Thời gian trôi mau:
cho tới năm nay 2005, trường Đại Học Y Khoa Saigon (YKĐHS) đă có đủ 60
năm lịch sử. Lịch sử 60 năm này, v́ môt sự t́nh cờ, đă được chia làm
hai phần đều đặn bởi một biến cố cực kỳ quan trọng đối với chúng ta:
cuộc di tản năm 1975.
Thực vậy, nửa đầu của lịch sử YKĐHS kể từ khi thành lập năm 1946 cho
tới năm 1975 bao gồm đúng 30 năm. Năm 1975 và tiếp tục trong những năm
sau, trên hai triệu dân Việt Nam đă khao khát ra đi t́m tự do. Có thể
nói là YKĐH Saigon cũng đă ra đi v́ sự di tản đă kéo theo một phần lớn
sinh viên và đa số nhân viên giảng huấn. Trong khi đó tại quốc nội,
trường đă đổi tên. Tuy mục đích tối hậu vẫn là đào tạo chuyên viên y
tế, nhưng phương thức huấn luyện cũng như nội dung các môn học đều đă
thay đổi, pha nặng mầu sắc chính trị.
Đối với chúng ta, những người di tản, những ǵ xẩy ra tại quốc ngoại
mới là quan trọng. Chúng ta đă sinh sống và hoạt động tại quốc ngoại
được 30 năm. Hôm nay, ngồi ghi chép lại những sự kiện đă xẩy ra cùng
với những thành quả đă gặt hái được trong ṿng mấy chục năm qua, tưởng
cũng không ra ngoài mục đích của chương tŕnh 30 năm nh́n lại.
Trong bài viết dưới đây, chúng tôi sẽ lần lượt tŕnh bầy những dữ kiện
lịch sử có liên hệ tới trường YKĐH Saigon từ khi thành lập cho tới năm
1975. Sau 1975, chỉ có những dữ kiện ở quốc ngoại mới được ghi chép.
Những ǵ đă xẩy ra tại quốc nội, tuy cũng quan trọng đối với lịch sử
của trường, nhưng đă vượt ra khỏi thẩm quyền của người viết, nên sẽ
không được nói đến.
Lịch sử YKĐH Saigon có thể được chia ra làm ba giai đoạn. Giai đoạn
đầu là giai đoạn thành lập, từ năm 1946 tới năm 1954. Giai đoạn thứ
nh́ là giai đoạn trưởng thành, từ năm 1954 tới 1966. Và giai đoạn ba
là thời kỳ trường dọn về Trung Tâm Giáo Dục Y khoa, từ năm 1966 tới
1975. Sau đó là cuộc di tản lịch sử và 30 năm nh́n lại.
Những năm đầu tiên:
Thành lập trong không khí chiến tranh của Đệ Nhị Thế Chiến
Cho tới thập niên
1940,chỉ có một trường Y khoa duy nhất cho toàn quốc Việt Nam: đó là
trường Y Khoa Đại Học Hà Nội. Để đáp ứng nhu cầu cho số sinh viên càng
ngày càng gia tăng ở miền Nam VN, một trường Y thứ hai được thành lập
năm 1946 tại Saigon với cái tên khiêm nhường là Faculté de Médecine et
de Pharmacie de Hanoi, Section de Saigon. Như vậy, trường Saigon khi
mới lập chỉ được coi như là một chi nhánh của trường Hà Nội. Trụ sở được
đặt tại số 28 đường Testard (sau đổi tên là Trần Quư Cáp). Căn biệt
thự này là của bà BS Henriette Bùi, con của BS Bùi Quang Chiêu, một
gịng họ có nhiều uy tín ở miền Nam từ những thập niên 30 và 40.
Tưởng cũng nên nhắc lại những diễn biến chính trị quan trọng trong
thời kỳ đó. Chiến tranh thế giới thứ hai đang tới lúc quyết liệt. Năm
1944, quân đội Nhật Bản xâm chiếm Đông Dương, chính quyền Bảo Hộ Pháp
bị lật đổ và các viên chức người Pháp cùng với hơn 1500 quân lính Pháp
ở Saigon bị Nhật cầm tù. Tháng 8, 1945, sau khi hai trái bom nguyên tử
được thả xuống Hiroshima và Nagasaki, Nhật Bản kư hiệp ước đầu hàng đồng
minh tại Tokyo. Tháng 9, 1945, đô đốc Gracey của hải quân Anh quốc tới
Saigon tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật ở Nam VN. Các binh sĩ và
viên chức Pháp được giải thoát và tái vơ trang. Một tháng sau, dưới
quyền chỉ huy của đô đốc d’Argenlieu, một số binh sĩ Pháp đổ bộ lên
Saigon, tăng cường thêm cho số đă có mặt ở Saigon từ trước. Một cuộc
xung đột đă xẩy ra giữa những binh sĩ Pháp và các phần tử Việt Minh đang
hoạt động ở miền Nam. Kết quả là các phần tử Việt Minh đă bị đẩy ra
khỏi thành phố. Một chính phủ mới được thành lập với BS Nguyễn Văn
Thinh làm thủ tướng. Miền Nam trở nên một vùng tự trị (Nam Kỳ tự trị).
Ta có thể tự hỏi tại sao trường Y khoa Saigon lại được thành lập một
cách vội vă trong một t́nh thế khẩn trương như vậy? Nên nhớ rằng vào
cuối thế kỷ 19, khi đang nghiên cứu để xây cất một trường Y khoa cho
toàn cơi Đông Dương, chính phủ Pháp đă lựa Saigon trước, nhưng sau v́
muốn đưa ảnh hưởng Pháp qua Trung Hoa nên mới chọn Hà Nội. T́nh trạng
hỗn loạn năm 1945-1946 khiến miền Bắc Việt Nam trở thành một tiền đồn
xa xăm, trong khi miền Nam vẫn c̣n như một thuộc địa Pháp. Đồng thời,
số sinh viên miền Nam ghi danh học y khoa đă gia tăng hơn trước. Với
sự hỗ trợ tích cực của một số thân hào nhân sĩ địa phương, điều kiện
đă trở nên thuận tiện cho việc thành lập thêm một trường y khoa thứ
hai, tại Saigon.
Trụ sở số 28 Testard của trường là một biệt thự hai tầng. Tầng trên có
văn pḥng Khoa trưởng và pḥng hội đồng Giáo sư, cũng là nơi các sinh
viên tŕnh luận án. Tầng dưới dành cho văn pḥng hành chánh, pḥng hội
và thư viện. Đằng sau là khu vườn trống, mấy năm sau được xây cất
thành giảng đường. Có hai giảng đường lớn nằm hai bên cùng 4 giảng đường
nhỏ ở giữa xếp theo h́nh chữ U. Khoa trưởng đầu tiên là Giáo Sư Daléas.
Trên giấy tờ, ông chỉ mang chức vụ Phó khoa trưởng, v́ Khoa trưởng cho
cả hai trường Saigon và Hà Nội là GS Huard, ở Hà Nội.
T́nh h́nh lúc đầu có nhiều khó khăn. Bài diễn văn của GS Daléas (5) đọc
trong buổi lễ khai trường niên khoá 1948-49 với sự hiện diện long
trọng của Thủ tướng Chính phủ Trần văn Hữu cho ta nhiều chi tiết quan
trọng. Số sinh viên ghi danh niên khoá đầu 1946-1947 chỉ có khoảng 12
người cho tất cả các lớp. Đến niên khóa 1948-1949, số này tăng lên tới
trên 80 người. V́ thiếu giảng đường nên các lớp học được giảng dạy tại
các bịnh viện như bệnh viện Grall. Số giáo sư ban đầu chỉ có 2 người
nên trường phải tận dụng khả năng giảng huấn của các bác sĩ quân y
Pháp cũng như các bác sĩ Việt ở Saigon. GS Daléas cũng có nói thêm là
niên khóa 1948-1949 có tới 10 giáo sư trong số đó có GS Massias (Nội
khoa) ở Hà Nội vào và GS Trần quang Đệ (Ngoại khoa) từ Pháp về. GS
Daléas điều hành trường Y khoa Saigon cho tới niên khoá 1949-50 th́ GS
Massias lên thay thế.
Cũng như ĐHYK Hà Nội hồi đó, chương tŕnh học dài 6 năm, rập theo chương
tŕnh huấn luyện y khoa Pháp. Hai năm đầu dành cho các môn khoa học
căn bản như cơ thể, mô học, sinh hoá, sinh lư và môn triệu chứng học.
Năm thứ ba và thứ tư bắt đầu các môn bịnh lư nội ngoại khoa và cơ thể
bịnh lư. Sinh viên đi thực tập tại các bịnh viện về nội và ngoại khoa.
Năm thứ năm và thứ sáu học thêm các khoa bịnh lư chuyên môn như nhi
khoa, sản phụ khoa và trị liệu pháp. Cuối năm thứ sáu thi Bịnh lư và
sinh viên sửa soạn luận án.
Các bịnh viện thực tập gồm:
- Bện viện Grall: được xử dụng tối đa lúc ban đầu về cơ sở, pḥng ốc
và nhân viên giảng huấn. Những năm sau giảm dần.
- Bệnh viện Chợ Rẫy (Nội, Ngoại khoa, Tai Mũi Họng, Nhăn khoa).
- Bệnh viện Đô Thành (Nội, Ngoại khoa, Cấp cứu, Tai Mũi Họng),
- Bệnh viện Chợ Quán (Tâm thần, Truyền nhiễm)
- Bảo sanh viện Từ Dũ
- Viện Bài trừ Hoa liễu
Lư thuyết và thực tập cho các môn khoa học căn bản được thực hiện tại
nhiều nơi như:
- Vi trùng & Kư sinh trùng: viện Pasteur
- Sinh hoá: pḥng thí nghiệm bệnh viện Đô Thành
- Mô học & Cơ thể bịnh lư: quân y viện Coste (của quân đội Pháp, ở gần
Sở Thú, sau này thành trường nữ trung học Trưng Vương)
- Cơ thể học: bệnh viện Chợ Rẫy.
Số sinh viên ghi tên gồm đủ lớp từ Y1 tới Y6, v́ có một số sinh viên
học lớp trên đă từ Hà Nội vào và một số từ Pháp về. Kết quả kỳ thi ra
trường niên khoá 1947-1948 có ghi tất cả 32 sinh viên (Y1: 11 người,
Y2: không có ai, Y3: 1 người, Y4: 9 người, Y5: 3 người, Y6: 8 người).
Khoá ra trường đầu tiên vào năm 1947 (1). Có 7 sinh viên tŕnh luận án.
Đó là các bác sĩ: Pierre Boucheron, Trần Đ́nh Đệ, Lê văn Hùng, Trần
Minh Mẫn, Mme A. Saint Mieux, Lê Văn Thuấn và Nguyễn Văn Thọ. Trong số
7 vị này có tới 3 vị đă lựa chọn đề tài về sản phụ khoa để làm luận án,
chứng tỏ sự hoạt động mạnh mẽ của bảo sanh viện Từ Dũ ngay từ hồi đó.
Sau đây là số bác sĩ ra trường hàng năm cho cả hai trường Saigon và Hà
Nội (1):
|
YKĐH Saigon |
YKĐH Hà Nội
|
1947 |
7 |
4 |
1948 |
10 |
9 |
1949 |
5 |
7 |
1950 |
4 |
14 |
1951 |
4 |
1 |
1952 |
13 |
54 |
1953 |
3 |
5 |
1954 |
11 |
13 |
Xin ghi nhận là năm 1951 chỉ có 1 sinh viên ra trường tại ĐHYK Hà Nội.
Đó là hậu quả của cuộc chiến tranh Đông Dương: năm 1945 là năm quân
Nhật đầu hàng, Việt Minh nắm chính quyền, rồi quân Pháp trở lại bán
đảo Đông Dương. T́nh h́nh chính trị bất ổn làm cho các trường phải tạm
đóng cửa, không thu nhận sinh viên. Kết quả là 6 năm sau, năm 1951,
không có sinh viên tŕnh luận án. Nhưng năm sau, năm 1952, lại có tới
54 sinh viên ra trường tại Hà Nội. Không hiểu sinh viên ở đâu ra mà
nhiều như vậy? Có thể là tại các năm trước, t́nh h́nh chính trị sôi động,
sinh viên không có điều kiện để sửa soạn luận án. Sang năm 1952, t́nh
h́nh khả quan trở lại, các sinh viên mới có dịp hoàn tất luận án của
ḿnh.
Thời kỳ củng cố và
phát triển: 1954-1966
Năm 1954, hiệp định
Genève được kư kết, chia đôi nước Việt Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh
giới. Miền Bắc được đặt dưới chế độ Cộng sản, c̣n miền Nam thuộc chính
thể quốc gia. Dân chúng hai miền có một thời gian ngắn là 3 tháng để
di chuyển qua miền ḿnh lựa chọn, hoặc ra Bắc, hoặc vào Nam. Trường YKĐH
Hà Nội cũng không thoát khỏi ảnh hưởng của cuộc phân chia này: đa số
các giáo sư trong ban giảng huấn và 2/3 sinh viên y khoa đă quyết định
vào Nam t́m tự do. Ta có thể coi đây là một tiền lệ cho cuộc di tản
1975 sau này.
Trường Y khoa Saigon đă mở rộng cửa để tiếp nhận số sinh viên di cư.
Hồi đó người viết bài này đang là một sinh viên năm thứ hai. Tôi c̣n
nhớ rơ buổi khai giảng đầu tiên cho năm học. Lúc đó trời vào thu, khoảng
tháng 9 năm 1954. Mới di chuyển vào Saigon được hơn hai tháng, nơi ăn
chốn ở c̣n chưa ổn định, tôi cắp sách tới trường trên đường Testard.
Giờ đầu tiên là giờ của GS Massias, tại giảng đường A. Giảng đường có
một số bàn dài, chứa được chừng hơn trăm sinh viên. Vừa ngồi vào bàn,
bỏ sách vào ngăn bàn th́ đă thấy có ai viết trong ngăn một gịng chữ
phấn trắng: Đả đảo Bắc kỳ di cư. Ḷng đang hoang mang th́ vừa lúc GS
Massias bắt đầu bài giảng bằng câu: Bienvenu à vous tous!
Niên học 1954-55 là niên học đầu tiên với một số sinh viên đông đảo
gấp bội: năm thứ nhất và năm thứ hai có chừng 70 tới 80 sinh viên mỗi
lớp. Các lớp trên ít hơn nhiều. Hồi đó chưa có những kỳ thi tuyển. Chỉ
cần có một trong những bằng dự bị như PCB, SPCN là có thể ghi tên vào
học y khoa (cho đúng nghĩa với tên Faculté). Để có thể tiếp nhận một
số sinh viên gia tăng gấp đôi, một số cơ sở đă được xây cất gấp rút.
Đầu tiên là bịnh viện B́nh Dân. Bịnh viện này do một số các nhà hảo
tâm chung tiền hoàn thành năm 1955 và đă được trao cho YKĐHS để trở
thành khu Giải phẫu B do GS Phạm Biểu Tâm điều hành cùng với một số
nhân viên bịnh viện Phủ Doăn ở Hà Nội vào. Bịnh viện sau đó được trang
bị thêm các khu chuyên môn như Nhăn khoa, Tai Mủi Họng, Niệu khoa, B́
phu và Ung thư. Bịnh viện Chợ Rẫy đổi là khu Giải phẫu A do GS Trần
Quang Đệ điều hành, GS Đặng văn Chiếu phụ tá. Bịnh viện Nhi Đồng được
xây cất và hoàn thành năm 1956 với sự trợ giúp tích cực của cơ quan
UNESCO. Tọa lạc trên đường Sư Vạn Hạnh, bệnh viện Nhi Đồng là bịnh
viện đầu tiên và lớn nhất toàn quốc dành riêng cho các em nhỏ (2).
Các môn khoa học căn bản cũng được mở mang thêm. Trước hết là Cơ Thể
Học Viện trên đường Trần Hoàng Quân, do GS Nguyễn Hữu chủ trương và điều
hành từ năm 1956. Trước đó th́ các cuộc mổ xẻ thực tập cơ thể học được
thực hiện tại nhà quàn bệnh viện Chợ Rẫy. Tôi c̣n nhớ những buổi thực
tập tại nơi này, thường được bắt đầu vào khoảng hai giờ trưa. Trong
khi GS Hữu đang dạy học th́ bên ngoài ầm ĩ những tiếng kèn, nhị đám
tang của các bịnh nhân không may đă qua đời trong bịnh viện. Với Cơ
Thể Học Viện, trường Y đă có một cơ sở giảng dạy xứng đáng với một ông
thầy như GS Hữu. Bên cạnh Cơ Thể Học Viện là một kiến trúc khá lớn,
trước kia trực thuộc bệnh viện Hồng Bàng, sau này được sửa sang lại và
chia làm hai, một nửa dành cho khu Sinh Lư học và một nửa cho khu Cơ
thể Bịnh lư và Mô học. Chính tại nơi này, năm 1958, tôi đă được hân hạnh
gặp GS Jason, một trong những người đi tiền phong trong việc nghiên
cứu xây dựng Trung Tâm Giáo Dục Y khoa Saigon sau này (3).
Một kỷ niệm khó quên cho tôi trong thời sinh viên là khu Mô học với
các GS Joyeux và Linh mục Lichtenberger. Khu Mô học và Cơ thể Bịnh lư
lúc đầu do GS Joyeux điều hành. Kỳ thi cuối năm Y2 của tôi về Mô học
do GS Joyeux hỏi vấn đáp từng người một. Sinh viên y nào mà dám tự cho
là ḿnh biết đủ về mô học để thi nên cứ loanh quanh ở ngoài, không dám
bước vào pḥng vấn đáp. Ông ngồi đợi chán rồi bước ra ngoài th́ bắt được
tôi. Ông lôi vào, cho ngồi trước mặt rồi hỏi tôi: Décrivez-moi
l’aspect histologique de la glande parathyroide. Sau một phút choáng
váng, tôi may mắn c̣n nhớ trong những bài giảng của ông là những tuyến
nội tiết đều có rất nhiều các vi ti huyết quản, nên tôi cứ dựa vào đó
mà nói loanh quanh. Ông có vẻ hơi nản nên dơ ngón tay cái lên hỏi thêm
rằng tuyến này to bằng nào, bằng ngón tay cái hay bằng cái đầu bút ch́.
Câu này dễ ợt v́ ngón tay cái của ông lớn quá, không dễ dàng ǵ mà nằm
trong cổ người ta được. Tôi trả lời là to bằng cái đầu bút ch́. Ông
gật đầu và cho ra. GS Joyeux ở lại Saigon thêm một vài năm rồi về Pháp.
Người kế tiếp ông tại khu Mô học là Linh mục Lichtenberger người Bỉ,
tu theo gịng Jesuites. Trước khi qua Việt Nam, ông đă giảng đạo nhiều
năm bên Tàu, nên ông thường có những mẩu truyện lư thú Trung hoa để kể
lại cho các sinh viên nghe. Ông rất giỏi và đă dậy cho tôi nhiều về
cách pha chế phẩm nhuộm mầu cho các mô trong cơ thể. Ông cũng rất giỏi
về Di truyền học. Điều này làm cho ta nhớ tới Gregor Mendel, người đă
nghiên cứu các hạt đậu mà t́m ra những định luật căn bản về di truyền
học. Ông Mendel cũng là một tu sĩ gịng Jesuites. Cha Lichtenberger đă
có công rất lớn trong công cuộc gây dựng và mở mang khu Mô học, từ năm
1957 cho tới 1975. Cha rất yêu thích Việt Nam và không bao giờ nề hà
cực nhọc trong việc dạy dỗ sinh viên. Tôi c̣n nhớ măi lúc Cha rời
Saigon. Lúc đó vào buổi chiều, một trong những ngày đầu tháng tư năm
1975. Tôi đang đứng trên bậc tam cấp tại Trung tâm Giáo dục Y khoa th́
Cha đi tới cùng với một nhân viên bộ Giáo dục, trên tay cầm cuốn sổ
thông hành xanh của Bỉ. Cha cho biết là t́nh h́nh nguy ngập nên toà
đại sứ Bỉ có khuyến cáo Cha nên rời khỏi Việt Nam ngay. V́ Cha là nhân
viên chính thức của trường Y, ăn lương bộ Giáo dục nên phải có giấy
giải nhiệm mới được phép ra khỏi nước. Giấy kư rồi, tôi đưa cho Cha,
thấy Cha rưng rưng nước mắt. Ông nói ông sẽ về Bỉ, nhưng c̣n các anh
th́ sao? Tôi không biết trả lời sao nữa. GS Lichtenberger trở về Bỉ và
mất năm 1986.
Môt vài thời điểm quan trọng trong lịch sừ của nền đại học Việt Nam
cần được ghi nhận. Trước năm 1945, chỉ có một đại học duy nhất tại
Việt Nam: đó là trường Đại học Đông Dương (Université de l’Indochine)
toạ lạc tại Hà Nội, do chính quyền bảo hộ Pháp điều hành. Một thỏa
hiệp văn hoá giữa Pháp và Việt Nam kư ngày 30 tháng 12, 1949 đổi tên
trường lại là trường Đại Học Hà Nội, do hai chính phủ Pháp Việt điều
hành chung. Trường Đại học Hà Nội có hai trung tâm, một ở Hà Nội và
một ở Saigon. Tháng 10 năm 1954, v́ cuộc di cư lớn từ bắc vào nam,
trung tâm Hà Nội sáp nhập làm một với trung tâm Saigon, bao gồm những
phân khoa Luật, Y Dược, Văn khoa, Khoa học, và Kiến trúc. Tháng 5,
1955, trường Đại học Hà Nội trở thành Đại Học Quốc Gia Việt Nam, do
chính phủ Việt Nam điều hành, và có thêm một phân khoa mới, trường Đại
học Sư Phạm. Đại học Văn khoa, trước đó chú trọng nhiều về văn hoá
Pháp, được mở rộng thêm với các môn văn chương, sử địa Việt. Tới năm
1957, khi trường Đại học Huế mở cửa th́ Đại Học Quốc Gia đổi tên là
Đại Học Saigon. Đại học Y Dược được chia làm hai phân khoa riêng biệt,
Y khoa và Dược khoa, vào tháng 8 năm 1961. Năm 1963, bộ môn Khẩu xoang
tách rời khỏi Y khoa và trở thành Đại học Nha Khoa. Khoa trưởng Dược
khoa đầu tiên là GS Nguyễn Vĩnh Niên và Khoa trưởng Nha khoa là GS
Trịnh văn Tuất.
Nhân viên giảng huấn là thành phần ṇng cốt của các trường đại học.
Chuyến di tản năm 1954 đă mang thêm cho trường Y Saigon một số giáo sư
như GS Phạm Biểu Tâm (Phẫu khoa), GS Nguyễn Hữu (Cơ thể học), GS Trịnh
Văn Tuất (Hàm miệng), GS Nguyễn Đ́nh Cát (Nhăn khoa), GS Auguste
Rivoalen (Nội khoa), GS Montagné (Sản phụ). Sau đó ít lâu, GS Trần
Ngọc Ninh (Chỉnh trực) từ Pháp về năm 1954, rồi tới các GS Trần Vỹ (Sinh
lư học) năm 1956 và GS Trần Đ́nh Đệ (Sản phụ khoa) năm 1956. Sau một
vài năm, các giáo sư Pháp bắt đầu rút chân ra khỏi ban giảng huấn.
Khởi đầu là việc GS Massias từ nhiệm, và GS Phạm Biểu Tâm lên thay thế
năm 1955. GS Phạm Biểu Tâm là vị Khoa trưởng Việt Nam đầu tiên, có uy
tín nhất của trường Y Saigon. Sau đó tới phiên các giáo sư Pháp khác
từ từ rời khỏi Việt Nam, chỉ riêng có GS Rivoalen là c̣n tiếp tục giảng
dậy cho tới năm 1962 ông mới trở về Pháp. Ảnh hưởng Pháp trên ngành
giáo dục y khoa Việt Nam cũng nhạt dần. Tưởng cũng nên nhắc lại là năm
1962 là năm cuối cùng mà bằng Bác sĩ Y khoa của trường YKĐH Saigon c̣n
được công nhận tại Pháp.
Trong khi đó th́ nỗ lực tăng cường nhân viên giảng huấn Việt được tiếp
tục. Qua sự khuyến khích và dẫn độ của các giáo sư Huard, Lemaire,
Mahoudeau, ..., một số giáo sư YKĐH Saigon đă qua Pháp tu nghiệp. Từ
năm 1960 tới 1963, ta thấy có các giáo sư trở về với bằng Thạc sĩ như
sau đây:
- GS Nguyễn Huy Can (Cơ thể Bịnh lư)
- GS Lê Xuân Chất (Huyết học)
- GS Đào Đức Hoành (Ung thư)
- GS Bùi Quốc Hương (Thần kinh)
- GS Nguyễn Ngọc Huy (Tim mạch)
- GS Ngô Gia Hy (Niệu khoa)
- GS Nguyễn Văn Út (B́ phu & Hoa liễu)
- GS Trần Anh (Nhân chủng học)
Đồng thời, một chương tŕnh đào tạo các nhân viên giảng huấn trẻ cũng
được bắt đầu. Trong những năm 1958 và 1959, một số nhân viên đă được
gửi qua Pháp huấn luyện về những môn nội, ngoại khoa, nhăn khoa, sản
phụ khoa. Tuy nhiên, một số lớn các vị này, sau khi học xong, đă tự động
ở lại Pháp, làm cho chương tŕnh bị gián đoạn. Nhân viên giảng huấn
duy nhất đă trở về nước trong chương tŕnh này là GS Nguyễn Thế Minh (Nội
khoa). Có lẽ v́ vậy mà các đợt huấn luyện sau đều được gửi qua các nước
khác như Mỹ và Anh.
Có thể nói thời gian 1954-1966 là một thời kỳ êm đẹp trong lịch sử YKĐHS.
Thực vậy, vào hồi đó, t́nh h́nh chính trị tạm ổn định. Chiến tranh
Việt Pháp đă chấm dứt và chiến tranh Nam Bắc chưa bắt đầu thực sự. Rất
nhiều kỷ niệm sinh viên êm đềm vẫn tồn tại trong ḷng người viết. Tôi
chỉ xin phép ghi lại những h́nh ảnh bất di bất dịch về các bậc thầy khả
kính của trường YKĐH Saigon.
Hồi tôi học năm Y2 th́ GS Phạm Biểu Tâm đang dưỡng bịnh, những hoạt động
của ông bị giảm thiểu. Cho tới năm Y3, Giáo sư hoạt động trở lại. Thời
kỳ đó, tôi làm ngoại trú ở bệnh viện B́nh Dân. GS Tâm có biệt tài về
giải phẫu bao tử và ruột. Ông ăn nói nhỏ nhẹ, trầm tĩnh, không to tiếng
bao giờ. Tuy nhiên những lời nói nhỏ nhẹ này rất có hiệu lực để đưa
các học tṛ về chính đạo mỗi khi họ phạm lỗi lầm.
GS Nguyễn Hữu không những là một phẫu thuật gia nổi tiếng, ông c̣n là
một nhà cơ thể học có danh quốc tế. Tôi không sao quên được những buổi
học về cơ thể thần kinh hệ tại giảng đường A Trần quư Cáp. GS Hữu vẽ
rất đẹp, c̣n giảng bài th́ thao thao bất tuyệt. Sau này, trong những
thập niên 70 và 80, ông dậy cơ thể học ở Đại học Y khoa Brest bên Pháp,
và đă nâng khu Cơ thể học của trường này lên tột đỉnh danh vọng. Ngoài
ra, ông c̣n là một phẫu thuật gia rất giỏi về tim mạch. Hồi năm
1956-1957, ông có qua Mỹ thăm viếng khu mổ tim của GS DeBakey ở Texas.
Khi trở về bệnh viện B́nh Dân, ông có mang theo nhiều dụng cụ mổ tim
mạch, trong đó có một món đồ mà tôi c̣n nhớ tới ngày nay: đó là cái
ḱm O’Saughnessy. Có lẽ là v́ ḱm đó có h́nh dáng lạ kỳ khác xa với
các đồ mổ thường dùng hồi đó, và có lẽ cũng v́ cái tên khá lạ lùng nên
tôi luôn luôn nhớ tới nó như một món đồ đặc biệt đă mở cửa cho tôi
nh́n vào thế giới phẫu khoa tân tiến. Dạo đó, chương tŕnh mổ tim của
ta c̣n mới phát triển, chưa có những máy bơm đưa máu ra khỏi tim khi đang
mổ, nên GS Hữu chỉ có thể mổ những trường hợp bị nghẹt van
(rétrécissement mitral, mitral stenosis), làm commissurotomie rồi đưa
ngón tay vào nới rộng cái van bị nghẹt. Không hiểu sao mà số bịnh nhân
bị bịnh này ở Việt Nam khá nhiều, GS Hữu mổ không kịp. Đa số bịnh nhân
thuộc phái nữ và c̣n rất ít tuổi.
Một giáo sư đă nêu gương sáng cho các sinh viên là GS Trần Ngọc Ninh.
Năm 1954 khi mới đậu Thạc sĩ ở Pháp về, ông là người đầu tiên đă mang
môn Chỉnh trực (Orthopédie) vào Việt Nam. Ông luôn luôn nhắc nhở chúng
tôi, đám nội ngoại trú đi theo ông, rằng: Các anh đừng tưởng mổ xong
một trường hợp và bịnh nhân về nhà là đă thành công đâu. Chỉ khi nào
theo rơi bịnh nhân 6 tháng, một năm mà không thấy bịnh trở lại, lúc đó
mới tạm yên chí là ḿnh đă hoàn thành nhiệm vụ. GS Ninh sau này chuyển
sang và thành lập ngành giải phẫu tiểu nhi tại bịnh viện Nhi Đồng. GS
Ninh c̣n là một cây viết uyên thâm về văn chương Việt Pháp cũng như
triết lư đạo Phật.
Nhưng người đă gây ra những ấn tượng sâu đậm nhất trong đám môn đệ phải
là GS Trần Quang Đệ. Ông sinh trưởng tại miền Nam, du học Pháp, làm
Nội trú các bịnh viện Paris. Ông dáng người cao lớn, chững chạc, luôn
luôn mặc bộ đồ lớn mầu trắng ngà. Mỗi khi đi thăm bịnh tại các trại,
ông đứng cao hơn các mộn đệ một đầu người, với mẩu thuốc lá đă tắt
trên mép, ông giảng bài bằng tiếng Pháp dễ dàng, thanh thoả, cho lũ
học tṛ một cảm giác tin tưởng hoàn toàn vào ông thầy trước mặt. Tôi
c̣n nhớ bài giảng cơ thể học đầu tiên với GS Đệ năm Y2 tại khu mô học.
Đề tài là arrière cavité de l’épiplon, một vùng cơ thể mà ông đă thuộc
ḷng qua không biết bao nhiêu cuộc mổ xẻ. Ông nói thao thao, thêm vào
có những bức họa đồ cơ thể, nên sau một tiếng đồng hồ, đă giúp cho đám
sinh viên thâu nhập thêm rất nhiều điều bổ ích. Sau này, khi làm Viện
trưởng Viện Đại học Saigon, với uy tín cá nhân, ông đă không ngừng
củng cố thêm địa vị mỗi ngày một lớn của viện.
Trở lại với vấn đề nhân viên, ta thấy có nhiều chậm trễ cho việc gia
tăng nhân số. Sau đợt các giáo sư Thạc sĩ ở Pháp về trong những năm
1960-1962, ta phải chờ tới năm 1965-1966 mới có thêm 7 nhân viên giảng
huấn trẻ tu nghiệp ở Mỹ về, gồm các vị sau:
- BS Đào Hữu Anh (Cơ Thể Bịnh Lư)
- BS Hoàng Tiến Bảo (Chỉnh Trực)
- BS Vũ Quí Đài (Vi trùng học)
- BS Nguyễn Khắc Minh (Gây Mê)
- BS Đỗ Thị Nhuận (Vi trùng học)
- BS Bùi Duy Tâm (Sinh hoá học).
- BS Nguyễn Ngọc Giệp (Sản phụ khoa)
Sau đó ít lâu, ta có một số chuyên viên khác từ các nước trở về phục
vụ tại YKĐHS như:
- BS Trịnh Thị Minh Hà (Nhi khoa, Mỹ)
- BS Trần Kiêm Thục (bịnh Tiêu hoá, Pháp)
- BS Trần Thế Nghiệp (Quang tuyến, Pháp)
- BS Liễu Thanh Tâm (Quang tuyến, Pháp)
- BS Lê Dư Khương (Giải phẫu, Đức)
- BS Phó Bá Đa (Giải phẫu, Mỹ)
Tổng số nhân viên giảng huấn cho niên khoá 1967-1968 được ghi nhận là
91 người, với 16 giáo sư thực thụ, 7 giáo sư diễn giàng, 27 giảng sư
và 41 giảng nghiệm viên (4). So với số sinh viên trên dưới 1000 người
th́ con số 91 nhân viên giảng huấn thật khiêm nhường. Sự kiện này môt
phần cũng v́ t́nh h́nh chính trị, các sinh viên học hết năm thứ 5 đều
phải nhập ngũ, phục vụ trong ngành quân y. Trong khoảng thời gian 10
năm từ 1960 tới 1970, không có một cuộc tuyển chọn nhân viên giảng huấn
nào được mở tại YKĐHS. Những kỳ thi tuyển chỉ được mở lại sau năm 1970
và v́ vấn đề thời gian, cũng không mang lại được kết quả dài hạn tốt
đẹp như ta mong muốn.
Như ta đă thấy, học tŕnh y khoa gồm có 6 năm nhưng trên thực tế, sinh
viên chỉ học có 5 năm, sang năm thứ sáu nhập ngũ phục vụ trong ngành
quân y. V́ số sinh viên ghi danh nhập học càng ngày càng tăng, nên kể
từ năm 1966, một kỳ thi tuyển được mở hàng năm để lựa một số nhất định
là 200 sinh viên vào năm thứ nhất.
Về cơ sở thực tập, một bịnh viện mới được mở năm 1967. Đó là bịnh viện
Nguyễn Văn Học, tọa lạc trong Gia Định. Với số giường trên dưới 600, đây
là bịnh viện lớn thứ nh́ sau bịnh viện Chợ Rẫy (1200 giường). Cũng như
các bịnh viện thực tập khác, bịnh viện Nguyễn Văn Học do bộ Y tế điều
hành. Công việc giảng dạy do các nhân viên giảng huấn YKĐHS đảm nhiệm,
gồm các bộ môn Nội, Ngoại khoa, Nhi khoa và Sản phụ khoa.
Trung Tâm Giáo Dục Y
Khoa Saigon
Ngay từ sau khi có
cuộc di tản năm 1954, chính phủ Mỹ đă gia tăng viện trợ cho Việt Nam,
về quân sự cũng như dân sự. Về phiá dân sự, nhiều chương tŕnh lớn nhỏ
được đưa ra nhưng nói chung chỉ có 3 chương tŕnh quan trọng đáng kể:
đó là xa lộ Biên hoà, nhà máy xi măng Hà tiên và Trung Tâm Giáo Dục Y
Khoa Saigon. Sau nhiều tháng năm thiết kế và xây dựng, cả ba chương
tŕnh này đều đă được hoàn tất.
Năm 1957, cơ quan USAID (United States Agency for International
Development) được chỉ định nghiên cứu việc xây cất một trung tâm giáo
dục y khoa cùng một bịnh viện thực tập 500 giường cho viện Đại học
Saigon. Năm 1958, một phái đoàn Mỹ gồm 3 nhân viên (1 bác sĩ, 1 kiến
trúc sư và 1 quản lư bịnh viện) tới Saigon với nhiệm vụ duy nhất là phải
hoàn thành trong ṿng 60 ngày một đề án xây cất cho trung tâm này.
Cầm
đầu phái đoàn là GS Robert Jason, khoa trưởng Howard Medical School ở
Washington DC. Người viết bài này đă có hân hạnh được gặp ông Jason.
Hồi đó, tôi đang làm nghiệm chế viên cho khu Cơ Thể Bịnh lư. Một buổi
chiều, đang loay hoay trong pḥng thí nghiệm coi mấy tấm kính nhỏ qua
một kính hiển vi cũ kỹ một mắt (monoculaire), lấy ánh sáng từ cửa sổ
hàng hiên, chợt một người Mỹ cao lớn, da ngăm đen bước vào. Ông đi một
ḿnh, có dáng dấp đạo mạo của một học giả. Thấy tôi đang nh́n qua kính
hiển vi, ông mỉm cười và tự giới thiệu. V́ tiếng Anh c̣n kém, tôi
không hiểu nhiều, chỉ nhớ là, sau khi nh́n qua kính, ông nói là không
đủ ánh sáng. Ông cũng nói thêm là ông sẽ cố gắng giúp Việt Nam xây một
trung tâm y khoa tân tiến đầy đủ dụng cụ. Sau này tôi mới biết ông c̣n
là giáo sư Cơ thể Bịnh lư nữa. Rồi ông bắt tay ra về. Trong những năm
sau đó, v́ bận bịu thi ra trường, tŕnh luận án rồi đi tu nghiệp, tôi
quên bẵng ông đi. T́nh cờ, cách đây mấy năm, tôi được một anh bạn cho
coi cuốn báo cáo của ông Jason về chuyến đi Việt Nam của ông. Đây là
một cuốn sách dầy trên 80 trang đánh máy, có tựa đề là: Report on
Proposed Medical Center for Vietnam, hoàn thành tháng 10, 1958. Trong
báo cáo, ta thấy có đầy đủ sự kiện về YKĐH Saigon (cơ sở, nhân viên,
học tŕnh, ...) và những đề nghị căn bản cho trung tâm giáo dục Y, Nha,
Dược khoa tương lai cùng với bịnh viện thực tập 500 giường. Cần phải
nói ngay là bịnh viện thực tập, sau nhiều cuộc thương thuyết sau này,
đă không thành h́nh nổi và đă bị băi bỏ năm 1973.
Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa Saigon được khởi đầu xây cất năm 1963 và
hoàn tất năm 1966, với khoản phí tổn 2 triệu rưởi mỹ kim, một nửa do
chính phủ Việt Nam đài thọ, một nửa là viện trợ Mỹ. Số tiền này khá
lớn khi một ly cà phê chỉ có 5 xu và 1 gallon xăng giá 20 xu. Tọa lạc
trên đường Hồng Bàng, trung tâm gồm hai cơ cấu kiến trúc lớn, nối liền
bằng một hành lang, tạo thành h́nh chữ H. Mỗi cơ cấu kiến trúc có 4
tầng, tầng dưới cùng một bên là văn pḥng trường Y, một bên là văn
pḥng trường Nha, cùng với một số giảng đường nhỏ và pḥng họp. Các
tầng trên dành cho các bộ môn khoa học căn bản: Cơ thể, Sinh lư, Hoá
học, Cơ thể bịnh lư, Mô học, Giải phẫu Thực nghiệm và Vi sinh học. Một
đại giảng đường 300 chỗ và một thư viện lớn nằm giữa hai cơ cấu trên,
cùng với quán ăn sinh viên. Đây là nơi sinh viên sinh hoạt mê say.
Quán ăn do các nữ tu sĩ ḍng Mến Thánh Giá điều hành đă cung cấp cho
sinh viên những bữa ăn ngon lành với giá rẻ. Thức ăn có giới hạn,
nhưng cơm th́ ăn tha hồ.
YKĐH Saigon chính thức dọn vào trung tâm tháng 6, 1966, đánh dấu bước
đầu cho một cuộc cộng tác y khoa mới lạ Mỹ Việt. Theo như thông lệ,
cộng tác giữa hai đại học thuộc hai nước khác nhau thường chỉ được
thực hiện một cách giới hạn qua sự trao đổi văn hoá và nhân viên giữa
một hay hai khu của hai trường. Nhưng lần này, v́ tầm vóc lớn lao,
liên hệ tới nhiều khu, không một đại học Mỹ nào nhận. Hiệp hội Y khoa
Mỹ AMA bằng ḷng đứng ra môi giới liên lạc với nhiều trường đại học Mỹ.
Mỗi trường chấp nhận bảo trợ cho một bộ môn của YKĐHS bằng cách cử
nhân viên giảng huấn, ngắn hạn và dài hạn, sang Việt Nam để trợ giúp
công việc giảng giạy, đồng thời cũng nhận nhân viên giảng huấn Việt
Nam qua Mỹ tu nghiệp. Đây là một cuộc thí nghiệm đầu tiên về giáo dục
y khoa cho cả Mỹ lẫn Việt Nam (4).
Sau đây là danh sách các đại học Mỹ đă tham gia chương tŕnh này:
Bộ
môn Tên Đại học Mỹ Thời gian tham gia
Cơ thể/Mô học Louisville 1966-1971
Gây mê Emory 1968-1972
Sinh hoá Nebraska 1968-1971
B́ phu Minnesota 1970-1971
Nội khoa Oklahoma 1970-1975
Vi sinh học Hawaii 1970-1975
Thần kinh Georgetown 1969-1971
Giải phẫu năo Yale không chính thức
Sản phụ khoa Medical College 1969-1975 Of Georgia
Nhăn khoa Harvard không chính thức
Chỉnh trực Colorado không chính thức
Tai mũi họng Colorado 1968-1971
Kư sinh trùng Oklahoma 1970-1971
Cơ thể bịnh lư Missouri/Columbia 1967-1975
Nhi khoa Texas/Southwestern 1970-1973
Sinh lư Georgetown 1966-1973
Quang tuyến Pennsylvania 1969-1975
Y tế Công cộng Oklahoma 1967-1974
Giải phẫu Pittsburgh 1970-1974
Niệu khoa Duke 1969-1971
Trên
thực tế, chương tŕnh trao đổi văn hoá này đă đem lại kết quả tốt đẹp
cho cả hai phía. Phía Mỹ, các nhân viên khi qua Việt Nam đă trau dồi
thêm nhiều kiến thức về những bịnh trạng vùng nhiệt đới, ít khi thấy
tại Mỹ. Phía Việt, nhân viên tu nghiệp có dịp tân trang hoá kiến thức,
làm quen với những dụng cụ máy móc mới. Đồng thời, các bộ môn của ḿnh
cũng có dịp trang bị thêm nhiều sách vở, dụng cụ.
Vài mẩu truyện lư thú đă xẩy ra trong chương tŕnh này. Ta phải nhớ
đến GS Lilienfield, trưởng khu Sinh lư đại học Georgetown, một sinh lư
gia nổi danh của Mỹ, tác giả cuốn sách sinh lư học gối đầu giường của
các sinh viên Mỹ. Ông tham gia chương tŕnh ngay từ đầu và đă qua Việt
Nam giảng dạy nhiều lần. Hồi năm 1966, Saigon bị cúp điện liên miên.
Một buổi giảng dạy của ông, v́ thiếu điện, phải thực hiện ngoài trời,
trên sân cỏ nằm trước quán ăn. Bảng đen được dựng vào gốc me. Sau buổi
học, ông có nói với tôi là chưa bao giờ ông đă có một buổi tŕnh bầy
thú vị như vậy.
Hai chương tŕnh trao đổi được chú ư tới nhiều là Nội và Ngoại khoa.
Khu tương ứng (counterpart) về Nội khoa là đại học Oklahoma với giáo
sư Hammarsten. Ông đă thăm viếng Việt Nam rất nhiều lần từ 1969 tới
1974. Đại học Oklahoma đă gửi trên 10 giáo sư thăm viếng ngắn và dài
hạn qua Việt Nam và cũng đă tiếp nhận trên 10 bác sĩ Việt sang tu
nghiệp. Sau 1975, cũng v́ ông Hammarsten, đại học Oklahoma đă thành
một trung tâm huấn luyện quan trọng cho các bác sĩ tị nạn trong việc
thi lấy bằng hành nghề. BS Nông Thế Anh, một nhân viên giảng huấn của
trường đang tu nghiệp tại Mỹ, đă có công lớn trong việc tổ chức lớp
huấn luyện này.
Khu tương ứng về Ngoại khoa là đại học Pittsburgh với giáo sư Bahnson.
Ông đă tham gia chương tŕnh từ 1970 đến 1974. Ông là một phẫu thuật
gia nổi tiếng về giải phẫu lồng ngực. Trong những chuyến thăm viếng,
ông đă mổ nhiều lần ở bịnh viện B́nh Dân cùng với GS Phạm Biểu Tâm.
Chương tŕnh đă đưa trên 20 bác sĩ Mỹ qua Việt Nam và cũng đă tiếp
nhận 8 bác sĩ Việt qua tu nghiệp. Một trong những nhân viên của trường
tu nghiệp tại Pittsburgh, BS Nghiêm Đạo Đại, hiện là giáo sư điều hành
bộ môn ghép thận, gan và tụy tạng ờ trung tâm VA Pittsburgh.
Khu Nhi khoa cũng có nhiều hoạt động đáng kể. Khu tương ứng của bịnh
viện Nhi Đồng là đại học Texas Southwestern. Trưởng khu, GS Eichenwald,
đă tham dự chương tŕnh rất sớm, từ 1968. Khu của ông đă thu xếp và
gửi qua Việt Nam 5 giáo sư thăm viếng dài hạn cùng rất nhiều giáo sư
ngắn hạn. Hai giáo sư thăm viếng dài hạn, bà Cornet và bà Whitaker, đă
có công lớn trong việc thiết lập và điều hành các pḥng ngoại chẩn
(Under-Six Clinics) tại Saigon. Các giáo sư thăm viếng Nhi khoa đều
rất thích ăn món bánh xèo của BS Dương thị Thanh Liên làm. Cũng cần
nhắc lại là BS Thanh Liên đă viết một cuốn sách dạy nấu ăn các món
Việt Nam, bán rất chạy tại Mỹ.
Trong thời gian huấn luyện, một truyện buồn đă xẩy ra cho bộ môn Cơ
thể: một nhân viên giảng huấn dài hạn của đại học Louisville, bà
Letterman, đă bỏ ḿnh tại Việt Nam trong một tai nạn rủi ro.
Nếu khoảng thời gian 1954-1965 được coi như là một thời kỳ ổn định,
không có biến chuyển lớn nào th́ những năm sau, từ 1966 tới 1975, lại
là một thời kỳ bất ổn, chịu ảnh hưởng tối đa của chiến tranh Nam Bắc
và t́nh h́nh chính trị quốc nội. Thực vậy, trong khoảng thời gian 10
năm đó, thời kỳ mà YKĐHS chính thức tọa lạc tại Trung Tâm Gíao Dục Y
Khoa, không có năm nào mà công cuộc giảng dạy lại không bị gián đoạn.
Từ cuộc công kích năm Mậu Thân 1968 cho tới vụ thảm sát hai giáo sư Lê
Minh Trí và Trần Anh, rồi những cuộc biểu t́nh liên miên của sinh viên,
năm học nào cũng bị gián đoạn một hai tháng.
Ban lănh đạo trường YKĐHS cũng không tránh được nhiều thay đổi. Khởi
đầu là vụ băi nhiệm GS Khoa trưởng Phạm Biểu Tâm vào tháng giêng 1967.
Một ủy ban lâm thời gồm 5 giáo sư được cử ra điều hành trung tâm: các
GS Ngô gia Hy, Trần Anh, Nguyễn Ngọc Huy, Lê Minh Trí và Nguyễn Thế
Minh. Tháng 5, 1967, một cuộc bầu cử Khoa trưởng được tiến hành. Đây
là lần đầu tiên các giảng sư được tham dự bầu cử. Trước đó, chỉ các
giáo sư mới được bầu. Nhiệm kỳ Khoa trưởng dài 2 năm với quyền tái ứng
cử. GS Ngô Gia Hy và GS Vũ Thị Thoa được bầu làm Khoa trưởng và Phó
khoa trưởng. Đầu năm 1968, cuộc công kích Tết Mậu Thân xẩy ra. Các
sinh viên phải đi thực tập quân sự làm niên học phải tạm gián đoạn.
Tháng 11, 1968, một cuộc bầu cử Khoa trưởng thứ hai được tổ chức: các
GS Phạm Tấn Tước, Đào Hữu Anh và Nguyễn Phước Đại được bầu vào chức vụ
Khoa truởng và 2 Phó khoa trưởng. Tháng giêng 1969, trong khi t́nh
h́nh chính trị tạm lắng đọng, vụ thảm sát GS Lê Minh Trí, Bộ trưởng
Quốc gia Giáo dục xẩy ra, và hai tháng sau đó, GS Trần Anh bị ám sát.
Các cuộc biểu t́nh sinh viên bắt đầu tái diễn; một trong những lư do
là chống kỳ thi tuyển nội trú. Tháng 12, 1970, GS Phạm Tấn Tước từ
chức, GS Đào Hữu Anh lên giữ chức Quyền Khoa trưởng cho tới tháng 1,
1972, GS Đặng Văn Chiéu được bầu lên chức vụ Khoa trưởng. Chương tŕnh
giảng dạy tại YKĐHS được tiếp tục trôi chẩy trong mấy năm sau đó, chỉ
trừ một cuộc công kích hồi tháng 4, 1972.
Sau đây là danh sách và thời gian hoạt động của các vị Khoa trưởng
YKDHS từ 1946 tới 1975:
- 1946-1950: GS Daléas
- 1950-1955: GS Charles Massias
- 1955-1967: GS Phạm Biểu Tâm
- 1967-1969: GS Ngô Gia Hy
- 1969-1970: GS Phạm Tấn Tước
- 1970-1971: GS Đào Hữu Anh
- 1972-1974: GS Đặng Văn Chiếu
- 1974-1975: GS Vũ Quí Đài
Những thành quả từ khi thành lập tới năm 1975
Trường YKĐH Saigon đă giữ một địa vị tối quan trọng trong công cuộc
đào tạo các chuyên viên phục vụ ngành y tế toàn quốc. Căn cứ trên số
luận án đă được tŕnh và chấp thuận (1), từ năm 1947 tới 1972 đă có
1779 bác sĩ y khoa ra trường tại YKĐHS. Số bác sĩ ra trường từ 1972
tới 1975 là bao nhiêu không rơ v́ không có ghi chép. Tuy nhiên, với số
sinh viên trên dưới 200 người một lớp, ta có thể phỏng ước lượng là có
vào khoảng trên dưới 600 sinh viên ra trường trong khoảng thời gian đó.
Như vậy, tổng số bác sĩ ra trường tại YKĐHS từ 1947 tới 1975 là vào
khoảng 2380 người.
Ngoài công việc giảng dạy, các nhân viên giảng huấn YKĐHS c̣n tích cực
tham gia khảo cứu. Rất nhiều bài báo cáo khoa học đă được đăng trên
các báo y khoa quốc nội và quốc ngoại. Những bài này đă được liệt kê
trong hai cuốn sách Travaux de Recherche Scientifique I và II của GS
Nguyễn Hữu và BS Nguyễn Văn Nguyên. Chỉ tiếc là công tŕnh này không
được tiếp tục sau năm 1972 nữa. Một tài liệu rất quí giá khác cần được
nêu ra là cuốn Bibliographie des Thèses của GS Nguyễn Đức Nguyên.
Trong cuốn này, tất cả các luận án đệ tŕnh tại hai YKĐH Saigon và Hà
Nội từ khi thành lập tới năm 1972 đều được liệt kê đầy đủ.
Trường cũng đă chủ trương một tờ báo y khoa tên là Acta Medica
Vietnamica, xuất bản mỗi tam cá nguyệt. Số báo đầu tiên ra mắt vào năm
1957, chủ nhiệm là GS Phạm Biểu Tâm. Tôi c̣n nhớ trong số đó có bài
nghiên cứu về dinh dưỡng ở Việt Nam rất đặc sắc của GS Trần Vỹ. Báo
được tiếp tục xuất bản cho tới năm 1975 th́ ngưng hoạt động. Báo được
trưng bầy và tồn trữ tại các thư viện của các trung tâm y khoa lớn
quốc ngoại. Năm 2002, khi cần t́m lại một tài liệu y khoa cũ, với sự
hướng dẫn của BS Đặng Phú Ân, tôi đă được nh́n lại những số báo AMV cũ
kỹ đă ngả mầu vàng, tàng trữ tại thư viện của đại học Montreal. Bài
tôi muốn kiếm (và tôi dă kiếm được hôm đó) là một bài báo cáo về
trường hợp bịnh nấm cryptococcosis đầu tiên thấy ở Việt Nam. Bịnh nhân
là một đàn ông trẻ tuổi có một bướu lớn bằng trái quít ăn vào xương
sườn bên phải. GS Nguyễn Hữu mổ và cắt bướu đó tại bịnh viện B́nh Dân.
Thông thường th́ nấm Cryptococcus chỉ xâm nhập qua bộ máy hô hấp rồi
ăn lên óc, gây ra bịnh viêm màng óc cấp tính. Rất ít khi nấm ăn ra
ngoài màng óc, chỉ trừ những trường hợp bịnh AIDS hoặc miễn nhiễm bẩm
sinh. Hồi đó, ta chưa biết ǵ về HIV và AIDS, chưa có thuốc thử nên
không rơ t́nh trạng miễn nhiễm của bịnh nhân ra sao.
30
năm nh́n lại: Những sự kiện đă xẩy ra tại quốc ngoại
Tháng tư năm 1975, quân đội cộng sản miền Bắc tràn ngập miền Nam,
chính quyền quốc gia sụp đổ. Trong những ngày tháng sau đó, hơn 2
triệu dân Việt đă lần lượt bỏ nước ra đi t́m tự do, bất chấp mọi hiểm
nghèo. Trong số những người này có đa số sinh viên và nhân viên giảng
huấn của YKĐHS. Họ đă định cư tại nhiều quốc gia trên thế giới, nhưng
phần lớn đă lựa Mỹ quốc làm nơi sinh sống.
Một trong những mối ưu tư đầu tiên của người dân tị nạn là làm sao có
thể sinh tồn trong một xă hội mới hoàn toàn xa lạ từ tinh thần tới vật
chất. Đối với người trong y giới th́ mối ưu tư chính là t́m được
phương cách để có thể hoạt động trở lại trong ngành y mà ḿnh đă lựa
chọn. Với sự hỗ trợ đắc lực của hiệp hội American Medical Association
(Dr. Ira Singer) một Hội Đồng Khoa Lưu Vong của YKĐH Saigon được thành
lập tại Mỹ với mục tiêu chính là giúp đỡ chứng nhận, giới thiệu cho
các sinh viên Việt tiếp tục hoàn tất học tŕnh y khoa tại các đại học
Mỹ, và các bác sĩ Việt hội đủ điều kiện hành nghề tại các tiểu bang Mỹ.
Thành phần Hội Đồng Khoa gồm 5 người, đại diện cho 4 khu bịnh lư và
khoa học căn bản:
- GS Đặng Văn Chiếu (Ngoại khoa)
- GS Đào Hữu Anh (Khoa Học Căn Bản)
- GS Phan Đ́nh Tuân (Nhi khoa)
- GS Nguyễn Văn Hồng (Sàn Phụ khoa)
- GS Lê Quốc Hanh (Nội khoa)
Hội Đồng Khoa họp buổi họp đầu tiên tại trụ sở Hiệp hội AMA ở Chicago
vào tháng 9/1975. Trong thời điểm đó, mối liên hệ ngoại giao giữa Mỹ
và Việt Nam đă bị cắt đứt, các bác sĩ và sinh viên Việt không thể nào
xin được các giấy tờ cần thiết từ trường cũ của ḿnh, nên HĐK đă quyềt
định đứng ra cấp phát các giấy chứng nhận, chứng chỉ học tŕnh, và văn
bằng cho các bác sĩ cũng như sinh viên y khoa cũ để họ có thể hoàn tất
hồ sơ xin hành nghề hay học tiếp tại các đại học.
Trong buổi họp trên, HĐK đă chứng nhận và cấp phát 122 Chứng chỉ thay
thế Văn Bằng Y Khoa Bác Sĩ (Certificate in-lieu of Diploma) cho 122
người hội đủ điều kiện. Trong việc cấp phát, HĐK đă căn cứ trên các
giấy tờ đương sự mang theo được, các giấy affidavit do bạn bè cùng lớp
hay cùng nơi hành nghề cấp, các tài liệu đă được in thành sách như
Danh sách Luận án của GS Nguyên (1), danh sách Y Sĩ Đoàn, niên giám
(yearbook), v.v.. Nhờ sự hỗ trợ của hiệp hội AMA, văn bằng của HĐK đă
được các tiểu bang Mỹ công nhận là có giá trị tương đương như các văn
bằng của các trường Y khoa khác, và có đầy đủ giá trị để ứng viên có
thể được thâu nhận vào các chương tŕnh huấn luyện hậu đại học.
Chương tŕnh cấp phát chứng chỉ và biên thư giới thiệu này được tiếp
tục hoạt động hoàn toàn do những nỗ lực cá nhân của các thành viên Hội
Đồng Khoa, không có trợ giúp nào từ bên ngoài ngoại trừ sự hỗ trợ ban
đầu của AMA. Hiệp hội AMA cũng đă có công lớn trong việc luân chuyển
các giấy tờ từ các ứng viên tới Hội Đồng Khoa. Một khó khăn nhỏ đă xẩy
ra: đó là việc chứng nhận cho các sinh viên ra trường sau tháng
4/1975. V́ Hội Đồng Khoa đă rời khỏi Việt Nam hồi tháng 4/1975 nên,
trên phương diện kỹ thuật, không có đủ thẩm quyền để chứng nhận cho
các sinh viên kể trên. May sao, có một số giáo sư YKĐHS đă rời khỏi
Việt Nam sau 1975 như GS Trần Ngọc Ninh, Vũ Quí Đài và các vị này đă
đồng ư chứng nhận cho các sinh viên ra trường từ 1975 tới 1978. Sau
1978 không ai có thẩm quyền chứng nhận thêm nữa.
Sau gần 25 năm hoạt động, HĐK đă cấp phát được tất cả 1261 văn bằng.
Trừ một số nhỏ đă ra truờng từ YKĐH Hà nội, hầu hết các thụ đắc viên
văn bằng đều là sinh viên YKĐH Saigon. Đa số các thụ đắc viên cư ngụ
tại Mỹ. Tuy nhiên, một số văn bằng cũng đă được cấp phát cho bác sĩ cư
ngụ tại các quốc gia khác trên thế giới. Bảng danh sách sau đây liệt
kê các quốc gia và số văn bằng đă cấp phát tại quốc gia đó:
- Mỹ: 1167 văn bằng
- Canada: 48 văn bằng
- Pháp: 18 văn bằng
- Úc châu: 17 văn bằng
- Bỉ: 5 văn bằng
- Anh: 2 văn bằng
- Tây Đức: 1 văn bằng
- Hoà lan: 1 văn bằng
- Thụy sĩ: 1 văn bằng
- Do thái: 1 văn bằng
Ngoài văn bằng kể trên, các thành viên HĐK cũng đă kư rất nhiều giấy
giới thiệu cho các sinh viên cũng như bác sĩ để giúp họ nộp đơn xin
tiếp tục học y khoa hay t́m nơi huấn luyện lâm sàng.
Kể từ 1995, số bác sĩ Việt di cư qua Mỹ càng ngày càng giảm. Cộng thêm
với việc tái thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Mỹ và Việt Nam, các bác
sĩ Việt ở hải ngoại có thể trực tiếp xin chứng chỉ học tŕnh hay phó
bản văn bằng từ Saigon, nên hoạt động của HĐK cũng giảm dần. Văn bằng
sau cùng được cấp phát vào tháng 3/1998. Các bác sĩ thụ đắc viên của
văn bằng do HĐK Lưu vong cấp đều đă hành nghề trở lại, an cư lạc
nghiệp, không cần đến sự giúp đỡ của HDK nữa. Cho tới nay, các thành
viên HĐK đều đă về hưu. Hai vị đă mất: GS Nguyễn Văn Hồng năm 2002 và
GS Đặng Văn Chiếu năm 2004. Nhiệm kỳ của HĐK như vậy cũng đă được coi
như chấm rứt, tuy rằng không chính thức.
Kết
luận
Nh́n
lại quá khứ 30 năm đă qua, ta thấy sự kiện quan trọng nhất cần phải kể
ra là thành quả của giới y khoa di cư Việt Nam tại quốc ngoại. Với
những nỗ lực cá nhân không nhỏ, đa số các sinh viên y khoa di tản đă
t́m được nơi tiếp tục học và đă ra trường. Họ đă được huấn luyện thêm
và dă trở thành những chuyên gia tài ba. Các bác sĩ di tản cũng không
thua kém: họ đă hăng hái tham gia các chương tŕnh huấn luyện lâm sàng
tại các trung tâm y khoa lớn, chung vai sát cánh với các bác sĩ ngoại
quốc khác như Trung Hoa, Ấn độ, Phi, Cao Ly, ... Kết quả là đa số đă
hành nghề y trở lại, từ thành thị tới các thôn quê hẻo lánh.
Tôi xin mạn phép nêu ra trường hợp của một bậc đàn anh mà tôi luôn
luôn kính phục: BS Nguyễn Lưu Viên. Ông là nhân viên giảng huấn khu Cơ
thể Bịnh lư (h́nh 2) và Tổng trưởng Quốc gia Giáo dục Việt Nam Cộng
Hoà trong những năm đầu thập niên 70. Khi di tản qua Mỹ năm 1975, ông
tuy đă lớn tuổi nhưng vẫn hăng hái tham gia chương tŕnh huấn luyện y
sĩ thường trú (Residency) tại Memphis, Tennessee. Khi xong, ông vừa
đúng 65 tuổi. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục làm việc cho tới 70 tuổi mới
về hưu. Với trí nhớ rất minh mẫn, ông vẫn c̣n cộng tác, viết bài cho
các diễn đàn y khoa và văn hoá Việt. Cách đây chừng một tháng, trong
một buổi hội thảo, ông đă làm cử toạ ngạc nhiên và thán phục khi ông
đọc thuộc ḷng trước mặt mọi người những lời thề Hippocrates bằng
tiếng Pháp.
Sự thành công của giới y khoa di tản đă nêu một gương sáng cho con em
các gia đ́nh Việt tại quốc ngoại. Kết quả là ngành y tế đă được các
sinh viên trẻ gốc Việt chú ư, lựa chọn và dành cho một tỷ lệ ghi danh
rất cao. Và số bác sĩ gốc Việt ra trường tại các đại học y khoa Mỹ
cũng như Pháp càng ngày càng nhiều.
Đó là những thành quả tốt đẹp mà năm 1975, khi c̣n ngồi trong các trại
tị nạn bàn tính về tương lai, chúng ta không hề dám nghĩ tới.
Tháng 7, 2005.
Đào Hữu Anh
____________________________________________________________
Tài
liệu tham khảo:
1. Bibliographie des Thèses de Medecine.
GS Nguyên Đức Nguyên. Université de Saigon, 1972.
2. Một chút lịch sử: Y khoa Đại học Saigon. GS Trần Ngọc Ninh.
Hội
Y sĩ Việt Nam tại Canada, 1972.
3. Report on Proposed Medical Center for Vietnam. Robert S. Jason,
Owen Stubben, Roger D. MacPherson. 1958.
4. Saigon Medical School: An Experiment in International Medical
Education. C.H.William Ruhe, Norman W. Hoover, Ira Singer. American
Medical Association, 1988.
5. Tài liệu cá nhân, của các GS Nguyễn Lưu Viên, Nguyễn Đức Nguyên, và
của tác giả.
H́nh
1: Cơ sở Y Dược Khoa Đại Học Đường trên đường Trần Quư Cáp, với một
nhóm sinh viên trên thảm cỏ. Thời điểm: 1962-63.
H́nh
2: Sinh viên năm thứ 2 và thứ 3 thực tập Cơ thể Bịnh lư và Mô học với
GS Joyeux
tại bịnh viện Coste. GS Joyeux ngồi giữa, hàng đầu, bên cạnh là BS
Nguyễn Lưu Viên mặc áo choàng trắng. Thời điểm: 1951-52.
H́nh
3: Sau buổi tŕnh luận án, các GS Nguyễn Hữu, Phạm Biểu Tâm, Trần Đ́nh
Đệ, Trịnh Văn Tuất chụp h́nh kỷ niệm với sinh viên tại cơ sở Trần Quư
Cáp. Chỉ có 2 sinh viên đứng hàng sau. Thời điểm: tháng 6/1960.
H́nh 4: GS Mahoudeau
chụp chung với các giáo sư và sinh viên trước trại 23, BV Chợ Rẫy.
Hàng đầu, từ trái sang phải: GS Lê Xuân Chất, Huỳnh Ngọc Xuân,
Mahoudeau, Phạm Tấn Tườc,
Bùi Quốc Hương. Thời điểm: 1962.
H́nh 5: GS Lê Xuân
Chất (ngồi giữa, hàng đầu) và một nhóm sinh viên ở trước lầu 22 (Nội
khoa) BV Chợ Rẫy. Thời điểm: 1958.
H́nh 6: Cổng vào
Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa Saigon, năm 2000.
H́nh 7: Hồ nước (c̣n
có tên là hồ Bao tử) phía sau quán ăn Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa
Saigon.
H́nh 8: Khoá Hội
Thảo Quốc Tế Giáo Dục Y Khoa tại TTGDYK Saigon, tháng 7/1972.
Ngoài số hội thảo viên Việt Nam (ĐHYK Saigon và Huế, bộ Y Tế), ta c̣n
thấy đại diện các đại học Harvard, Columbia, UCLA, Mahidol (Thái lan),
Nairobi, và Rockefeller Foundation.
|