Vụ án Lệ Chi viên
Ngày 1/9/1442, vua Lê Thái Tông, đi duyệt vơ ở Chí Linh, trên đường
về ghé vào Côn Sơn thăm Nguyễn Trăi. Nguyễn Trăi có một người vợ lẽ
là Nguyễn Thị Lộ vừa đẹp vừa hay chữ, từng được Thái Tông vời vào
triều phong chức Lễ Nghi học sĩ giữ công việc dạy cung nữ và giảng
sách cho vua. Trước khi Thái Tông đến Côn Sơn, Thị Lộ đă về đấy thăm
Nguyễn Trăi. Lúc vua rời Côn Sơn, Thị Lộ được lệnh theo nhà vua về
triều.
Ngày 7/9, xa giá Thái Tông đến Lệ Chi viên (tục gọi là Trại Vải) ở
làng Đại Lai, huyện Gia B́nh, tỉnh Bắc Ninh. Đêm ấy, vua bị cảm, đến
sáng th́ mất. Các quan hộ giá giữ kín, đến ngày 9/9/1442 mới rước
linh cữu vua về Thăng Long, rồi báo tin cho nhân dân cả nước biết.
Ngay sau đó, Thị Lộ bị bắt. Nguyễn Trăi đang đi kiểm tra ở Đông Bắc,
được tin Thái Tông mất, vội trở về Triều cũng bị bắt và bị buộc tội
đồng mưu với Thị Lộ để giết vua.
Ngày 19/9/1442, Thị Lộ và Nguyễn Trăi bị tru di tam tộc (a). Sử thần
Ngô Sĩ Liên ghi rằng: “V́ yêu Thị Lộ mà Thái Tông bị thiệt thân”.
Chú thích: - (a) Tru di tam tộc: giết ba họ (họ cha, họ mẹ,
họ vợ).
Vậy, tông tích Thị Lộ - Nguyễn Trăi thế nào? Có phải Thị Lộ thật sự
đă giết Thái Tông, và đă có ảnh hưởng ǵ đến cuộc trị v́ của nhà vua
không?
Tông tích Nguyễn Thị Lộ (1390-1442)
Nguyễn Thị Lộ vốn là con nhà có học thức, quê làng Hải Triều, một
làng làm chiếu có tiếng, nay thuộc xă Phạm Lễ xưa thuộc huyện Ngự
Thiên, (Thái B́nh). Tương truyền, năm 1406, khi Nguyễn Trăi (26 tuổi)
đang làm quan nhà Hồ, gặp Thị Lộ (16 tuổi) ở Vũ Lăng, thấy xinh đẹp,
liền ứng khẩu:
Ả ở đâu mà bán chiếu gon,
Chẳng hay chiếu bán hết hay c̣n?
Xuân xanh nay độ bao nhiêu tuổi?
Đă có chồng chưa được mấy con?
Thị Lộ cũng ứng khẩu đáp lại:
Tôi ở Tây-hồ bán chiếu gon,
Cớ chi ông hỏi hết hay c̣n?
Xuân xanh tuổi độ vừa đôi tám,
Chồng c̣n chưa có, có chi con!
Nguyễn Trăi yêu v́ tài nên lấy làm thiếp. Thị Lộ không có con với
Nguyễn Trăi, xin cháu của Ngô Từ là Ngô Chi Lan làm con nuôi. Ngô
Chi Lan đổi tên là Nguyễn Hà Huệ, sau làm Lễ Nghi học sĩ trong cung
Lê Thánh Tông, chồng là Phù Thúc Hoành, làm Bác sĩ giảng kinh sử
Quốc Tử Giám. (1)
Lai lịch Nguyễn Trăi (1380-1442)
Nguyễn Trăi gốc làng Nhị Khê, tỉnh Hà Đông, sinh năm 1380 ở Thăng
Long, tại nhà ông ngoại là quan Tư-đồ Trần Nguyên Đán. Nguyên Đán có
hai gái là Thái và Thai, nuôi hai nho sinh là Nguyễn Ứng Long dạy
Thái, và Nguyễn Hán Anh dạy Thai. Hai thầy gian díu với hai học tṛ.
Thái có chửa, Ứng Long sợ bỏ trốn. Nguyên Đán gọi về, tha tội, và gả
con cho. (2)
Sau hai người đều thi đỗ. Ứng Long, cha Nguyễn Trăi, đỗ bảng nhăn
(1374)(3) mà Thượng hoàng Trần Nghệ Tông không cho làm quan, v́ tội
“thường dân mà thông dâm lấy con gái tông thất”, nên phải về Nhị Khê
sống nghề dạy học.
Thời ấy, Lê Quí Ly, được Thượng-hoàng Nghệ Tông sủng ái, sàm tấu
giết hại nhiều người, cả vua chúa vương thân cũng không trừ. Duy có
Trần Nguyên Đán toàn gia được yên ổn, nhờ biết lo xa, kết thân gia
với Lê Quí Ly.
Năm 1400, Quí Ly truất phế vua Trần Thiếu đế, chiếm ngôi, mở khoa
thi Thái học sinh, Nguyễn Trăi thi đỗ ra làm quan, bổ làm Chánh
chưởng đài Ngự sử. Năm 1402, Ứng Long đổi tên là Phi Khanh, cũng
quan với nhà Hồ, với chức Hàn Lâm học sĩ.
Năm 1407, quân Minh mượn cớ phù Trần diệt Hồ để xâm chiếm nước ta.
Hồ Quí Ly bị thua. Cuối tháng sáu năm 1407, giặc Minh bắt được cha
con Hồ Quí Ly và một số quan, tướng trong đó có Phi Khanh, cha của
Nguyễn Trăi, giải về Kim Lăng. Nguyễn Trăi theo cha đến điếm Vạn Sơn
(tỉnh Hồ Bắc), rồi tuân lời cha trở về nước lo “trả thù nhà, rửa
nhục nước”, để em là Phi Hùng ở lại nuôi cha.
Theo Nhân Vật Chí của Phan Huy Chú, Trương Phụ ép Phi Khanh viết thư
gọi con, Nguyễn Trăi bắt đắc dĩ phải ra tŕnh diện. Trương Phụ dụ
Nguyễn Trăi ra làm quan không được, muốn giết, Hoàng Phúc can và tha
song buộc Nguyễn Trăi phải ở Đông Quan, là nơi có đại bản doanh của
chúng. Sau khi thoát ra khỏi Đông Quan, sau đó, Nguyễn Trăi làm ǵ?
ở nơi nào?
Măi đến khoảng 1416/1417, có tin Lê Lợi ở Thanh Hóa chuẩn bị mộ quân
đánh giặc Minh, Nguyễn Trăi và em họ, Trần Nguyên Hăn, đến ra mắt.
Nhưng Hăn thấy Lê Lợi “có tướng như Việt vương Câu Tiễn, chỉ có thể
giúp trong lúc hoạn nạn, không thể ở với nhau khi sung sướng”, nên
cả hai bỏ ra về. Trong chuyến nầy có Thị Lộ cùng đi, phong cách lúc
nào cũng tươi cười, nhẫn nại, hoạt bát, đoan chính, được mọi người
kính nể. (4)
Thời gian sau, có tin Lê Lợi đứng lên khởi nghĩa, Nguyễn Trăi và
Nguyên Hăn vào Lỗi Giang t́m Lê Lợi lần nữa (1420). Lần nầy, Hăn
“lén thấy Lê Lợi uy nghiêm, khí tượng thay đổi “, bấy giờ Hăn mới
dâng kiếm báu của nội tổ là Trần Quang Khải, c̣n Nguyễn Trăi dâng
B́nh Ngô sách, chủ trương “đánh vào ḷng người” cuối cùng sẽ thắng.
Lê Lợi khen hay, dùng Nguyễn Trăi làm Hàn Lâm Thừa Chỉ, coi việc
thảo văn thư, chiếu hịch, tham dự bộ tham mưu, và dùng Hăn làm quan
vơ.
Trong thời kháng chiến, Lê Lợi và các quan tướng thường đem vợ con
theo, nên khi Nguyễn Trăi thảo thư từ, chiếu hịch đều có Thị Lộ bên
cạnh giúp việc sửa chép. (5)
Năm 1428, kháng chiến toàn thắng, Nguyễn Trăi được tước hầu, làm
Thượng thư bộ Lại (coi về nhân viên, quan lại). Nhưng năm sau v́
liên can với Trần Nguyên Hăn, (bị vua nghi, sai người bắt giết, Hăn
nhảy sông tự tử), nên Nguyễn Trăi bị tù. Nhờ các đại thần can thiệp,
Trăi được tha ra, làm quan lại một thời gian, rồi xin nghỉ việc về
Côn Sơn.
Năm 1433, Lê Lợi mất, Nguyên Long 10 tuổi, kế ngôi (Lê Thái Tông).
Lê Sát làm đại tư đồ. Nguyễn Trăi được Thái Tông, theo di mệnh của
Thái Tổ, gọi ra phụ chính, chức Gián nghị đại phu. (6)
Theo Toàn Thư tục biên, Lê Sát thấy Thái Tông c̣n nhỏ, thích chơi
bời, lười biếng học tập, liền lập một ban văn thần, trong số đó có
Nguyễn Trăi, để thay phiên vào ṭa Kinh Diên dạy vua. Cả bọn đều bị
Thái Tông đuổi về. Sau đó, Lê Sát bị khép vào tội lộng quyền, vua
cho được tự tử tại nhà.
Trước t́nh trạng ấy, năm 1438, Thái bảo Ngô Từ đưa ra ư kiến có lẽ
Thị Lộ dịu dàng khéo léo, học giỏi, văn hay, may ra có thể giúp nhà
vua chăm chỉ học hành. Sau khi hội ư với Nguyễn Trăi, Thị Lộ, Ngô Từ
đưa Thị Lộ vào chầu Thái Tông, được vua nhận, phong làm Lễ Nghi học
sĩ, ngày đêm kề cận tin dùng. (7)
Nguyên nhân sâu xa vụ án Lệ Chi viên
Trong số năm bà vợ của Lê Lợi, có bà phi Nguyễn Thị Anh sinh ra Băng
Cơ được phong làm thái tử. Bà phi Ngô Thị Ngọc Dao (con gái của Ngô
Từ) đang có mang, chiêm bao thấy Ngọc Hoàng sai một vị tiên xuống
đầu thai vào ḿnh. Thị Anh sợ rằng một khi bà Ngọc Dao sinh quí tử,
sẽ chiếm ngai thái tử của Băng Cơ, nên vu cho Ngọc Dao dính líu đến
một việc bùa ngăi, xui vua Thái Tông khép Ngọc Dao vào tội “bị voi
giày”.
Nguyễn Trăi bảo Thị Lộ khuyên Thái Tông đừng nghe lời xúc xiểm mà
làm việc thất đức. Vua đồng ư, cho phép Thị Lộ đem Ngọc Dao giấu ở
chùa Huy Văn. Vài tháng sau, bà Ngọc Dao sinh ra một người con trai,
vua đặt tên là Tư Thành (vua Lê Thánh Tông sau nầy). Để tránh khỏi
Nguyễn Thị Anh mưu hại, Nguyễn Trăi đưa hai mẹ con bà Ngọc Dao ra
An-bang (Quảng-ninh ngày nay).
Từ đấy bà Nguyễn Thị Anh thâm thù Nguyễn Trăi và Thị Lộ. Vừa xảy ra
vụ Thái Tông đột ngột mất ở Lệ Chi viên, Băng Cơ mới 2 tuổi, nối
ngôi (tức là Lê Nhân Tông), Thị Anh được ngồi sau rèm nhiếp chính,
liền hùa với bọn gian thần ra lệnh tra tấn Thị Lộ cực kỳ dă man. Thị
Lộ phải nh́n nhận đă cùng Nguyễn Trăi âm mưu giết vua. Cả hai cùng
thân thuộc bị trảm quyết.
Sau có tin đồn trước đây Nguyễn Trăi dọn vườn có giết một bầy rắn
con, nay rắn mẹ hiện h́nh thành Thị Lộ để báo oán, cũng như xưa, bên
Tàu, sau khi giết Dương Quí Phi người ta cũng bảo Dương thị là một
hồ ly tinh hiện h́nh lên báo hại vua Đường.
Ai đă giết Lê Thái Tông ?
Năm 1459, Nhân Tông (Băng Cơ) và Từ Tuyên Thái hậu (Nguyễn Thị Anh)
bị hoàng tử Nghi Dân giết để tiếm ngôi. Trong một bài chiếu, Nghi
Dân có nói: “Trẫm là con trưởng của Thái Tông Văn hoàng Đế, trước
đây đă được giữ ngôi chính ở Đông Cung. Chẳng may Tiên đế đi tuần về
miền đông, bỗng băng ở bên ngoài. Nguyễn Thái hậu muốn giữ vững
quyền vị, ngầm sai nội quan Tạ Thanh dựng Băng Cơ làm vua, bắt trẫm
làm phiên vương. Sau Tạ Thanh tiết lộ việc ấy, lây đến Thái úy Trịnh
Khả và Tư không Trịnh Khắc Phục, Thái hậu bắt giết cả để diệt hết
người nói ra.” (8)
(Tạ Thanh là một thái giám hộ giá Thái Tông trên đường về Thăng
Long, tối hôm 9/9/1442. Thái Tông bị cảm, phải nghỉ lại Lệ Chi viên.
Ngự y chưa tới kịp. Thị Lộ túc trực săn sóc vua. Bọn thái giám Tạ
Thanh, Lương Dật chạy biến đi mất, nói là đi t́m thầy thuốc địa
phương, sáng mới về, vua đă tắt thở. Sau đó, Tạ Thanh tố cáo Thị Lộ
giết vua, và bắt giam. Rồi hai tướng Đinh Liệt và Trịnh Khả đứng lên
tuyên bố Thái Tông đă lập Băng Cơ làm thái tử và ủy thác Trịnh Khả
phụ chính.)
Đến năm 1464, đời Lê Thánh Tông, (1460-1497) vua xuống chiếu tẩy oan
cho Nguyễn Trăi, truy phong chức Đặc tiến kim tử Vinh Lộc đại phu,
tước Tán trù bá và cho người con duy nhất trốn thoát nạn là Nguyễn
Anh Vũ làm tri huyện, và cấp cho họ Nguyễn một trăm mẫu ruộng để lo
việc thờ cúng.
Nhưng không thấy vua ra lệnh truy lại xem ai đă giết Thái Tông. Có
lẽ v́ Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao khi thuật lại chuyện cũ, có dặn vua
Thánh Tông rằng: “Chính Nguyễn Thị Anh đă ngầm sai Tạ Thanh bỏ thuốc
độc cho Thái Tông chết, nhưng con nên giữ kín việc ấy”. (9)
Ngày nay, Bùi Văn Nguyên trong “Con người Nguyễn Trăi”, cũng cho
rằng: “Bọn gian thần phía bà phi Nguyễn Thị Anh âm mưu giết hại Lê
Thái Tông, Nguyễn Trăi, Nguyễn Thị Lộ để giành ngôi vua cho Băng Cơ
(Lê Nhân Tông) khỏi rơi vào tay của Tư Thành (tức sau là Lê Thánh
Tông), người được Nguyễn Trăi và Thị Lộ ủng hộ. Đó chính là nguyên
nhân sâu xa của vụ án Lệ Chi viên.” (10)
Nguyễn thị Lộ cảm hoá Thái Tông
Trong 4 năm (1438-1442), nhờ có sự hướng dẫn của Thị Lộ, mà Thái
Tông đă trị v́ một cách khoan từ sáng suốt. Sử thần Vũ Quỳnh khen:
“Thị Lộ đă cảm hóa được Lê Thái Tông, thuyết phục vua chăm chỉ đèn
sách, lại giúp vua nhiều ư kiến để sửa trị nước. Cậu bé bất trị nay
đổi thành một “minh quân” khác hẳn trước. [...] Ngài lại thể theo
ḷng trời đất nuôi sống muôn loài, ban hành “chính sách xót thương
bất nhẫn” của bậc đế vương, xử kiện xét tù phần nhiều khoan thứ. Đức
“hiếu sinh” của ngài là đức của vua Thuấn xưa.” (11)
Được như thế, phải chăng là nhờ Thị Lộ thường xuyên nhắc nhủ Thái
Tông về nhân nghĩa, mà Nguyễn Trăi đă có dịp tŕnh bày với vua trong
vụ xử bảy tên vị thành niên ăn trộm tái phạm, năm 1435, h́nh quan
chiếu luật đáng tội chém. Thái Tông đem việc ấy hỏi Nguyễn Trăi.
Trăi trả lời:
“Pháp lệnh không bằng nhân nghĩa, cũng rơ lắm rồi. Nay một lúc giết
bảy người, e không phải là hành vi của bậc đại đức. Kinh Thư có câu:
“An nhữ chỉ ” (hăy yên với chỗ đứng của ḿnh), sách Truyện có câu:
“Tri chỉ nhi hậu hữu định” (biết dừng th́ rồi mới vững). Thần xin
thuật lại nghĩa của chữ “chỉ” để bệ hạ nghe: “Chỉ ” có nghĩa là yên
với chỗ đứng của ḿnh, như trong cung là chỗ đứng của bệ hạ, thỉnh
thoảng bệ hạ có ngự ra chỗ khác, cũng không thể ở đó măi, phải trở
về trong cung, th́ mới yên chỗ đứng của ḿnh được. Người làm vua đối
với nhân nghĩa cũng vậy, phải để ḷng nơi nhân nghĩa, coi nhân nghĩa
là chỗ đứng của ḿnh. Tuy có lúc ra oai giận dữ, nhưng không phải
như thế măi được, xin bệ hạ lưu ư những lời của thần.” (12)
Vấn đề thân t́nh giữa Thái Tông và Thị Lộ
V́ Thái Tông tỏ ra thân mật, khăng khít ngày đêm tṛ chuyện với Thị
Lộ, nên có nhiều dị nghị cho rằng: “Lê Thái Tông hồi 17, 18 tuổi đă
thông dâm với vợ lẽ của Nguyễn Trăi là Nguyễn Thị Lộ.” Có biết đâu
t́nh cảm mà Thái Tông giành cho Thị Lộ đă bắt nguồn từ một cội rễ
thiêng liêng hơn.
Nguyên năm 1425, trong thời gian đang đánh nhau với quân Minh, Lê
Lợi nằm mộng thấy thần “Cá Quả” đến nói “Xin tướng quân cho một
người thiếp th́ nguyện giúp tướng quân đánh được giặc Ngô mà thành
nghiệp đế”. Ngày hôm sau, Lê Lợi gọi các thiếp đến hỏi ai bằng ḷng
làm vợ của thần “Cá Quả”, ta được thiên hạ sẽ truyền cho con của
người ấy làm vua. Bà Phạm thị Ngọc Trần (mẹ của hoàng tử Nguyên
Long, nay là Thái tông, lúc đó mới 2 tuổi) thưa: “Nếu ngài giữ lời
ước th́ thiếp xin nhận. Ngày sau xin đừng phụ mẹ con thiếp” (13). Lê
Lợi giao ước với các quan văn vơ y như lời ấy. Ngày 24 tháng 3 âm
lịch 1425, sai lập đàn tế thần, dâng bà phi họ Phạm làm tế vật. Bà
phi mặc áo quần lộng lẫy, bịt mắt lại, lên ngồi trên chiếc thuyền
nan bằng giấy. Thuyền được thả theo ḍng sông Lam và ch́m dần dần,
trong tiếng nhị, tiếng sáo điệu Nam Ai sầu năo, cùng trong tiếng
khóc nức nở của các phi tần và của Nguyễn Thị Lộ, thiếp của Nguyễn
Trăi. Về sau, giữ lời ước ấy, Lê Lợi truyền ngôi cho Nguyên Long, (tức
là vua Lê Thái Tông).
Nguyên Long mồ côi mẹ từ lúc 2 tuổi, phải nhờ một bà phi chăm sóc,
tất nhiên đă cảm thấy thiếu thốn, thèm khát t́nh “mẫu tử” từ lâu.
Nay gặp được Thị Lộ cùng một lứa tuổi với mẹ ḿnh (năm 1438, Thị Lộ
48, Thái Tông 15 tuổi), lại là một người đă quen biết, đă chung sống
với mẹ ḿnh, đă chứng kiến thảm cảnh mẹ ḿnh hy sinh mạng sống để
ḿnh được lên ngôi vua ngày nay, tự nhiên cậu bé mồ côi mẹ kia không
khỏi vô cùng xúc động. Thường t́nh, ở vào địa vị ấy, ai cũng phải ṭ
ṃ muốn hỏi cho rành rọt về mọi việc liên quan đến mẹ ḿnh. Tất cả
t́nh thương đối với người quá cố, có lẽ nhà vua đă dồn hết vào Thị
Lộ, coi như một bà d́ ruột, vớt vát lại những ǵ đă mất mát từ thuở
bé thơ. C̣n về sau, khi Thái Tông đến tuổi 17, 18, sáng chiều nam nữ
cận kề, thật cũng khó mà tránh khỏi bị tiếng đời dị nghị. Đó là điều
mà Ngô Từ, cũng như Nguyễn Trăi, Thị Lộ cũng đă thấy trước rồi.
Nhận xét
Nhưng “ngộ biến phải ṭng quyền”. Theo Mạnh-tử, “quyền” là cân nhắc
cho rơ nặng nhẹ, để lựa bên nào nặng, bên nào nhẹ mà xử trí cho đúng
cân trung b́nh. Trong đạo quân tử, “tùy thời” th́ cũng phải “ṭng
quyền”: Một bên để vua ăn chơi thất học, trị v́ vô đạo, cả nước sẽ
bị nguy khốn, một bên tạo ra hoàn cảnh giúp vua học hỏi nhưng không
khỏi khiến vua có thể bị mang tiếng có tư t́nh với vợ lẽ của bầy tôi.
Nếu chỉ “chấp nhất” giữ cho đúng cái ta gọi là “đạo lư tầm thường”
mà làm hư đại sự, th́ Mạnh-Tử cho rằng “cách chấp nhất như thế là
đáng ghét”, v́ nó làm cho hại mất chân đạo lư, chỉ là làm nổi một
việc nhỏ mà bỏ hết trăm việc lớn.” (14)
Cha con Nguyễn Trăi đă làm quan với nhà Hồ ngụy triều. Ông ngoại
Nguyễn Trăi, tông thất nhà Trần mà phản lại nhà Trần, theo nhà Hồ,
bị dư luận đương thời chê trách. Lê Lợi hẳn phải biết rơ lai lịch
của Nguyễn Trăi, nhưng vẫn dùng. Nhà vua chủ trương thu nạp tất cả
nhân tài, kể cả những người đă “làm phản”. (15) Nguyễn Trăi dâng
B́nh Minh sách, Lê Lợi khen hay, dùng Nguyễn Trăi trong việc soạn
thảo văn từ chiếu chỉ, nhưng trong bảy năm đầu (1418-1424) chiến
lược “đánh vào ḷng người” theo B́nh Minh sách của Nguyễn Trăi, vẫn
chưa hề giúp quân Lam Sơn đánh tiến xa ra khỏi vùng núi Chí Linh
được lần nào. Phải đợi đến cuối năm 1424, tại hội nghị Lam Sơn, có
tướng Nguyễn Chích tŕnh bày “chiến lược hai hồi” (là vào đánh Nghệ
An trước, rồi đánh ra Đông Quan sau), th́ chừng đó Lê Lợi mới chuyển
từ đại bại thành ra đại thắng. (16)
Nhờ bắt được một mật thư của Vương Thông gửi về vua Minh, ta biết
được quân Minh ở thế phải cầu ḥa. Các tướng sĩ xin Lê Lợi tấn công
tận diệt địch để trả thù rửa hận. Nguyễn Trăi can không nên kết thù
với nhà Minh quá sâu, thế nào chúng cũng sang đánh nữa, chiến tranh
biết bao giờ cho dứt được. Tốt hơn là nên t́m cách dụ hàng để tiết
kiệm sinh mạng của quân sĩ đôi bên. Ta sẽ mở đường cho Vương Thông
rút quân mà y vẫn giữ được sĩ diện. Ta tuyên bố đă t́m được Trần Cảo
con cháu nhà Trần làm vua. Vua Trần nầy sẽ sai sứ cầu phong, và xin
thực hiện đúng theo lời hứa của vua Minh trước đây là: “phù Trần,
diệt Hồ xong sẽ rút quân về Tàu”. Trên lập luận ấy Nguyễn Trăi đă
viết thơ chiêu dụ địch, cuối cùng Vương Thông mở cửa thành ra hàng
dưới danh nghĩa giảng ḥa, cùng quân ta uống máu ăn thề, rồi rút
quân về nước.
Về sau, Trần Cảo sợ, bỏ trốn, bị bắt nên tự tử. Vua Minh đ̣i cho
được con cháu nhà Trần làm vua, Lê Lợi trả lời t́m không c̣n ai. Măi
đến cuối năm 1431, nhà Minh mới nhận phong Lê Lợi làm vua.
Nguyễn Trăi sống trong hoàn cảnh nước nhà tam phân ngũ liệt, mà
chính nghĩa, chính thống thay đổi tùy theo thế “được làm vua” hay
“thua làm giặc”. Vừa lớn lên th́ nhà Trần bị mất, Nguyễn Trăi thi
đậu ra làm quan với nhà Hồ. Quí Ly có một số sáng kiến cải thiện xă
hội nhưng chưa kịp thực hiện, th́ nước bị ngoại xâm. Trong thời gian
quân Minh chiếm nước ta, Nguyễn Trăi không tham gia (đúng hơn là
“không thể” tham gia) với nhóm khởi nghĩa nào, v́ tất cả các nhóm ấy
đều nêu danh nghĩa “phù Trần diệt Hồ” mà cả nhà Nguyễn Trăi đă làm
quan và được hậu đăi dưới triều nhà Hồ, nên bị cho là thành phần “ngụy”.
Đến khi Lê Lợi khởi nghĩa xưng B́nh Định vương ở miền Trung, không
dính líu ǵ đến những biến cố xảy ra trong cung triều nhà Trần ngày
trước ở miền Bắc, th́ Nguyễn Trăi và em họ là Trần Nguyên Hăn, mới
đến xin gia nhập vào nhóm khởi nghĩa Lam Sơn. Mặc dầu biết trước Lê
Lợi là người “chỉ có thể giúp trong lúc hoạn nạn, không thể ở với
nhau khi sung sướng”, nhưng trước nạn ngoại xâm, cả hai thấy cần
phải tham gia để kháng chiến giải phóng đất nước.
Bàn về các cách xuất xử của kẻ sĩ, Mạnh-tử nhận xét: Ông Bá Di, vua
chẳng đáng thờ th́ chẳng thờ, dân chẳng đáng trị th́ chẳng trị. Ông
Y Doăn cho rằng vua nào chẳng phải là vua ḿnh phục sự? dân nào
chẳng phải là dân ḿnh sai khiến? Cái trách nhiệm ḿnh đứng ra gánh
vác thiên hạ nặng nề như thế! Ông Huệ xứ Liễu Hạ chẳng lấy làm xấu
hổ mà phục sự một vua ô trược. Dẫu làm một chức quan nhỏ thấp, ông
cũng chẳng chê. Ba ông tuy đi khác đường với nhau, nhưng mục đích
vẫn là một. Đó là nói về ḷng nhân vậy. Người quân tử chỉ chú mục
điều nhân mà thôi. C̣n về hành động cần chi phải giống nhau. (17)
V́ chú mục đến điều “nhân” nên Nguyễn Trăi “phá chấp ṭng quyền”,
đưa Thị Lộ vào cung giảng sách cho Thái Tông, cảm hoá một thiếu quân
hung hăng thành một minh quân khoan từ, để ḿnh phải chịu tai tiếng
với đời. V́ chú mục đến đức “hiếu sinh”, nên khi quân ta đă nắm chắc
phần thắng lợi, Nguyễn Trăi đề nghị với Lê Lợi chấm dứt chiến tranh
bằng ngoại giao, tiết kiệm sinh mạng cho quân sĩ đôi bên. Và v́ chú
mục đến đức “hiếu sinh”, Nguyễn Trăi và Thị Lộ đứng lên cứu mạng mẹ
con hoàng tử Tư Thành (sau là Lê Thánh Tông), gây thù oán với bà phi
Nguyễn thi Anh, sinh ra vụ án Lệ Chi Viên, để rồi ba họ ḿnh phải bị
trảm quyết.
Nếu Nguyễn Công Trứ hết ḷng giúp vua, Cao Bá Quát đ̣i giết bạo chúa
để tôn minh quân, Nguyễn Khuyến rút lui không thờ vua nô lệ ngoại
bang, th́ Nguyễn Trăi tùy thời phá chấp, gặp vua đa nghi th́ nhẫn
nại đưa vua vào đường nhân nghĩa, gặp vua hung hăng th́ phá chấp (dùng
Thị Lộ) cảm hóa thành một vua khoan từ, hiếu sinh.
Bốn danh Nho trên đây, tuy cùng chú mục đến đức nhân của Khổng-tử,
nhưng trong hành động, lại xuất xử và thực hành khác nhau, v́ lẽ
thời thế, địa vị, chính kiến của các vị có phần không giống nhau.
Nhưng với giá nào?
Từ thời Trung cổ, Nho giáo đă giúp cho dân Hoa, Việt sớm tiến lên
tŕnh độ một xă hội có văn hiến, nhưng v́ bị bọn hủ Nho thời nhà
Tống xuyên tạc các lời dạy của Khổng Mạnh để phục vụ quyền lợi vua
chúa, nên về sau Nho giáo đă hóa thành một trở ngại cho bước tiến
chung của xă hội. Thời quân chủ xưa, (cũng như ở các chế độ phát xít,
cọng sản độc tài ngày nay), vận mệnh của đất nước, nhân dân tùy
thuộc vào ư muốn của một cá nhân. Khiến cho cuối cùng Nguyễn Trăi,
Thị Lộ là những người có công với đất nước, nhân dân, lại phải hóa
thành nạn nhân thê thảm trong lịch sử ta. Thảm nạn, mà chỉ có cách
thay đổi cơ cấu chính trị, bắt buộc nhà cầm quyền phải làm theo đúng
hiến pháp, luật lệ, mới mong tránh khỏi được mà thôi.
Tóm lại, Nguyễn Trăi là kẻ sĩ phóng khoáng tùy thời phá chấp, đă hy
sinh thực hành cho đúng với tôn chỉ của đạo Nho. Trong bức thư chiêu
hàng gửi cho Thái Phúc, tướng của nhà Minh, Nguyễn Trăi đă xác nhận:
“Kể ra kẻ sĩ cốt ở chổ gặp thời hay không, đạo xử thế cốt ở thực
hành được hay không.” Nhưng thực hiện được với giá nào?
Ngày xưa, trước hiện tượng bế tắc ấy, có lẽ Nguyễn Trăi đă từng kư
gửi tâm sự ḿnh vào bài “Tự thán” (tương truyền chính ông là tác giả)
sau đây:
Chiếc thuyền lơ lửng bên sông,
Biết đem tâm sự ngỏ cùng ai hay.
Chắc chi thiên hạ đời nay,
Mà đem non nước làm rầy chiêm bao !
Chú Thích
(1)- Bùi Văn Nguyên, Con người Nguyễn Trăi, Khánh-ḥa 1991,
tr.19.
(2)- Đại Việt Sử Kư toàn thư, q.VIII, nhà Trần, tr.[18b].
(3)- Bảng nhăn: Tiến sĩ đệ nhất giáp, đệ nhị danh.
(4)- Theo Đại Việt thông sử của Lê Quí Đôn, chép lại trong
Việt Sử đại cương của Phạm Ngọc Huyến, trang 75.
(5)- Phan Huy Chú, Lịch Triều Hiến Chương loại chí.
(6)- Lê Quí Đôn, Toàn Việt Thi lục.
(7)- Theo Hoàng Cơ Thụy, Việt Sử Khảo luận, Paris 1988, Tập
4, Đoạn 6 9- D.
(8)- Đại Việt Sử Kư toàn thư, quyển XI, kỷ nhà Lê, trang
[97b, 68a].
(9)- Hoàng Cơ Thụy, Việt Sử khảo luận, s.đ.d., T4, đ. 6 9-D.
(10)- Bùi Văn Nguyên, Con người Nguyễn Trăi, 1984, tr. 20.
(11)- Đại Việt Sử Kư toàn thư, quyển XI, trang [57b].
(12)- Đại Việt Sử Kư toàn thư, quyển XI, kỷ nhà Lê, tr. [25b,
26a].
(13)- Lam Sơn thực Lục, Nguyễn Trăi, quyển hai, đoạn đầu.
(14)- Phan Bội Châu, Khổng học đăng, Huế 1929, trang 643,
(15)- Đại Việt Sử Kư toàn thư, quyển VIII, nhà Trần, trang
[20a].
(16)- Hoàng Cơ Thụy, Việt Sử khảo luận, s.đ.d., tập 3, tr.
486
(17)- Mạnh-tử, Vạn chương, chg hạ, t. 1, Cáo Tử, chg sau, t.
6.
|