Từ
năm sáu năm nay, sách báo trong nước ngày càng nói nhiều hơn tới
phong trào trí thức sinh viên học sinh (SVHS) đấu tranh chống Mỹ ở
thành thị miền Nam, xem đó như một công trạng lănh đạo đầy sáng tạo
và tài t́nh của Đảng, đồng thời là tấm gương hào hùng, cổ vũ khích
lệ tuổi trẻ ngày nay dấn thân. Gần đây, sự kiện cựu linh mục
Nguyễn Ngọc Lan
từ trần lại như một cơ hội khiến người ta đề cập tới phong trào đó,
đặc biệt giữa những người trước đây từng liên hệ.
Riêng trên diễn đàn talawas, trong mục Ư kiến ngắn, có
Một độc giả
chụp lại h́nh b́a cuốn Khúc bi tráng một thời của Hoàng
Nguyên Vũ với nửa trang ca ngợi những gương mặt nổi bật thời đó. Sau
đó một ngày, lại có thắc mắc của
Nguyễn Kim B́nh
rằng ngoài Trịnh Công Sơn, “không biết bao nhiêu gương mặt đấu
tranh nổi bật khác vào thời đó chạy xe ǵ, làm ǵ, đă sống và được
đối xử ra sao dưới chế độ độc tài Mỹ-Nguỵ”?
Nhân dịp này, tôi muốn nương theo kư ức đang ngày càng nhạt nhoà của
ḿnh, kể lại đôi điều ḿnh biết về giai đoạn đó. Chắc chắn không
khỏi có ít nhiều sai sót; xin những "gương mặt nổi bật" mà tôi sẽ
nhắc tới cùng những anh chị em quen biết cũ vui ḷng sửa sai và bổ
túc.
* *
Trước hết, có lẽ Hoàng Nguyên Vũ đă lẫn lộn khi liệt kê Trịnh Công
Sơn vào "gương mặt nổi bật" cùng hàng ngũ với Tôn Thất Lập, Hoàng
Phủ Ngọc Tường, v.v. Thời Trịnh Công Sơn c̣n sống, trong một buổi
đại nhạc hội tại Sài G̣n nhằm vinh danh và tặng hoa cho những người
đấu tranh trong phong trào SVHS và trí thức chống Mỹ trước đây,
không có mặt Trịnh Công Sơn. Lư do Trịnh Công Sơn không được mời:
anh không được liệt kê vào hàng ngũ đó.
Riêng đối với thắc mắc của Nguyễn Kim B́nh, tôi chỉ có thể trả lời
"theo như tôi thấy" rằng họ chạy xe ǵ th́ c̣n tuỳ, nhưng chắc chắn
họ đă sống khá b́nh tĩnh trong khung khổ của luật pháp Việt Nam Cộng
hoà (VNCH) và được sự bảo vệ của luật pháp ấy.
Về thời gian, tôi tính ra phong trào đó kéo dài khoảng 9 năm, có thể
chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn một bắt đầu từ năm 1965, với những
cuộc đấu tranh rầm rộ của SVHS với khẩu hiệu đ̣i tự do dân chủ. Giai
đoạn hai có thể lấy biến cố Mậu Thân làm mốc, nhưng thật sự bắt đầu
từ giữa năm 1969 tới sau lúc kư kết Hiệp định Paris năm 1973, với
thành phần nhân sự cốt lơi gồm hai ba chục thanh niên SVHS, lấy tên
cả chục tổ chức có danh xưng tương ứng với các khẩu hiệu đ̣i quyền
sống, quyền tự quyết và tranh thủ hoà b́nh v.v. Tuỳ vào loại h́nh
sinh hoạt (thí dụ in và lưu hành sách báo, tổ chức hội thảo, biểu
t́nh, tuyệt thực, các lễ giổ tổ, tưởng niệm anh hùng liệt sĩ, khích
động tự thiêu v́ ḥa b́nh, v.v.) mà họ cuốn hút được sự ủng hộ và
tham dự của nhiều hoặc ít thanh niên SVHS để làm thành cái được Hà
Nội tuyên truyền là “phong trào tranh đấu chống Mỹ cứu nước của sinh
viên học sinh miền Nam”.
Sau đó, phong trào xẹp hẳn v́ Hiệp định Paris đă được kư kết, tính
chất hợp pháp của cái gọi là Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà
miền Nam Việt Nam (CMLTCHMNVN) đă được Hoa Kỳ và VNCH công nhận, các
cơ sở cộng sản nội thành đă được tái lập. Thành phần nhân sự cốt lơi
và ít ỏi ấy kẻ được Hà Nội đón đưa ra miền Bắc (thường gọi là thoát
ly), kẻ bị Chính phủ VNCH bắt đưa đi Côn Đảo rồi được Ủy ban Liên
hiệp Quân sự Bốn bên trao trả cho Mặt trận Giải phóng miền Nam. Dưới
đây, tôi chủ yếu tŕnh bày giai đoạn hai, thích hợp với tuổi đời và
trong tầm hiểu biết cũng như quen biết của ḿnh, tuy đôi khi có đề
cập tới vài “gương mặt nổi bật” trong giai đoạn một.
* *
Trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, hầu như toàn bộ cơ sở nội
thành mang danh nghĩa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
(MTDTGPMN) bị vỡ và bị bắt. Lực lượng quân sự hao hụt của Hà Nội bị
truy kích phải rút lên vùng rừng núi để chỉnh đốn, và quay trở lại
chiến thuật du kích, khủng bố. Các đơn vị gốc miền Nam (Việt cộng)
kiệt quệ sinh lực, hoàn toàn mất khả năng tuyển quân bổ sung. Kể từ
thời điểm này, cán binh BV chiếm 8/10 quân số của các đơn vị quân
giải phóng. Việc Hà Nội vi phạm cam kết hưu chiến ăn Tết, sự xuất
hiện lộ liễu và bắn phá bừa băi của cán binh Bắc Việt cùng với vụ
"phía bên kia" giết thảm khoảng 3.000 người tại Huế khiến Hà Nội bị
rớt chiếc áo nguỵ trang MTGPMN, các hoạt động nội thành đang bị tê
liệt v́ thiếu nhân sự lại c̣n bị đồng bào thờ ơ, xa lánh.
Măi tới thời điểm công bố danh sách chính phủ CMLTCHMNVN (6.6.1969),
Đảng Cộng sản Việt Nam mới xây dựng được một số thanh niên SVHS
tranh đấu “chống Mỹ cứu nước”, với mục đích dùng họ làm mặt nổi nhằm
che giấu hoặc trám vào lỗ hổng chính trị trong quần chúng, trong khi
chờ đợi cán bộ chính trị bị bắt trong biến cố Mậu Thân vừa được thả
về, xây dựng lại cơ sở quần chúng. Các thanh niên SVHS tranh đấu ấy
(cả Huế lẫn Sài G̣n) chỉ khoảng hai ba chục người, cộng thêm vài
giáo chức, trí thức và phụ nữ, kéo nhau đi tổ chức hội thảo, biểu
t́nh, ra tuyên ngôn tuyên cáo và chia nhau đứng tên trong danh sách
ban chấp hành của các lực lượng, phong trào, mặt trận, uỷ ban... đấu
tranh cho quyền sống, quyền tự quyết và tranh thủ hoà b́nh. Họ thành
lập Tổng đoàn Học sinh với hạt nhân là Ban Đại diện Học sinh Trường
Kỹ thuật Cao Thắng Sài G̣n. Lợi dụng tinh thần ră rời của sinh viên
sau biến cố Mậu Thân, tâm lư dị ứng của sinh viên, trí thức đối với
chính quyền quân phiệt Thiệu-Kỳ và t́nh trạng chia rẽ giữa các ban
đại diên SV phân khoa, họ t́m đủ mọi cách để đưa người vào hai Ban
Đại diện Tổng hội Sinh Viên (THSV) Sài G̣n và Huế. Sau khi nắm được
các tổ chức đó, thỉnh thoảng họ dùng danh nghĩa đại diện SVHS đi
công tác từ Sài G̣n ra Huế bằng máy bay. Và họ sống và sinh hoạt
được như thế là nhờ pháp luật của VNCH.
* *
Trước hết là qui chế tự trị đại học. Một trong những điều
khoản về quyền tự trị đại học là cảnh sát không được xâm phạm các cơ
sở của đại học. Do đó, khuôn viên viện đại học và các phân khoa, trụ
sở THSV, các cư xá sinh viên, các câu lạc bộ sinh viên là nơi an
toàn cho anh chị em tranh đấu chống chính quyền.
Tôi nhớ các anh Vơ Quê, Bửu Chỉ, Thái Ngọc San, v.v. ăn ở thường
trực tại trụ sở THSV Huế. Ngay trong trụ sở, treo lồ lộ bức tranh cổ
động thật lớn của Bửu Chỉ về vụ Mỹ Lai với một câu viết bằng sơn đỏ
ḷm: Máu kêu trả máu, đầu kêu trả đầu! Có những đêm, anh em
cầm bom xăng (coctail molotov) chạy tới khu vực gần Khách sạn Thuận
Hóa, nơi đóng trụ sở của Phái bộ Quân sự Hoa Kỳ (Military Assistance
Command-Vietnam — MACV), nhắm hướng có xe jeep của Mỹ liệng đại, rồi
chạy về trụ sở, đi ngủ. Cảnh sát có thấy cũng biết loại người nào
ném, và chỉ rượt tới sát khuôn viên của trụ sở THSV. (Tôi từng kể
chuyện này cho Vũ Thư Hiên và Bùi Tín nghe; cả hai vị ấy lắc đầu
không dám tin!)
Anh Huỳnh Tấn Mẫm (lúc ấy là Chủ tịch THSV Sài G̣n) và Lê Văn Nuôi
(lúc ấy h́nh như là học sinh lớp 11 Trường Kỹ thuật Cao Thắng và là
Chủ tịch tự phong của Tổng đoàn hay Tổng hội Học sinh Tranh đấu gồm
khoảng vài ba cô cậu), đi theo Huỳnh Tấn Mẫm và vài anh em khác, mua
vé hàng không Việt Nam ra hội thảo với anh em ở Giảng đường Trường
Khoa học (gọi là Giảng đường Karate), và sinh hoạt ăn ở với anh em ở
Đại học xá Nam Giao. Đi bằng đường bộ từ Sài G̣n ra Huế phải mất hai
ngày, ban đêm ngủ lại ở Qui Nhơn. Xe đ̣ thỉnh thoảng bị nổ tung hay
mắc kẹt cầu sập v́ quân khủng bố ưa đặt bom.
C̣n
b́nh thường trong thành phố, cũng như đa số anh em thanh niên sinh
viên khác, họ hầu hết đi xe Honda. Tôi có một người cậu bên vợ, nhà
trong khu Thanh Nhàn Hà Nội, nay bị gọi là “xóm liều”. Năm 1980, tôi
ra thăm, ông ấy bảo: “Gớm, sinh viên trong Nam các cậu giàu quá.
Trước 1975, tôi đọc báo Nhân dân, thấy kể sinh viên Sài G̣n
tranh đấu, bị cảnh sát đàn áp ném lựu đạn cay, phải quẳng xe Honda
mà chạy. Thế mà người ta lại bảo miền Nam các cậu nghèo khổ! Vứt cả
cái xe Honda! Rơ phí của!” Tôi cười: “Mất sao được. Chờ êm êm, người
ta mang thẻ chủ quyền xe tới đồn cảnh sát nhận lại. Tài sản của nhân
dân; chưa có lệnh toà án ai dám tịch thu.” Ông lắc đầu: “Thế th́
hỏng to là phải!”
Tại sân sau của trụ sở THSV Huế, thường có những đêm vài ba chục anh
em sinh viên (gần như đủ mặt thành phần đấu tranh, các đảng phái
quốc gia, theo Chúa theo Phật, văn nghệ văn gừng…) ngồi xây ṿng
tṛn nghe độc tấu tây ban cầm hay thổi sáo cho tới khuya rồi tan
hàng, về nhà. Việc ai nấy làm, h́nh như cũng chẳng ai xích mích ai
hoặc ŕnh ṃ tố giác ai. Trong những buối tối “hoà hợp hoà giải”
kiểu Huế đó, tôi không để ư có ai là “cảnh sinh” không, và h́nh như
chẳng có thám tử “thiên nga phượng hoàng” nào như các “bài kư hồi
hộp” ở trong nước sau này thích vẽ vời.
Tại trụ sở THSV Huế, "các gương mặt nổi bật" tha hồ quay ronéo báo
và truyền đơn tài liệu, tổ chức hội thảo, kỷ niệm lễ này lễ nọ, dưới
danh nghĩa đủ thứ tổ chức đ̣i quyền sống, quyền tự quyết, tranh thủ
hoà b́nh… cũng chẳng người quen nào đi báo cáo và chẳng ai vào bắt.
Có thiếu nhân sự th́ ra nhờ anh em đang uống cà phê vào tiếp cho một
tay.
Thỉnh thoảng, các anh em cầm biểu ngữ chống Mỹ đ̣i hoà b́nh ra tuần
hành ngoài đường, hoặc kéo ra giữa cầu Sông Hương mới xây xong và
chính quyền chưa kịp khánh thành. Anh em đặt cho nó cái tên trúng ư
ḿnh là Cầu Chống Mỹ Cứu Nước. Đặt xong tên và hô xong mấy câu khẩu
hiệu đủ làm thành một bản tin, anh em lại tan hàng, thủng thỉnh đi
bộ về trụ sở THSV, chẳng cảnh sát nào đi theo.
Có một buổi sáng tôi thấy đại tá Lê Văn Thân, Tỉnh trưởng Thừa Thiên
kiêm Thị trưởng Huế, mặc y phục dân sự, một ḿnh lững thững bước vào
quán cà phê trong trụ sở THSV. Ông đi loanh quanh chào hỏi anh em,
trong đó có "mấy gương mặt nổi bật" và đứng ngắm bức tranh Mỹ Lai
của Bửu Chỉ. Xong, ông uống cà phê và đánh một ván cờ tướng rồi lại
lững thững ra về.
Tôi cũng nhớ có một buổi chiều, Toà Tổng Giám mục Huế mở rộng cả hai
cánh cửa để tiếp xúc, chuyện tṛ xă giao với các “gương mặt tiêu
biểu” của phong trào SVHS tranh đấu, ngay tại pḥng khách chính thức
của TGM. Chủ là Linh mục Nguyễn Văn Lập, Tổng Đại diện Giáo phận
Huế, nguyên Viện trưởng Viện Đại học Đà Lạt. Khách khoảng chục
người, có Ngô Kha, Đoàn Văn Long và đủ thứ chủ tịch của các phong
trào, mặt trận. Tôi có mặt suốt cuộc tṛ chuyện thân mật như giữa
thầy và tṛ đó, v́ tôi là người đề nghị và môi giới.
Tại Sài G̣n, ngoài Đại học xá Minh Mạng, anh em có hai nơi bất khả
xâm phạm khác để có sẵn cái ăn cái ở là Cư xá Thanh Cầm (gần nhà thờ
Vườn Xoài) của linh mục Phan Khắc Từ và trụ sở Phong trào Thanh niên
Lao động Công giáo ở Hoà Hưng do linh mục Trương Bá Cần làm tuyên
uư. Mỗi lần từ Huế vào Sài G̣n có công chuyện, tôi thường gặp những
khuôn mặt ít ỏi và quen thuộc ấy kéo nhau đi tham dự các buổi hội
thảo, các cuộc đấu tranh như ở Đại học Sài G̣n, Đại học Vạn Hạnh,
Hăng pin Con Ó…
Chỉ hai ba chục anh em thôi (trong đó sinh viên thật sự khoảng trên
chục người) mà tha hồ đi khắp Sài G̣n và Huế tiếp tay nhau tranh
đấu. Dĩ nhiên ở bề sâu của mặt trận chính trị hoặc t́nh báo trong
cuộc chiến vừa qua chắc chắn có những vũng xoáy âm u gay cấn mà tôi
không thể nào thấy. Tới nay, tôi vẫn không biết thuở đó ông Trần
Bạch Đằng (Bí thư Sài G̣n-Gia Định) hay ông Hoàng Phương Thảo (Bí
thư Thừa Thiên-Huế), có giúp được ǵ cụ thể cho anh chị em không,
nhưng tôi thấy, nếu anh em có bị nhà cầm quyền VNCH "làm khó dễ" th́
đă có sẵn các vị trong nhóm Đối diện (gồm các linh mục Nguyễn
Ngọc Lan, Chân Tín, Trương Bá Cần…) và các tờ báo như Điện tín,
Tin sáng, Đại Dân tộc, Đuốc Nhà Nam, v.v. và một số thượng nghị
sĩ, dân biểu thân Phật giáo Việt Nam Thống nhất (Ấn Quang) hoặc đối
lập với phe của Tổng Thống Thiệu trong Quốc hội lớn tiếng can thiệp.
Các tờ báo “tiến bộ” đăng bài của anh em như Đối diện, Tŕnh bày,
Tự quyết, v.v tôi thấy vẫn ra hàng tháng đều đặn và bày bán ở
hiệu sách.
* *
Thứ đến là các qui định của VNCH về việc bổ dụng và sử dụng công
chức chánh ngạch, trong đó có giáo chức. Một công chức, giáo
chức chánh ngạch đă được cấp Bộ ở Sài G̣n bổ dụng bằng một nghị định
th́ các cấp địa phương (tỉnh trưởng, hiệu trưởng) không có quyền sa
thải hay đề nghị sa thải. Cùng lắm chỉ có quyền lập hồ sơ, yêu cầu
thanh tra rồi trả đương sự về tŕnh diện Văn pḥng Bộ trưởng ở Sài
G̣n nếu Bộ trưởng đồng ư. Bộ trưởng cũng chỉ có thể sa thải nhân
viên ấy bằng một nghị định sa thải, sau khi đă có biên bản kết luận
của một hội đồng thanh tra tại Bộ rằng quả thật có sai phạm trầm
trọng. Thêm nữa, luật 10/59 của Ngô Đ́nh Diệm đặt cộng sản ngoài
ṿng pháp luật vẫn c̣n hiệu lực, nên người bị t́nh nghi là hoạt động
cho cộng sản không bị đem ra toà án xử. Sau một thời gian bị giam
cứu, người ấy trước sau ǵ cũng được phóng thích. Và v́ không thể
nào có án, nên đương sự vẫn trở lại làm công chức, giáo chức, tiếp
tục ăn lương nhà nước.
Tài liệu học tập của Hà Nội viết rằng “thằng” Diệm kéo lê máy chém
đi khắp miền Nam. Lần đầu tiên trong đời tôi nh́n thấy máy chém là
sau năm 1975, tại Nhà Trưng bày Tội ác Mỹ-nguỵ ở đường Trần Quí Cáp,
Sài G̣n. Lần thứ hai là năm 2001, tôi quay lại đó quan sát kỹ hơn để
lấy cảm xúc và chụp h́nh để mô tả nó cho cuốn tiểu thuyết Trăng
huyết. Gớm, sao nó cao thế và nặng hết biết. Không hiểu ông Diệm
vừa thấp vừa mập kéo làm sao mà suốt chín năm trời chỉ chém được mỗi
một người cộng sản là Hoàng Lệ Kha, Bí thư tỉnh uỷ Tây Ninh.
Những "gương mặt nổi bật" mà tôi kể dưới đây có người đă nhảy núi
sau vụ Huế đ̣i ly khai bất thành 1965 hoặc trong dịp Tết Mậu Thân,
có người thoát ly năm 1972, hoặc bị bắt đi Côn Đảo khoảng năm 1973
hoặc ở lại b́nh yên cho tới tháng 4 năm 1975.
Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thời gian tranh đấu vẫn là giáo sư Triết
ở trường công Đồng Khánh cho tới khi thoát ly (năm 1965 hoặc 1966).
Ngô Kha vẫn là giáo sư dạy Văn ở trường Quốc học cho tới ngày thoát
ly, h́nh như sau Hiệp định Paris tháng Ba 1973.
Nguyễn Đắc Xuân, Phan Chánh Dinh vẫn là sinh viên cho tới ngày thoát
ly (1965).
Tôn Thất Lập là giáo viên cho tới năm Mậu Thân.
Tiêu Dao Bảo Cự vẫn dạy học ở trường công Bùi Thị Xuân Đà Lạt.
Đông Tŕnh Nguyễn Đ́nh Trọng vẫn dạy học ở trựng công Phan Chu
Trinh Đà Nẵng.
Phạm Thị Xuân Quế làm Chủ tịch Mặt trận Tranh thủ Hoà B́nh vẫn hằng
ngày làm Giám đốc Viện Bài Lao Huế.
Có một giáo sư Đại học Văn khoa đi du học về, h́nh như Phan Thanh
Quư (?), vẫn hằng ngày đi dép râu lên bục giảng đường đứng lớp.
Thái Ngọc San tuy không là sinh viên, vẫn ở thường trực tại Trụ sở
THSV Huế cho tới ngày thoát ly ra Bắc, h́nh như 1973.
Vơ Quê (hiện làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Thừa Thiên-Huế), Bửu Chỉ (đă
qua đời), vẫn ở tại trụ sở THSV Huế cho tới khi bị bắt đưa đi Côn
Đảo, h́nh như năm 1973.
Đoàn Văn Long vừa làm Chủ tịch Ủy ban Hoà b́nh vừa đi dạy học (tôi
không biết rơ trường nào).
Và c̣n nhiều sinh viên đấu tranh khác vẫn ở tại trụ sở THSV ĐạI học
Huế; không một sinh viên nào bị đuổi học v́ lư do “chống Mỹ cứu
nước.”
Các anh Lê Gành (hiện làm Trưởng Đài phát thanh Qui Nhơn) và anh
ruột là Lê Văn Thuyên (Chủ tịch THSV-ĐH Huế) và Trần Đ́nh Sơn Cước
(Chủ tịch Ban Đại diện Sinh viên Luật khoa), cũng là những “gương
mặt nổi bật”, gần như thường trú tại Trụ sở THSV. Nghe nói về sau,
Trần Đ́nh Sơn Cước có bị bắt đi Côn Đảo.
Lê Văn Ngăn, hiện là Chủ tịch Hội Văn nghệ B́nh Định, vẫn đi dạy học
tới "ngày giải phóng".
Lư Chánh Trung vẫn là giảng nghiệm viên Triết ở Đại học Sài G̣n cho
tới năm 1975.
Trong thời gian làm tờ Việt Nam Việt Nam, Giáo sư Lê Văn Hảo
vẫn dạy môn Dân tộc học tại Đại học Văn khoa Huế cho tới trước biến
cố Mậu Thân 1968. Theo lời ông kể mới đây trên đài Á châu Tự do
(RFA) rằng ông bị "phía bên kia" dẫn đi gặp gỡ làm quen với MTGPMN,
rồi ép buộc bắt cóc đưa lên núi. Tại đó, ông mới thấy trên thực tế,
hoàn toàn không có cái gọi là MTGPMN, nhưng bù lại, ông được Đảng
“đề nghị” giữ chức Chủ tịch Ủy ban Nhân dân MTGPMN Thừa Thiên Huế.
Ông phải nghe theo ư của Hoàng Phủ Ngọc Tường mà nhận lời, nếu không
sẽ mất mạng. Và… biết đâu… ngay lúc đó, nếu ông tử v́ đạn tại chỗ,
th́ có thể nhân dân Huế được thêm một liệt sĩ, thành phố Huế có thêm
tên đường Lê Văn Hảo; chỉ có học giới mất đi người duy nhất có học
vị Tiến sĩ Dân tộc học vào thời điểm đó!
Ông cho biết, cùng bị bắt cóc với ông có Ôn Thiên Mụ, tức là Cố Ḥa
Thượng Thích Đôn Hậu. Đảng nửa đêm đột nhập chùa Thiên Mụ, vơng Ôn
lên núi, “đề nghị” Ôn làm Chủ tịch Liên minh Dân tộc Dân chủ và Hoà
b́nh. Sau đó, cáng luôn Ôn ra Hà Nội. Hèn ǵ lúc sắp viên tịch, một
vị sư được Đảng tuyên truyền là cao tăng rất “yêu nước yêu chủ nghĩa
xă hội” như Ôn lại dám đem y bát của Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất lẳng lặng truyền cho Hoà Thượng Huyền Quang.
Giáo sư Lê Văn Hảo c̣n kể, cùng bị bắt cóc và bị cáng ra Hà Nội
trong đợt gần Tết đó có một phụ nữ Huế tên là Đào Thị Xuân Yến
(thường gọi là bà Tuần Chi), được “đề nghị” giữ chức Phó Chủ Tịch
của Ủy ban ma có Lê Văn Hảo. Suốt thời gian quân giải phóng tổng
công kích rồi rút chạy, cái Ủy ban Nhân dân Thừa Thiên - Huế ấy bị
giữ riết ở trên núi. Khổ thật, thế mà gần bốn chục năm nay các vị ấy
mắc măi cái “oan Thị Kính” v́ bị gom chung vào bài ai ca của nhạc sĩ
Vĩnh Khôi viết sau biến cố Mậu Thân 1968, và vẫn được dân Huế rưng
rưng hát cho tới nay: “Đàn con nay lớn khôn mang gươm đao về xóm
làng… Đồi Ngự B́nh thịt xương khô tượng đá, Cầu Tràng Tiền bạc màu
loang ḍng máu, Hương giang ơi thuyền neo bến không người qua đ̣…
Chiều nay không có em, xác phơi trên mái lầu… Người ơi xin chớ
quên!”
* *
Trường hợp ấy khiến tôi ngậm ngùi nhớ tới Ngô Kha. Đầu thập niên 60,
Ngô Kha cùng Thanh Tâm Tuyền là hai thi sĩ tài hoa và tiên phong của
trường phái thơ tự do ở miền Nam. Từ sau năm 1968, anh là ngọn lửa
hừng hực và là “thầy cách mạng” của sinh viên Huế. Có lẽ anh là
người trí thức hoạt động chống chính quyền độc nhất ở Huế, tính từ
năm 1963 tới năm 1975, bị chết "v́ chính tay cảnh sát VNCH giết", mà
cho tới nay vẫn chưa t́m được xác và chưa ai nói rơ được đầu đuôi.
Ty trưởng Cảnh sát Thừa Thiên Huế trong thời gian ấy là Liên Thành –
cháu nội của Hoàng thân Cường Để - mà có người nói với tôi anh ấy là
cựu học sinh của Ngô Kha. Tôi ḍ hỏi người quen, được họ cho biết
rằng theo lời giải thích ḷng ṿng của Uỷ ban Nhân dân Thừa
Thiên-Huế th́, sau khi sa lưới trên đường nhảy núi đầu năm 1973, Ngô
Kha mắng chửi quá nên bị một trung sĩ cảnh sát nổi xung, đập chết.
Năm 1999, Thái Ngọc San nói với tôi là anh em ở Huế yêu cầu lấy tên
Ngô Kha đặt cho Trương Định, một con đường khá dài chạy vắt ngang
sau lưng các trường Quốc học, Đồng Khánh, Bệnh viện Huế, Đại Học Văn
khoa, Đại học Khoa học và trụ sở THSV, nhưng Uỷ Ban Nhân dân Thừa
Thiên-Huế chưa đồng ư. Họ chỉ cho đặt ở một quăng rất ngắn, ngay
trước mặt trụ sở THSV. Như thế không biết sự thật về cái chết của
Ngô Kha ra sao, và việc đặt tên đường Ngô Kha nay đang tới đâu.
Nhưng khi tôi viết những ḍng chữ này, chắc chắn Thái Ngọc San,
Trịnh Công Sơn, Nguyễn Ngọc Lan đă gặp Ngô Kha ở thế giới bên kia,
và đă biết rơ v́ đâu anh ấy chết. Năm nay, nhân dịp Thầy Nhất Hạnh
lập Đại Trai đàn B́nh đẳng Chẩn tế tại chùa Diệu Đế, không biết anh
em ở Huế có dự tính chung nhau đốt một chiếc xe mui trần bốn chỗ
ngồi thật bóng và một cây đàn guitar thùng sẫm màu, bằng vàng mă
loại tốt, để các vị ấy lái đi chơi, ca hát với nhau cho thêm vui.
Cũng buổi sáng gặp nhau ấy ở quán cà phê trong khuôn viên Hội quán
Báo chí Huế, Thái Ngọc San c̣n kể với tôi rằng anh em phải vận động
nhiều và may mắn lắm mới in được tập Thơ Ngô Kha. Tôi cầm lên
thấy cả ba tập thơ từng được in nguyên vẹn trước năm 1975 gồm Hoa
cô độc, Ngụ ngôn của người đăng trí và Trường ca Hoà
b́nh, nay được "tuyển lại" c̣n khoảng trăm trang và nhiều bài bị
cắt đục.
Có một trường hợp đặc biệt là Huỳnh Tấn Mẫm. Theo lời nhà văn Phan
Nhật Nam kể lại ở đâu đó rằng nằm 1973, trong một chuyến trao trả tù
binh, Huỳnh Tấn Mẫm bị chở lên Tân Cảnh, Lộc Ninh, để trao cho phía
MTGPMN. Tới nơi, Huỳnh Tấn Mẫm nhất định căi ḿnh không phải là
người của Mặt trận, không chịu cho giao trả. Thế là phái đoàn Liên
hiệp Quân sự Bốn bên đành phải chở Huỳnh Tấn Mẫm về lại Sài G̣n.
Cũng có một trường hợp đặc biệt khó tin. Nhà thơ Lê Nhược Thuỷ tức
Lê Hữu Huế vừa tốt nghiệp ban Việt Hán Đại học Sư phạm Huế năm 1972
và đă có nghị định bổ dụng th́ bị bắt v́ hoạt động cho "phía bên
kia". Trong thời gian bị giam ở Nhà lao Thừa phủ Huế, anh được cho
"đi phép" 48 tiếng đồng hồ để làm lễ thành hôn với chị Ph.H. tại
Trung tâm Sinh viên Phanxicô Xaviê. Lúc ấy tôi là Chủ tịch Sinh viên
Công giáo nên được hân hạnh đứng chủ hôn đám cưới có tên là Từ Ân
đó. Sau khi anh Lê Nhược Thuỷ vào tù lại, chị Ph.H. lên Pleiku, tới
nhiệm sở chỉ định của chồng, xin cho chồng được hoăn tŕnh diện v́
đang bận ở tù. Chị được Hiệu trưởng mời ở lại dạy Triết. C̣n anh Lê
Nhược Thuỷ, sau khi ra tù, lên nhận nhiệm sở, an toàn dạy Văn cho
tới năm 1975. Nghe nói hiện nay anh là Phó Tổng Biên tập báo
Thanh niên ở Sài G̣n.
* *
Riêng trường hợp Nguyễn Ngọc Lan, anh ấy là giáo sư dạy Triết Tây
của Đại học Sài G̣n và Đại học Huế cho tới năm 1975. Cứ mỗi lần ra
Huế dạy, cha Lan mặc áo chùng thâm cổ trắng ḿnh quấn tràng hạt,
đúng kiểu tu phục của Ḍng Chúa Cứu thế. Có mặt ở Huế là cha sinh
hoạt công khai, rôm rả với các “gương mặt nổi bật”. Thuở đó, cha Lan
và tôi gặp nhau có chào nhưng không có hỏi v́ hễ cứ xáp vào nhau là
có chuyện tranh căi tới đỏ mặt tía tai. Từ năm 1975 cho tới ngày tôi
vượt biển năm 1989, thời gian tôi sống với đủ thứ nghề chợ trời ở
Sài G̣n và đất nước bị sa vào t́nh trạng ngoài sức ḿnh tưởng, thầy
tṛ mới nói chuyện được với nhau lâu, ban đầu về chuyện đạo, dần dà
lan sang các chuyện khác rồi thân nhau.
Khoảng bảy tám năm trở lại đây, mỗi lần về Việt Nam, tôi thường ghé
thăm cha Lan, lúc này đă quen gọi là anh Lan. Tuy người chỉ c̣n nặng
khoảng 37 ki-lô, nhưng hai con mắt anh vẫn rất sáng, làm sáng thêm
nụ cười hồn nhiên và hóm hỉnh. Mỗi lần gặp nhau từ sáng sớm, hai anh
em kéo nhau ra tiệm phở b́nh dân rồi quán cà phê ghế mây đầu hẽm
ngồi “đấu hót” cho tới trưa; nói đủ thứ chuyện tôn giáo chính trị xă
hội trên trời dưới đất như thuở nào gặp nhau trước ngày tôi bỏ nước.
Cha Lan là người bộc trực, sống chủ yếu bằng cảm tính, thuộc loại
nerveux sentimental, và gần như không bao giờ nói dối người quen.
Khi c̣n làm linh mục, anh là niềm hănh diện của Ḍng Chúa Cứu thế.
Khi không c̣n khoác áo chùng thâm, anh vẫn sinh hoạt đều đặn hằng
tháng với anh em cựu chủng sinh nhà ḍng tại Nhà thờ Kỳ Đồng và rất
được anh em quí mến.
Tôi vẫn kính anh Lan là linh mục v́ theo giáo lư Công giáo, linh mục
là một chức thánh trọn đời, cùng với chức giám mục, phó tế và giáo
hữu, cho dù người ấy “thôi giữ chức” hoặc bị dứt phép thông công.
Nếu gặp trường hợp cần kíp, Nguyễn Ngọc Lan có bổn phận phải nhân
danh chức thánh linh mục mà cử hành phép bí tích tương ứng. Ở Nguyễn
Ngọc Lan sau này, tôi t́m thấy trong anh vững chăi một đức tin Công
giáo kiên định và ḷng thuần phục, son sắt với Giáo hội, hơn biết
bao nhiêu người trong đó có tôi.
Tính t́nh anh cũng hạ hoả rất nhiều so với trước năm 1975. Có lần
anh và tôi tranh luận về vụ Năm Cam. Anh cho rằng đó là sự hủ hoá cá
nhân và hết thuốc chữa của một số cán bộ trong buổi giao thời. Tôi
th́ bảo xưa nay chế độ nào cũng phải có quan hệ với giới giang hồ v́
không thể nào quét sạch tệ đoan xă hội. Nhưng Năm Cam là trường hợp
đặc biệt. Y được chính quyền sử dụng và hỗ trợ để trấn giữ khu vực
cờ bạc, pḥng trà, vũ trường không cho đám giang hồ Ma Cao Hồng Kông
lọt vào. Khi mọi sự đă đâu vào đó th́ Năm Cam phải chết, để lại khu
vực đó cho các đại gia “đỏ”. Thấy anh Lan lập luận trầm tĩnh trong
suốt nửa giờ tôi cũng lấy làm lạ. Phải chi như ngày xửa ngày xưa,
anh đă đỏ mặt, móc cho vài câu, rồi không nói tới nói lui ǵ về đề
tài đó nữa.
Nói
chuyện cho đă từ ngoài quán lại kéo vào nhà. Anh tặng và khoe tôi
mấy cuốn sách mới in. Ngoài b́a ghi tên một nhà xuất bản của người
Việt đâu đó ở Paris, Australia… coi trong ruột sách lại thấy là do
kéo lụa, kết chỉ, tuy b́a cũng bốn màu không kém nhà in có máy chạy
rào rạt. Sách của anh, của người khác, trong đó có một cuốn tôi dịch
của Brian Moore; tôi chưa xuất bản nhưng không biết tại sao anh có
bản thảo. Tôi không hỏi. Kinh nghiệm mấy chục năm “giang hồ” dạy tôi
rằng càng không muốn thấy không muốn nghe th́ nếu lỡ bị ai đó tra
khảo, có muốn khai trong bụng cũng chẳng có ǵ mà khai. (Ghi chú:
cuốn
Máu Hồng y, đă
đăng tải trên talawas). Sách kéo lụa hoặc photocopy b́a trước ghi
tên một nhà xuất bản người Việt ở hải ngoại, b́a sau có đủ lằn sọc
mă số điện tử, y như thiệt. Vừa chỉ vào b́a cuốn Máu Hồng y,
anh Lan vừa nhoẻn miệng cười: “Cậu thấy, cũng là Nguyễn Ước, NXB
Nguồn Sống Toronto của cậu, đâu thua kém ǵ ai!” Tôi cũng cười: “Làm
vầy rất tiện cho em mang ra phi trường. Lần sau anh cứ rứa mà làm.”
Nh́n quá đằng sau những cuốn sách thủ công ấy, tôi có thể mường
tượng có mấy tổ kiến d́ phước và ni cô đang âm thầm cắm cúi và hănh
diện kéo lụa, như thuở nào anh em chúng tôi tiếp tay nhau in truyền
đơn, báo chí tranh đấu. Sách thuộc Thiền phái Vô Vi của tiền bối
Lương Sĩ Hằng, kể cả một cuốn Từ điển Đạo học dày cộm, cũng
được in như thế. Sách của Thầy Nhất Hạnh cũng đă được “kéo” lại gần
hết, bày bán chui ở các chùa lớn từ Từ Đàm Huế tới chùa Dược Sư Gia
Định và xuống tận Sắc Tứ Tam Bảo Tự ở Hà Tiên cùng chợ sách Nguyễn
Thị Minh Khai, (ngoại trừ bộ Phật giáo sử luận ba cuốn do NXB
Văn Học in đi in lại từ năm 1994, giữ nguyên cái tên Nguyễn Lang, và
cuốn nào cũng có chân dung tác giả mặc áo nâu ṣng ở b́a sau).
Trong chuyến về nước gần đây nhất, vào đầu năm 2005, tôi ghé thăm
anh Lan nhiều lần hơn; từ lúc tờ mờ sáng và ngồi chơi với anh mấy
buổi, với cảm giác bùi ngùi rằng đây có lẽ là đợt thăm viếng sau
cùng. Lúc nầy, người anh chỉ c̣n khoảng 35 ki-lô. Hai mắt gần như
mù. Ngồi một chút là phải nằm. Tai nghe không c̣n rơ. Tôi phải nói
lớn, tiếng vang ra ngoài sân. Chị Lan suỵt suỵt bảo nói nhỏ lại kẻo
“người ta nghe”. Anh Lan vừa lúc lắc đầu thở dài vừa cố uốn lưỡi hỏi
ư kiến tôi về chuyến Thầy Nhất Hạnh về nước. Tôi biết nói về phương
diện nào bây giờ. Chính trị hay tôn giáo. Cá nhân hay đại cuộc. Chỉ
c̣n nhớ bốn chục năm trước, việc Nguyễn Ngọc Lan và Thích Nhất Hạnh
chạy chung xe Honda, áo đen ông cha ngồi đằng trước và áo nâu nhà sư
ngồi đằng sau quyện vào nhau, cùng no gió trong trời Sài G̣n chan
hoà nắng là một h́nh ảnh quá đẹp, làm nức ḷng thanh niên sinh viên
chúng tôi thời ấy. Giờ đây, anh Lan nằm đây lặng lẽ trong khi Thầy
Nhất Hạnh hành cước khắp ba miền với lọng vàng và nhă nhạc. Tôi chỉ
muốn cầm tay anh Lan, ngồi im lặng thật lâu, nhưng các câu hỏi trệu
trạo của anh bắt buộc tôi t́m lời mà trả, lựa tiếng cho anh dễ nghe.
Lại không dám nói cho qua chuyện, sợ anh mắng. Tới giờ, chị Lan phải
bảo hai anh em tạm ngừng nói để chị đút cho anh ăn. Chỉ chai nước
biển đang truyền, chị kể với tôi rằng mỗi buổi sáng, hễ y tá của nhà
thương tới truyền nước biển vừa nhấc chân ra về, chị phải vội vàng
thay ngay chai nước, ống nhựa và kim truyền dịch khác, cho an toàn.
Chị lại nói anh Lan như vậy c̣n may, so với Nguyễn Trọng Văn, dạy
Triết ở Đại học Văn khoa Sài G̣n và là tác giả cuốn Phạm Duy đă
chết như thế nào, mới bị đột quị hôm qua.
* *
Kể từ ngày Hiệp định Paris được kư kết, phong trào đấu tranh xẹp hẳn,
cũng là lúc tôi ra trường vào nhận nhiệm sở dạy học ở Tuy Hoà. Sau
đó, nghe nói anh em kẻ bị bắt đưa ra Côn Đảo, kẻ nhảy núi. Năm kia,
đọc Trần Vàng Sao thấy loáng thoáng bóng của anh em ở miền Bắc.
Hai mươi sáu năm sau, về lại Huế, tôi chỉ có th́ giờ gặp và nói
chuyện nhiều với Thái Ngọc San. Trong số anh em tranh đấu, San thân
với tôi nhất. Hai đứa cùng tuổi, cùng quê Quảng B́nh và tôi từng có
thời viết cho tờ Ư thức do San làm đầu bếp, lúc San c̣n lưu
lạc ở Sài G̣n. Có lần v́ San, tôi suưt đi nằm nhà thương. Hôm đó,
h́nh như rằm tháng Tám, tôi không nhớ rơ năm nào. Tôi cũng không nhớ
rơ “mắc cái chứng ǵ” mà anh em phối hợp với chùa Diệu Đế và chùa Từ
Đàm tuyệt thực, băi khoá, biểu t́nh, lại c̣n bom xăng coctail
molotov nữa! Cảnh sát dă chiến nhận lệnh phải can thiệp, ném lựu đạn
cay và lập chốt đầu cầu Tràng Tiền. Tôi dùng phương tiện của Caritas
cứu trợ anh chị em đang ngất ngư v́ tuyệt thực và khói cay. Tới gần
trưa, San t́m tôi nói anh em nhờ tôi chở một ít bom xăng qua chùa
Diệu Đế v́ lúc này, bên ấy “hết bom” và anh em nói chỉ có tôi chở đi
may ra mới qua lọt. Tôi đồng ư với điều kiện phải rút hết giẻ mồi
lửa ra để riêng. Cột hai giỏ chứa đầy vỏ chai nước biển đựng lưng
lửng xăng vào hai bên tay lái xe Honda, tôi chạy tà tà từ Morin lên
cầu Tràng Tiền. May sao lúc đó, người cảnh sát đầu tiên “múa dùi
cui” lại là bạn thân của em trai tôi, nhận ra mặt tôi. Chỉ cần mấy
giây cây dùi cui của anh ta chững lại là tôi rạp ḿnh, búng tay côn,
vặn tay ga vọt tới đằng trước chạy thoát.
Lần này gặp lại nhau, chúng tôi không nhắc tới chuyện xưa hoặc các
chi tiết này nọ v́ dù xa nhau đă lâu mà chỉ như thể mới rời nhau hôm
qua. Cái đúng cái sai đă thuộc về quá khứ, được lịch sử đă và đang
trả lời. C̣n chuyện công và tội chỉ là chuyện đứng ở cuối sông ngóng
đầu sông hay ngồi ở bên này bờ ngó bên kia bờ. Vượt thời gian hun
hút và đường xa nửa địa cầu, nay may mắn gặp nhau, c̣n được ngồi với
nhau bên tách cà phê, nh́n nhau sau làn khói thuốc, chọc ghẹo nhau,
nói chuyện tào lao và cùng nhếch mép ngó nhau cười là rất sướng.
San đưa tôi hai cuốn thơ của Ngô Kha, một tặng và một nhờ chuyển cho
Tạp chí Thơ của Khế Iêm. Cầm tập thơ, nh́n h́nh tác
giả ở b́a sau, tôi nhớ những đêm chuyện tṛ tới khuya với anh trên
căn gác gỗ bên đường Bạch Đằng. Hễ lần nào đụng tới chuyện cách mạng
hay chính trị, cả hai lại căi nhau sùi bọt mép tới độ anh Kha đỏ kè
hai con mắt và tôi nổi cơn cà lăm. Thôi th́ bàn chuyện thơ sướng hơn;
tôi rất thích tập Hoa cô độc và đang t́m hiểu ảnh hưởng của
thơ Ngô Kha lên ca từ của Trịnh Công Sơn. Sáng hôm sau, một người
bạn sĩ quan cảnh sát hỏi tôi đêm qua cậu làm ǵ nói ǵ với Ngô Kha
mà ở tới khuya vậy. Tôi bảo làm và nói chuyện thơ. Thiệt không, thơ
với thẩn ǵ mà lâu lắc thế. Tội nghiệp chưa, nếu biết thơ là ǵ, anh
đă không đi cảnh sát. Cậu lại ghẹo tôi; coi chừng đấy; có đứa nó hỏi
khéo tôi, cậu có phải là CIA không đấy.
* *
Xưa nay tôi yêu quí người làm thơ và xem thường kẻ làm vè. Thơ là
tâm t́nh, cảm xúc và làm đẹp chữ nghĩa. Thơ viết lên chỉ để đọc và
đọc với tâm hồn. Vè là những bài bắt chước thơ, nhằm bày tỏ lập
trường, mưu cầu danh lợi hoặc để cổ động quần chúng. Dù có núp dưới
h́nh thức thơ (bảy chữ, sáu tám...) và được viết với kỹ thuật thượng
thừa, một số bài của Tố Hữu, của Chế Lan Viên... cũng chỉ là những
bài vè. Sống nhằm thời buổi các thủ lănh toàn trị nhất quyết lănh
đạo văn nghệ và rất chuộng loại “thơ Đông Thi” đó nên thi sĩ chỉ c̣n
cách xin được đi khỏi thành phố, cùng Bùi Giáng lên đồi chơi với
chuồn chuồn châu chấu.
Những người tôi quen biết có tham gia phong trào SVHS tranh đấu ở
Huế hầu hết là người làm thơ: Thái Ngọc San, Ngô Kha, Vơ Quê, Đông
Tŕnh, Trần Đ́nh Sơn Cước, Lê Gành, Lê Văn Ngăn, Nguyễn Hoàng Thọ,
Lê Nhược Thủy, v.v. Tôi tin vào ḷng chân thành và hồn nhiên của thi
sĩ. Tuy họ từng tin vào MTGPMN – là cái không có thật – nhưng niềm
tin của họ có thật, và giá trị của các tiếng độc lập, tự do, quyền
sống, quyền tự quyết, hoà b́nh, dân chủ, hoà hợp hoà giải dân tộc...
là có thật. Và v́ những tiếng đó họ đă thật sự đổ mồ hôi xương máu,
nhiều hoặc ít. So với CPLTCHMNVN và Liên minh Dân tộc Dân chủ và Hoà
b́nh chỉ là hai danh sách thuần tuư, “phong trào” thanh niên SVHS có
những sinh hoạt thật. Cuộc cách mạng họ tham gia dẫu có bị lừa đảo,
có bị phản bội hoặc có bị làm ra ô uế tới mấy đi nữa nhưng không
phải v́ thế lư tưởng, sự hy sinh và mục tiêu chiến đấu của họ không
có giá trị và bản thân họ không đáng được tôn trọng. Đảng không thể
phủ nhận các giá trị đó khi chính Đảng đă phải đưa tên nhiều người
trong họ vào Quốc hội đầu tiên sau năm 1975, dù để vẽ vời cho xôm tụ
trước mắt quần chúng. Và ngày nay, thỉnh thoảng “phong trào” của họ
lại được Đảng đem ra tŕnh diễn, cá nhân họ được mời lên sân khấu
tặng hoa, giao lưu, để Đảng làm tṛ quỉ thuật đánh bóng cho chế độ
và làm hoa mắt các thế hệ trẻ. Tuy bị đối đăi như những “h́nh bóng”
dùng để tuyên truyền, nhưng ít nhất tự thân họ cũng đă truyền được
ít nhiều lửa cho hai tờ báo “khá nhất nước” hiện nay là Thanh
niên và Tuổi trẻ ở Sài G̣n.
Họ thuộc “thế hệ sáu mươi”, những kẻ sinh sau Thế chiến Hai và có
mặt trong các hoạt động thanh niên trên khắp thế giới vào thập niên
1960. Việc họ dấn thân vào thời điểm ấy là chuyện tự nhiên, không
cần tới cái gọi là sự khai thác tinh tế, vận dụng khéo léo hoặc lănh
đạo sáng suốt của bất cứ ai. “Thế hệ sáu mươi” ấy năng động làm
thành các phong trào thanh niên SVHS Hoa Kỳ đấu tranh chống kỳ thị
chủng tộc, làm thiện nguyện quốc tế, thời Tổng thống Kennedy, tại
Pháp với cuộc băi khoá của sinh viên và đ́nh công của nghiệp đoàn,
rồi tại Ba Lan, Tiệp Khắc, Á Phi, Châu Mỹ La tinh… và cay đắng thay,
tại Trung Quốc với Vệ binh Đỏ. Ngoài ra c̣n có, các phong trào phản
chiến, hippy... Tôi không thấy “thế hệ sáu mươi” ấy trồi lên mặt nổi
ở miền Bắc. Miền Nam th́ có Thanh niên Chí nguyện, Thanh niên Thiện
chí, Thanh niên Phụng sự Xă hội, Phong trào Du ca, Chương tŕnh Sinh
hoạt Học đường, Chương tŕnh Phát triển Quận 8, các đoàn thể thanh
niên Hướng đạo, Công giáo, Phật giáo, Cao Đài, rộ lên hơn bao giờ
hết, v.v. và cao điểm là các đợt đấu tranh của thanh niên SVHS gần
như suốt thập niên 60 ở thành thị miền Nam. Đó là một hiện tượng có
tính quốc tế đă và đang được nhiều người nghiên cứu; có kẻ bảo đó là
thời điểm bùng nổ khó hiểu của năng lượng vũ trụ. Từ mười năm nay,
“thế hệ sáu mươi” đó đang ở độ tuổi lănh đạo các quốc gia vào khoảng
giao thời giữa hai thiên niên kỷ.
Bên cạnh cuộc nhất thống sơn hà, cướp chính quyền và giữ chính quyền
của người cộng sản chính thống, chuyên nghiệp và cao cường, giữa
những anh em “phong trào” ấy và tôi có chung nhau một chữ ngoại.
Họ ngoại vi c̣n tôi ngoại đạo. V́ ngoại đạo nên cuối
cùng tôi đành phải bỏ nước. V́ ngoại vi nên từ sau năm 1975, Đảng
khôn ngoan giữ họ măi măi nằm yên bên lề hệ thống cốt lơi của Đảng.
Đảng chỉ sử dụng họ làm công tác mặt trận, quần chúng: rất nhàn rỗi
nhưng không quyền hành, ít lợi lộc và hầu như không có cơ hội thăng
tiến. Đảng không thể nào tin họ v́ họ gốc thành thị miền Nam, có
tŕnh độ học vấn vững vàng và tư duy độc lập, chân chính lư tưởng,
loại tiểu tư sản tạch-tạch-sè (nghe như tiếng súng nổ liên thanh!).
Ngay cả những đảng viên chính thống trung cao và cao cấp từng trải
qua nhà tù “Mỹ-nguỵ” cũng bị Đảng ngờ vực và cho nghỉ hưu.
Tôi mừng cho những anh em ấy v́ không ở trong các cơ quan trọng điểm
nên họ không bị biến chất và tôi được giữ măi h́nh ảnh đẹp của bằng
hữu. Tôi buồn cho đất nước v́ những người “thế hệ sáu mươi” có lư
tưởng, hào hùng và tài hoa như họ là tài nguyên quí hiếm, là tiềm
năng của dân tộc. Lư ra ngay từ sau năm 1975, Đảng phải trân quí,
bồi dưỡng cho họ và những người từng hoạt động với họ trở thành
những viên chức có tâm có tài, góp phần điều hành hữu hiệu guồng máy
của Đảng và nhà nước ở cấp cao. Nhưng nói thế chẳng qua cũng chỉ để
mà nói. Ba mươi hai năm nay cho thấy thực tế ngược lại. Khi lâm trận,
Đảng động viên mọi người ra tuyến đầu đánh giặc và Đảng lănh đạo;
khi thắng trận, kiểm điểm công tác, Đảng thấy rằng “Ta đă cho ‘chúng
nó’ tham gia trận đánh, được chia phần vinh quang và trí tuệ của Ta,
là may mắn lắm rồi, được thế là trên cả tuyệt vời rồi!”
Có lẽ v́ vận nước c̣n bị ố như nước cốt trầu nên phải khốn khó cho
đủ tám chục năm, ngang với quăng thời gian bị thực dân trắng đô hộ.
Trên con đường dài sáu chục năm nay, từ chế độ “cách mạng” tiến tới
toàn trị rồi hoá thành phong kiến thị tộc của Đảng, những nhóm Thanh
Nghị, Đảng Dân chủ, Đảng Thanh niên, Vũ Đ́nh Hoè, Đào Duy Anh, Vũ
Đ́nh Huỳnh, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Khắc Viện, Trần Đức Thảo, Phan
Khôi, Nguyễn Hữu Đang... các thi văn nhạc sĩ nghệ sĩ, các trí thức
được các trường Pháp tại thuộc địa đào tạo hoặc du học phương tây về,
v.v. cho tới thành phần trí thức sinh viên “tiến bộ” ở thành thị
miền nam, tất cả phải biết rằng Đảng chỉ xem họ, suốt đời, là quần
chúng nhân sĩ, và Đảng có quyền “tuỳ nghi xử lư” họ trong giới hạn
thân phận ấy. Nhận biết điều đó, tôi tin rằng các bạn của tôi sẽ
tiếp tục giữ được ḿnh, v́ thời nay sống với Đảng c̣n nguy hiểm hơn
cha ông chúng ta thời xưa sống gần vua, nghĩa là c̣n hơn kề miệng
cọp.
|