bấy giờ. Họ bị ép vào đường cùng, ḷng c̣n mến nhà Lê nên toan tính việc nhờ vả đến quân đội thiên triều Trung Hoa. Cái tâm trạng yếm thế, nịnh bợ cấp trên, chèn ép kẻ dưới, xu thời mẫn thế của các nhà nho bàng bạc trong tác phẩm.

 

Sông côn mùa lũ đồng thời phản kháng lại lối viết truyền thống của các sử gia thời trước. Những nhân vật đại anh hùng, liệt nữ đă bị tác giả kéo tầm cao của vai tṛ xuống thấp hơn và “b́nh dân hoá” như người thường. Độc giả sẽ vô cùng thất vọng khi thấy nhân vật oai hùng, lẫm liệt Quang Trung Nguyễn Huệ được xưng tụng xưa nay trở thành một thường dân hành xử, nói năng tư duy như mọi người b́nh thường khác.

 

 

 

Trong siêu tiểu thuyết, tiểu thuyết gia và phê b́nh gia chỉ là một. Đặc điểm này tạo nên ba lợi thế:

 

1) Tiểu thuyết gia thường thường tùy thuộc vào tri thức hay tài chánh kiếm được trong công việc phê b́nh.

 

2) Những nhà phê b́nh văn chương hàn lâm sẽ thành công hơn trong công việc viết tiểu thuyết. Nó c̣n dẫn tới một tŕnh độ nhận thức phê b́nh cao hơn trong tác phẩm tiểu thuyết của họ.

 

3) Nhà phê b́nh / tiểu thuyết gia là một h́nh ảnh biện chứng, một hiện thân của sản phẩm và sự kết nạp tiểu thuyết, đồng thời kiêm luôn vai tṛ tác giả và độc giả.

 

Siêu tiểu thuyết cũng nằm trong lằn ranh của nghệ thuật và đời sống.

 

Ta có thể thấy điều này trong tác phẩm Small World của Lodge. Siêu tiểu thuyết ứng dụng văn chương phê b́nh chuyên nghiệp vào vật thể hư cấu mà không báo trước tính không thật của tiến tŕnh hư cấu. Ngoài ra chủ nghĩa phê b́nh hàn lâm trong tác phẩm khơi dậy mối liên hệ của những phán quyết để cấu thành tác phẩm.

 

Trong The French Lieutenant’s woman của Fowles, siêu tiểu thuyết làm nổi bất tính không thật trong cấu trúc mà không cần tham khảo văn chương phê b́nh. Nó cho phép nhà phê b́nh tự nhận thức thật rơ phối cảnh phê b́nh giữa đời sống và nghệ thuật.

 

Siêu tiểu thuyết có liên hệ sâu xa đến chủ nghĩa hậu hiện đại. Nó không những chỉ là một loại tiểu thuyết của hậu hiện đại, nó c̣n là loại tiểu thuyết độc nhất của thời hậu hiện đại. Định nghĩa của siêu tiểu thuyết không thể thành h́nh nếu không có sự đề xướng của thể loại văn chương tách riêng và cấu trúc của phê b́nh. Ngược lại, chủ nghĩa hậu hiện đại cũng không thể định nghĩa được nếu không nhắc đến tính đa nghĩa của nó như một loại nghệ thuật, một giai đoạn lịch sử hay những điều kiện tư tưởng và chính trị.

 

Hậu hiện đại khác với tiền thân của ḿnh là hiện đại trong vài khía cạnh. Bất cứ nơi nào có vai tṛ kỹ thuật của hậu hiện đại hiện diện, người ta khác nhau từ nguồn gốc, phái tính, kiến thức, t́nh trạng kinh tế xă hội cho đến những mẫu mực đời sống hàng ngày. Ngay cả đến quyền lực cũng đă phân rẽ xuống hạ tầng qua tay cá nhân chứ không c̣n tập trung như thời hiện đại cũ.

 

Hậu hiện đại phản kháng khuynh hướng và điều kiện sống của xă hội ngày nay. Nó ảnh hưởng biến chuyển chủ nghĩa từ trong bản chất. Những đặc tính tiêu biểu có thể kể là:

hỗn độn, rối mù, chao đảo, đứt rời, phân mảnh, do dự, xúc động, mâu thuẫn, ít coi trọng quyền lực, coi thường sự trong sáng, không để ư đến nguyên bản, phân hóa, nhại lại , lắp ghép để sáng tạo , sao chép để tái chế, chế nhạo để soi rọi làm sáng lịch sử và h́nh dung hoá hiện thực.

 

Nó đi từ sản xuất hàng loạt tới từng phần, tập trung quyền lực đến phân mảnh quyền lực, chuyên chế đến bao hàm, trung tâm đến biên giới, tuyến tính đến phi tuyền tính, nguyên thủy đến dùng lại, từ văn hoá in ấn đến truyền thông đại chúng.

 

Siêu tiểu thuyết thừa hưởng di sản của chủ nghĩa này. Nó trưởng thành toàn vẹn cùng những đặc tính chủ nghĩa hậu hiện đại. Nội dung của hậu hiện đại không phân chia rơ rệt giữa văn bản hư cấu và phê b́nh mà là một thế giới đại diện cho biên giới nghệ thuật và đời sống.

 

Siêu tiểu thuyết c̣n là một trận chiến triết lư giữa ngôn ngữ và siêu ngôn ngữ

 

Trịnh Thanh Thủy

 

-------------------------

Tài liệu tham khảo

 

Waugh, Patricia. Metafiction: The Theory and Practice of Self-Conscious Fiction. NY: Routledge, 1984.

Linda Hutcheon. A Poetics of Postmodernism” History, Theory, Fiction. New York: 1988

Linda Hutcheon. Historiographic Metafiction: The Pastime of Past time

Cao Hành Kiện. Linh Sơn

Nguyễn Mộng Giác. Sông côn mùa lũ