Hồi Ức Nhân Ngày Từ Phụ

 

 

NHỮNG KỶ NIỆM

KHÔNG PHAI MỜ

 
 

Xuân Vũ TRẦN Đ̀NH NGỌC

 

 

 

        Tuy không được sống với thầy tôi (tiếng Bắc cũng như bố) nhiều nhưng nếu Thượng Đế  có hiện ra hỏi:

 “Nếu ta cho mi sống thêm một kiếp nữa, mi có muốn chọn cha và mẹ mi cho được như ư không?” th́ tôi trả lời Ngài không đắn đo:”Con muốn  xin Ngài cứ cho hai  bố  mẹ con như cũ dù bố mẹ con không giầu có phú quí bằng ai.”

         Tôi nghĩ bạn đọc cũng đồng ư với tôi, hay có thể 90% như tôi, là yêu thương, kính trọng cha mẹ với tất cả tấm ḷng của đứa con. Thầy tôi qua đời đă hơn nửa thế kỷ, c̣n mẹ tôi mất đă 36 năm, nhưng cho đến bây giờ, mỗi lần nhớ đến song thân, tôi lại ứa nước mắt.

         Thầy tôi mất ở Hải pḥng (Bắc Việt) khi tôi mới là một thiếu niên chập chững vào đời. Mẹ tôi mất tại quê Trà Lũ khi tôi đang ở trong Nam. Lúc đó, tôi đă là một Giáo sư Đệ Nhị cấp dạy từ lớp 12 trở xuống. Tôi dạy nhiều lớp luyện thi Tú Tài I và Tú Tài II, các môn Triết học, Việt văn và Anh ngữ. Trước đó, tức bắt đầu từ năm 1959, tôi chuyên dạy Toán, Lư, Hóa từ lớp 10 trở  xuống và  các lớp Tú Tài C và D (tức Sinh ngữ Anh-Pháp và Cổ ngữ (Hán, La-tinh...) sau khi tôi đậu hai bằng Tú Tài Toán I và II. Sau đó tôi học Đại học Khoa học, rồi sang Luật Khoa và chót là Văn Khoa. Tôi đậu Cử Nhân Văn chương của trường Đại học Văn Khoa Sàig̣n năm 1965 lúc trường này c̣n ở đường Nguyễn trung Trực. Những ông thầy của tôi lúc đó như LM Sàng Đ́nh Nguyễn văn Thích (Hán), cụ Hạo Nhiên Nghiêm Toản (Việt), cụ Nguyễn đăng Thục (Triết Đông), GS Bửu Cầm (Hán, Văn Minh VN), LM Thanh Lăng (Văn học sử) LM Gras, GS Nghiêm (Pháp văn, Triết Tây), GS Nguyễn đ́nh Hoà (Ngữ học), GS Mac Kenzie (Anh ngữ) và cụ cựu Khoa trưởng tôi quên tên (Pháp ngữ) v.v...đa số đă qui tiên, một số khác tôi đă quên tên.

Tội nghiệp thầy mẹ tôi, khi tôi làm ra tiền để báo hiếu bố mẹ và có chút địa vị trong xă hội cho thầy mẹ vui ḷng th́ thầy mẹ tôi chẳng c̣n. Khi tôi từ biệt mẹ vào Nam, năm 1954 (lúc đó thầy tôi đă mất) tôi chỉ là một thanh niên có bằng Tiểu học Pháp. Chỉ sau hai năm sáu tháng học tối (ban ngày đi làm) tôi lấy xong hai  bằng Tú Tài I và Tú Tài II Toán, sau khi đă đậu bằng Trung học đệ nhất cấp.  Lúc đó có bằng Tú Tài II Toán đi dạy học kiếm tiền khá thoải mái v́ phong trào học ở trong Nam lên cao lắm, các trường cần rất nhiều Giáo sư Toán và sinh ngữ.

Chỉ sau ba năm học Văn Khoa, mặc dù vẫn đi làm ban ngày nuôi gia đ́nh, tôi lấy xong bằng Cử Nhân, tính học tiếp lên Cao học Văn Khoa (Xă hội học) nhưng việc quân ngũ quá bận rộn (khóa 13 SV Sĩ quan TB Thủ đức) không thực hiện được, đành chịu cho đến khi sang Hoa Kỳ, trở lại Đại học tại Hoa Kỳ.

Mẹ tôi không di cư vào Nam được là do lỗi anh trai tôi. Anh đang dự một khoá huấn luyện Sĩ quan của Quân đội Quốc gia Việt Nam th́ nổ ra vụ Hiệp định Genève 20-7-1954 kư kết giữa Pháp và CP/Việt Minh Cộng sản;  Pháp và người Quốc gia vào trong Nam để Pháp sẽ rút ra khỏi Việt Nam, Chính Phủ Cộng sản (tức Việt Minh) chiếm miền Bắc.

 Anh tôi v́ c̣n vợ con ở quê, Trà Lũ, Nam định, anh đào ngũ trốn về làng. Lúc đó tôi đang ở Hà nội, tôi có dặn anh rằng anh về thu xếp sớm sớm đưa mẹ và gia đ́nh anh chị cũng như gia đ́nh các chị gái anh rể lên Hà Nội rồi cùng vào Nam v́ không thể ở lại với VMCS được dù phải bỏ lại tất cả nhà cửa, ruộng vườn gây dựng một đời người. Nhưng khi anh về tới quê, bọn du kích và cán bộ VM tại địa phương ḍ biết anh có ư đem gia đ́nh vào Nam nên chúng canh coi mẹ tôi và mọi người trong nhà rất cẩn mật, dù đi chợ, đi lễ nhà thờ chúng cũng cho người theo dơi, cuối cùng cả nhà không ai đi được. (Nếu tôi nóng ḷng về đón mẹ th́ cũng bị giữ lại, không đi được) Mẹ, các anh,  các chị tôi và các cháu rất buồn rầu nhưng đành phải ở lại trong khi  ở Hà Nội, tôi mong mẹ và cả gia đ́nh từng ngày từng giờ. Mấy chị gái và mấy anh rể cùng các con của họ là những người rất muốn đi  nhưng đều phải ở lại. Họ đă có khá nhiều  kinh nghiệm về cuộc sống quá g̣ bó với những người CS giữa thiên đàng Xă nghĩa. Họ muốn vào Nam làm lại cuộc đời nhất là lại cùng đi với tôi nhưng không sao được. Chín năm sống với VM (1945-1954) thiếu từ cái kim sợi chỉ, cây bút ch́, bút mực, vài tờ giấy viết thư mà đi đă quá khổ không thể tiếp tục chịu thêm được nữa. Thành ra, ở trong Nam, cả gia đ́nh tôi chỉ có tôi duy nhất, đơn thương độc mă, cu ky hai mươi mốt năm với tiểu gia đ́nh của tôi  trên miền Nam thân yêu. 

         Tôi phải trở lại thời thơ ấu một chút trước khi làm người trưởng thành. Hầu như ai trong chúng ta cũng có nhiều kỷ niệm đẹp trong thời thơ ấu. Quê hương tôi trong thời thơ ấu chính là những con đường làng đổ sạn, đổ xi-măng chạy xuyên qua nhiều thôn xóm, chợ búa, nhà thờ, đền chùa, trường học, đ́nh miếu...

. Quê hương là mấy hồ sen bát ngát, về mùa hè,  sen nở trắng xóa hoặc hồng rực cả mặt hồ. Không có ǵ thú vị bằng ngồi ở một gốc cây nh́n hồ, hưởng làn gió mát ngát hương sen, thả một con diều cho nó lên tận không trung cao tít chỉ c̣n nhỏ như cái bàn tay, vọng xuống tiếng sáo thanh thoát du dương.  Quê hương cũng là ngôi trường năm gian, mỗi gian một lớp, buổi trưa tan học lũ học tṛ c̣n rủ nhau xuống bơi lội ở cái hồ lớn ngay trước trường. Quê hương là giải lụa hồng buộc trong những cái nón bài thơ của các cô thôn nữ ngây thơ, duyên dáng, tà áo nâu non tứ thân cùng với thắt lưng mớ ba mớ bảy tung bay theo gió. Quê hương là bờ tre bụi trúc nh́n đâu cũng thấy, là chiếc thuyền nan b́ bơm giữa sông tràn ngập ánh trăng rằm, là tiếng ḥ trai gái đối đáp trong những hội xuân, hội đ́nh. Quê hương cũng là đàn trâu, nghé, đàn ḅ, bê chậm chạp bước về chuồng trong tiếng chuông ru hồn của ngôi chùa làng bên...Quê hương là hết thảy những h́nh ảnh, mầu sắc, thanh âm thân thương đó kết thành để mỗi khi nhớ lại, ta lại thấy ḷng chùng xuống nhớ nhớ, thương thương.

         Sáu tuổi, tôi được thầy tôi dắt đến ngôi trường làng xin với thầy giáo là ông hương sư Thuận cho tôi vỡ ḷng. Tôi không có những cảm xúc của nhà văn Thanh Tịnh, ngày đầu ông đi học. Măi sau này thầy giáo Thuận mới cho tôi đọc bài “Hôm nay tôi đi học” của ông Thanh Tịnh, bài in trong  sách “Quốc văn Giáo khoa thư”:

         “Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường ngoằn ngoèo dài và hẹp. Con đường này tôi đă đi lại nhiều lần, nhưng lần này tôi cảm tháy xa lạ v́ chính ḷng tôi đă có sự thay đổi: Hôm nay tôi đi học!”

         Nhà văn Thanh Tịnh đă viết như thế và tôi được học thuộc ḷng để nhớ như thế. Nhưng cái cảm giác ông Thanh Tịnh có hôm đó, với tôi lại hơi khác. Mẹ ông dắt ông đi, c̣n tôi là thầy tôi. Một tuần trước, thầy đă nói mẹ tôi đi chợ mua cho tôi chiếc cặp bằng da ḅ mầu vàng. Cái cặp có vẻ hơi to với tôi nhưng mẹ nói, cái bé th́ lại bé quá. Thầy tôi bảo con chịu khó cắp cái cặp này, ít nữa lên lớp trên sách vở nhiều sẽ vừa. Bây giờ mua cái nhỏ, ít nữa lại phải sắm cái khác. Tôi nghe lời thầy, đinh ninh một ngày nào đó cái cặp này sẽ ních chặt sách vở và dụng cụ học sinh như mấy anh lớn trong trường.

         Làng, tổng tôi, trẻ con rất đông. Ngay trong xóm Đông là xóm tôi, trẻ con cả mấy chục đứa nhưng hầu như đến trường chỉ đếm trên đầu ngón tay. Tôi nghĩ một phần v́ làm nông, neo người, những cha mẹ buộc phải để con cái đi làm ruộng với ḿnh để sinh sống. Sáu, bảy tuổi trở lên đă có thể đi chăn trâu, chăn ḅ, cắt cỏ, cắt rạ được rồi. Cho con đi học ắt phải mướn người, đă khó mướn lại tốn tiền. Phần khác, nhiều người chưa nh́n ra sự quan trọng của việc học. Họ nghĩ học để đọc được cái văn tự bán hay mua nhà, hay lá thư từ tỉnh gửi về, trát của quan... Thật ra, những thứ này chỉ cần nhờ một anh đọc mướn, trả ơn bằng nắm thuốc lào, vài quả dưa gang, dưa hồng cũng xong. Thành phần c̣n lại không thể cho con họ đi học v́ nghèo.

         Tôi chỉ học ở trường làng được một niên khóa v́ thầy tôi lúc đó đang sinh sống bằng nghề Đông Y sĩ ở Hải pḥng, muốn tôi ra đấy sống với thầy tôi. Lúc này tôi đă bảy tuổi, các anh chị tôi người đă đi lấy chồng, lấy vợ ở riêng, người trọ học ở Hà Nội nên chỉ c̣n thầy mẹ và tôi ở trong căn nhà rộng thênh thang ở phố Cố Đạo (Chavignon). Cũng có những tháng, mẹ tôi phải về quê để lo vụ gặt. Mẹ mướn người gặt và ṿ hoặc kéo đá , hong phơi thóc, đổ vào bồ vào cót xong xuôi mới trở ra Cảng với bố con tôi. Những ngày đó, tôi thường dậy sớm đun nước cho thầy tôi pha trà v́ thầy tôi nghiện trà tầu đă nhiều năm, từ khi c̣n là thày khóa rắp ranh lều chơng đi thi Hương ở trường Nam (Nam định) hoặc trường Hà (Hà nội). Nhưng số thầy tôi lân đận, tốn bao nhiêu công học hành, dùi mài kinh sử mà chẳng được thi cho biết sức ḿnh tới đâu. Năm thầy tôi lều chơng lên đường cũng là năm đầu người Pháp bỏ thi Hương tại Bắc Việt (1912). Lúc đó thầy tôi hai mươi tuổi.

         Buổi sáng, thường tôi nghe thầy tôi lịch kịch là tôi cũng thức. Buổi tối thầy tôi bắt đi ngủ sớm nên sau một giấc dài, thật sâu, tôi nhỏm dậy dễ dàng.  Nếu tính ra cũng phải trên chín tiếng c̣n ǵ.

         Tôi rửa mặt, đánh răng xong đi nhóm cái bếp than nhỏ đă để trên một tấm ván bằng chiếc chiếu manh cho khỏi dơ nhà. Cho đỡ mỏi cẳng, tôi ngồi trên cái ghế đẩu nhỏ đóng bằng mấy miếng ván thông. Tôi đợi cho hết khói, lúc trong bếp chỉ c̣n ngọn lửa nhỏ len qua những cục than đen ś, tôi mới bắc cái ấm đồng lên.

 Ở thành phố, chúng tôi chỉ có nước máy, không có nước ǵ khác,  nên dù có muốn kiểu cách như nhà văn Nguyễn Tuân kể trong “Vang bóng một thời”,  lên ngôi chùa trên đồi cao mà xin nước giếng cũng không có. Vả lại, cầu kỳ và nhiêu khê quá, th́ giờ đâu?

         Thầy tôi ngồi trên sập gụ bóng loáng, sửa soạn bộ đồ trà trong khi chờ nước.  Khi có tiếng reo nhỏ nhỏ, nước bắt đầu sủi tăm mắt cua, tôi cầm ấm rót cho thầy tôi một chén tống. Thầy tôi dùng nước đó tráng ấm và tách uống trà, mầu da chu. Chỉ mấy phút sau, nước trong ấm đồng reo to, gọi là sủi tăm mắt lá, tôi nhấc cái ấm đồng đặt lên cái đĩa gốm ngay trước mặt thầy tôi. Thầy tôi dùng nước đó pha trà. Nếu để lâu trên bếp, nước sôi sùng sục là nước sôi già, không pha trà được nữa.

         Trong giây lát, trà trong ấm đủ ngấm, thầy tôi rót trà ra cái chén tống, xong chuyên từ chén tống ra các chén quân. Ông nâng chén quân lên nhấp một hớp, đặt xuống và trao cho tôi một chén khác. Tôi giơ hai tay kính cẩn đỡ lấy và thong thả nhấp từng ngụm nhỏ trong khi vẫn đứng ở cạnh sập. Khi nào thầy tôi bảo:”Vũ ngồi xuống đó!” th́ tôi mới ngồi ghé xuống phía đầu sập bên này.  Những khi mẹ tôi có mặt ở đó, mẹ tôi cũng cùng bố con tôi uống trà buổi sớm, nhưng phần đun nước bao giờ cũng dành cho tôi. Mẹ tôi ngồi phía bên này sập gụ, quay vào bộ đồ trà và bao giờ cũng hơi lùi xuống bên dưới thầy tôi nếu tính từ cái tủ chè để ở phía lưng thầy tôi.

         Thầy tôi vừa uống trà vừa chuyện tṛ với mẹ tôi. Thỉnh thoảng ông lại kéo cái điếu ống khảm xà cừ, cần là một gióng trúc dài, cong vút, đầu bịt bạc, bỏ một mồi thuốc vào nơ, dặt dặt đầu ngón tay giữa trên đó cho mồi thuốc nằm êm xuống, rồi vít cái cần trúc. Tôi đă sẵn sàng thanh đóm nứa lấy lửa từ cái bếp nhỏ và trao cho thầy tôi. Thầy tôi, một tay đặt ngọn lửa vào nơ, một tay giữ đầu cần trúc,  hơi ngửa người hút ṣng sọc và nhả khói lên trần, thấy rơ vẻ sảng  khoái.

         Thầy tôi có hai bộ đồ trà. Bộ đồ trà dùng hằng ngày chỉ có một cái ấm, một chén tống và bốn chén quân khi chỉ có thầy mẹ tôi và tôi. Một bộ khác có hai ấm lớn hơn, hai chén tống và nhiều chén quân.

         Người Nhật gọi “trà đạo” có ư nghĩa dùng những buổi uống trà để thanh tẩy thân tâm, hướng nội, t́m ra một nhân sinh quan sâu sắc cho cuộc sống. Người Trung hoa cũng thịnh trà và các cụ Việt Nam chúng ta, các cụ nhà Nho khi xưa,  thường dùng những buổi uống trà mà luận bàn chính trị, lẽ tới lui, ứng xử, sự thành bại của các bậc anh hùng.

         Nếu thầy tôi uống một ḿnh, thầy tôi dùng ấm độc ẩm. Khi có cả mẹ tôi, ấm song ẩm. Trên ba người, thầy tôi dùng ấm quần ẩm. Chén quân cũng tùy theo mùa mà thay đổi. Mùa hè, chén quân là những cái tách nhỏ, men trắng, vẽ hoa xanh lá cây hoặc xanh lơ, miệng hơi loe, ấm và chén tống, đĩa lót, cũng men trắng trang điểm giống như chén quân. Mùa đông, các thứ này thường là da chu hoặc mầu đậm, chén quân miệng chúm lại để giữ trà được nóng lâu.

         Sau tuần trà, tôi lấy cuốn tập do thầy tôi đóng cho bằng giấy bản mua trên các tiệm tạp hóa của Tàu, b́a bằng giấy bản bồi nhựa cậy đen nhánh, lỗ dùi tṛn xuyên qua b́a và các tờ giấy để xỏ sợi giây se bằng giấy vào làm thành cuốn tập. Tôi trao cho thầy tôi để thầy viết lên đó vài câu “Tam tự kinh”, thầy tôi đọc trước cho tôi đọc theo vài, ba lần, xong thầy tôi vào pḥng mặc quần áo tiếp khách để đón bệnh nhân đến xem mạch  hoặc xin thuốc từ 10 giờ sáng.

Thầy tôi làm việc từ giờ đó cho đến 1 giờ, có khi 2 giờ trưa, thầy tôi mới được nghỉ ăn trưa. Có khi thầy tôi phải đi thăm bệnh nhân tại nhà của họ v́ họ bệnh quá không thể đến pḥng mạch được, nhiều khi đến giờ ăn, gia đ́nh bệnh nhân làm cơm mời thầy tôi nhưng  thầy tôi không ăn uống như vậy bao giờ. Đói mấy ông cũng nhịn cho tới khi về nhà. Tuy nhiên, nếu gia đ́nh bệnh nhân có việc hiếu hỉ mời thầy tôi th́ thầy tôi luôn luôn chia vui sẻ buồn với họ và dù bận, ông cũng t́m cách đến với họ. Chính v́ vậy mà trong những năm làm thuốc ở đây hay những nơi khác, thầy tôi được ḷng quí mến cuả hầu hết mọi người.

         Mỗi buổi sáng, khi thầy tôi chuẩn bị đi tiếp khách th́ tôi cũng chuẩn bị đến trường để theo học chương tŕnh tiểu học. Mấy câu “Tam tự kinh” thầy tôi vừa cho, tôi sẽ thanh toán vào buổi tối sau khi cơm xong, cùng với những bài của nhà trường. Thành ra tôi có hai thầy giáo cùng lúc. Cô đầm Pháp ở trường dạy Pháp văn có Chính tả, Tập đọc, Tính đố, Khoa học thường thức, Sử, Địa, Bài học thuộc ḷng, Chia động tự v.v...Thầy tôi dạy Hán văn và Việt ngữ, có thể dạy cho tôi đi thi Hương như thầy tôi cũng được.

Thơ Việt ngữ thầy tôi làm cả trăm bài, gửi đăng báo ở Sàig̣n, Hà Nội. Cuốn Thơ đó đă thất lạc từ hồi chiến tranh. Tôi nghĩ những ǵ tôi viết được ngày nay phần lớn do công sức thầy tôi chỉ bảo cho tôi từ thuở nhỏ. Và ngày nay tôi rất tin vào di truyền học (genealogy). Mẹ tôi ít học hơn thầy tôi nhiều nhưng mẹ tôi rất thông minh. Bà có trí nhớ siêu đẳng và lí luận rất thực tế. Con người tôi đă hấp thụ được cả hai cái tinh hoa của thầy và mẹ tôi.

           

Dạo đó,  ở Hải Pḥng, mẹ tôi luôn luôn phải mướn  người làm, thường là một người đàn ông, và một người đàn bà, dưới sự sai phái của mẹ tôi để làm thuốc viên mà ta gọi là cao đan hoàn tán, phục vụ bệnh nhân. Người đàn ông đứng trên cái “tầu tán thuốc” nhiều giờ trong ngày để tán ra thành bột thật nhuyễn các vị thuốc thầy tôi đă bốc, người đàn bà ngào mật hoặc mật ong đun sôi, sau đó mẹ tôi trộn bột thuốc với mật đặt trong cối đá giă cho hợp chất dẻo và nhuyễn xong viên thành viên tùy theo to nhỏ, bỏ vào hộp riêng từng loại, đă dán nhăn.

         Nếu muốn bán nhiều hơn, mẹ tôi phải mướn thêm vài người nữa nhưng thầy tôi nói, chỉ làm vừa đủ sức, không tham lam làm chi. Thứ bảy, chủ nhật, hai người làm muốn về thăm gia đ́nh th́ mẹ tôi đảm đương việc bếp núc cho bố con tôi. Mỗi buổi trưa, cơm trưa xong, mẹ tôi nghỉ một giờ, mẹ tôi cũng bắt người làm phải nghỉ cho đến lúc mẹ tôi lại bắt tay vào việc.

Cả hai thầy mẹ tôi giống tính nhau ở chỗ thương người. Chính v́ vậy những người đă làm cho thầy mẹ tôi đều muốn làm măi, không muốn nghỉ.

         Tôi nhớ “vú già”, người đàn bà rất chân chất thật thà, quê ở Đồ sơn, đă làm cho thày mẹ tôi được khoảng bốn năm.  Vú già năm đó khoảng gần 60 tuổi nhưng c̣n rất khoẻ, goá chồng nhiều năm, có hai con trai và hai con gái đều đă khôn lớn. Người con trai thứ,  năm đó cưới vợ, thầy mẹ tôi cho vú nghỉ 10 ngày về Đồ sơn lo đám cưới cho con. Ngày cưới, vú già nhờ thầy mẹ tôi đứng đại diện nhà trai để đáp lễ nhà gái. Thầy tôi sẵn sàng và đám cưới đă diễn ra  rất tốt đẹp.

         Trường tôi học rất gần với nhà tôi, ra khỏi nhà, quẹo tay trái đi một đoạn khoảng hơn nửa cây số là tới. Hồi khai tâm, tôi đă được vỡ ḷng bằng vần Pháp ngữ ở làng quê. Ở ngôi trường này, giữa thành phố Hải pḥng, trường dành cho cả con người Pháp và con người Việt nhưng hoàn toàn dạy chương tŕnh Pháp. Tôi vào học lớp Dự bị (Préparatoire) ở đó, miễn phí v́ là trường công lập. Sau này, cũng co thời gian thầy tôi gửi tôi vào nội trú trường Saint Joseph th́ phải đóng tiền ăn, ở và tiền học. Hầu như 80% học sinh là Pháp hoặc người nước ngoài quốc tịch  Pháp, một số là người Hoa, người Chà và (Ấn độ), cùng người Việt với tôi chẳng có bao nhiêu.

         Lúc đó là cuối thập niên 30 mà người Pháp đă chú ư “rao giảng” tiếng nước họ, văn hóa của họ mà họ tự hào là nhất nh́ thế giới. Chẳng thế mà trong một bài tập đọc dạo đó, tôi c̣n nhớ, tác giả bài viết rất hănh diện dân Pháp ăn bánh ḿ, c̣n người Á châu th́ “phải” ăn gạo! Cách ăn mặc, tập tục, lễ tết, truyền thống, tóm lại là văn hóa nói chung họ cũng từng điểm phân tích là họ hơn hẳn người Á châu.

         Chỉ là trường tiểu học nhưng ngôi trường này rất đồ sộ, cao ba tầng, mỗi tầng cả chục lớp, pḥng giáo viên, pḥng hiệu trưởng, pḥng tổng giám thị, giám thị, gác dan, nhà để xe vv... trông bên ngoài bề thế như một Đại học Viêt Nam ỏ Sàig̣n sau này.

         Lóp tôi học ở tầng giữa, khi chuông báo hiệu giờ học, chúng tôi đứng xếp hàng ở chỗ chỉ định, cô đầm trẻ măng chừng hơn hai chục tuổi là cô giáo của chúng tôi đứng ở đầu hàng bên tay trái. Mỗi buổi sáng, chúng tôi chào cờ trước khi vào lớp. Cột cờ cao ngay phía trước buộc sẵn một lá cờ tam tài, khi chuẩn bị, hai học sinh lớn, một nam, một nữ đứng kế cột cờ nh́n lại chúng tôi. Khi hàng ngũ đă chỉnh tề, các giáo viên và bà Hiệu trưởng cũng đă đứng xếp hàng, ông Tổng Giám thị đứng nghiêm hô:”Chào cờ” (Salut le drapeau!) và ông bắt giọng cho mọi người hát bài quốc ca Pháp:

“Allons enfants de la patrie le jour de gloire est arrivé...”

Trong lúc đó, một học sinh đỡ lá cờ, c̣n học sinh kia từ từ kéo cờ lên đỉnh cột cờ là vừa hát xong bài hát. Sau đó, thầy, cô giáo lớp nào dẫn học sinh lớp ấy vào lớp. Chương tŕnh lớp tư - là lớp tôi học - dạo đó gồm có: Tập đọc, Chính tả, Văn phạm, Tập đặt câu, Tập chia động tự, Bài học thuộc ḷng, Bài học thường thức về những vật xung quanh ta (Lecon de Choses), Bốn phép tính và tính đố giản dị... Đă quá lâu nên tôi chỉ nhớ lơm bơm có thế.            

        Lớp tôi chỉ có hai  tṛ Việt, Nguyễn Kim Vân và tôi. Kim Vân ngồi bàn trước, tôi bàn sau tuy nhiên chúng tôi ít dám nói chuyện với nhau v́ cô giáo rất nghiêm. Nói chuyên cô bắt được cô bắt qú cạnh bảng nh́n xuống dưới. Cô nh́n đồng hồ không sai một giây, qú 15 phút là y boong 15 phút, nửa giờ là đúng nửa giờ. Trường Pháp dạo đó cũng không cho đánh học sinh. Bắt qú, bắt đứng riêng vào khu “tội phạm” lúc chào cờ để cả trường thấy mặt cho xấu hổ, phê điểm xấu vv...và cuối cùng th́ gọi phụ huynh học sinh đến: đuổi khỏi trường.

         Lớp tôi cũng c̣n một học sinh người Chà và ba học sinh Tàu, hai trai một gái.  Anh Chà “Hynos” - tên loại thuốc đánh răng có in h́nh anh Chà với hàm răng trắng nhởn sau này - có vẻ cô độc thật sự. Giờ ra chơi, hắn chỉ đứng lủi thủi một góc sân nh́n mọi người và quả như những ǵ tôi biết về những anh “Sét-ti” Chà zà sau này, cái đức tính tần tiện có lẽ Chà zà bắt nhất thế giới. Cả niên khóa, tôi chưa hề thấy anh Chà đồng song ăn một cục kẹo làm phép. Nước đá không mua dù trời nóng đổ mồ hôi, kẹo bột, kẹo gừng, một chinh 5 cái. Kẹo bạc hà, súc-cù-là chính gốc Paris, một xu một thỏi, rồi c̣n các thứ quà bánh khác: bánh ḿ jambon, bánh ḿ trứng chiên, croissant, cà-phê sữa, kem cây, các thứ trái cây vặt vănh... bán đầy ở lối vào trường. Các giáo viên cũng là những khách hàng trung thành. Họ mua cà-phê, sữa, croissant ăn trong giờ ra chơi và lúc đó, thuốc lá chưa cấm ở những nơi công cộng nên đôi khi tôi phải vào gặp giáo viên hay bà Hiệu trưởng, tôi thấy pḥng giáo viên khói thuốc bay mù mịt.

         Dĩ nhiên cả trường dùng tiếng Pháp để trao đổi, chuyện tṛ. Những người bán hàng cũng phải biết chút ít tiếng Pháp để thối tiền, hỏi han vài câu quen thuộc, giản dị.

         Từ nhà tôi đến trường phải đi qua nhà Kim Vân, đến nhà Kim Vân coi như đă được một nửa. Kim Vân là con thứ ba ông bà phán Quế, trên Kim Vân có hai anh Huy Phúc và Huy Phong, sau Kim Vân là cô con gái út, Ngân Hà. Ông phán Quế làm việc ở ṭa Công sứ Pháp Hải pḥng, hai ông bà và gia đ́nh là bệnh nhân của thầy tôi từ hồi thầy tôi mới đến Phố Chavignon này mở pḥng mạch Đông Y.

         Mỗi buổi sáng, ra khỏi nhà đi được một quăng ngắn, từ đàng xa, tôi đă nh́n thấy cái áo đầm xanh đồng phục, áo sơ-mi trắng, mái tóc đen nhánh có cái nơ tím làm dáng và đôi giầy bata trắng quen thuộc. Đó là cô bạn nhỏ xinh xắn của tôi, Kim Vân. Một tay buông thơng đu đưa theo nhịp chân, tay kia cắp chiếc cặp da, chưa đến gần mà tôi đă thấy nụ cười thật tươi trên đôi môi hồng.

         “Vân chờ Vũ lâu chưa?” Tôi mau mắn hỏi trước.

         “Năm phút. Vân mới ra đây thôi.”

         Chúng tôi song song bước. Hai bên đường, học sinh trai, gái đến trường như chúng tôi đông nườm nượp. Con trai như tôi th́ áo sơ-mi trắng, dài tay mùa Đông, ngắn tay mùa hè; quần dài mầu tím than mùa Đông, quần soọc tím than mùa hè, chân đi săng-đan hoặc giầy bata, đầu trần hoặc có cái mũ vải khi quá nắng. Lúc đó tôi không đeo thắt lưng nhưng có giây bretelles đeo lên vai. Áo đầm con gái có khi cũng có giây đeo lên vai trông rất chân phương, con nít.

Tất cả học sinh đều đổ vào con đường Maréchal Joffre v́ trường chúng tôi ở đó.

            Tôi với Kim Vân không học suốt với nhau những năm Tiểu học v́ có năm thầy tôi bảo tôi về quê Trà Lũ sống với mẹ, tôi lại ghi danh học trường làng, trường Trà Bắc, rồi khi tôi trở ra Hải Pḥng, lại gặp lại Vân. Nói làm sao cho hết niềm vui của Vân khi gặp lại tôi! Đă hơn nửa thế kỉ mà làm như h́nh dáng, khuôn mặt, giọng nói và nhất là đôi mắt đen láy, trong sáng của Vân vẫn y như ngày nào trước mắt, bên tai tôi.

Tôi c̣n gặp lại Vân khi gia đ́nh Vân đi tản cư, rồi về Hà Nội, tôi sẽ kể quí bạn nghe khi có dịp thuận tiện.

 

 

   Xuân Vũ TRẦN Đ̀NH NGỌC