Xă hội dân sự

tại 

  nông thôn Việt Nam 

 

 

Đoàn Thanh Liêm

 

                                 

                                                                                   

Trong khoảng mười thế kỷ tự chủ, cha ông chúng ta đă xây dựng được một xă hội tương đối phát triển, ổn định và hài ḥa. Nhất là tại các vùng nông thôn, th́ các thuần phong mỹ tục vẫn được củng cố, duy tŕ qua bao nhiêu thế hệ. Kể cả sau khi bị mất chủ quyền vào tay người Pháp vào giữa thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX, th́ cái lề thói sinh họat truyền thống tốt đẹp trong mỗi gia đ́nh, cũng như ngoài xă hội Việt nam vẫn không bị phá hoại, mai một hư hại đi là bao nhiêu. 

 

Từ ngàn xưa, cha ông chúng ta vẫn thường nêu cao khẩu hiệu “Phép vua thua lệ làng”, ngay dưới thời quân chủ phong kiến mà quyền hành của nhà vua được coi như tuyệt đối (Absolute monarchy).Vào thời đó, tại các miền nông thôn đă có chế độ “Xă thôn tự trị” (Community Autonomy), tức là tại các làng xă, chính quyền và dân chúng địa phương được dành nhiều quyền tự trị rông răi, chứ không bị quá ràng buộc, lệ thuộc vào chính quyền ở trung ương tại kinh đô do nhà vua điều khiển. Mỗi làng xă đều có ngân sách riêng để tự ḿnh lo trang trải các chi tiêu của địa phương, và như vậy là các hương chức có quyền thâu thuế để nộp vào ngân sách của làng. Dĩ nhiên là họ cũng có trách nhiệm thâu thuế cho chính quyền cấp tỉnh,cũng như cấp trung ương. Tức là cũng có 3 cấp chính quyền tương tự với ở các quốc gia văn minh ngày nay trên thế giới.

 

Phân tích chi tiết hơn về sinh họat xă hội tại nông thôn từ hồi trước 1945, ta thấy người dân phần đông được sống thoải mái trong bầu không khí yêu thương gắn bó của ḍng tộc và t́nh liên đới tương trợ lẫn nhau của xóm giềng. Cái nếp sống thanh b́nh thân ái đó mà được duy tŕ lâu ngày, đó là nhờ nơi đức độ và uy tín của các bậc tôn trưởng là những vị lănh đạo tinh thần tại hạ tầng cơ sở nông thôn trong xă hội cổ truyền Việt nam từ ngàn xưa, mà ngay dưới thời Pháp thuộc th́ cũng vẫn c̣n giữ vững được. Các vị tôn trưởng này gồm một số quan chức đă hồi hưu, các vị đồ nho vốn là thầy dậy học cho các sĩ tử ở địa phương, các vị tu sĩ Phật giáo, Công giáo, và một số những nhân sĩ “xuất thân từ những ḍng họ vốn có danh giá và được trọng vọng tại địa phương” v.v…Đây chính là những thành phần cốt lơi, rường cột của cộng đồng địa phương tại mỗi xóm làng ở nông thôn nước ta từ ngàn xưa. Chính cái tập thể giới lănh đạo này từ nhiều thế hệ đă duy tŕ được nếp sống an vui, trật tự, điều ḥa và nhân ái tại hạ tầng cơ sở nông thôn của chúng ta.

Và nhờ các vị tôn trưởng này mà Xă hội Dân sự ở nông thôn đă giữ vững được vị thế và vai tṛ quan trọng của ḿnh trong cộng đồng dân tộc. Như ta đă biết, khái niệm về Xă hội Dân sự (XHDS) mới chỉ được phổ biến thông dụng trong mấy chục năm gầy đây, nhất là sau khi chế độ toàn trị cộng sản bị sụp đổ ở Đông Âu và Liên Xô từ năm 1989 trở đi.Đó là một khu vực cùng tồn tại song hành với khu vực Nhà nước và khu vực Thị trường, để tạo thành cái Không gian Xă hội ( The Social Space  =  The State + The Marketplace + The Civil Society). Và theo định nghĩa như vậy, th́ ngay trong xă hội cổ truyền ở nước ta hay tại Trung hoa, trước khi đảng cộng sản nắm trọn quyền hành để thiết lập nên một chế độ độc tài chuyên chế toàn trị (totalitarian dictatorship) nhằm chiếm lănh độc quyền không những về chính trị, kinh tế, xă hội, mà c̣n cả về mặt văn hóa, tinh thần và tâm linh nữa, XHDS vẫn tồn tại trong sinh họat thường ngày của các cư dân tại mỗi địa phương. Tức là từ khi đảng cộng sản chiếm được trọn bộ quyền hành rồi, th́ họ đă chi phối không những bộ máy Nhà nước, guồng máy kinh tế, mà c̣n khống chế, lũng đoạn toàn bộ khu vực XHDS nữa. Ta sẽ phân tích chi tiết khía cạnh này trong phần tiếp theo sau đây, khi so sánh t́nh h́nh ở nông thôn ở hai giai đoạn trước và sau năm 1945 kể từ khi đảng cộng sản lên nắm chính quyền. 

 

1/  Như ta đă biết, trước khi người Pháp xâm chiếm nước ta, th́ ngay đến giữa thế kỷ XIX, nền kinh tế Việt nam hoàn toàn là nền kinh tế nông nghiệp và tuyệt đại đa số nhân dân ta đều sinh sống tại nông thôn. Thời đó hầu như chưa có kỹ nghệ, mà chỉ có tiểu thủ công nghiệp, cũng như buôn bán nhỏ lồng trong đại bộ phận là sản xuất nông nghiệp với quy mô nhỏ, kỹ thuật thô sơ và năng xuất c̣n rất thấp. Đa số người dân suốt đời quanh quẩn trong phạm vi làng quê được bao bọc bằng lũy tre xanh vây xung quanh làng, do vậy mà họ quen biết lẫn nhau, gắn bó thân thiết với nhau và có t́nh liên đới tương trợ lẫn nhau mỗi khi “tắt lửa tối đèn”, hay gặp khi “trái gió trở trời, tai trời ách nước” v.v… Gia đ́nh nào th́ cũng phải lo việc “Hiếu, Hỷ” tức là việc tang ma, giỗ chạp cho cha mẹ, ông bà, hay đám cưới đám hỏi cho con cháu ; mà thường gọi là việc “Quan, Hôn, Tang, Tế”. Và mỗi lần như vậy, th́ bà con lối xóm cùng nhau xúm vào giúp đỡ gia chủ trong mọi chi tiết thông thường của những loại biến cố của sinh họat gia đ́nh thường xuyên như thế này. Họ giúp đỡ nhau bằng cách cho mượn chén bát, nồi niêu, bàn ghế, giúp làm lều rạp che, giúp cả việc nấu nướng để đăi ăn cho cả hàng trăm thưc khách. Và nhất là c̣n cho khách từ xa đến trú ngụ tại nhà ḿnh, bởi lẽ căn nhà của gia chủ thường không bao giờ đủ rộng răi để có thể chứa được số đông bà con của chính họ từ phương xa mà đến như vậy. 

 

Người nông dân lại c̣n giúp đỡ nhau ngay cả trong việc xây cất, sửa chữa nhà cửa và cả trong việc đồng áng theo thể thức “Vần công, đổi công cho nhau”, nay cho nhà này, mai lại đến nhà ḿnh v.v… Nhờ các việc giúp đỡ lẫn nhau như vậy (mutual assistance), mà bà con trở thành gắn bó, liên kết thân mật chặt chẽ với nhau. Từ đó, nếp sống cộng đồng có cơ được an vui, phấn chấn và mỗi thành viên cảm thấy thoải mái, thân thương với môi trường sinh hoạt đấy ắp t́nh người, t́nh xóm giềng, nghĩa đồng hương. Đến nỗi mà nhân gian có câu :”Bán anh em xa, mua láng giềng gần”, “Thứ nhất cận lân, thứ nh́ cận thân”, tức là có ư nói : “Cần phải xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp, thân thiết với bà con láng giềng kề sát với ḿnh”, giống như người Mỹ thường nói : Good neighborhood.

 

 Và như đă ghi ở trên, chính các bậc tôn trưởng được mọi người trong xóm làng tín nhiệm, cảm phục và mến yêu vừa do đức độ, tài năng bản thân và cũng vừa do uy tín của các bậc tiền nhân đă từng có công đức lớn lao đối với dân làng, th́ các vị đó đă đóng vai tṛ của giới lănh đạo cho toàn thể cộng đồng địa phương xóm làng. Các nhân vật này, ta có thể c̣n t́m thấy dấu tích của họ như đă được ghi chép khá trung thực, chính xác trong các cuốn gia phả của nhiều ḍng họ, mà hiện nay con cháu bao nhiêu đời sau vẫn c̣n giữ được. Khảo sát cặn kẽ gia phả của những ḍng họ danh giá tại địa phương, chúng ta c̣n có thể thấy rơ được những công trạng to lớn, những đóng góp tuyệt vời của các bậc “sĩ phu quân tử” này đối với địa phương cơ sở mà ḍng tộc của họ đă lâu đời lập nghiệp và sinh sống tại đó. Các nhân sĩ này cũng c̣n được liệt kê trong những cuốn Địa dư chí của mỗi địa phương. Và nhiều nơi, dân làng lại c̣n lập miếu thờ các “bậc tiên hiền”, để ghi nhớ công đức của các vị đă đóng góp nhiều cho sự phát triển và hưng thịnh của địa phương. Trên một phạm vi rộng lớn hơn, ta có thể tham khảo nơi cuốn “Bách Việt tiên hiền chí” do nhà biên khảo Trần Lam Giang mới công bố cách nay vài ba năm.

 

Dĩ nhiên, nông thôn của chúng ta thời xưa cũng chẳng phải là cơi thiên đàng với mọi sự đều tuyệt vời, hoàn hảo. Mà vẫn c̣n nhiều mặt trái với những hủ lậu, tham nhũng áp bức do giới cường hào ác bá gây ra.Các khuôn mặt tiêu cực này đă được khắc họa rơ nét trong văn học như là “Bá Kiến trong tác phẩm Chí Phèo”, “Nghị Hách trong Giông Tố” v.v…Nhưng nói chung, th́ xă hội cổ truyền ở làng quê vẫn c̣n bảo tồn được nhiều tính cách lành mạnh, ḥa nhă, nhân ái và lương hảo theo đúng với truyền thống đạo đức của dân tộc. “Sơn hà xă tắc, tôn ti trật tự”, cũng như nền nếp sinh họat “trên thuận dưới ḥa” vẫn được người dân coi trọng. T́nh trang an ḥa ổn định tại hạ tầng cơ sở nông thôn như thế này, một phần lớn đó là nhờ nơi công lao, đức độ và uy tín của các bậc tôn trưởng của mỗi địa phương như đă ghi ở trên. Nhưng tiếc thay, sau năm 1945 kể từ khi người cộng sản lên nắm chính quyền, th́ họ đă phá tan tành cái nền nếp truyền thống tốt đẹp đó ở nông thôn của nước ta. Trong cơn hăng say điên lọan của cuộc cách mạng đẫm máu với khẩu hiệu “trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”, đảng cộng sản đă phát động một cuộc tàn sát, tiêu diệt toàn bộ hệ thống lănh đạo tại nông thôn, và thay vào đó là tầng lớp cán bộ của họ, mà được đào tạo trong tinh thần “Hận thù giai cấp, Bạo lực cách mạng, Vô sản chuyên chính”. 

 

2/  Kết quả là sau trên 60 năm người cộng sản nắm giữ độc quyền trong mọi lănh vực chính trị, kinh tế, xă hội và cả đến văn hóa, tâm linh trên cả nước, th́ Xă hội Dân sự tại nông thôn đă ḥan toàn bị phá nát hoang tàn.Tại làng quê, không c̣n thấy bóng dáng của một vị tôn trưởng vốn được người dân mến thương và thần phục như xưa nữa. Đầu tiên là cuộc “Cải cách ruộng đất” rập theo khuôn mẫu của Trung quốc,chính quyền cộng sản Việt nam đă gửi các “Đội cải cách” xuống tận các thôn xóm để phát động cuộc đấu tố rất man rợ, sắt máu làm tiêu diệt mọi thành phần có tên tuổi ở địa phương. Chỉ trong có mấy năm, mà chiến dịch này đă hạ sát, bỏ tù hàng mấy trăm ngàn người, tịch thu mọi tài sản ruộng đất, nhà cửa của các nạn nhân bị quy kết là thuộc thành phần địa chủ. Các đội cải cách này có toàn quyền sinh sát đối với các nạn nhân, nên dân gian mới nói :” Nhất Đội, nh́ Trời”, tức là họ c̣n có quyền thế hơn cả ông Trời nữa.Có thể nói trong lịch sử mấy ngàn năm, chưa bao giờ nông thôn Việt nam lại bị tàn phá kinh hoàng như trong đợt cải cách ruộng đất vào giữa thập niên 1950 như thế này. Đây rơ rệt là một cuộc “Đại khủng bố” nhằm tiêu diệt toàn bộ hệ thống lănh đạo Xă hội Dân sự tại thôn quê miền Bắc nước ta.

 

Tiếp theo là chiến dịch “Tập thể hóa ruộng đất” được phát động cũng tàn bạo quyết liệt không kém việc cải cách ruông đất nói trên. Tất cả các thửa đất tư hữu của người dân đều bị cưỡng bức xung vào “hợp tác” và nông dân bị biến thành người làm công, làm “nông nô”, được trả lương rất thấp kém, đến độ không thể nuôi sống cho riêng bản thân ḿnh, nói chi đến cưu mang cho cả gia đ́nh.V́ thế mà nông dân phải t́m cách làm thêm nhiều nghề vụn vặt hầu đắp đỗi qua ngày.

Rốt cuộc là cả hai chiến dịch Cải cách và Tập thể hóa ruộng đất này đă phá tan hoang tất cả nền nếp sinh hoạt của hương thôn mà cha ông chúng ta đă phải dầy công khó nhọc suốt bao nhiêu thế hệ mới gây dựng ra được.V́ kinh tế suy xụp, người dân lâm vào cảnh bần cùng đói kém, lại cộng thêm với cuộc chiến tranh Nam Bắc mỗi ngày một leo thang khủng khiếp, khiến cho t́nh trạng xă hội càng thêm tiêu điều, khốn khổ. V́ thế, có thể nói là khu vực Xă hội Dân sự truyền thống đă bị tan ră, vô hiệu hóa để mặc cho các tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản như Đoàn Thanh Thiếu niên,Hội Phụ nữ,Mặt Trận Tổ quốc v.v…tha hồ mà tung hoành “một ḿnh một chợ, dọc ngang nào biết trên đầu có ai”!

 

V́ chủ trương”Bạo lực cách mạng, Chuyên chính vô sản, Tranh đấu giai cấp, Dân chủ tập trung”… rất là cực đoan, quá khích đến độ cuồng tín theo sách lược của Staline, Mao Trạch Đông, cho nên các cán bộ, viên chức cộng sản ở nông thôn không hề có được uy tín và sự mến phục của quần chúng nhân dân, như trường hợp của các vị tôn trưởng tại làng quê hồi trước 1945 như đă mô tả chi tiết ở trên.Thành ra tại các miền quê nơi thôn xă đă có t́nh trạng “trống vắng lănh đạo” (the vacuum of leadership), khiến cho người dân không c̣n có thể sinh họat theo lối “an cư lạc nghiệp”, như trong cảnh thanh b́nh, yên ấm thuở xưa. Và khu vực Xă hội Dân sự đă bị tê liệt, tan ră không c̣n sinh khí năng động, phấn khởi mà lại an ḥa với t́nh nghĩa đôn hậu, chân chất của xóm làng trước đây nữa. Có thể nói t́nh trạng xă hội bế tắc, hoang tàn như vậy là một vết thương rất ư trầm trọng, đă hằn sâu trong ḷng dân tộc Việt nam, mà chế độ cộng sản đă gây ra từ trên nửa thế kỷ nay. Và phải mất nhiều thế hệ nữa, th́ dân tộc ta mới có thể lần lần phục hồi, củng cố tái thiết lại . Bởi v́ cái ḷng hận thù, uất ức vốn bị dồn nén từ bao nhiêu năm nay trong các gia đ́nh ở nông thôn chúng ta, th́ không thể ngày một ngày hai mà giải tỏa, dẹp bỏ hết ngay đi được.Cũng như về mặt tích cực, ngay trong số con cháu của những “danh gia vọng tộc” ngày trước, th́ cũng phải mất nhiều năm nữa họ mới gây dựng và quy tụ lại với nhau, hầu nối tiếp được cái sứ mạng cao quư, mà tổ tiên của họ đă có thời hoàn thành một cách xuất sắc, như đă được ghi lại trong sử sách cũng như trong lời truyền tụng của dân gian. 

 

Công cuộc tái kiến thiết và phục hồi lại Xă hội Dân sự hiện đang được thực hiện tại các nước Đông Âu và Nga từ 20 năm nay, kể từ ngày chế độ cộng sản sụp đổ, để trả lại quyền tự quyết cho nhân dân các quốc gia này được nhận lấy trách nhiệm hàn gắn những hận thù đổ vỡ trong xă hội, và tạo ra được một bàu không khí phấn khởi, nô nức nơi mọi tầng lớp quần chúng trước vận hội mới của đất nước ḿnh. Và đây mới rơ ràng là một hành tŕnh của mỗi dân tộc đó để” trở về lại với cuộc sống b́nh thường” của chính ḿnh (the return to the normal way of life), như nhà xă hội học Max Weber đă từng viết ngay từ đầu thế kỷ XX.

 

 Đó cũng là một kinh nghiệm quư báu cho dân tộc Việt nam chúng ta, để chuẩn bị bước sang giai đoạn “hậu cộng sản”trong một tương lai không c̣n xa vời nữa vậy./

 

California, Tháng 11 năm 2008

 

Đoàn Thanh Liêm