Nhỏ bé th́ mới đẹp

                                                        

( Small is beautiful ) 

 
 

 

  Đoàn Thanh Liêm 

 

                                  

 

                                                            

   “Small is beautiful”, đó là nhan đề của một cuốn sách xuất bản năm 1973. Tác giả là một kinh tế gia đă từng làm việc lâu năm tại Cơ quan quản lư về ngành than đá của nước Anh (National Coal Board NCB), tên là E F Schumacher. Ngay khi ra mắt công chúng, cuốn sách đă gây được tiếng vang lớn khắp thế giới, và cho đến nay sau trên 30 năm th́ đă lưu hành được đến trên một triệu đơn vị, đó là chưa kể các ấn bản được dich ra nhiều thứ tiếng khác nữa.

 

     Vào năm 1973 đó, tôi chỉ mới được đọc có một bài giới thiệu về cuốn sách này, trong đó có câu nguyên văn như sau khiến tôi nhớ măi : “Small is beautiful, Simple is beautiful, Non-violent is beautiful too”. Măi đến năm 1979-80, th́ cụ Nguyễn Hiến Lê mới được ngưới cháu làm ở Liên Hiệp Quốc tại Geneva về thăm và mang cho bản dịch tiếng Pháp mà vẫn để nguyên nhan đề bằng tiếng Anh theo như nguyên tác, chứ lại không dịch ra tiếng Pháp : “Small is beautiful”. Cụ Nguyễn xem xong và cho tôi mượn đọc cuốn sách thật là hiếm mà có được ở Việt nam vào cái thời gian đó. Không những tôi đă say mê đọc, mà c̣n chuyển cho một vài người bạn thân thiết khác cùng đọc nữa. Rồi tôi lại có dịp đến trao đổi với cụ Nguyễn về nội dung cuốn sách này; nhờ vậy mà tôi vỡ lẽ ra được nhiều điều mới lạ mà tác giả đă gợi ra cho người đọc nào có sự chú tâm và đồng cảm với quan điểm của ḿnh.

 

      Đáng chú ư nhất là trong cuốn sách có một chương dài chừng 10 trang nhan đề là “Buddhist Economics” (Kinh tế học Phật giáo). Tác giả Schumacher viết rất gọn gàng khúc chiết, diễn giải một cái nh́n rất khác lạ đối với công chúng ở các nước Âu Mỹ.

 

       Từ mấy tháng nay trước sự hỏang lọan cực kỳ rối ren đen tối phát sinh từ cuộc khủng hỏang kinh tế tài chánh của nước Mỹ và nhiều nơi trên thế giới, tôi đă t́m đọc lại cuốn sách này nơi ấn bản năm 1999 kỷ niệm 25 năm ngày xuất bản đầu tiên năm 1973 như đă ghi ở trên. Và với thêm nhiều tài liệu được cập nhật hóa liên quan đến tác giả và tác phẩm, tôi bèn nảy ra ư nghĩ là phải tŕnh bày với chi tiết thật sáng sủa, mà gọn gàng về tư tưởng của tác giả Schumacher với các bạn đọc người Việt nam chúng ta.

 

       Để cho vấn đề tŕnh bày được thêm mạch lạc sáng tỏ, người viết xin chia ra thành 3 phần được diễn tŕnh trong 3 bài như sau :

 

           Bài 1/  Thân thế và sự nghiệp tác giả E F Schumacher

           Bài 2/  Giới thiệu cuốn sách “Small is beautiful”

           Bài 3/ Kinh tế học Phật giáo (dịch nguyên văn từ chương “Buddhist Economics”)

 

      Nhân tiện người viết cũng xin ghi lời tưởng nhớ với niềm ngưỡng mộ chân thành và ḷng biết ơn sâu sắc đối với cụ Nguyễn Hiến Lê là một học giả đă góp phần rất lớn lao trong công tŕnh xây dựng văn hóa nước nhà, dưới chế độ tự do ở miền Nam Việt nam hồi trước năm 1975. Cụ đă từ trần vào năm 1984 ở Saigon; và năm 2009 này là kỷ niệm 25 năm kể từ ngày Cụ từ giă chúng ta.

        

   Bài 1  --   Ernst  Friedrich  Schumacher  (1911 – 1977)

 

Thân thế và Sự nghiệp

 

  1/  Sơ Lược Tiểu sử

  

       E F Schumacher sinh tại thành phố Bonn, nước Đức năm 1911. Thân phụ là Giáo sư Hermann Schumacher chuyên dậy về môn Kinh tế học tại nhiều trường Đại học ở Đức, kể cả tại thủ đô Berlin vào hồi đầu thế kỷ XX. Thân mẫu là Bà Edith Zitelmann, một tài năng về tóan học. Trong chỗ thân mật E F thường được gọi là Fritz. Với cha mẹ như vậy, nên người ta không ai ngạc nhiên về sự thông minh xuất chúng của Fritz là một học sinh luôn luôn đứng vào hàng đầu trong các lớp học. Lại nữa, Fritz c̣n được thụ giáo với các bậc đại sư nổi danh khắp thế giới như Joseph Schumpeter gốc Áo quốc, như John Maynard Keynes bên Anh quốc v.v…

 

   Là một sinh viên xuất sắc, nên Fritz  đă được học bổng Rhodes Scholar để theo học tại Đại học Oxford hồi đầu thập niên 1930, và lại được tiếp tục theo học tại Mỹ trong ngành kinh tế tài chánh. Sau thời gian ngắn làm việc tại Đức, Fritz không thể chấp nhận đường lối độc tài phát xít của Hitler, nên đă sang làm việc bên Anh quốc ít lâu trước khi thế chiến thứ hai xảy ra năm 1939. Lúc đầu khi mới nổ ra cuộc chiến, v́ là công dân Đức nên Fritz cũng bị đối xử rất ngặt nghèo như là kẻ thù địch và bị xếp vào lọai người bị tập trung trong một trại cô lập rất khắc nghiệt. Nhưng sau ít lâu,  th́ cũng được các bạn hữu giải thóat ra khỏi t́nh trạng quản chế này và được trao phó cho công viêc thích hợp với khả năng chuyên môn của một kinh tế gia.

 

   Chiến tranh chấm dứt, Fritz nhờ đă có quốc tịch Anh, nên được phái sang Đức với nhiệm vụ làm cố vấn kinh tế cho phái bộ Anh đặc trách về vấn đề b́nh định và tái thiết trong khu vực thuộc quyền quản lư của quân đội nước Anh tại Đức. V́ được chứng kiến tận mắt những tàn phá mất mát của bà con ruột thịt với ḿnh, nên Fritz đă ngày đêm miệt mài t́m cách xây dựng lại hệ thống quản lư và phân phối ngành năng lượng, chủ yếu là than đá vốn là huyết mạch của sự phục hồi kỹ nghệ tại nước Đức, cũng như tại ṭan bộ các nước thuộc miền Tây Âu châu. Sau đó ông trở về lại nước Anh và nhận chức vụ cố vấn kinh tế cho cơ quan National Coal Board (NCB), đây là công việc ông làm trong nhiều năm nhất (gần 20 năm) cho đến khi về hưu vào năm 1970.

 

   Về đời sống gia đ́nh, Fritz  đầu tiên cưới bà vợ người Đức là Anna Maria Petersen vào năm 1936. Anna Maria thường được gọi là Muschi trong chỗ thân mật gia đ́nh và bạn hữu. Hai vợ chồng rất gắn bó với nhau và đă trải qua những năm khốn khó giữa thời chiến tranh bên nước Anh. Họ có với nhau 5 người con. Nhưng không may, Muschi bị bệnh ung thư và mất sớm vào năm 1960, lúc chưa đày 50 tuổi. Sau đó, th́ Fritz tục huyền với bà Vreni Rosenberger, người Thụy sĩ. Cuộc hôn nhân thứ hai này đem lại cho Fritz thêm 3 người con nữa. Bà Vreni là người chăm sóc tận t́nh cho Fritz vào thời cuối đời, đặc biệt là cho lũ con c̣n rất nhỏ tuổi khi người mẹ của chúng là bà Muschi qua đời. Và rốt cuộc, chính Fritz Schumacher cũng đă kiệt sức v́ làm việc quá nhiều, và đă qua đời trên chuyến đi diễn thuyết tại Thụy sĩ vào năm 1977 lúc mới có 66 tuổi.

 

   Chi tiết về cuộc đời và họat động của Fritz Schumacher đă được người con gái lớn là Barbara Schumacher Wood ghi lại khá đày đủ trong cuốn tiểu sử xuất bản năm 1984, với nhan đề là  :   “ E F Schumacher , His Life and Thought “. Nhờ tham khảo cuốn sách này, mà người viết có thể cống hiến cho bạn đọc những chi tiết lư thú.  

 

 2/  Hành tŕnh tư tưởng của Fritz Schumacher

 

      Có thể nói Fritz là một nhân vật xuất chúng cả trong hành động cụ thể, cũng như trong công cuộc t́m kiếm giải pháp tốt đẹp có tầm vóc ṭan cầu trước những khó khăn bế tắc của thế giới hiện đại. Như đă tŕnh bày ở phần trên, thông qua việc học hỏi và làm việc tại các quốc gia tiền tiến như Đức, Anh và Mỹ trong hơn 60 năm, ông đă được tiếp cận với các luồng tư tưởng, với các nhân vật ngoại hạng, cũng như tham gia vào các hoạt động ở tầm mức cao nhất trên thế giới. Và cùng với một trí tuệ thông minh vượt trội và sức làm việc chuyên cần, miêt mài trong nhiều năm, ông đă đạt tới t́nh trạng “ngộ ra được’ một đường lối phải noi theo để góp phần xây dựng tốt đẹp nhất cho thời đại ngày nay. Ông đă đi khắp năm châu, bốn biển, nhất là Phi châu, châu Mỹ la tinh , Ấn độ, Miến điện để nhận diện được sự phức tạp của ḥan cảnh sinh họat văn hóa xă hội và cả mặt tâm linh của nhiều sắc dân với truyền thống lịch sử rất khác biệt với nhau.

     Lúc c̣n trẻ, v́ hăng say làm việc và nghiên cứu với tinh thần lạc quan khoa học, ông như người vô thần, không chú tâm ǵ đến khía cạnh tâm linh của con người. Nhưng sau này, nhờ quan sát tại chỗ ở nhiều quốc gia trên thế giới, ông đă chú trọng đến ảnh hưởng của tôn giáo trong các nền văn hóa. Đặc biệt ông rất khâm phục chủ trương “Bất bạo động” của Thánh Gandhi bên Ấn độ và lối sống thanh thóat của người Phật tử tại Miến điện. Và đến cuối đời, th́ ông gia nhập đạo công giáo.

     Bởi vậy mà suy nghĩ của Schumacher càng thêm chín mùi hơn với khía cạnh nhân bản và nhân ái, vượt thóat được thái độ kênh kiệu, tự cao tự đại và tự măn thường thấy nơi những người quá say mê với thành tựu khoa học kỹ thuật, cũng như về kinh tế của các nước Âu Mỹ. Càng t́m hiểu nơi các nền văn hóa cổ truyền bên ngoài thế giới Tây phương, ông càng có thái độ khiêm tốn, phục thiện và mở rộng tâm hồn để đón nhận những luồng tư tưởng khác lạ mà lại rất phong phú của nhân lọai. Có thể nói Schumacher rất nhất quán trong việc đề cao khía cạnh đạo đức nhân bản trong lề lối tổ chức sinh họat kinh tế xă hội cho con người trong thế giới ngày nay. Ông luôn nhắc nhủ, cảnh giác cái thái độ tự phụ của các nhà lănh đạo các cường quốc chỉ biết đến khoa học, đến năng suất kinh tế thương mại, mà sao lăng vấn đề lương tâm và trách nhiệm liên đới của các quốc gia là thành viên trong cộng đồng nhân lọai.

     Cụ thể Schumacher phê phán nhà bác học Einstein rằng : V́ ông ta quá mức đề cao thuyết tương đối (Relativity), th́ đâm ra chối bỏ cái tiêu chuẩn đạo đức vốn có giá trị tuyệt đối. Cũng vậy, lư thuyết của Freud coi rằng con người hành động là do sự ẩn ức của sinh lư bị dồn ép, th́ không c̣n phải chịu trách nhiệm ǵ về việc làm xằng bậy của ḿnh nữa. Như vây là sự vô trách nhiệm. Schumacher cũng phê phán Karl Marx về lư thuyết định mệnh lịch sử, th́ con người cũng không c̣n chịu trách nhiệm cá nhân của riêng bản thân nữa. Ông cũng cực lực lên án chủ trương gieo rắc hận thù của người macxít., v́ đó là nguyên nhân của các vụ tàn sát kinh ḥang trong thế giới cộng sản. Ta sẽ có dịp xem xét chi tiết hơn về tư tưởng của Schumacher khi đọc tác phẩm chính yếu “Small is beautiful” là đề tài sẽ được tŕnh bày trong bài sau.

 

3/  Ảnh hưởng của tư tưởng Schumacher 

 

     Báo New York Times đă xếp cuốn “Small is beautiful” là một trong 100 cuốn sách có ảnh hưởng nhất trên thế giới (the most influential books) kể từ sau thế chiến 2. Tác giả đă được mời đi diễn thuyết tại nhiều nơi trên thế giới và được nhiều vị nguyên thủ quốc gia tham khảo ư kiến, trong đó có cả Tổng Thống Jimmy Carter của nước Mỹ. Tại nhiều nước, đặc biệt là ở Anh và Mỹ, đă thành lập “Hiệp hội E F Schumacher” ( E F Schumacher Society) nhằm nghiên cứu, khai triển và phổ biến tư tưởng của ông. Và c̣n rất nhiều các tổ chức và các nhóm khác đă chịu ảnh hưởng của ông, mà điển h́nh như “ Institute for Community Economics”, “Council on Economic Priorities”, “Friends of the Earth”, “Greenpeace”, “Worldwatch Institute”, “Soil Remineralization Net work”, “Global Warming Network” v.v…

 

     Ta có thể lược kê ra các đề tài được Schumacher nêu ra ngay từ thập niên 1960 và hiện nay vào thế kỷ XXI vẫn c̣n tính cách thời sự cấp bách, mà được quấn chúng cũng như giới trí thức hàn lâm rất quan tâm.  Điển h́nh một số các đề tài đó như sau  :  

 

· Phê phán các hệ thống tổ chức quá mức (overorganised systems) làm phá họai tinh thần con người, cũng như cả hành tinh trái đất.

·  Đề cao sự quan trọng của “mức thang nhân sinh” (human scale) trong việc tổ chức sinh họat kinh tế xă hội.

· Ư niệm về “kỹ thuật với bộ mặt nhân bản” (technology with human face), về “kỹ thuật thích hợp” (appropriate technology) cho từng quốc gia, có tính cách đơn giản, bất bạo động và có thể kiểm sóat được (controllable).

· Ưu tư về sự mau cạn kiệt (rapid depletion) các tài nguyên thiên nhiên, khiến đưa tới sự phá hủy môi sinh.

·  Sự quan trọng phục hồi lại cái hệ thống giá trị về một lối sống tốt đẹp, một xă hội an ḥa (good life, good society) thay v́ bị mê hoặc bởi các lọai lợi ích ngắn hạn.

·  Sự cần thiết phải trở về với “Bốn Nhân Đức Nền Tảng” (Four Cardinal Virtues), đó là : Sự khôn ngoan, Công lư, Dũng cảm và Tiết chế (Temperance)…   

 

Đại khái các đề tài này đă luôn luôn được đưa ra thảo luận trong các cuộc hôi thảo, các buổi nói chuyện trao đổi giữa nhiều nhóm, nhất là giới sinh viên Đại học, các tổ chức tôn giáo… Và các lọai ư kiến xuất phát từ các cuộc gặp gỡ này hiện vẫn được chuyển tải thường xuyên trên các phương tiện truyền thông đại chúng, nhất là trên internet.

 

Sức thu hút của tư tưởng Schumacher đối với nhiều người, đó là do sự chính xác của lư luận và phân tích t́nh h́nh xă hội của ông được thể hiện rơ ràng qua sư kiểm chứng của thực tiễn sinh động tại nhiều nơi trên thế giới ngày nay. Cụ thể như : Các nhà máy phát điện quá lớn đă lần hồi bị thay thế bởi các đơn vị nhỏ bé hơn, bởi lẽ các nhà máy với quy mô vừa phải th́ mới có hiệu quả chắc chắn, vũng bền hơn. Cũng như các nhà máy điện nguyên tử không c̣n được xây dựng ào ạt sau các vụ ŕ rỏ tại “Three Miles Island” ở Mỹ và nhất là sau tai nạn thảm khốc Chernobyl ở Liên Xô vào thập niên 1980, sau khi Schumacher đă qua đời năm 1977.

 

 Nhân tiện cũng nên ghi nhận chủ trương của tác giả “Small is beautiful” cũng giống hệt như quan điểm của nhà tư tưởng đương thời và cũng nổi danh khác, đó là Karl Popper (1905-1994),vị giáo sư lâu năm của Đại học London School of Economics cũng ở nước Anh. Đó là chủ trương “Piecemeal Social Engineering” (Xây dụng xă hội từng mảnh một), mà nhà tỉ phú George Soros là một môn đệ hiện đang theo đuổi áp dụng thông qua tổ chức “Open Society Foundation” do ông sáng lập và chuyên chú về công cuộc phục hồi tại các nước Đông Âu trong giai đọan hậu cộng sản từ 20 năm nay. Người viết mong sẽ có dịp tŕnh bày chi tiết hơn về vị đại sư Karl Popper này trong một dịp gần đây./

 

***

 

 Giới  thiệu  sách  “Small  is  Beautiful” 

 

                                                                      

Như đă có dịp tŕnh bày nơi bài 1 trước đây, cuốn sách “Small is Beautiful” đă được tờ New York Times xếp vào lọai “100 cuốn sách có ảnh hưởng nhất” kể từ sau thế chiến hai ( the most influential books). Và sau 30 năm kể từ khi ra mắt độc giả, th́ đă lưu hành được tới trên một triệu cuốn riêng về ấn bản tiếng Anh; đó là chưa kể đến các bản dịch ra nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới. Tác giả Schumacher là một kinh tế gia đă từng làm việc lâu năm trong ngành quản lư về than đá tại Anh quốc, đặc biệt trong lănh vực thống kê, nên ông đă đưa ra những số liệu khá vững chắc và khả tín để minh họa cho lư luận của ḿnh. Xuyên suốt qua gần 300 trang sách, tác giả đă lần lượt tŕnh bày suy nghĩ và t́m kiếm của ḿnh trong suốt 40 năm vừa học tập, làm việc, trao đổi và nghiên cứu của ḿnh về những vấn đề căn bản của nhân sinh trên phạm vi ṭan cầu. Người đọc có thể thấy tác giả đă gửi gấm vào tác phẩm tất cả tài năng trí tuệ và tấm ḷng tha thiết nóng bỏng đối với cuộc sống của con người, mà phần đông đang là nạn nhân khốn khổ của cái đường lối sai lầm v́ coi nhẹ giá trị đạo đức nhân bản và nhân ái của giới điều hành guồng máy kinh tế tại chính các quốc gia tiền tiến trong thế giới hiện đại. Có thể coi cuốn sách là “lời cảnh báo” về mối nguy cơ trầm trọng đang đe dọa cuộc sống của nhân lọai ngày nay, và đồng thời tác giả cũng khơi mào cho việc t́m kiếm một lối thóat khả dĩ cho con người, đặc biệt là cho hàng tỉ con người kém may mắn (underpriviledged) trong các quốc gia được liệt kê vào lọai “ đang phát triển” ( developing countries)

 

Nhan đề chính của cuốn sách là “Small is Beautiful” lại được kèm theo câu phụ diễn cho thêm rơ ư nghĩa nữa : “ Economics as if People Mattered”, xin tạm dịch là “Kinh tế học Dân Vi Quư”. Và riêng trong ấn bản năm 1999, th́ lại c̣n kèm theo nhiều b́nh luận của các thức giả đương thời được in bên lề các trang sách nữa. Bài giới thiệu này chủ yếu dựa vào ấn bản năm 1999, nhân kỷ niệm 25 năm ngày ra mắt ấn bản đầu tiên năm 1973.

 

Sách được tŕnh bày thành 4 phần trong 19 chương như sau  :

 

                                Phần 1  :  Thế giới hịên đại      (Chương 1-5)

                                Phần 2  :  Tài nguyên               (Chương 6-10)

                                Phần 3  :  Thế giới thứ ba         (Chương 11-14)

                                Phần 4  :  Tổ chức và Sở hữu   (Chương  15-19).

 

 Nói chung th́ sau trên 30 năm, các luận đề do Schumacher nêu ra trong cuốn sách vẫn c̣n giữ được tính cách thực tiễn khách quan và được coi như những gợi ư rất sâu sắc cho sự thảo luận và t́m kiếm của giới hàn lâm, cũng như của công chúng có sự quan tâm đến vấn đề sinh tử của con người trong bối cảnh văn hóa xă hội của thế kỷ XXI hiện nay. Nhằm tŕnh bày sáng sủa, gọn gàng tư tưởng của tác giả, người viết xin được tóm gọn trong mấy luận điểm chính yếu được lựa chọn như sau đây :

 

1/  Hai triệu ngôi làng trong thế giới thứ ba  :  Làm sao mà phát triển? 

           

Schumacher đưa ra con số hai triệu ngôi làng trong thế giới thứ ba mà gồm các quốc gia đang phát triển, với b́nh quân mỗi làng có 1000 người. Như vậy là trong 2 triệu ngôi làng, th́ có đến 2000 triệu người (2 tỉ), tức là tương đương với dân số ở mức nghèo túng trên thế giới vào thập niên 1960 lúc tác giả viết cuốn sách này. T́nh trạng sinh sống của người dân tại các vùng quê như ở Ấn độ đă được Schumacher rất lưu tâm quan sát, t́m hiểu và cố gắng đưa ra một phương thức kiến hiệu và hợp lư, hợp t́nh nhất để gây ra được một “khí thế phát triển” (development mood) thật là sinh động tại hạ tầng cơ sở các địa phương đó.

 

Từ sau thế chiến 2, các quốc gia Âu Mỹ giàu có đă đề ra các chương tŕnh viện trợ khi th́ đa phương thông qua Liên Hiệp Quốc, khi th́ song phương nhằm giúp đỡ các nước nghèo thóat được cảnh bần hàn khốn khổ. Nhưng Schumacher đă chỉ ra là hầu hết cái lối viện trợ kiểu này không đem lại kết quả bao nhiêu, bởi lẽ là những chuyên gia viện trợ đă không nắm bắt được tâm lư và ḥan cảnh phức tạp của đa số quần chúng nông dân vừa ít học, vừa bị giới trung gian khai thác lợi dụng. Và hơn nữa, các kỹ thuật áp dụng lại không thích hợp với ḥan cảnh văn hóa xă hội và tâm linh truyền thống tại miền nông thôn địa phương. V́ thế mà Schumacher đă mạnh dạn đưa ra những đường hướng quyết liệt là : “Viện trợ tốt nhất là thứ viện trợ trí tuệ (Intellectual aid), viện trợ kỹ năng hữu ích (gift of useful knowledge), chứ không phải là quà tặng vật chất.  Lối viện trợ như vậy mới làm cho người nhận sớm trở thành tự lập và không c̣n bị lệ thuộc vào nguồn cung cấp măi của thứ “con ḅ sữa” như vẫn thường xảy ra. Phương thức này vừa ít tốn phí, mà vừa kích thích được cái mầm mống tự cường, tự túc vẫn có sẵn trong tiềm thức của lớp người dân vốn có ḷng tự trọng, tự tin ở khả năng của bản thân ḿnh. Đây mới đích thực là cách thức hay nhất để thực hiện được chủ trương “Giúp dân để người dân có thể tự giúp bản thân họ” (Helping the people to help themselves). 

 

Muốn đảy mạnh phong trào như vậy, th́ phải lôi cuốn được các tổ chức thiện nguyện phi-chánh phủ (non-governmental voluntary agencies) ở cả hai phía quốc gia bên viện trợ cũng như bên nhận lănh (donor/recipient countries); chứ không thể ḥan ṭan do hai bên chánh phủ độc quyền đứng ra hành động bao biện như từ bao lâu nay. Phương thức này, nói theo ngôn ngữ hiện nay, th́ là : “Phải vận động Xă hội Dân sự từ cả hai nước cùng dấn thân nhập cuộc vào tiến tŕnh phát triển và xây dựng ṭan diện và điều ḥa này” (total and harmonized development). Nhờ vậy mà cả một tập thể cộng đồng như được kích thích gây men ngay trong nội tâm sâu kín của ḿnh (Mass fermentation and mobilization), để tạo ra được một thứ “năng động nhóm” (group dynamics) nhằm tiến hành được một sự phát triển bền vững lâu dài tại địa phương (self-sustaining community development).

 

Xin trích nguyên văn một đọan cuối của “ Chương 13 : Two million villages ” như sau :  “Phát triển kinh tế chỉ có thể thành công nếu nó được tiến hành như một phong trào quần chúng rộng răi dấn thân vào công cuộc tái thiết (a broad, popular movement of reconstruction), tập trung chủ yếu vào việc tận dụng sự hăng say phấn khởi, sự tài trí và sức lao động của tất cả mọi người trong công đồng…Sự thành công chỉ có thể đạt tới là do quá tŕnh phát triển bao gồm cả tŕnh độ giáo dục, tính tổ chức và cả tính kỷ luật của ṭan thể các thành viên trong cộng đồng. Thiếu một yếu tố nào kể trên, th́ chỉ là gặt hái sự thất bại mà thôi”  ( trang 171).

 

2/   Đi t́m lọai kỹ thuật thích hợp nhất ( Appropriate Technology AT)

             

Với tinh thần thực dụng, Schumacher chủ trương cần phải phát triển lọai “kỹ thuật trung gian” để thích hợp với ḥan cảnh kinh tế xă hội tại các nước đang phát triển. Ông dành hẳn Chương 12 cho đề tài này với nhan đề như sau :     “ Social and Economic Problems Calling For The Development Of Intermediate Technology ” (Những Vấn Đề Xă Hội và Kinh Tế Đ̣i Hỏi Phải Phát Triển Lọai Kỹ Thuật Trung Gian). Tác giả viện dẫn hai lư do chính yếu sau đây  :  Thứ nhất là kỹ thuật quá tân tiến th́ lại tốn phí, nên các nước nghèo không thể áp dụng phổ biến rộng răi khắp nơi được. Thứ hai là tŕnh độ văn hóa kỹ thuật của dân chúng miền quê không thể dễ dàng thích nghi với cái kỹ thuật quá tinh vi, phức tạp do các nước phát triển đề xuất ra. Do đó mà cần phải t́m kiếm cho ra được lọai “kỹ thuật thích hợp” mà thường cũng được gọi là “kỹ thuật trung gian” (Intermediate Technology), tức là thứ kỹ thuật đứng giữa lọai kỹ thuật lạc hậu cổ truyền  (mà rất rẻ tiền) với kỹ thuật hiện đại ( mà rất là đắt tiền ).

 

Tác giả lại có kinh nghiệm thực tiễn về chủ trương này, khi ông cùng với một số bạn hữu thành lập hẳn một Nhóm riêng biệt để nghiên cứu và thử nghiệm lọai kỹ thuật này tại Luân Đôn vào năm 1965 gọi là “The Intermediate Technology Development Group” ( ITDG). Cụ thể như : Nếu dùng kỹ thuật cao cấp như máy gặt liên hợp (combine harvester), th́ phải tốn phí hết 70,000 dollar cho một người làm việc (workplace); như vậy th́ các nước nghèo khó mà có thể tạo ra đủ công ăn việc làm cho cả triệu người được. Nhưng nếu sử dụng lọai kỹ thuật trung gian chỉ tốn kém có 700 dollar cho một người lao động, th́ với số tiền 70,000 nói trên ta có thể tạo ra việc làm cho cả 1000 người. Và rơ ràng đây là thứ kỹ thuật thích hợp nhất cho các nước nghèo của thế giới thứ ba vậy. Cho đến nay ITDG đă phát triển và phổ biến khá rộng răi tại nhiều nước trên thế giới, cả ở khu vực tiền tiến cũng như khu vực đang phát triển.

 

Cũng v́ nhằm tạo ra thật nhiều công ăn việc làm ổn định hầu đáp ứng nhu cầu rất lớn cho nhiều khu vực nông thôn và các thị trấn nhỏ bé, mà việc nghiên cứu kỹ thuật trung gian này phải được thực hiện trong quy mô của một miền bao gồm nhiều cộng đồng nông thôn và đô thị nhỏ, chứ không thể làm theo cái lối khép kín, hạn hẹp trong môi trường quá hạn chế được. Do đó Schumacher đă khẳng định rằng “ Nếu mục tiêu của sự phát triển là giúp đỡ cho những người cần được giúp đỡ nhất, th́ “ Mỗi một Miền hay Quận hạt trong một quốc gia phải có riêng một chương tŕnh phát triển cơ hữu của ḿnh.” Cụ thể như tại nướcThụy sĩ chỉ có chưa đày 6 triệu dân số, mà họ lại chia ra thành 20 quận hạt (cantons), mà mỗi đơn vị lại là một quận hạt phát triển riêng thích hợp với điều kiện đặc thù của ḿnh (development district). Và chính nhờ vào sự “Phân quyền” (Decentralisation) như vậy, mà cả quốc gia này luôn giữ được sự phát triển điều ḥa, ổn định trong một nền dân chủ mà mọi người dân đều có cơ hội tham gia vào công việc điều hành của cộng đồng nơi ḿnh sinh sống (Participatory Democracy). 

 

3/  Vấn đề Cạn kiệt Tài nguyên Thiên nhiên ( Depletion of Natural Resources) 

           

Là người làm việc lâu năm trong ngành than đá, nên Schumacher rất chú trọng đến t́nh trạng sự dụng bừa băi phí phạm về tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt trong các nước văn minh tiền tiến Âu Mỹ. Cụ thể là về dầu khí, than đá và nhất là rừng cây. Bằng những con số thống kê chính xác, tác giả đă nêu lên các sự thao túng, lạm dụng và ích kỷ của các nước giàu có trong việc xài hoang phí các tài nguyên thiên nhiên. Schumacher phân biệt rất rơ rệt hai lọai tài nguyên : lọai tái tạo được và lọai không tái tạo được (renewable/non-renewable resources). Ông c̣n chỉ rơ ra là :  Thiên nhiên luôn luôn hào phóng trong việc cung cấp cho con người những tài nguyên dồi dào phong phú, để mà khai thác đáp ứng nhu cầu sinh họat của nhân lọai. Nhưng thật  đáng buồn là con người trong mấy thế kỷ gần đây đă dùng khoa học kỹ thuật để mà khai phá quá mức đến độ tàn phá thiên nhiên một cách vô tội vạ, tạo ra cảnh cạn kiệt mau chóng các tài nguyên thiên nhiên (rapid depletion/exhaustion), tạo ra một sự mất quân b́nh giữa con người với thiên nhiên, cũng như giữa hiện tại với tương lai, và cả giữa con người với con người nữa. Ông c̣n nói rơ là : Phải coi thiên nhiên như một “ nguồn vốn” (Capital) và nhờ biết khai thác khôn khéo, chừng mực đối với thiên nhiên mà con người kiếm ra được các “ lợi tức” (Income). Và như vậy, th́ chỉ được quyền sử dụng lợi tức trong việc thanh thỏa các nhu cầu chính đáng của ḿnh; chứ không được tiêu xài vào cái nguồn vốn chỉ có giới hạn nhất định nào đó mà thôi. Schumacher đă rất nghiêm khắc phê phán cái sự kiêu căng, tham lam quá độ và nhất là cái thái độ bạo hành của con người đối với thiên nhiên, cũng như giữa con người đối với nhau nữa. Ông đề cao chủ trương “Bất bạo động, Bất hại “ (Non-violence, Ahimsa) của thánh Gandhi cũng như của Đức Phật, mà ông có dịp khảo sát tại Ấn Độ và Miến Điện. Những suy ngẫm này ông đă ghi rơ ràng trong Chương 4 nhan đề là  : “Buddhist Economics” ( Kinh tế học Phật giáo) mà chúng tôi sẽ dịch nguyên văn ra Việt ngữ được tŕnh bày với đày đủ chi tiết trong một bài sau.

 

Cũng trong ḍng chảy suy nghĩ đó mà Schumacher đă dành hẳn một Chương 9 với nhan đề : “ Nuclear Energy – Salvation or Damnation ?” (Năng lượng Hạt nhân – Sự Cứu Rỗi hay là Án Phạt?) để bàn về cái lợi hay cái hại của năng lượng hạt nhân. Tác giả kiên quyết chống lại việc sử dụng lọai máy phát điện nguyên tử v́ lư do chất thải của lọai máy này chứa nhiều chất phóng xạ rất nguy hiểm lâu dài cho nhiều thế hệ sau này. Và may thay, do các biến cố “ṛ rỉ tại nhà máy điện hạt nhân Three Miles Island” ở Mỹ và nhất là tai nạn thảm khốc Chernobyl ở Liên Xô, mà việc xây dựng bừa băi các nhà máy hạt nhân này mới bị ḱm hăm lại. Rơ rệt là Schumacher là một vị tiền phong đóng góp rất lớn cho phong trào bảo vệ môi sinh trên khắp thế giới từ mấy chục năm gần đây.

 

4/   Phải Định Hướng lại cho Khoa Học và Kỹ Thuật ( The Re - Orientation of Science and Technology).

           

Hơn ai hết, Schumacher là người luôn luôn cảnh giác về tính kiêu căng ngạo mạn và ngoan cố của giới khoa học ngày nay, nhất là trong ngành kinh tế học là lănh vực họat động chuyên môn suốt cả cuộc đời của ông. Bàng bạc trong cuốn sách này, ta thấy tác giả luôn đề cao sự khiêm tốn, tinh thần nhân ái và nhân bản trong việc đề ra đường lối họat động cụ thể mà thiết thực, nhằm vào việc “Cải thiện thế giới” (World Improvement). Ta có thể thấy lời cảnh giác này đă có từ mấy trăm năm trước qua nhà hiền triết Rabelais ở Pháp mà dịch ra tiếng Anh là : “ Science without conscience is only the ruin of the soul” (Khoa học mà không có lương tâm th́ chỉ là sự suy đồi của tâm hồn).

 

Tác giả đề cao tinh thần bao dung, đơn sơ, ḥa ái của thánh Gandhi và nhất là của Phật Tổ, mà ông rất say mê nghiên cứu học hỏi trong thời gian làm việc ở Ấn Độ và Miến Điện. Nếu ta chú ư đến môi trường tôn giáo mà ông vẫn sinh họat tại nước Đức cũng như ở nước Anh, nhất là khi về già ông đă gia nhập đạo công giáo nữa, th́ ta lại càng khâm phục cái thái độ thành tâm cầu thị, khiêm nhu và quư trọng của ông đối với Phật giáo và Thánh Gandhi ở Á châu. Ông đặc biệt đem thêm khía cạnh phẩm chất (qualitative aspects) và đạo đức (ethics) vào trong môn Kinh tế học là môn học mà các chuyên viên kinh tế thường chỉ chú trọng đến khía cạnh định lượng mà thôi (quantification). Tác giả luôn nhắc nhủ các nhà khoa học là phải t́m kiếm sự minh triết (wisdom) vốn đă ăn rễ sâu trong truyền thống đạo đức văn hóa trong các xă hội phương đông, mà thường bị người phương tây v́ quá say mê và kiêu hănh với tiến bộ khoa học, kỹ thuật vất chất nên đă xem thường. V́ thế ông mới gọi đó là môn “Siêu kinh tế học” (Meta-Economics).

 

Nói vắn tắt lại, các luận đề Schumacher đưa ra trong cuốn sách “Small is Beautiful” này hiện vẫn c̣n được thảo luận, khai thác rộng răi trên ṭan thế giới. Lọat bài viết ngắn ngủi này chỉ nhằm giới thiệu sơ lược về tư tưởng độc đáo, can đảm, mà lại rất táo bạo dứt khóat của Fritz Schumacher. Cuốn sách này là đúc kết kinh nghiệm họat động và suy nghĩ t́m kiếm trong suốt cuộc đời của tác giả, với tấm ḷng tha thiết phục vụ cho nhân quần xă hội, đặc biệt đối với lớp đa số quần chúng kém may mắn nhất trên thế giới ngày nay. Bạn đọc có thể tham khảo thêm trên internet, để có số liệu cập nhật hóa rất đày đủ và phong phú về các đề tài mà Schumacher đă gợi ra trong cuốn sách thời danh này.

          

Người viết mong ước giới trẻ Việt nam, ở trong cũng như ở ng̣ai đất nước, để tâm theo dơi sự phát triển của lọai tư tưởng đày tính nhân bản và nhân ái tương tự như thế này, mà hiện đang có sức rất thuyết phục, quyến rũ cho cao trào tranh đấu bảo vệ nhân phẩm, nhân quyền và cả bảo vệ môi sinh đang dâng cao khắp thế giới ngày nay trong thế kỷ XXI. Và cũng mong được sự tiếp tay trong việc đào sâu và phổ biến trào lưu tư tưởng tiến bộ này từ nơi các bậc thức giả trong những tổ chức chuyên về văn hóa khoa học, cụ thể như : Viện Việt Học, Lê Văn Duyệt Foundation, Hội Khoa Học Kỹ Thuật, Hội Chuyên Gia Việt nam, Các Viện Nghiên Cứu thuộc các Tôn Giáo Việt nam v.v…   

 

***

 

 

'Chánh Nghiệp' là một trong tám 'con đường tu' rất căn bản và quan trọng của 'Bát Chánh Đạo' nhằm giúp người tu dứt được những nguyên nhân xa gần của mọi khổ đau trong đời sống thường ngày. Đức Phật đă thuyết giảng đề tài này ngay sau khi Ngài thành đạo, rồi tiếp tục suốt 45 năm hoằng pháp, kể cả những ngày cuối đời.

                                                   

 “Chánh nghiệp” là những nghề nghiệp, việc làm chân chính, ngay thẳng, dựa vào chính sức lực của tim óc và bắp thịt của ḿnh để mưu cầu cuộc sống. V́ thế, ta có thể nói rằng đạo Phật đă có một hướng đi đúng đắn làm nền tảng cho bộ môn Kinh-Tế-Học Phật-Giáo.

 

   Tại những quốc gia mà đa số dân chúng tin theo đạo Phật thường bảo rằng họ muốn ǵn giữ đức tin theo chánh pháp của Phật giáo. Ở Miến Điện, người dân thường nói rằng “Chúng tôi không thấy có sự đối nghịch nào giữa giá trị tôn giáo và sự tiến bộ của kinh tế cả. Sự an lạc của 'thân' và sự thanh tịnh của 'tâm' vẫn thường trợ duyên cho nhau mà không hề có tương phản nào” hoặc là “Chúng tôi có thể kết hợp những giá trị tôn giáo và truyền thống tâm linh với những lợi ích có được từ  kỹ thuật tân kỳ rất thành công.” hay là “Người dân Miến Điện chúng tôi có bổn phận phải biết dung hợp một cách hài ḥa giữa 'mộng' và 'thực' trong đức tin của ḿnh, và suy nghĩ đó vẫn luôn luôn mang lại kết quả viên măn.                                                            

  

Cũng thế, có những  quốc gia khác lại cho rằng họ có thể theo mẫu mực thiết lập kế hoạch phát triển kinh tế hiện đại, và rồi sẽ mời gọi các kinh tế gia từ những quốc gia tân tiến đến hướng dẫn họ phác họa chương tŕnh có tầm cỡ để phát triển kinh tế theo những loại như 'Kế Hoạch Ngũ Niên' chẳng  hạn. Và không ai có thể ngờ rằng phương cách sống theo đạo Phật, mà ta có thể gọi là kinh tế học Phật giáo, giống như nếp sống duy vật chất hiện đại, lại có thể mang đến sự thăng tiến như thế.

  

Ngay cả những kinh tế gia, cũng như hầu hết mọi chuyên gia khác, vẫn thường loay hoay trong cái mù quáng có tính siêu h́nh của ḿnh mà cứ  cho đó là khoa học của sự thật tuyệt đối cố định, và không được định h́nh từ trước. Có một số vị lại cho rằng những  luật kinh tế đều không mang 'tính siêu h́nh' hay 'tính giá trị' như định luật của trọng lực. Tuy vậy, chúng ta cũng không nên bận tâm đến những cuộc tranh căi về phương pháp luận mà chỉ nên suy gẫm về một số điều căn bản nhất rồi thử nh́n sự việc bằng cặp mắt của một kinh tế gia hiện đại và một kinh tế gia phật giáo để xem sự thể như thế nào.

 

   Gần như ai cũng đồng ư rằng sức lao động của con người chính là cội nguồn căn bản của mọi sự giàu có trên đời. Trong khi đó th́ những  kinh tế gia lại cho rằng 'sức lao động' hay việc làm lao công chỉ đáp ứng phần nào nhu cầu rất b́nh thường của con người. C̣n đối với một chủ nhân ông của thời kỳ hiện-đại-hóa th́ phải giảm đến mức tối thiểu sức lao động này, và nếu cần th́ làm triệt tiêu luôn, để làm giảm giá thành sản phẩm. Nhưng với cách nh́n của người công nhân th́ đó là sự bất công, v́ khi lao động , con người đă hy sinh thời gian rảnh rỗi và sự thoải mái của đời ḿnh để đổi lấy đồng lương, coi như là một đền bù cho sự hy sinh, mất mát đó.

 

V́ thế nên người chủ chỉ muốn có sản phẩm ra khỏi nhà máy mà chỉ phải sử dụng thật ít sức lao động của thợ thuyền, c̣n giới công nhân th́ mong được làm việc để lănh lương và không phải lo bị thất nghiệp.

 

Trong thực tế, không dễ ǵ áp dụng một trong hai phương cách trên và phải loại bỏ phương cách kia, mà nên dung ḥa bằng cách biết sử dụng  máy móc ở một mức độ thích hợp nhằm giảm bớt công việc nặng nhọc cho người lao động, như thế năng suất lao động sẽ tăng lên và sản phẩm sẽ xuất xưởng nhiều hơn. Đồng thời cũng nên áp dụng chế độ khen thưởng để khích lệ tinh thần làm việc. Phương pháp chia việc ra từng phần nhỏ để tăng thêm việc, và tạo thêm công ăn việc làm cho nhiều người có ít tay nghề. Sự thật th́ cách vận hành này cũng đă được áp dụng từ thời xa xưa.

 

Khi sắp xếp lao động , người phật tử thường nh́n đến ba phương diện : trước tiên là tạo cơ hội cho công nhân thi thố tài năng, thứ đến là giúp cho mỗi người cùng cộng tác với  các đồng nghiệp để tự xóa dần tính vị kỷ,(chấp ngă), và sau cùng là mang đến nhiều phúc lợi để cuộc sống được an lạc trong tự tại. Và như thế, phương cách này nên được áp dụng liên tục và măi măi.

 

Nếu sự tổ chức công việc mà luộm thuộm, không hợp lư, không gây được hứng khởi, mà chỉ tạo căng thẳng tinh thần, dễ gây ra bất đồng, mất đoàn kết và đưa đến bạo động, nghĩa là chỉ tạo điều kiện cho tội lỗi phát sinh. Nếu người chủ thiếu ḷng từ bi, chỉ quan tâm đến sản  lượng mà không để ư ǵ đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của người thợ là đă cố ư hay vô t́nh làm thui chột ư thức muốn hướng về chân, thiện, mỹ của họ. Mọi cố gắng  đem sự thoải mái vào việc làm sẽ giúp cho người thợ thấy cuộc sống có ư nghĩa hơn. Đó là những yếu tố rất cần thiết cho thực tế cuộc sống có đạo lư.

 

Cũng từ nhận thức đó, người phật tử đă thấy rơ sự khác biệt giữa việc sử dụng máy móc như công cụ phục vụ con người, làm thăng hoa cuộc sống,  và việc dùng con người làm nô lệ cho máy móc. Để làm sáng tỏ ư nghĩa này, Ananda Coomaraswamy , một người rất am tường về nét đặc thù của nét hiện đại phương Tây và nét cổ truyền phương Đông đă phân tích : “Một người thợ thủ công giỏi bao giờ cũng thấy được sự khác biệt giữa một chiếc máy và một dụng cụ cầm tay. Cái khung cửi dệt thảm được chuẩn bị một cách cẩn thận, giúp cho người thợ khéo tay, sử dụng thật tài t́nh các ngón tay của ḿnh đê luồn lách đưa từng sợi chỉ màu khác nhau  với con thoi tay để có thể dệt một tấm thảm đạt đến tuyệt đỉnh của nghệ thuật, diễn tả hết nét đẹp tuyệt vời của văn hóa dân tộc anh, mà chiếc máy dệt tân kỳ th́ không làm sao diễn đạt được nét tuyệt mỹ ấy.” Từ cách suy nghĩ này ta có thể phân biệt được kinh tế học Phật giáo và kinh tế học hiện đại. Người phật tử thấy được cái tinh túy của  văn minh nhân loại trong sản phẩm hơn là chấp chặt vào sản lượng trong văn minh cơ khí hóa. Tính cách nhân bản này, thực sự đă h́nh thành từ khi con người đă biết sản xuất. xác định được nhân cách và nhận thức chuộng sự tự do muốn chọn cho ḿnh một phương cách sản xuất. Một triết gia, cũng là một nhà kinh tế người Ấn Độ Ông J.C.Kumarappa đă đúc kết rằng :

 

Nếu mọi người biết quí trọng đúng mức đặc tính của việc làm, th́ sẽ thấy  ra giá trị cao hơn trong tương quan nhân quả của việc và sản phẩm, giống như sự liên hệ giữa sức khỏe của cơ thể con người và thực phẩm được hấp thụ. Nhận thức đó sẽ nuôi dưỡng và tạo duyên cho con người sáng suốt hơn, thăng tiến khả năng sản xuất của ḿnh, hun đúc thêm tinh thần cầu tiến và cũng biết tự chế ḷng ham muốn thấp hèn để luôn luôn có chỗ đứng xứng đáng trong mọi giai tầng của công việc. Đồng thời, khả năng thi thố cũng được nâng cao để thể hiện tư cách, phẩm giá của ḿnh.”

 

Nếu một người bị mất việc, th́ anh ta sẽ rất lo lắng và thất vọng, v́ không những chỉ mất đồng lương, mà c̣n thiếu cả nguồn sống từ vật chất đến tinh thần là những giá trị khó có ǵ thay thế được. Một kinh tế gia thời nay có thể tính toán hết sức chuẩn xác làm sao để mọi người đều có việc làm cố định và được hưởng lương, hoặc một cách kinh tế hơn, là  bảo đảm được đồng lương trong khi việc làm có thể thay đổi, biến động theo t́nh thế, v.v.. Tiêu chuẩn căn bản của sự thành công trong kinh doanh hiện nay vẫn là tổng sản lượng hàng hóa phải xuất xưởng trong một thời gian qui định.

 

“Nếu mức độ tiêu thụ hàng hóa bị giảm sút nghiêm trọng, th́ sẽ khó tránh được t́nh trạng phải sa thải công nhân ở những mức độ khác nhau, hoặc vừa phải hoặc ào ạt” như giáo sư Gaibraith đă viết trong tạp chí The Affluent Society, và hơn thế nữa: “Nếu v́ sự ổn định của lợi nhuận mà phải chấp nhận sa thải công nhân th́ phải cung cấp đủ nhu yếu phẩm cho những người bị mất việc, để họ có thể giữ được mức sống b́nh thường, như một biện pháp cần thiết không thối thoát được”.

 

Theo cách nh́n của người phật tử th́ họ cũng thấy được trong thực tế th́ c̣n nhiều người vẫn coi trọng sản phẩm hơn giá trị con người, và số lượng hàng hóa được tiêu thụ vẫn quan trọng hơn phẩm chất của sản phẩm mang tính sáng tạo. Nghĩa là đă xem nhẹ cái tài hoa khéo léo của người thợ, hay nói một cách khác, là hạ thấp giá trị nghệ thuật của người thợ đi, để tôn vinh cái ǵ ô uế, xấu xa theo thị hiếu thường t́nh. Điều quan trọng hơn hết trong quan niệm kinh tế của phật giáo là làm sao cho mọi người đều có công ăn việc làm ổn định để kiếm sống. Đó không phải là một cường điệu trong sự tạo việc làm, hoặc sự gia tăng tối đa sản lượng. Khi những  người phụ nữ của gia đ́nh phải đi t́m việc ở các văn pḥng hay những nhà máy th́ đó là chỉ dấu thất bại nghiêm trọng của kinh tế. Cụ thể như là phải nh́n thấy các bà mẹ đang làm việc trong xưởng máy và bỏ các đứa con của ḿnh  chạy chơi rong ngoài đường phố là không hợp lư một chút nào trong ánh mắt của nhà kinh tế phật giáo. C̣n đối với các kinh tế gia thời hiện đại th́ bất kỳ ai là người thợ giỏi th́ đó là người chiến sĩ can trường của mặt trận sản xuất.

 

Trong khi những người ham sống xa hoa, mong muốn có nhiều  hàng hóa để thỏa măn nhu cầu tiêu dùng, th́ người phật tử chân chính chỉ nghĩ đến sự giải thoát khỏi những vướng mắc vật chất thường t́nh. Dựa vào con đường “Trung Đạo” của Phật giáo, người phật tử sẽ không thấy có ǵ là khúc mắc trong sự an lạc của tự thân . Sự giàu có không có chỗ đứng trong sự giải thoát, mà đó chỉ là vướng víu trở ngại mà thôi. Họ không cho hưởng thụ vật chất là thú vui, mà đó chỉ là những thèm muốn của dục vọng thấp hèn. Nét căn bản của kinh tế  phật giáo là tính giản dị và tinh thần bất bạo động. Từ cách nh́n của một  người làm kinh tế  phật giáo th́ tính mầu nhiệm trong cách sống đạo hạnh có thể làm toát ra sự hợp lư của từng mẫu mực – có khi với những phương tiện bé nhỏ đến bất ngờ lại có thể mang đến các kết quả mỹ măn thật tuyệt vời.

 

Đối với một kinh tế gia hiện đại th́ điều này thật là khó hiểu. Ông ta thường đo lường mức sống thường ngày bằng số lượng hàng hóa tiêu thụ hằng năm của một người, và cho rằng bao giờ một người biết tiêu thụ nhiều th́ đời sống của anh ta phải tốt hơn so với một người ít biết tiêu thụ.

 

Một kinh tế gia phật giáo th́ nghĩ khác, và cho rằng sự tiêu dùng phung phí là không hợp lư, v́ như thế là trái với sự quân b́nh của con người. Mục tiêu mà người phật tử phải đạt được chính là sự an lạc tối thượng của thân tâm, và đó phải là kết quả của sự hưởng thụ có chừng mực. V́ thế, nếu ta chỉ cần quần áo để mặc đủ ấm đối với thời tiết và đủ đẹp khi được nh́n th́ hà tất phải chạy theo thời trang để phải vứt bỏ đi một cách uổng phí những quần áo không c̣n hợp thời nữa. Như thế, ta sẽ có đủ thời gian, sức khỏe và phương tiện để chăm sóc làm đẹp cuộc sống tinh thần, nghệ thuật và tâm linh. Thật là không kinh tế chút nào khi chúng ta phải mất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc để nuôi dưỡng những kỹ nghệ may mặc tây phương trong khi c̣n quá nhiều người nghèo trên khắp địa cầu không có đủ mảnh vải để che thân và cần sự giúp đỡ, chia xẻ của chúng ta.  Kinh tế học phật giáo đă nghiên cứu một cách có hệ thống nhằm chấm dứt mọi nhu cầu xa xỉ bằng ư thức “tri túc “ và “thiểu dục”.

 

 Một mặt khác th́ kinh tế học hiện đại lại quan niệm rằng sự tiêu thụ là cứu cánh tối thượng và cũng là mục tiêu chính của mọi sinh hoạt xă hội, nên phải sử dụng nhiều đất đai,cũng như sức lao động và vốn liếng để làm phương tiện phát triển sản xuất.

 

Nói tóm lại, tùy vào cách nh́n của hai nền kinh tế phật giáo và hiện đại, ta thấy được sự dị biệt tùy thuộc ở giá trị tinh thần và vật chất của hai quan niệm này về sự tiêu thụ hàng hóa. Từ đó, ta cũng biết được áp lực đè nặng trên vai của người dân tại hai nước Miến Điện và Hoa Kỳ khác biệt như thế nào. Một nơi th́ mọi người được sống thanh thản, c̣n nơi kia th́ sự  căng thẳng cứ triền miên, mặc dù ở Miến Điện tỉ lệ sử dụng máy móc thay cho sức người lao động so với Hoa Kỳ th́ thật là khiêm tốn.

 

Ai cũng biết rằng tính bất bạo động có liên hệ rất mật thiết với cách sống giản dị, nên khi nhu cầu tiêu dùng ở mức độ vừa phải th́ ta sẽ thấy tinh thần được thảnh thơi, bớt được nhiều nỗi lo toan, chạy vạy cho có đủ phương tiện tiền bạc nhằm thỏa măn ư thích.  Như thế là đáp ứng được ư lời Phật dạy: “luôn tránh điều xấu ác, làm nhiều điều thiện lành, và giữ tâm thanh tịnh ".                                                                                                  

                                                                                                                                               

 Củng v́ tài nguyên thiên nhiên ở khắp mọi nơi đang cạn dần, và nếu mọi người đều tự bớt nhu cầu tiêu dùng th́ sẽ giúp làm giảm thiểu được những tranh giành, cướp giật đầy tính bạo hành mà ta thường thấy xảy ra ở những quốc gia, dân chúng đang sống dựa vào nền kinh tế  toàn cầu.

 

Mọi nền sản xuất khởi đi từ tài nguyên của địa phương nhằm thỏa măn nhu cầu của dân chúng cùng sống trong vùng, th́ đó là phương cách rất thích hợp với quan điểm kinh tế Phật giáo. Nếu phải tùy thuộc vào nguồn hàng hóa nhập từ một nơi xa xôi, và được sản xuất bởi những người xa lạ th́ đó là những trường hợp ngoại lệ và chỉ được áp dụng  rất giới hạn trong  cộng đồng phật giáo.

 

Chính v́ kinh tế gia hiện đại chấp nhận một sự tốn kém khi để một người phải di chuyển thật xa từ nhà đến nơi làm việc, và cũng không hợp với tiêu chuẩn của nếp sống cao, nên kinh tế gia phật giáo đă thấy ra đó là một sự thất bại khi phải dùng nhân sự đến từ một nơi xa xôi để thỏa măn theo ước muốn của họ, thay v́ sử dụng những người sống trong vùng lân cận.

 

Thống kê kinh tế hiện đại thường dựa vào sự tăng trưởng của các con số 'tấn hàng hóa' hoặc 'dặm đường vận chuyển' tính trên đầu người của dân số mỗi quốc gia. Phương pháp này được xem như là tiêu chuẩn của sự phát triển kinh tế, th́ những số liệu thống kê này lại trở thành chỉ dấu của sự tàn hại các mẫu mực nhận thức về nhu cầu trong cuộc sống của người có đức tin Phật giáo.                                                                                                                      

 

Một nhận định rất nổi cộm về sự khác biệt giữa hai nền kinh tế này đối với việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên của trái đất. Bertrand de Jouvenel, một triết gia về chính trị rất nổi tiếng người Pháp đă định h́nh “Con người Tây phương” theo lời mô tả rơ ràng của một kinh tế gia hiện đại là:

 

Ông ta có khuynh hướng không kể bất kỳ thứ ǵ là phí tổn,  mà chỉ chú tâm vào sự nỗ lực của con người, ông ta có vẻ như không màng đến tài nguyên mà ḿnh đă phí phạm, và tệ hại hơn nữa, là có bao nhiêu sinh linh mà ông ta đă hủy diệt. Ông ta tỏ vẻ như không cần biết rằng nếp sống của con người  là một phần lệ thuộc vào một hệ thống kinh tế gồm nhiều h́nh thái của đời sống. V́ thế giới này như bị chi phối bởi những thành phố mà ở đó người ta bị tách ra từ h́nh thái nào đó của đời sống không phải là tính người, và cảm giác về những ǵ là sở hữu của hệ thống kinh tế coi như là đă mất hẳn. Điều này đưa đến những hệ quả rất tệ hại không lường trước được trong cách hành xử đối với những thứ mà con người phải rất cần đến, giống như đối với nước uống và cây rừng vậy .

 

 Hơn nữa, đức Phật cũng truyền dạy  mọi người nên đối xử từ bi  không những chỉ đối các sinh vật như loài người và động vật mà  cả với cây cỏ nữa. Mỗi phật tử nên phát tâm thường xuyên trồng thêm cây và chăm bón  cho  đến khi cây có đủ sức tự lớn mạnh. Nh́n vào sự kiện này, người phật tử có thể xác định tính độc lập của nền kinh tế, nghĩa là không cần sự trợ giúp nào từ bên ngoài mà vẫn có thể tự phát triển. Có nhiều  quốc gia ở vùng đông nam Á châu (và cả một số các vùng khác trên thế giới) vẫn bị chậm tiến một cách tủi hổ v́ coi thường việc trồng cây gây rừng.

   

C̣n kinh tế học hiện đại th́ không để ư vào sự dị biệt giữa những vật liệu tái sinh được và không tái sinh được, mà chỉ lo tính cho quân b́nh và đủ số lượng của những vật liệu ấy bằng cách dùng trị giá của đồng tiền để chi trả. V́ thế, khi phải sử dụng những loại nhiên loại có thể thay thế cho  nhau như than đá, dầu hỏa, cây rừng, hoặc sức nước, th́ các kinh tế gia hiện đại chỉ nói đến trị giá tương đương của từng loại để phân biệt. Và dĩ nhiên loại nào rẻ nhất sẽ được ưu tiên dùng đến, v́ nếu không là như thế th́ chẳng hợp lư và kinh tế chút nào! Theo quan điểm của kinh tế gia phật giáo th́ dĩ nhiên không phải là như thế, v́  sự khác biệt giữa hai loại nhiên liệu không tái sinh được như dầu hỏa hay than đá và tái sinh được như cây rừng hay sức nước th́ không thể được xem xét quá giản dị như thế. Đối với loại nhiên liệu không tái sinh được th́ chỉ nên dùng khi thực sự cần thiết, và phải hết sức cẩn trọng v́ lư do cần được bảo tồn. Sử dụng bừa băi và lăng phí loại nhiên liệu này là một hành động mang tính bạo động. và để chu toàn việc ǵn giữ tính bất bạo động trên trái đất này là điều khó  đạt được. Bổn phận của mỗi con người là phải hướng đến mục đích lư tưởng là làm bất cứ việc ǵ cũng không được bạo động.

 

Chính như một kinh tế gia hiện đại ở Âu châu có thể không nghĩ rằng nếu tất cả tài sản nghệ thuật đă bán sang Mỹ với giá hấp dẫn th́ không phải là một động thái thành công về kinh tế. C̣n kinh tế gia phật giáo th́ nhấn mạnh rằng nếu dân chúng chỉ sống dựa vào những loại nhiên liệu không tái sinh được như dầu hỏa hay than đá th́ cũng như là sống bám vào tư bản thay v́ dựa vào thu nhập của chính ḿnh. Nếp sống ấy sẽ không bao giờ được thường xuyên ổn định mà phải được điều chỉnh sao cho được thích hợp một cách tạm thời. V́ nếu những nguồn nhiên liệu như than đá, dầu hỏa và khí đốt được khai thác quá đáng và phân bố không đều đặn trên toàn cầu, th́ ắt hẳn đó là một hành động có tính  bạo  lực đối với thiên nhiên và sẽ không tránh đưa tới sự bạo động giữa con người.

 

Riêng sự kiện này thôi cũng là chất liệu cho những quốc gia phật giáo phải suy nghĩ. Cho dù họ không quan tâm ǵ đến những giá trị tôn giáo và tâm linh trong truyền thống của  ḿnh, họ vẫn rất mong được ôm cả chủ nghĩa duy vật của kinh tế học hiện đại càng nhanh càng tốt. Trước khi cởi bỏ được quan niệm kinh tế học phật giáo, v́ đó chỉ là một giấc mơ muốn 'trở về cố hương' không hơn không kém, th́ họ cũng rất muốn sẽ đi được trên  con đường phát triển của nền kinh tế hiện đại, và rồi sẽ dẫn họ đến một nơi mà họ muốn tới.

 

Dẫn chứng ở phần cuối của tác phẩm đáng khích lệ của ḿnh là quyển 'The Challenge of Man's Future 'giáo sư Harrison Brown ở viện kỹ thuật California đă đánh giá:

 

Như chúng ta thấy một cách căn bản rằng xă hội công nghiệp th́ không c̣n ổn định nữa, mà phải bị biến dạng thành một h́nh thái mang tính nông nghiệp, và trong  đó,  những điều kiện cho tự do cá nhân cũng không c̣n chỗ đứng với khả năng tránh được những t́nh trạng bị áp bức bởi một h́nh thái tổ chức chặt chẽ với sự kiểm soát độc đoán. Thật vậy, khi  chúng ta quan sát tất cả những khó khăn có thể hăm dọa sự sống c̣n của nền văn minh công nghiệp, mà ta đă biết từ trước, th́ thật là không dễ ǵ t́m ra phương cách để vẫn giữ được sự ổn định của nó cho đến cuối và bảo toàn được sự tự do cá nhân như một dung hợp hài ḥa.

 

Cho dù hiện tượng này đă không c̣n nữa trong cách nh́n dài hạn, nhưng ta vẫn phải đối diện với vấn đề tức thời là liệu “sự hiện đại hóa”- vẫn đang tồn tại bất chấp những giá trị tôn giáo và tâm linh- có c̣n thực sự sản sinh được những hệ quả chấp nhận được hay không. Những khối lượng được thấy được th́ thật là kếch xù, nhưng hậu quả th́ cũng thật là khủng khiếp – nền kinh tế nông thôn th́ đă sụp đổ, t́nh trạng thất nghiêp th́ lan tràn khắp mọi thành phố và quốc gia, c̣n sự tăng trưởng tính vô sản thành phố th́ không có khả năng nuôi dưỡng được con người cả phần thể chất lẫn cả tâm hồn nữa.

 

 Dù cho ai c̣n tin tưởng rằng sự tăng trưởng kinh tế là quan trọng hơn những giá trị tôn giáo và tâm linh, th́ dưới ánh sáng của cả kinh nghiệm thực tiễn trong hiện tại và viễn ảnh tương lai dài hạn, việc nghiên cứu kinh tế học phật giáo vẫn rất cần được quan tâm. V́ đó không phải là việc chọn lựa giữa “sự lớn mạnh hiện đại” và “sự tŕ trệ cổ điển”, mà là vấn đề t́m ra một con đường đúng cho sự phát triển. Đó chính là con đường “Trung Đạo” giữa sự thờ ơ của các “sứ giả duy vật” và sự bất động của các “nhà tồn cổ”. Hay nói một cách ngắn gọn là t́m cho ra con đường của“Chánh Nghiệp”./