Nhà văn

Nguyễn Tầm Thường

 

Tin Mừng

 qua các thể-loại văn-chương

 

 

Nguyễn Vy Khanh

Canada

 

 

Trong văn-học Công-giáo Việt Nam, chúng ta đă quen biết những bài Văn, Kinh Sách, Truyện và Tuồng là những thể-loại đă xuất hiện từ thời mới có chữ quốc-ngữ từ những thế-kỷ XVIII, XIX. Thời trước 1975, các linh-mục Đổ Bá Ái, Hồng Phúc, Vũ Minh Nghiễm, v.v. đă để lại nhiều bài viết và sách rao giảng Tin Mừng và truyện các Thánh; rồi sau 1975, các hồng y Nguyễn Văn Thuận, giám mục Bùi Tuần, v.v. đă có những tác-phẩm suy niệm, chia sẻ về đức tin, giảng về Tin Mừng, về sống đạo, linh-mục Chu Quang Minh với bộ sách tâm lư về hôn nhân và gia đ́nh, LM Trần Cao Tường với nhiều bộ sách về nguồn đạo và Tin Mừng, v.v.

LM Nguyễn Tầm Thường xuất hiện cùng thời hoặc sau các vị vừa kể, nhưng đă đem lại một phấn khởi mới về học hỏi Tin Mừng, đă sử-dụng những h́nh thức hiện đại hơn: truyện ngắn, thơ, bút kư, nhật kư, suy niệm, và bài giảng trên mặt nhựa CD. Thi ca mảnh đất của tâm hồn, với hai tuyển tập T́nh Thơ Thập Giá, Mùa Hoa Trên Thánh Giá Gỗ. Truyện ngắn với bố cục tinh tế để lư trí giải bày có hai tập Đường Về Thượng Trí 1995 và Tiếng Gọi Phiá Bên Trong 1999. Suy niệm và cẩu nguyện để tâm linh siêu thoát: h́nh thức đề tài có Nước Mắt Và Hạnh Phúc 1989, Con Biết Con Cần Chúa 1994; h́nh thức đoản khúc gồm 100 đề tài suy niệm và cầu nguyện: Viết Trong Tâm Hồn 1996, Mùa Chay Và Con Sâu Bướm 1997, Cô Đơn Và Sự Tự Do 2001, Đựng Đi Một Ḿnh 2005. Thể bút kư đă xuất bản Những Trang Nhật Kư Của Một Linh Mục 2002. CD có các bộ Tỉnh Thức, Thánh Thể, Bí Tích Ḥa Giải, Tôi Là Ai; Đường Vào Tâm Linh với 15 đề tài suy niệm và cầu nguyện, v.v.

 

Thể-loại văn-chương và tâm-hồn nhạy cảm

 

Thi-ca : Những tác-phẩm đầu tay của LM Nguyễn Tầm Thường là những bài thơ, về t́nh-yêu và những rung động tuổi thanh niên, và về t́nh-yêu Thiên Chúa, thiên nhiên - có bài đă đăng trên các tạp-chí ở Sài-G̣n trước năm 1975. Thơ để con tim lên tiếng, phần lớn sáng-tác thời đầu:

 

"... Một sáng hừng xuân

Tung tăng hạnh phúc tôi đă lâng lâng vào đời

T́nh-yêu mở hội đón mời

Có tay trinh nữ / Có trời bao la

Chiều sâu thập giá / Có tà áo thiên

Tên nào miên viễn mà Chúa muốn chọn gọi tôi đi vào?

... Tóc hương thơm gọi tới / Hồn tôi nghĩ ngợi xót xa

Yêsu man mác bao la / Bờ vai tha thiết thật thà.

 ... Chúa ơi, / Tên con Thập Giá hay tà Áo Xanh

Tên con T́nh-yêu hay là Yếu Đuối" (Chúa ơi! Tên con là ǵ?).

 

H́nh ảnh đẹp của con sâu bướm"khi thoát xác bay cao ... là cánh bướm thật đẹp" đối với người t́m Chúa và người tu hành: 

 

" ... Chúa tôi là vườn dâu / Tôi xin làm sâu tằm

Con sâu tằm quanh năm ở bên lá dâu

Tôi nguyện cầu cho được sương gió giăi dầu với cây thập giá

... Chúa tôi là vườn dâu / Và măi măi tôi là sâu tằm

Tôi sẽ xin quanh năm / Tôi sẽ cầu suốt tháng

Tôi sẽ xin mỗi sáng nhả tơ lưng trời như lời kinh cầu gởi gió mang theo làm quà trao tặng cơi đời

Tôi sẽ xin nói nhỏ cùng gió mang đi nơi nơi những sợi tơ vàng như lời thiên đàng rơi xuống trần gian

Chúa tôi là đồi dâu thênh thang

Và quê hương của tằm sẽ là địa đàng từng giây từng lúc

Chúa tôi là đồi dâu hạnh phúc

Tôi nguyện xin lúc nào cũng được cắn lá dâu non

Chúa tôi là đồi dâu hạnh phúc

Tôi nguyện xin lúc nào cũng được no tṛn trên lá dâu xanh

Chúa tôi là cành lá dâu xanh

Tôi nguyện xin lúc nào cũng giành cho ḿnh làm thân con sâu.

 

(Xin Được Làm Con Sâu Tằm, Tằm Nguyện Cầu)

 

"... Những con sâu tâm hồn / Là loài sâu rất khôn

Nằm ẩn kín trong tim / Bao lần tôi t́m thấy

Không dám giơ tay chém

   Những con sâu lầm lỗi / Đem đời mưa gió về

Một lần lỗi lời thề / Để sâu độc xây tổ

Bụi hồng héo rũ bă / Hạnh phúc mù sương sa" (Vết Sâu Cắn)

 

Trong những bài thơ mới hơn, ngoài những đề tài Thiên Chúa, Mẹ Maria, t́nh-yêu, chuyện ḷng, ... người đọc c̣n bắt gặp những h́nh ảnh thập giá, thánh giá, lầu chuông, quán trọ, con sâu tằm, biển cả, hoa nghĩa trang, v.v.

 

"... Cali ơi Cali / Chiều nay trời gió lộng

Lối nào cũng mênh mông / Nh́n thánh giá trên đồi

Tôi gọi thầm tên tôi / Ai là người đơn côi?

Thập giá hay là tôi?" (Thánh giá trên đồi Cali).

 

 

Truyện ngắn

 

Với hai tập truyện ngắn Đường Về Thượng Trí Tiếng Gọi Phiá Bên Trong, LM Nguyễn Tầm Thường đă cho thấy khả năng văn chương dùng sáng-tác để dẫn đường vào tâm linh, thuộc vào văn-chương-vị-tâm-linh. H́nh thức có thể cổ điển như sáng-tác của các nhà văn cùng thời, nhưng thêm đặc tính của LM Nguyễn Tầm Thường là cách tŕnh bày triết lư hoặc tâm lư để đưa vào tâm linh. Những câu chuyện ở các xứ đạo ở Việt Nam hoặc ở ngoại quốc, nhân-vật có thể là bất cứ ai, nhưng họ có những niềm riêng, những khủng hoảng tâm linh, những hạnh-phúc t́m thấy. Những cánh hồng trên tuyết hay cây hoa lan ở một xứ đạo thâm cùng ở Việt Nam đều là những cái đẹp của thử thách. Có thể nói toàn tập Đường Về Thượng Trí là một bản trường ca của của kẻ tầm Đạo, kẻ đi t́m đường về cơi vĩnh hằng. 'Kẻ được chọn sẽ là người mang thương tích của thập giá, chứ không phải là kẻ chỉ ca ngợi thập giá'.

Truyện Đường Lên Núi Cao được tŕnh bày dưới h́nh thức những đoản khúc như những mảnh tâm t́nh của một chàng trai đi t́m con suối đẹp giữa khung trời thần tiên đă có lần mơ thấy. Lần hồi trưỡng thành làm kẻ đi t́m đường về Thượng Trí, nơi có mây trời và gió nắng cứu chuộc. "Đường về thượng trí là một tiến tới liên lỉ, không đứt đoạn. Thánh thiện phải chắp nối từng điểm nhỏ, và những điểm nhỏ ấy làm nên sợi giây dài".

Truyện Giọt Lệ viết về một cuộc đời mà cuối cùng giọt lệ hiếm hoi đối với 'tên tù' đă là niềm vui, lúc cuối đời mới hiểu 'tại sao chỉ có nước mắt mới làm đầy cái lọ, chỉ có ḷng xám hối và cầu cứu sự xót thương của Chúa'. Chỉ có nước mắt mới có sức mạnh hóa giải, như câu chuyện người con hoang đường trở về trong Kinh Thánh!

Sa mạc cũng là một h́nh ảnh được sử-dụng hơn một lần. Trong truyện Người Khách Và Con Tàu, kẻ đi t́m được dặn ḍ: "Hăy vào sa mạc, ở đấy Ta sẽ nói cho ngươi phải làm ǵ. Trong thinh lặng và tin tưởng ngươi sẽ t́m được sức mạnh cho tâm hồn". Sa mạc là đường đi một ḿnh, một ḿnh với những giằng co sợ hăi trước cơi vô h́nh và trước cái chết!

Đêm Satan, Đêm Đức Tin là cuộc chiến một sống một chết cho vị linh-mục trong truyện. Thật vậy "nói tin vào Chúa th́ đơn giản. Nhưng khi niềm tin bị thử thách đến sự sống, đến của cải, đến những yêu thương của ḿnh, khi niềm tin bị thử thách bằng thương tích, chúng ta mới biết rơ niềm tin của chúng ta thế nào". Tác-giả đưa ra hai kết chuyện : - có thể vị linh-mục bị Satan đánh ngă gục trên bàn thờ trước đoàn con chiên trong thánh lễ, sau đó đức tin đă trở lại với mọi người; - và có thể Satan bị vị linh-mục thắng đưổi khỏi nhà Chúa và từ đó không c̣n bóng Satan. (Trong Đường Lên Núi Cao và vài truyện khác, tác-giả cũng đưa ra hai kết hồi câu chuyện).

Truyện Ngục Tối xoay quanh chủ đề  lương tâm, người phạm tội hay làm ác luôn bị ám ảnh bởi những con mắt tưởng đang nh́n ḿnh. "Kẻ dùng gươm sẽ chết v́ gươm". Ám ảnh nhập vô lương tâm, bóng tối đă nhập trong tim, th́ nhân-vật ông lăo mới nhận ra lăo là kẻ thù của chính lăo. "Người ta cần kẽ thù để sống chứ không thể sống mà kẻ thù là chính ḿnh". Thiên đàng và địa ngục cùng hiện hữu, tất cả tùy thái độ và con tim của mỗi người và phải có tự do, phải tỉnh thức đừng trở lại khu 'rừng già cám dỗ' - căn nhà tập quán tối tăm!

Dưới h́nh thức truyện cổ tích t́nh-yêu, truyện Lời Cản Ngăn Trên Lối Về khai thác tiếp những ngục tù khác, ngục tù căn nhà Tập Quán mà người nữ đă Lỗi Phạm, đă bị Satan đánh lừa. Trong t́nh-yêu, phải luôn tỉnh thức là vậy!

Nụ Hôn Trong Đêm Không Ngờ, bất ngờ như cuộc đời, như nụ hôn tượng Chúa chịu nạn và nước mắt đă chảy của người đàn ông, "ḍng nước mắt duy nhất đă rơi xuống trên cung thánh, trong nhà thờ của (vị linh-mục) vào đêm Chúa chịu nạn". Truyện kết tập, Tiếng Gọi, của người nữ tên Phượng, của t́nh-yêu, hay Lời của Thập giá, biết theo tiếng gọi nào đây? Giấc mơ nhưng phải chăng tiềm thức giữa đường tra vấn, thôi thúc!

 

*

Tiếng Gọi Phiá Bên Trong gồm những truyện ngắn về tâm linh nhưng khởi từ những mảnh vụn của đời thường, từ những khía cạnh hay vấn đề tâm lư, xă hội và cả tín ngưỡng. Những truyện Con Muỗi, Miền Cô Đơn, dùng t́nh-yêu đôi lứa làm nền câu chuyện, kết cục đều bi đát nhưng chất chứa hy vọng, hiểu biết. Tiếng Đàn Không Người Đánh là một bản t́nh ca thật đẹp : tiếng phong cầm nghe trong tâm hồn, "khi ḿnh hạnh-phúc th́ ở đâu cũng nghe như có âm nhạc, và tiếng ngọt ngào êm ái tỏa sẽ khắp không gian (...) Tiếng đàn đó là rung động của t́nh-yêu". Chiến tranh đă đem người nữ đó vĩnh biệt trần gian, nhưng dư âm hăy vang vang và người nam trong truyện nay đi đâu, gặp ai cũng giống gặp lại nàng và "sẽ để lại trong hồn nhau những tiếng đàn dặt d́u huyền nhiệm ... gọi về thênh thang của t́nh trời".   

Bàn Tay dựng lại h́nh ảnh những con người từ tro tàn lịch-sử và biến động xă hội, chính trị một thời. Nhân quả nhăn tiền v́ cuộc đời từ cách mạng mùa thu với 30 năm nội chiến, đă khiến kẻ gieo nhân tàn độc sẽ phải gặt lấy quả đọa đày ngay trong kiếp này; từ bá hộ giàu nứt vách, của ăn không hết, mà ở ác, trở thành kẻ tật nguyền đi xin ăn; định mệnh trớ trêu xui gặp lại người khốn khổ ngày xưa đào cắp khoai chỉ t́m sống v́ con đói mà bị ông sai tá điền chặt hai ngón tay. Bàn tay thiếu hai ngón đó nay bốc gạo cho người ăn xin mà gạo cứ rơi ra : "Nếu bàn tay kia lành lặn th́ cái phúc bàn tay ấy làm cho ông hôm nay sẽ nhiều hơn. H́nh ảnh đó siêu bạo quá. Cái phúc hay cái bất phúc là do ḿnh tạo nên... Vắng yêu thương th́ chính đạo cũng thành tà đạo"!

Mẹ May Mắn Hơn Con? Nói về thân phận phụ nữ bị bán qua Đài Loan làm nô lệ. Bao Giờ Mới Hết Tàn Bụi và T́m Ngọc đề cập đến những bi kịch đă xảy ra cho người Việt Nam ở hậu bán thế kỷ XX kéo dài đến nay. Trong Bao Giờ Mới Hết Tàn Bụi, hai sui gia thuộc hai chiến tuyến đối đầu nhau, bên 'ngụy', bên 'Việt cộng': "Kích thích của những ư thức hệ mà họ đă say mê như men rượu, trong mù tăm của bệnh hoạn họ tiêm cho ḿnh những liều thuốc mà nay không sao gột rửa hết được (...) Cuộc chiến qua rồi, không c̣n mưa dầm đất ẩm trường sơn với những cơn sốt rét cấp tính. Trại cải tạo với nhục nhằn cũng qua rồi mà sao âm hưởng nó không hết. Lau thế nào cũng cứ trơ trơ dấu vết. Phải đợi tới khi chết rồi các sọ người mới giống nhau".

Truyện Cổ Tích Chưa Được Kể tiên đoán rằng một thế hệ sau này nào đó sẽ không ngờ những chuyện vừa xảy ra đă như xa xưa lắm ('ngày xửa ngày xưa' bị xem là ngôn ngữ của kẻ chết, vả lại nếu có kẻ khai quật tro tàn, sẽ t́m thấy những bộ xương ở hướng Bắc đa số có đeo một thẻ đ̣ng khắc h́nh dấu chữ Hồ, xương hướng Nam in h́nh chữ Ngô), những chuyện anh em cắn xé để rồi tiêu diệt lẫn nhau, chuyện "rồng phương Nam chỉ loanh quanh trên bờ, nhiều con lộn xuống biển, ôi! Chết không biết bao nhiêu là cơ man", v́ dù anh em nhưng "bên nào cũng tự nhận là thông minh cực kỳ nên cả hai đều khốn khổ, đói rách lầm than". Không tin v́ người ta sợ, nhưng sự thật vẫn là sự thật.

Cái Chết Của Ông Cha dựng lại những oan cừu của một họ đạo. Truyện như tham chiếu (hoặc là tấm kính) những tṛ thời thượng hội nghị, báo cáo 'thị trường', 'chiến trường' rốt cùng chỉ là những độc hại cho tập thể với những tệ đoan tham nhũng, ăn cắp, những nơi mà Satan đều t́m cách len lỏi vào để phá hạnh-phúc của con người. Công tŕnh trùng tu bàn thờ và gian cung thánh đă đưa đến cái chết của vị linh-mục già ngay trong thánh lễ, trên chính bàn thờ đang dâng lễ, v́ mấy bao xi măng bị một giáo dân tham lam đánh tráo bao đất. Cái chết gây mất mát lớn cho đời sống thiêng liêng của giáo dân, và người ăn cắp đó phải đối đầu với ṭa án lương tâm, bản án kéo dài kể cả sau khi chết, v́ linh hồn bất tử!

Truyện Tiếng Chuông nói về một họ đạo khác và đời linh-mục thánh thiện của một cha xứ. Cha bị mang tiếng là keo kiệt. Khi cha được về hưu cũng là lúc họ đạo xây nhà thờ, cha đă bỏ công sức và cả ra tay xây dựng đến phải té bị thương. Giáo xứ có được nhà thờ do tiền của một vị ẩn anh, sau mọi người mới biết tiền đó là số tiền cha đă giữ lại tiền giáo dân đă xin lễ với ngài, nay ngài giao trả lại - v́ ngài xem như 20 năm qua đă giữ giùm, rồi đơn độc đi về nhà hưu dưỡng với chiếc va-li bạc màu. Tác-giả khi được mặc áo ḍng về quê, đă đến thăm cha xứ già, đă cảm kích và cảm thấy được hạnh-phúc v́ bóng h́nh ngài can trường trong thánh thiện sẽ là sức mạnh nâng đỡ tác-giả bước tới.

Các truyện ngắn trong tập này thành công gây suy nghĩ đồng thời là những áng văn chương thành công về kỹ thuật cũng như ngôn ngữ và h́nh ảnh sử dụng. Ngoài ra, một số bài suy niệm cũng mang tính văn chương cao của truyện ngắn, như Mùa Xuân Im Lặng Trong Đôi Guốc (đk 51), Lối Đi Của Con Kiến (đk 71), Trang Hồi Kư Của Ṭa Giải Tội (đk 53), Tiếng Gọi Bên Rừng Thu (đk 49, “Tiếng Thu chỉ nói với con tim hành khất đi t́m lư tưởng, muốn nghe tiếng thu, cần con tim hành khất của kẻ chấp nhận làm hành khất như Đức Kitô”). LM Nguyễn Tầm Thường hứa hẹn sẽ ra tiếp tập truyện khác, Ngoài Cửa Nhà Thờ, gồm những truyện 'gọi đường vào tâm linh'

Trong tập Nhật Kư và một số truyện ngắn và trong trong vài suy niệm, LM Nguyễn Tầm Thường nói đến các thân sinh của ngài, phần lớn là kỷ-niệm, là quá khứ nhưng là những tâm t́nh sâu đậm. Đoản khúc 99 (Của Dâng Cho Cha - Của Biếu Cho Mẹ) ghi lại tâm t́nh của ngài đối với cha mẹ ngài. "Trên đường đời, chúng ta phải lắng nghe những người chung quanh nhiều lắm. Trong những lắng nghe, tại sao ta không lắng nghe chính mẹ ḿnh, lúc mẹ c̣n sống? Nhiều khi mẹ nói bằng im lặng của ḷng mẹ" v́ "Kinh nghiệm chỉ mua bằng thời gian (...) Thời gian có thể làm hồn ta hạnh-phúc hay mang thương tích. Chớ ǵ chúng ta biết lằng nghe sự huyền nhiệm của thời gian". Nơi khác : Những 'quan tài' của người Mẹ "sống mà không được nhớ tới là sống trong lạnh lẽo của mộ sâu" (đk 41, Cỗ Áo Quan). Tập Nước Mắt Và Hạnh Phúc viết nhiều về quá khứ và t́nh cảm (kỷ niệm là hạnh-phúc hay vết thương?), về người thân (Quê Hương Và Tin Mừng), v.v.

 

 

Bút kư

 

Tập Những Trang Nhật Kư Của Một Linh Mục, với tiểu tựa 'suy niệm viết trên đường đi', là bút kư của một năm (2001) hành hương ở nhiều nước thuộc châu Á, bắt đầu ở Ấn Độ trùng với 'năm thánh' của đạo Hindu, năm mà chừng bảy mươi triệu người sẽ đổ về sông Hằng Ganga để tắm gội tội lỗi trong ṿng sáu tuần lễ.

Hành hương tức là đi cùng suy niệm, đi để nh́n, để học hỏi. Từ cuộc hành hương t́m Chúa, qua con người, ở những địa danh không hẳn phải là đất của đạo Công-giáo, LM Nguyễn Tầm Thường đă t́m lại ḿnh, đă nghe được ḿnh, đă thêm dấu chứng về ơn sủng, về đức tin, về Chúa.

Hành hương đến đất Ấn, giai đoạn đầu học Thiền (zen) và suy niệm (meditation) trong 10 ngày. Học phương pháp thiền niệm 'thấu đáo sự vật' (vipassana) cho tâm trí sáng suốt., suy niệm về cái Không. LM Nguyễn Tầm Thường từ tập niệm, nhận ra phương pháp không xa lạ với linh đạo thánh Inhaxiô trong tiến tŕnh linh thao: 'sống b́nh tâm trọn ư Chúa'. Công-giáo có suy niệm nhưng thiếu huấn luyện về phương pháp, "người công giáo rất sợ tĩnh tâm thinh lặng" (bản 2005, tr. 171). Sau đó là thiền viện Công-giáo Bodhi Zendo và hành hương qua những miền quê hoang dă cũng như nơi đô hội, những bidonvilles với những slums, những phân biệt giai cấp, và những nơi thanh tịnh, những 'thiên đàng đă mất', v.v. Trong ba mức độ của tội lỗi, tâm, lời và hành động, giáo lư (ảnh-hưởng triết Tây) thường xem hành động là nặng nhất, nhưng câu chuyện về hai đệ tử Visto và Raja (Trí sạch - tâm an) cho thấy tội lỗi là từ Tâm. "Bài học đầu tiên cho các con ... là Trí sạch, tâm an các con sẽ hạnh-phúc. Bánh xe hành động theo sau trí sạch, tâm an là bánh xe về thiên đàng với kẻ theo Chúa, về Niết Bàn với kẻ theo Phật. Chúa và Phật đều trí sạch, tâm an". Với người nhập tu học một đạo, đó là "ít kinh kệ, giàu tấm ḷng. Tâm an, trí sáng"(tr. 106).

Đất Ấn, nơi ḍng sông Hằng huyền bí, LM Nguyễn Tầm Thường t́m lại quá khứ, hạnh-phúc bất ngờ được ngồi trên con đ̣ như trong Câu Chuyện Của Ḍng Sông (Siddhartha của Herman Hesse) mà linh-mục đă đọc thời trẻ, sống cái hiện tại với kỷ niệm đă qua. "Ngày mai tôi sẽ xuống bến đ̣, nhờ ông lái đ̣ đưa tôi ra giữa ḍng sông. Ḍng sông mơ hồ cuốn hút tuổi thơ của tôi trên ba mươi năm qua" (tr. 157). Nơi "ḍng sông huyền bí của biết bao nhiệm mầu", nơi mà đáy ḷng sông chứa biết bao sọ người trước có thể của những nhà thông thái, cách-mạng, nghèo, giàu, ... nhưng nay cùng giống nhau ở chỗ cùng rỗng tuếch. Nơi để hiểu những bí ẩn của cuộc đời, của định mệnh. Và của ngày sau: "Con sẽ chết như bao tín đồ Bà La Môn ở đây. Xin Chúa là ḍng sông định mệnh cho con về. Ôi! Tâm trí con sẽ suy nghĩ ǵ, trái tim con sẽ sống thế nào để Chúa chờ đón con vào ḍng sông vĩnh hằng linh thiêng là chính Chúa." (tr. 166).

 LM Nguyễn Tầm Thường có những nhận xét có tính văn-hóa và rất mở về những điêu khắc tả những hành cử làm t́nh của các đền thờ Ấn-giáo: "Trong suy nghĩ Kitô giáo trước h́nh ảnh Lingam của đền thờ Ấn-giáo, tôi thấy tôn giáo này mang một chiều kích rất sâu không chỉ về sự sống mà về cả hành vi yêu thương trong đời sống vợ chồng. Tất cả hành vi ấy là thánh thiện và đẹp vô cùng. Nếu vợ chồng nh́n các biểu tượng ấy như vật thánh, họ phải kính trọng, yêu thương nhau. Nếu tất cả sự sống bắt đầu từ kết hợp ấy, họ phải vô cùng trân trọng những cử chỉ yêu thương ấy như một niềm tin tôn giáo" (tr. 178). Một xác tín như vậy đă phải xuất phát từ những căn bản triết lư và tôn-giáo sâu xa - dĩ nhiên không phải là thanh giáo!

LM Nguyễn Tầm Thường ghi lại chân dung tinh-thần (và thể-chất) Mẹ Têrêsa Calcutta rất thánh thiện, Mẹ quư Thánh lễ, linh-mục đă đến thăm mộ Mẹ Têrêsa và làm thiện nguyện ở những căn nhà chờ chết và đă cho rằng "Chúa dùng người đàn bà này để vẽ chân dung Thiên Chúa bằng ngôn ngữ thật tuyệt vời". Chính Mẹ Têrêsa đă can thiệp cho một gia đ́nh người Việt vượt biên, khiến đă xảy ra những việc lạ lùng khó tin.

Con đường hành hương sau đó đưa LM Nguyễn Tầm Thường đến Madras, nơi thánh Tôma đả đến Ấn truyền giáo và chết tại đây. Hành hương cổ thành Goa, 'miền đất mong đợi', nơi có xác Thánh Phanxicô Xaviê, thánh đă được thánh Inhaxiô cử đi đến với dân ngoại xa xôi vào thế kỷ XVI. Tác-giả đặt trong cuộc hành hương mơ ước đă thật sự khởi từ mộ thánh Phanxicô Xaviê ở đảo Thượng Xuyên (Trung Quốc), nơi ngài chết. Với những hạnh-phúc và bất ngời làm xác tín thêm đường đi của ḿnh!

LM Nguyễn Tầm Thường tiếp tục đi 'thực địa' để t́m hiểu, ở quê hương Việt-Nam, như về Bến Tre để gặp vị linh-mục đă trừ quỷ, để nghe và phỏng vấn kiểm chứng chuyện cô Hồng, người phụ nữ bị quỷ nhập v́ quỷ nhập là điều có thật và đă được Giáo hội xác tín. "Người ta cũng là một thứ mồ mả. 'Các ngươi giống như mồ mả tôi vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong th́ đầy xương người chết và đủ thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài th́ có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả h́nh và gian ác’(Mt. 23:27)" (tr. 231). Sức mạnh của bí tích rửa tội đă cứu cô Hồng! Suy niệm về việc trừ quỷ ám tiếp nối trong đk 56, Vắng Chúa : "Giống quỷ ấy chỉ trừ được bằng cầu nguyện", "không có Chúa trong tâm hồn mà làm việc nhân đức, nhiều khi gieo thảm họa cho ḿnh, cho Hội Thánh".

Kẻ Đi T́m là tập bút kư về cuộc hành hương nơi Đất Thánh. LM Nguyễn Tầm Thường  đang viết và một phần đă đăng trên trang dunglac.net, chứng tỏ thêm một lần ngài tinh thông lịch-sử, thần học cũng như sự chân thành học hỏi, suy niệm. Linh-mục đưa người đọc đến Đất Thánh, sống lại những cảnh hai ngh́n năm xưa và đi lại những con đường Chúa Giêsu đă đi qua: đi bộ trong sa mạc để cảm được thế nào là đường Jerico, dự cuộc rước Lá trong đền thờ Golgotha, sống ư nghĩa về người mù Batimê, hồi tưởng cuộc kiếm t́m của Dakêu và chuyến đi sau cùng của Chúa Giêsu từ Jerico về Jerusalem, đền thờ mang tên Flagellation, nghĩa là Đền thờ Chúa bị đội mạo gai và đánh đ̣n, đền thờ Gallicantu, nơi thánh Phêrô đă chối Chúa ba lần, v.v. Đền thờ Gietsimani ở nơi trước là Vườn, nơi Chúa Giêsu bị bắt và các môn đệ bỏ trốn hết. LM Nguyễn Tầm Thường cho biết: "Tôi không thể t́m vết chân chạy trốn nơi đây. Sự chạy trốn có hay không là ở trong ḷng những kẻ hành hương mà thôi. Tôi không thể t́m phiến đá nào Chúa đă quỳ. Phiến đá nào mang dấu ấn lịch sử kia là trái tim ḿnh mà thôi. Tôi không thể hỏi gốc ôliu nào chứng kiến sự kiện". Nhắc lại chuyện Giuđa năm xưa dùng cái hôn để nộp Con Người, LM Nguyễn Tầm Thường nêu tra vấn: "Câu chuyện hai ngh́n năm trước cũng là câu chuyện hôm nay thôi. Trong đời sống hôn nhân người ta đă chẳng từng than thở: ‘Chúng ta dùng cái hôn mà phản bội nhau sao?’. Trong đời sống tu hành, người ta đă chẳng dùng giáo đường là bóng mát lừa dối sao? Không cần t́m nhân chứng xa xôi, chúng tôi tin là nhân chứng đó trong cơi ḷng của chính con người". V.v. và v.v.

*

 LM Nguyễn Tầm Thường hành hương, đi 'thực địa', và sống thực, ḥa ḿnh trong mọi hoàn cảnh và không gian, vừa đi vừa nói chuyện, tả cảnh, kể chuyện, suy niệm và tâm sự (viết bút kư hay nhật kư trước hết là tự nói với ḿnh); gấp tập Nhật Kư ..., nhờ LM Nguyễn Tàm Thường, người đọc cảm thấy gần gũi các tu sĩ hơn, linh-mục không là một đỉnh cao khi được thụ phong chức thánh, mà là một "tập thành", một "trở nên", ngày một thánh thiện, hoàn hảo hơn. Và con đường đó các ngài đă và c̣n phải đi một ḿnh, mỗi người, mỗi hoàn cảnh! Ngoài ra, trong tác-phẩm của LM Nguyễn Tầm Thường, vai tṛ của kư ức được đặt nặng - kư ức ở đây là từng sống, từng nghĩ, trong một hiện tại, hôm nay, cùng lúc dàn dựng, dự phóng tương lai, một tương lai có ư nghĩa v́ đang khởi từ mầm mống hôm nay.

Dù ít nhiều chủ đề hay luận đề tôn giáo, các thể-loại thơ và truyện ngắn cũng như bút kư đă được LM Nguyễn Tầm Thường tài t́nh sử-dụng. Tính chất nghệ thuật đích thực đó có thể là lư do các tác-phẩm được t́m đọc và tái bản nhiều lần. Người đọc có cảm thưởng linh-mục Nguyễn Tầm Thường muốn đạt đến t́nh trạng tâm hồn siêu thoát, viết và giảng bằng văn-chương và cả bằng cuộc sống niềm tin, như đă có lần diễn bày trong truyện Đường Lên Núi Cao. 

 

 

Nội dung Tin Mừng

 

Các h́nh ảnh thường gặp trong tác-phẩm của LM Nguyễn Tầm Thường: những sân ga, con tàu, ḍng sông, con thuyền, bến đ̣, cây nho, người làm vườn, chiếc áo, mũi tên, tiếng hót con sơn ca, những con sâu đo, sâu tằm, những dấu chân xưa, đôi guốc, v.v. Đấy cũng có thể là những h́nh ảnh được các cây bút khác sử-dụng hoặc được dùng để dẫn nhập vào các tín ngưỡng, tâm linh khác. Nhưng ở LM Nguyễn Tầm Thường, nội dung Tin Mừng mới là trọng điểm. Toàn bộ tác-phẩm của LM Nguyễn Tầm Thường tŕnh bày những suy niệm linh thao theo truyền thống của thánh Inhaxiô. Điểm chính, hay đích phải tới, và thường trực, đó là đường phải đi một ḿnh, v́ "nhân đức là b́nh dầu không vay mượn được", "không phải để người khác lên trời thay ḿnh hay thuê người khác xuống ngục tối thay ta" - "V́ thế Kinh Thánh không thể chỉ cho ta cách vay mượn mà chỉ có thể dạy ta 'hăy tỉnh thức'", cho nên phải tránh rơi vào cảnh khi chết có đèn mà không có dầu (đk 78, Đêm T́m Dầu)! Hành tŕnh tu đức như thánh PhêRô: "Đường đi một ḿnh là đường riêng của mỗi người phải đi trong mầu nhiệm của sự chết và sự sống" (đk 63). Phải lên đường, và một ḿnh, v́ t́nh-yêu, đau khổ, nô lệ, ... là những hệ lụy cá nhân v́ nói như LM Nguyễn Tầm Thường, có ta hay không và ta có sao th́ cuộc đời vẫn như thường:

"Tôi chối từ Thiên Chúa,

Thiên Chúa vẫn hiện diện. V́ Ngài là Thiên Chúa.

Thiên Chúa không cần tôi chứng minh có Thiên Chúa.

Thiên Chúa cũng không cần kẻ khác chứng minh cho tôi biết về Thiên Chúa. V́ Thiên Chúa th́ không cần chứng minh.

Như mặt trời không cần ai chứng minh về ánh sáng cho người mù. Như người dưới căn hầm, mặt trời không hiện diện với đôi mắt ấy mà thôi, mặt trời vẫn hiện diện với vũ trụ.

Từ đó,

Lạy Thượng đế, xin cho con biết kêu lên: Con biết con cần Ngài" (đk 77, Con Cần Chúa).

 

Như vậy người giữ Đạo phải làm thế nào? Phải lên đường, một ḿnh, cá nhân tự cứu, tự tu, chứ không phải để vinh danh cái Tôi. Phải biết ngồi bên bờ xét lại, phải biết lắng nghe tiếng của hồn ḿnh, tiếng hồn gọi xác. Và xác tín rằng Con cần Chúa:

 

"- Lạy Thượng Đế, lạy Trời Phật, con biết con cần Ngài.

Bởi, đó là con đường đi rất đẹp của một phàm nhân".

 

 LM Nguyễn Tầm Thường mở thêm "Thượng Đế, Trời Phật" cho người tín ngưỡng khác. Tập Con Biết Con Cần Chúa đặc biệt về đạo, có đạo, ngoại đạo, vào đạo, bên cạnh kinh nghiệm của Yoan Tẩy-giả, trong đk Sa Mạc.

Một điểm khác, đó là : "Lời Phúc Âm chỉ có vậy, nhưng tùy cách nghe mà lời đó khác" (đk 77). Cả học biết cách nh́n cũng quan trọng không kém (đk 57, Đôi Mắt). - LM Nguyễn Tầm Thường viết, suy niệm và chia xẻ và các đề tài là để t́m kiếm Lời Chúa như trong các câu:

- "Lạy Cha, Cha bỏ con sao đành Cha ?", 

- "Chúa ở cùng anh chị em - Và ở cùng cha".

- "Lạy Cha, nếu được, xin cất chén đắng này khỏi con".

- "Tôi cáo ḿnh cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em ..."

Với những nhận thức 'con cần Chúa', 'xin cho được lắng nghe', con người sẽ hết ngạo mạn (như Nietzsche, Feuerbach, Kierkegaard, Marx, Sartre, ... đă từng). LM Nguyễn Tầm Thường lưu ư người đọc về cái Tâm, quan trọng dường bao để hiểu con người và tội lỗi cũng như đức tin.

Nơi một làng quê hoang vắng của Trung quốc trong chuyến hành hương thăm mộ thánh Phanxicô Xaviê, LM Nguyễn Tầm Thường đă nh́n thấy đức tin giữa vết tích của ngôi nhà thờ hoang vu đổ nát qua một ông cụ ngày ngày lau chùi những chân cột c̣n lại (đk 4, Giáo Hội; đk 28, Lư Tưởng). LM Nguyễn Tầm Thường cho biết rằng "Hoa không chọn nơi nào đẹp mới tới, mà, bất cứ nơi nào tới hoa sẽ làm đẹp nơi đó. Hoa thành thật. Hoa bao dung ... " (đk 6, Hoa Nghĩa Trang).

H́nh ảnh, ẩn dụ giàu nghèo, như chuyện người anh sống bên gia nghiệp lớn mà cứ nghèo, ao ước một con dê con mà chẳng được, và "cái bất hạnh của người con trưởng là không nhận ra t́nh thương của cha. Trong t́nh-yêu, khi không nhận ra th́ cũng không nhận được" (đk 79, Anh Cả). Và người cha LÀ chính t́nh-yêu. Có t́nh-yêu khi ḿnh chấp nhận nh́n hạnh-phúc của người kia chứ không phải khi nh́n người đó mà ḿnh hạnh-phúc, chứ không phải xây ngục thất để giữ người ḿnh yêu (đk 2, T́nh-yêu). Thành công vật chất có thể dễ nhưng thành công thật là thành công của Tin Mừng mà ta phải tinh tế lắng nghe (đk 5 Thành Công). Và t́nh-yêu cao cả là t́nh-yêu liên hệ, liên hệ Chúa-mỗi người, một liên hệ trung thành (đk 62, Thiên Chúa Ba Ngôi).

Ẩn dụ Những Làn Khói (đk 88) được đề cập đúng t́nh cảnh của người Việt ở hải-ngoại hiện nay. Làn khói trắng lịch-sử ở công trường Rôma báo tin mừng bầu Đức giáo hoàng mới, nhưng con người hôm nay bị quá nhiều làn khói trắng đen không phân minh và thường xuyên khói ở cuối nhà thờ th́ nhiều, nhất là những nơi người ta ăn nên làm ra: những raising fund và quyên tiền giúp người nghèo này kia xuất hiện với đủ kiểu đủ lư do, giáo dân tổ chức cũng có mà các tu sĩ cũng có. Những làn khói làm cay mắt mọi người, v́ khi linh-mục chạy theo fund, sẽ đánh mất vai tṛ làm sứ ngôn, sẽ không c̣n nói cho giáo dân về Chúa và do đó giáo dân đến nhà thờ sẽ ít được học về Chúa. V́ làn khói cay mắt đó, giáo dân sẽ bỏ nhà thờ đi. Raising fund tốt khi thực sự tốt, chính đáng, kiểm chứng được, nhưng rốt cùng đều sẽ đưa đến tranh giành, chia rẽ, về hùa power : giáo dân th́ rơi vào t́nh cảnh hoang mang khói trắng khói đen, c̣n người chủ trương hay linh-mục th́ mất lương tâm trong sáng, bao dung, ... Mẹ Têrêsa Calcutta được tôn vinh là đồ đệ đích thực của Chúa Giê-Su, c̣n những vị này?

Ẩn dụ Chiếc Giây Thừng (đk 80): "Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán". Giây thừng ở trong tay Chúa để trừng phạt và tự trừng phạt những kẻ "lấy của lễ lừa dối nhau và lầm lẫn về của dâng cúng" của những "tay lưu manh đùng ŕnh ṃ trong đền thờ ... bầy thú tranh nhau ăn, cắn nhau đến đổ máu dính lên người tôi (giây thừng) ... Chúng là tiếng sủa thương đau của nhiều loài thú khác nhau. Những vết máu dính trên người tôi cũng chẳng khác ǵ những vết thương mà con người mang trong hồn do chính họ tạo nên bởi đam mê tội lụy"."Khi thầy tư tế bán của lễ th́ thiên thần đứng khóc. Khi tín đồ mua lầm của th́ quỷ dữ đùng cười.  (...) Khi của lễ là đơn vị kinh tế th́ ḷng thật thà thành ŕnh ṃ". Ba bộ mặt kinh tế, chính trị, tôn giáo mà mưu mẹo đem vào đền thờ th́ sẽ hại đến đời sống tâm linh, của lễ thành thờ cúng ngẫu tượng, thành nhỏ nhoi, hết b́nh an, khiến hương khói trở nên u uất của những làn khói đen (đk 67, Áng Hương Ḷng). Rồi những tệ nạn cạnh tranh trong việc thờ phượng Chúa; nhà Chúa phải hiểm nguy, phải chịu hậu quả trở nên hoang tàn (đk Nhà Thờ, NM&HP).

H́nh ảnh Những Ḥn Đá Mềm (đk 93) gây suy nghĩ, làm ‘nhức nhối’ - như chữ dùng của tác-giả : những ḥn đá cứng mà người Do thái Pharisêu đáng phải ném người đàn bà họ kết án là tội lỗi (theo luật) đă mềm đi. "Vấn đề nhức nhối hơn nữa là nếu cạnh sắc của những ḥn đá cứng đó, hôm nay, đang nằm trên chính tay ḿnh. Ném hay rút lui?". Có khi chưa ném mà đă gây thương tích. "Lối đi của Ơn sủng là chữa lành. Khi một cộng đoàn Kitô hữu mà không chữa được những vết thương cho nhau, nhất là v́ cộng đoàn mà nỗi đau của cá nhân nọ, của gia đ́nh kia càng đau đớn th́ ta biết rơ họ không đi trong ơn sủng. Đấy không phải là cộng đoàn Kitô hữu" (đk 81, Lối Đi Của Ơn Sủng).

Theo LM Nguyễn Tầm Thường, Thập Giá và Thánh Giá (đk 20; đk Thánh Giá, NM&HP) thường bị hiểu sai, như biểu tượng với ngẫu tượng. Người ta hễ gặp tai ương, khốn khó hay bị bất hạnh đều nói an ủi hoặc 'kết án' là vác thánh giá, trong khi Thiên Chúa muốn con người hạnh-phúc! (Thánh Giá Bên Chiều Mưa Rừng, NKCMLM) "Không có t́nh-yêu th́ thập giá không là Thánh giá". Có bác ái mới thật có Thánh giá!

   Tập Những Trang Nhật Kư Của Một Linh Mục đă ghi lại một số h́nh-ảnh và ngụ-ngôn tiêu biểu cho suy niệm, như chuyện đạo sĩ Sadhu khổ tu sống đơn giản, không mảnh vải che thân, sắp thành đạt thánh nhân nhưng đă bị của cải, vật chất lấy mất tự do, đánh mất lư tưởng. Nhà văn Hồ Hữu Tường cũng từng kể chuyện phút chót không đạt đạo trong truyện Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp. Thế mới biết không dễ hạnh tu, v́ 'hăy tỉnh thức và cầu nguyện' dễ mà khó!

   LM Nguyễn Tầm Thường có những trang viết thật hay và có tính thuyết phục về nhân quả, tội và bí tích giải tội: tội và luyện tội, như nhân quả, nên được giải tội, tội được tha, nhưng vẫn c̣n hậu quả, có khi suốt đời. T́nh cảnh của những con sâu bướm (đk 50): sâu v́ bị ghét, nên khôn ngoan kín đáo phá phách, như "linh hồn và những ẩn kín của một lương tâm gian dối"; do đó cần sám hối, để trở nên như những cánh bướm đă từng làm sâu cắn nát hoa lá, bị ghét - cánh bướm là h́nh ảnh mơ ước cho tâm hồn. Hệ lụy đớn đau của phạm tội, nhưng khi nhận thức được, đời sẽ hạnh-phúc hơn: "Khi ḿnh chữa vết thương của người khác th́ nó lại lành chính vết thương của ḿnh". Satan và những đại diện chúng là bóng tối, là nguy cơ, có khi thật tinh vi. Kẻ có tội không hợp với Thiên Đàng, sẽ tự ra khỏi và vô chốn luyện tội, v́ Thiên Đàng bản chất là T́nh Thương. "Luyện tội là nơi ḷng thương xót Chúa tạo cơ hội cho tôi bẻ gẫy cây cung (bắn người), rửa thuốc độc trên tay, thanh tẩy đôi mắt, học ngôn-ngữ Thiên Đàng,..." (đk 54, Luyện Tội). Nhưng trước đó, ngay bây giờ, theo LM Nguyễn Tầm Thường, phải thật ḷng ḥa giải, v́ ḥa giải là bí tích của gia đ́nh chứ không chỉ cá nhân như nhiều người vẫn nghĩ và không phải xưng là đă yên ổn lương tâm và thành tích! 'Tên trộm lành' có tâm đức và biết kính sợ Thiên Chúa, tức đă phải trải qua một hành tŕnh thiêng liêng mới có được những lời thốt tốt lành trên thập giá! (đk 87, Nhân quả, và bài "Kinh Tin kính của tên trộm" trên vietcatholic.net).

Như vậy, LM Nguyễn Tầm Thường đă tác động, lay tỉnh những quán tính, những thói quen do ỷ lại hoặc lười biếng, quá tự tin: xin lễ trọn đời, nhờ người khác đọc kinh cầu nguyện giùm, giữ đạo h́nh thức, xưng giải tội mà không đền tội,... Sự (tưởng là) hoàn thiện trở nên đổ nát, khiếm khuyết, xa lạ! Những lời chúc mừng (đk 34, 94) theo thói quen đến mất cả nội-dung, ư nghĩa - mà thật ra mỗi lời chúc đều phải nói với ḿnh về một ư nghĩa, nói với ḿnh về chính ḿnh và nhất là đều nói với ḿnh liên hệ giữa con với Chúa. Và có những điều người đời thường tránh th́ LM Nguyễn Tầm Thường nhắc nhở nên có, để được thanh tẩy, như những món nợ mà thánh Phaolô từng căn dặn các giáo hữu :"Các con hảy nợ nhau t́nh thương mến".

 

*

Đối tượng của những suy niệm và học hỏi qua toàn bộ tác-phẩm của LM Nguyễn Tầm Thường không chỉ là những giáo dân, mà cả giới tu sĩ. Đề cao việc phục vụ tha nhân tức không t́m kiếm lợi nhuận vật chất, mà những đóa hoa nở theo bước đi tới trước. LM Nguyễn Tầm Thường đă tâm niệm "Tôi muốn làm nở hoa bất cứ con đường nào tôi đi tới"! Thời nay Giáo hội đă và đang có những vấn đề lớn nhỏ đưa đến khủng hoảng đức tin. Có những giáo dân, cộng đoàn và linh-mục chỉ biết dựng cơ nghiệp vật chất mà bỏ quên cơ nghiệp thiêng liêng, hay "chỉ theo 'kẻ giảng về Chúa' chứ không chắc là theo Chúa nên khi thần tượng sụp đổ th́ Thiên Chúa của niềm tin chao đảo". LM Nguyễn Tầm Thường kêu gọi nh́n lại h́nh ảnh Yoan Tẩy-giả là tông đồ đă nh́n thấy Đức Kitô là Chiên Thiên Chúa khi ngài đi ngang qua trong sa mạc (LM Nguyễn Tầm Thường cắt nghĩa là 'dán mắt' vào Đức Kitô chứ không phải 'thấy' b́nh thường - đk 7, Kẻ Theo Ngài).

Con người không là ǵ hết trước thời gian và Thiên Chúa, sự hiện hữu và quá khứ của một cá nhân cũng không là ǵ nhưng có thể lại là tất cả nếu có ư thức, v́ lịch-sử th́ liên tục, cho nên đời sống tâm linh của con người được giàu thêm là nhờ quá khứ, khi dùng quá khứ mà suy niệm, để hiểu Tin Mừng và t́m Chúa.

Ở LM Nguyễn Tầm Thường, các h́nh thức diễn tả là ngoại hiện của Tin Mừng nhưng có căn gốc nhân bản của Tin Mừng. Các h́nh thức này đa dạng là nhờ kinh nghiệm sống, nhờ bề dầy suy niệm của người viết. Nhờ đó, mà các bài viết của LM Nguyễn Tầm Thường mang tính tự nhiên và phổ quát nhưng đồng thời đặc thù v́ chúng mang cấu trúc cơ bản và thi pháp của con chữ, nghĩa là một ngôn-ngữ mang cơ cấu tâm linh. Với LM Nguyễn Tầm Thường, hành tŕnh đi giữa thế giới cụ thể với những vẻ đẹp huy hoàng (Taj Mahal,...) cũng như ổ bùn đầy nước đọng (Calcutta, Vailankanni, ...), với cảnh thiên nhiên hoang dă, nguyên sơ (Bodhi Zendo, ...) cũng như những nơi đầy vết tích lịch-sử (đất thánh Jerusalem, Madras, Old Goa, ..), là để suy niệm lời Chúa, để sống Tin Mừng, là một cuộc đi vào bên trong.

   Có rất nhiều các linh-mục và tu sĩ Việt-Nam sáng-tác, biên soạn giảng thuyết về Tin Mừng, nhưng LM Nguyễn Tầm Thường là một trường hợp đặc biệt: linh-mục viết du kư không phải để khoe khoang những cuộc du lịch đi đây đi đó, viết nhật kư không phải để đề cao cái Tôi, viết suy niệm cũng không phải để quảng cáo cho bản-ngă tu sĩ, v.v. Và khi viết, linh-mục không hài ḷng với những hời hợt, làm dáng, mà đă chứng minh ng̣i bút vừa hiện đại vừa sâu lắng tâm linh; nội-dung triết lư, tâm linh toát ra qua tổng-thể tác-phẩm chứ không phải qua những tiểu xảo kỹ thuật. Bề sâu ở LM Nguyễn Tầm Thường phần lớn là những phần sâu xa trong tâm thức bị quên lăng, từ những biểu tượng và ẩn dụ đă được người Công-giáo nói đi lập lại từ hơn hai thế kỷ qua, có khi chỉ là những sự vật tầm thường đầy biểu tuợng, như chiếc giây thừng, con sâu, từ những hành vi, thái độ b́nh thường tưởng vô nghĩa nhưng với LM Nguyễn Tầm Thường lại đầy ắp ư nghĩa, nghĩa lư, triết lư, ... như nhặt cá, tĩnh tâm, tự xét, lời xin lỗi, rửa chân cho nhau, xuống núi, ... Cái cũ, cái b́nh thường, dưới ng̣i bút của linh-mục, trở nên mới, như mới được khám phá ra hay khám phá lại; ... khiến cái nhất thời nhập vào cái vĩnh cửu, không thể chối bỏ, làm ngơ!

   Ở LM Nguyễn Tầm Thường, cá nhân hoặc đă tan biến trong toàn cảnh dân-tộc, cộng đồng, trở thành bức tranh toàn cảnh, hoặc cá nhân nổi bật như kinh nghiệm sống, có giá trị chứng giám cho suy niệm trở nên cụ thể, trở nên con người hơn. Con người phong phú, nhưng cùng lúc, lịch-sử c̣n phong phú hơn v́ do các mảnh cá nhân tạo thành, lịch-sử hết c̣n bí mật v́ có sự hiện diện của các cá nhân! đă là cá nhân tức thị gần với đời sống, có khi thiếu tầm cao, nhưng được khám phá, suy niệm, th́ trở thành bất ngờ và quyến rũ, trong cái rất người của cá biệt.   

Những thất bại, khó xử cũng trở nên hào hùng, đẹp, như Ơn Gọi đi tu trong khi gia đ́nh cần đến ḿnh, như yếu đuối t́nh cảm con người, tuổi trẻ  (t́nh-yêu, khó khăn cuộc đời, ..), như bớt lư trí đi để dùng tâm lắng nghe ḷng mẹ nhất là khi ḷng mẹ không nói nên lời. Ơn Gọi thật  khó và lạ thường, v́ đối với LM Nguyễn Tầm Thường chẳng hạn, đă có nhiều trở ngại và không chỉ một lần trong một chuỗi thời gian dài (đk 28, Lư Tưởng; 30, Dấu Chân Xưa), ... Lư tưởng đi tu đă không bao giờ chết trong tâm hồn một số người bị hoàn cảnh khắc nghiệt, như cô thiếu nữ 16 tuổi ở Trung quốc cộng-sản, đến hơn 70 tuổi vẫn c̣n lư tưởng đó, thể hiện qua đời sống (đk 28).

LM Nguyễn Tầm Thường sử-dụng kỹ thuật ẩn dụ, h́nh ảnh, bút pháp của Kinh Thánh, nhưng Việt hóa một cách nghệ thuật, và rất hiện đại. Trong các đoản khúc về những đề tài suy niệm và cầu nguyện, nhiều h́nh thức nối tiếp hay hóa trộn trong mỗi đề tài: phần lớn lời nguyện tiếp nối hoặc xen kẽ suy niệm, hoặc suy niệm với chất liệu hoài niệm quá khứ ngày rời khỏi nước ra đi t́m tự do và ngày trở về thực tại đă phải đổi thay nhưng trong bi đát, đi xuống, để chuyển qua lời nguyện Lạy Chúa (ĐĐMM, tr 108-9), ... Có khi là các nhân vật được dùng để dẫn vào đề tài suy niệm, ... Các truyện ngắn trong 2 tập đă xuất bản có truyện kết thúc bằng suy niệm hoặc lời nguyện. Điệp khúc 64, Lời Nguyện Của Cây Đèn Chầu, được tŕnh bày dưới h́nh thức thơ xuôi, nhắc nhở h́nh thức Văn và Tuồng thời xưa. Lời vào tập Đựng Đi Một Ḿnh có thể xem là tiêu biểu cho h́nh thức đa dạng này: h́nh thức bài giảng nhưng như thơ văn xuôi hoặc tư tưởng trầm tư. Dù hiện đại nhưng h́nh thức suy niệm khiến một số bài viết của LM Nguyễn Tầm Thường có nhạc tính và nhịp nhàng vần điệu, kỹ thuật của Văn và kinh sách thời trước hoặc dùng thể lục bát, hoặc văn xuôi mà dùng vần điệu, dễ thấm, dễ nhớ.

Toàn bộ tác-phẩm của LM Nguyễn Tầm Thường như vậy có thể nói trước hết có tính luận-đề, thứ nữa, có đặc tính liên-văn-bản (intertextuality) và với bút pháp và kỹ thuật đặc thù của tác-giả, chúng mang thêm tính xuyên-văn-bản (transtextuality) và tính đa-văn-bản (hypertextuality, c̣n được dịch là đại-văn-bản; mặt khác, có thể xem toàn bộ Tin Mừng như một đại-văn-bản, nguồn cho mọi tham-chiếu). Ư nghĩa, tư tưởng của một văn-bản không hẳn đă đầy đủ hoặc trọn vẹn tự tại mà tồn tại trong mối liên hệ với các văn-bản khác, nghĩa là, giữa các văn-bản khác nhau của cùng tác-giả. Đặc tính liên-văn-bản thấy rơ trong một số đề tài như Cái Chết. Cái chết được đề cập đến lần đầu, Cái Chết để được sống, trong tập Nước Mắt Và Hạnh Phúc. Sau khi chết một năm, trong Cô Đơn Và Sự Tự Do (đk 59), 25 năm sau trong Ngày Lễ Bạc (đk 82) để nói rằng sau khi chết, "chỉ những ǵ tinh thần mà thuộc về Đức Kitô mới tồn tại". Ngày Lễ Vàng (đk 83) suy niệm về con người và thời gian, nay về đâu là do gieo rắc khi c̣n sống, và dù "về đâu thi bây giờ tôi cũng phải nói lời vĩnh biệt", v́ "98 phần trăm những ǵ tôi nh́n, tôi chiếm hữu đều không đem đi được. Chỉ có hai phần trăm là t́nh-yêu Chúa và trái tim bao dung với anh em, ... là đem theo được mà thôi".

Hoặc về Ơn Gọi, LM Nguyễn Tầm Thường liên tục qua nhiều văn-bản: và qua nhiều h́nh ảnh, ẩn dụ: ḍng sông, ra khơi một ḿnh, con đường: làm linh-mục như chọn niềm vui mà sống (đk 84, Chọn Một Con Đường). Về Tấm Bánh Nhỏ (đk 92): suy niệm thơ, rồi suy niệm văn, như một tiếp nối chuỗi tư dưy về Ơn Kêu Gọi, khởi đi từ bài T́m Ư Chúa trong tập Mùa Chay Và Con Sâu Bướm, Tiếng Gọi Bên Rừng Thu (đk 49) trong cùng tập, h́nh thức thơ, rồi Ơn Gọi (đk 76) và mới nhất là bài suy niệm Tấm Bánh Nhỏ này. Nhưng về thứ tự thời gian th́ bài sau cùng là suy niệm đă diễn ra từ 1979. Để trả lời cho câu hỏi "Làm sao nghe được tiếng Chúa?", mỗi suy niệm hay dịp tra vấn mang một ư nghĩa riêng: là cách học hỏi tu đức, là tự hỏi riêng tư, là cảm nghiệm qua thinh lặng tức lắng nghe để trở nên chính ḿnh và biết đường ḿnh đi, lúc nào cũng một ḿnh như tựa tập suy niệm mới nhất, Đường Đi Một Ḿnh.

Về đề tài Thánh Thể, được nhiều lần đề cập, khi th́ như phản ứng trước thực tại khốn cùng của con người, tấm bánh thành thân xác Chúa khi dâng lễ, có thể đến từ hạt gạo của vùng quê hương nghèo đói, suy niệm ra mối liên hệ giửa người với người, Thánh Thể nhắc nhở đến nhiều thân phận con người ở nhiều không gian khác nhau nhưng trăi rộng trên mặt địa cầu (đk 89). Nguyên bài như đoản khúc 85 suy niệm về Thánh Thể và đức tin, ḷng mến qua Đức Ái, ḷng mến trưởng thành, cử hành bí tích Thánh Thể với tâm hồn kính cẩn, thiết tha; tránh những lời chúc vội vàng như "Chúa ở cùng anh chị em", tránh đi lễ và rước ḿnh Thánh một cách h́nh thức, ḷng nặng nề, ... Các bài khác về cùng đề tài : Ḿnh Thánh Chúa (đk 68); Đôi Mắt (đk 57), Lên Đường (NM&HP), ...

Cũng như về Tội và bí tích ḥa giải, qua Luyện Tội (đk 54), Nhân quả (đk 87) và qua CD giảng thuyết ... Đôi mắt - cái nh́n, Đôi chân, rửa chân để nói về ḥa giải, t́nh-yêu chân chính.

Một số đề tài suy niệm được nhiều lần nói đến, mỗi lần một khác, dưới những góc cạnh khác nhau của tâm linh hoặc của ánh sáng chói lên từ suy niệm. T́nh-yêu, nhặt cá, những bước chân đi, những lối đi, nước mắt và hạnh-phúc (một thứ suy niệm thường trực, là một thứ nguồn cảm nguyện cầu của niềm tin, ...). Mặt khác, dưới ng̣i bút của LM Nguyễn Tầm Thường, các nhân-vật của Tin Mừng, các Thánh cũng trở nên gần con người trần thế hơn và hợp với mọi thời đại, kể cả hôm nay, tiêu biểu nhất là thánh PhêRô qua các bài PhêRô Môn Đệ Bị Mắng (đk 52), PhêRô Lỗi Phạm (đk 60), PhêRô Chối Thầy (đk 65), PhêRô Trưởng Thành (đk 72); kế đó là Yoan Tẩy-giả, Mađalena, Martha, v.v. cũng vậy!

Thể-loại sử-dụng khác nhau, nhưng cái lơi xuyên suốt có thể nhận ra ở LM Nguyễn Tầm Thường là đạo, là chân lư, cái phải làm và những cái mà con người thời nay đang gặp gian nan, bị thử thách, phải đối đầu. Tác-phẩm của LM Nguyễn Tầm Thường đă đáp ứng được nhu cầu tâm linh của con người hôm nay, nhất là ở hải-ngoại con người bị vây tỏa bởi tự do choáng ngợp, bởi giải phóng không mục dích, bởi một thế giới không chủ thể và con người là con số không to tướng. Thú vị khi đọc LM Nguyễn Tầm Thường là các nhân-vật có thật đă xuất hiện hơn một lần ở các tác-phẩm khác nhau, như ông già dẫn đường ở đảo Thượng Xuyên (nơi an táng thánh Phanxicô Xaviê), Paul Chen, Mẹ Têrêsa, cha Pierre Ceyrac,  ...

Đọc LM Nguyễn Tầm Thường để sống lại, sống đức tin, như một người Việt Nam, đi t́m Chúa và t́m lại ḿnh. Thế giới tâm linh muôn mặt của người Việt Nam, Công-giáo có, không Công-giáo có, miền Nam có, miền Bắc có, trong cũng như ngoài nước. LM Nguyễn Tầm Thường đa dạng đề tài và t́nh huống, người đọc cũng tùy hoàn cảnh mà đón nhận khác nhau. Mỗi người là một thế giới, có khi là những ốc đảo mà nếu đến gần hay thông cảm th́ sẽ như một bầu trời mới. Mà những kinh-qua trong đời đă đưa họ đến với đức tin. "Mỗi người đều có một con đường, một lối đi, một chổ ẩn náu". LM Nguyễn Tầm Thường đă đưa ra nhiều t́nh huống, có những cảnh tượng có thể gây cảm động tột cùng như chuyện người cán bộ CS cao cấp và con trai ông ta ở Mạc Tư Khoa (đk 90, Một Lối Đi). Các tác-phẩm của LM Nguyễn Tầm Thường ngoài nội-dung Tin Mừng, có thể xem thuộc vào hàng những sách Học Làm Người như của Phạm Văn Tươi, Hoàng Xuân Việt, Nguyễn Hiến Lê, v.v. thời miền Nam cộng ḥa.

Đọc LM Nguyễn Tầm Thường và thực hành những đề nghị, khuyến dạy – nh́n vào chính ḿnh, xét chính bản ngă của ḿnh, người ta dễ t́m ra ḿnh, và từ đó, người đọc có thể t́m thấy nguồn giải phóng, t́m ra đường đi (một ḿnh) và làm chủ cuộc đời ḿnh. Muốn được vậy phải mở ḷng ra chấp nhận cuộc đời, người khác, đạo khác, và từ mọi hoàn cảnh mà nở hoa, hoa của con tim, của tâm lành, trí sạch, việc ngay. Thiên Chúa là t́nh-yêu, là b́nh an; và Thiên đàng là nơi yêu thương, khởi từ hạnh-phúc, từ cuộc sống hôm nay, phải ca tụng và biết trân quí ngay liền. Đức tin là tặng phẩm quí giá nhất, là dấu chỉ của t́nh-yêu, để ở TRONG Chúa hơn là ở VỚI Chúa như thánh Phê Rô khi Trưỡng thành (đk 72; 73 Cô Đơn Và Sự Tự Do). Thiên đàng là trạng thái, là sống nối tiếp hạnh-phúc ở trần gian, và "hỏa ngục là xây tiếp những nô lệ nội tâm chúng ta đang xây dở dang lúc chết" (đk 46, Để Tự Do Và Hạnh Phúc Hơn).