Tưởng niệm cố TT Ngô Đ́nh Diệm
Đến
nay một số sử liệu giải mật ngoại quốc và nhiều hồi kư cuả tác giả
Việt có đề cập đến hai ngày trọng đại trong lịch sử Đất nước chúng ta:
Ngày 23.10.1955 Hoàng đế Bảo Đại bị truất phế và ngày 26.10.1956, ban
hành bản Hiến Pháp Việt Nam đầu tiên. Ngày 23 tháng này sẽ đánh dấu 50
năm kỷ niệm việc thay đổi thể chế ở Việt Nam từ một nước Quân chủ lâu
đời bước qua chế độ Cộng ḥa tân thời. Sự thay đổi vừa nói đă vượt qua
nhiều giai đoạn xung đột nội bộ quốc gia, giữa lúc Cộng sản Bắc Việt,
thực dân Pháp và giáo phái ở miền Nam VN đang hỗn chiến với nhau.
Trong vị thế Thứ trường rồi Bộ trưởng Nội vụ trong Nội các Ngô Đ́nh
Diệm từ 1955 cho đến cuối 1959, người viết đă chứng kiến và tham gia
trực tiếp vào bi kịch trên đây. Mong bài này giúp độc giả biết thêm
một số dữ kiện chưa hề tiết lộ.
Trường hợp dẫn đến quyết
định truất phế Bảo Đại
Hoàng tữ Vĩnh
Thụy (hay mệ Vững trong hoàng tộc), sinh ngày 22.10.1913 tại Huế và
mất ngày 31.7.1997 tại Paris, hưởng thọ 83 tuổi, là con trai duy nhất
của vua Khải Định và vị Hoàng đế chót của triều Nguyễn Gia Long. Cuộc
đời chính trị của ông có thể chia ra thành ba giai đọan: 1) Hoàng đế,
1932-1945. 2) Quốc trưởng, 1949-1955, và 3) Lưu vong, 1955-1997. Khi
vua Khải Định băng hà năm 1932 th́ Hoàng tử Vĩnh Thụy được 12 tuổi,
đang du học tại Pháp dưới sự chăm sóc của vợ chồng cựu Toàn quyền
Charles. Ông trở về VN dự lễ tấn phong và lên ngôi đưới danh hiệu Bảo
Đại.
Nhựt đảo chính Pháp tại Đông Dương ngày 9.3.1945. Bảo Đại cho thành
lập chính phủ Trần Trọng Kim ngày 16.4.1945 theo lời yêu cầu của Đại
sứ Yokoyama và tuyên bố hủy bỏ tất cả các Ḥa ước bất b́nh đẳng kư với
Pháp năm Nhâm Tuất 1862, Giáp Tuất 1874, Quư Mùi 1883 và Giáp thân
1884. Nhựt hoàng đầu hàng vô điều kiện ngày 15.8.1945, thủ tướng Trần
Trọng Kim từ chức. Hai hôm sau, ngày 17 tháng 8, Việt Minh (tức Mặt
trận VN Độc lập Đồng Minh) biến cuộc biểu t́nh lối 20.000 người được
Tổng hội công chức phát động trước Nhà Hát Lớn Hànội để ủng hộ Chính
phủ Trần Trọng Kim thành một cuộc tuần hành đ̣i Độc lập. Lần đầu tiên
lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện. Khâm sai Phan Kế Toại rút lui, nhường chỗ
cho một Ủy ban Nhân dân tạm thời, không nêu rơ danh tánh các thành
viên. Ngày 19 tháng 8, Việt Minh cướp chính quyền trong một cuộc binh
biến mà chúng huênh hoang gọi là cuộc Cách Mạng Tháng Tám hay Tổng
Khởi Nghĩa.
Trường hợp dẫn đến sự thoái vị ngày 25.8.1945 được chính vua Bảo Đại
kể lại trong quyển hồi kư tiếng Pháp "Le Dragon d'Annam" (nxb
Plon, Paris, 1980), trang 115-137, với các điểm đáng lưu ư sau đây:
1- Bảo Đại và các đảng phái quốc gia không có một phương tiện thông
tin đại chúng nào trong tay và hoàn toàn mù tịt về những biến chuyển
thế giới ngoài Việt
Nam.
Đặc biệt họ không biết ǵ về quyết định của Hội nghị Postdam nhóm từ
17.7 cho đến 2.8.1945 giao cho Trung Hoa của Tưởng giới Thạch (trên vĩ
tuyến 16) và quân đội Anh (dưới vĩ tuyến 16) giải giới Nhựt mà không
đề cập đến tương lai chính trị của bán đảo Đông Dương. Trong khi đó,
Việt Minh đă chiếm rất sớm đài Radio Bạch Mai và có hai nhựt báo Cứu
Quốc và Quyết Chiến phổ biến mạnh tại Hànội và Huế.
2- Sự kiện nêu trên tạo ra một khoảng trống chính trị vô cùng có lợi
cho Việt Minh. Bảo Đại than phiền, nới trang 118-119 của hồi kư, các
lănh tụ trong khối đồng Minh, từ Truman, De Gaulle, Quốc vương Anh cho
đến Tưởng Giới Thạch, không một ai để ư trả lời thơ xin ủng hộ của ông
trong khi phiá CS được vơ trang và đă bắt liên lạc với các cơ quan
t́nh báo Mỹ, Pháp và Hoa. Bảo Đại viết: "Tôi không huy động được quần
chúng, các người thân cận của tôi đều ẩn trốn hay âm mưu chống tôi.
Trần Trọng Kim và các Tổng trưởng biến mất tất cả. Tôi cô đơn trong
một thủ đô chết. Mọi việc có vẻ thuận lợi cho CS như một phép lạ. Sự
thành công không thể chối căi của họ có phải là dấu hiệu họ nhận được
một thiên mạng, mandat du ciel, hay không? Tôi phải rút lui, như họ
đ̣i hỏi. CS muốn làm cách mạng. Tôi sẽ thức hiện điều này không đổ máu.
Bằng một cuộc tiến tŕnh chính trị (évolution politique)" (trang
119)
Với tinh thần chủ bại ấy, Bảo Đại sẵn sàng hàng đầu. Ngày 22.8.1945,
Trưởng ty Bưu Điện Huế mang tŕnh ông một điện tín ngắn gởi từ Hànội
của một "Ủy ban đaị diện các đảng phái và quần chúng yêu nước" kêu gọi
nhà vua trao quyền cho Nhân dân. Bảo Đại chưa từng gặp một lănh tụ
Việt Minh nào nhưng tin nơi "tính cách chân thành không chối căi" của
tối hậu thơ (trang 118). Bảo Đại gởi hai cộng sự viên duy nhất c̣n lại
là Hoàng thân Vĩnh Cẩn và Chánh văn Pḥng Phạm Khắc Hoè ra điều tra
ngoài Thành Nội, họ trở về tay không. Với sự giúp đỡ của Vĩnh Cẩn, Bảo
Đại liền thảo một điện văn trả lời mời ủy ban gởi gấp đại diện về Huế
để làm lễ trao quyền. Bảo Đại viết: "Tôi cho phóng thông điệp này vào
không trung như thảy một ve chai ra biển rộng." Sáng 25 tháng 8, Trần
Huy Liệu và Cù Huy Cận xuất hiện, tuyên bố đại diện chủ tịch Hồ Chí
Minh, để nhận ấn kiếm do Bảo Đại trao lại tại Điện Kiến Trung, sau khi
nhà vua tuyên bố vắn tắt "Dân vi quư. Trẫm thà làm dân một nước độc
lập hơn làm vua một xứ nô lệ" trước một đám đông quần chúng "bỡ ngỡ,
kinh ngạc, như bị sét đánh" (Bảo Đại viết).
3- Đa số lănh tụ các đảng chống Cộng nhận định về sau: Ngày 19.9.1945,
Việt Minh không mạnh như người ta tưởng. Chúng thắng v́ có lănh đạo,
tuyên truyền giỏi, biết chụp thời cơ - v́ các đảng quốc gia lừng khừng,
thiếu tổ chức và xâu xé nội bộ, mặc dù lúc đó Đại Việt Dân chính, Việt
Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc Dân Đảng đă đồng ư thống nhất "trên
nguyên tắc." Hai cố nghị sĩ Trần Trung Dung và Đặng Văn Sung đă xác
nhận chua cay với người viết: Việt Minh đă phỏng tay trên cánh quốc
gia một cách dễ dàng. Đặc biệt, Bs Nguyễn Tường Bách, cựu chỉ huy với
Vũ Hồng Khanh Đệ tam chiến khu của VN Cách Mạng Đồng Minh Hội và VN
Quốc Dân Đảng, từ Vĩnh Yên tới Lào kay, thố lộ với người viết: Phe
quốc gia lúc đó không biết tí ǵ về chuyện Việt Minh tổ chức một hội
nghị quan trọng tại Tân Trào, Thái Nguyên. Họ "vẫn ngây ngô tin rằng
Nhật c̣n đủ sức chống cự một thời gian nên không cấp tốc chuẩn bị tổng
hành động hay đảo chính!"
4. Để bào chữa quyết định thoái vị, Bảo Đại lập luận ông muốn tránh
nội chiến và bảo vệ sự thống nhất và dân chủ hoá Đất nước sau một thế
kỷ Pháp thuộc. Một thời gian ngắn sau, ông ra Hànội nhận chức Cố vấn
tối cao (bù nh́n) trong Chính phủ Liên hiệp do Hồ tổ chức và cầm đầu
ngày 11.11.1945 dưới áp lực của các đảng. Đầu tháng giêng 1946, Hồ gởi
Bảo Đại "đi nghỉ mát" tại Sầm Sơn. Một h́nh thức lưu đày. Để có thể
trở về Hànội, cựu Hoàng ngoan ngoăn nhận chức dân biểu (bù nh́n) tỉnh
Thanh Hoá trong Quốc hội Lập hiến với 92% thăm cử tri. Ông thú nhận
không biết rơ bầu cử ngày nào, không có bỏ thăm và cũng không hề đi
vận động bầu cử (trang 144). Chưa hết. Ngày 15.9.1946, Hồ sắp xếp cho
Tổng thống Tưởng Giới Thạch mời cựu Hoàng qua viếng Trùng Khánh. Đây
là cách tống khứ chướng ngại vật Bảo Đại ra khỏi VN. Bị lưu đày lần
thứ hai, Bảo Đại trôi dạt về Hồng Kông, tứ cố vô thân, sống lang bạt
với vài mỹ kim trong túi. Giữa mùa hè 1948, Pháp làm sống lại "Giải
pháp Bảo Đại". Một số chính khách (Lưu Đức Trung, Nguyễn Văn Xuân,
Nguyễn Bảo Toàn, Trần Văn Lư, Đặng Văn Sung, Trần Trung Dung..) rủ
nhau bay sang Hồng Kông tiếp xúc với nhà vua (trang 161-172).
Trong Hồi kư, dù bị lợi dụng bỉ ổi, Bảo Đại tỏ ḷng khâm phục Hồ Chí
Minh đă đối xử với ông "một cách lịch sự, nể trọng, thân yêu như t́nh
cha con, chẳng những luôn luôn chăm lo vấn đề an ninh và sức khoẻ mà
lại c̣n căn dặn nên thận trọng trong việc giao dịch với phái yếu" (nguyên
văn). Vào cuối cuộc đời, Bảo Đại viết: Tôi không nghi ngờ bị chủ tịch
Hồ lừa phỉnh, tôi tiếp tục đóng kịch. Dù sao, tôi nghĩ ông ấy nhiệt
t́nh tranh đấu cho sự độc lập của xứ sở. Bất chấp dĩ văng và phương
pháp của ông, tôi thủy chung ủng hộ. Xét cho cùng, tôi thích thái độ
của ông hơn thái độ của các nhà lănh tụ quốc gia, bù nh́n thật sự
trong tay Trung quốc, Tout bien examiné, je préfère son attitude à
celle des leaders nationalistes, véritables fantoches entre les mains
des Chinois (trang 139).
Cuộc sống lưu vong của Cựu Hoàng rất cô đơn tại Paris, trong một gian
nhà nhỏ ở đường Fresnel gần đồi Trocadéro. Sau 1975, ông xin rửa tội
vào đạo Thiên chúa dưới tên thánh Jean Robert và tái lập gia đ́nh năm
1972 với một phụ nữ Pháp tên Monique Baudot, gốc Lorraine.Ông không có
một hoạt động chính trị nào và cũng không tuyên bố ǵ. Năm 1982, đáp
lời mời của một nhóm Việt kiều, ông có qua viếng Californie ba tuần.
Ông được an táng ngày 6.8.1997 tại nghiă trang Passy. Một nắm mồ khiêm
nhường, bên cạnh ngôi mộ của nhà văn hào Virgil Gheorghiu, gốc roumain,
tác giả của quyển sách bất hủ "Giờ Thứ 25". Không có một gương mặt
chính trị VN nào dự đám táng thô sơ của vị Hoàng đế cuối cùng nhà
Nguyễn.
Những bí ẩn bên trong Hội
Đồng Nhân Dân Cách Mạng
Bảo Đại đă nhân danh chống Pháp để thoái vị và trao quyền cho CS lănh
đạo cuộc chiến kết thúc bằng trận đánh cuối cùng tại Điện Biên Phủ
ngày 7.5.1954. Oái oăm thay, chính đế quốc Pháp đă đặt Bảo Đại trở lại
trên ngai vàng để chống lại CS Bắc Việt sau khi, tại Hà Đông, Cao ủy
Bollaert tuyên bố Pháp muốn tái đàm với cánh quốc gia.Tháng 8.1948,
Bảo Đại chỉ định Trung tướng Nguyễn Văn Xuân thành lập "Chính phủ
Trung ương Lâm thời VN."
Dưới sự lănh đạo của Quốc trưởng Bảo Đại, qua những nội các liên tiếp
Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Phan Long, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm và Bửu
Lộc, Miền Nam VN rơi vào cảnh hỗn loạn. Cuối cùng nhà vua phải kêu cứu
đến chí sĩ Ngô Đ́nh Diệm ngày 9.7.1954, mặc dù trước đó ông Diệm đă ba
lần thoái thác.
Hiệp ước đ́nh chiến Genève kư kết ngày 21.7.1954 chia đôi VN nơi vĩ
tuyến 17. Bảo Đại gây khó khăn cho ông Diệm bằng cách từ Cannes gởi
ngày 28.4. và 30.4.1955 hai công điện liên tiếp triệu hồi TT Diệm qua
Pháp để "tham khảo ư kiến" v́ ông Diệm khai trừ tướng Nguyễn Văn Hinh,
không chấp nhận tướng Nguyễn Văn Vĩ như tân Tổng tư lệnh Quân đội,
cương quyết kết thúc kế hoạch dẹp giáo phái, quét sạch B́nh Xuyên và
giải tán tổ chức vơ trang UMDC của Leroy. Ư đồ của Bảo Đại là thay thế
Thủ tướng Diệm, có thể bằng Lê Văn Viễn tự Bảy Viễn, sếp ṣng B́nh
Xuyên, lúc đó đang nắm giữ guồng máy cảnh sát, công an và kiểm soát
ṣng bài Đại Thế Giới để cung cấp tiền nong cho Quốc trưởng.
Bị lấn vào chân tường, TT Diệm phúc đáp: Hội đồng Nội các không đồng ư
để ông xuất ngọai giữa t́nh thế rối ren của xứ sở và một Hội nghị các
Chính đảng và Nhân sĩ Quốc gia sẽ được triệu tập ngày 29.4.1955 tại
Dinh Độc Lập để cho biết ư kiến "Thủ tướng có bổn phận thi hành lệnh
triệu thỉnh của Quốc trưởng hay không?" Hội nghị này gồm có 18 chính
đảng/đoàn thể và 29 nhân sĩ Miền Nam. Đặc biệt, ba tổ chức nổi bật v́
có thực lực: VN Dân Xă Đảng (Hoà Hảo) mà bí thơ là Nguyễn Bảo Toàn, VN
Phục Quốc Hội (Cao Đài) do Hồ Hán Sơn thay mặt và Mặt trận Quốc gia
Kháng chiến VN của Tŕnh Minh Thế, do Nhị Lang đại diện.
Nhị Lang, tác giả của quyển sách "Phong trào kháng chiến Tŕnh Minh
Thế" (nxb Alpha, Virginia,1989), kể lại: đúng 10 giờ sáng ngày ghi
trên, Thủ tướng Diệm tiến vào pḥng họp với vẻ mặt ưu tư, tuyên bố vắn
tắt lư do, xong kiếu từ ngay, "để Quư Ngài được tự do thảo luận". Hội
nghị bầu Nguyễn Bảo Toàn vào ghế chủ tọa, Phạm Việt Tuyền vào ghế Tổng
thư kư. Như đă thoả thuận với nhau từ trước, Nhị Lang, NBToàn và HHSơn
khai pháo bằng cách đặt thẳng với Hội nghị một vấn đề duy nhất: truất
phế Bảo Đại, khỏi bàn đến chuyện ǵ khác. Nếu Hội nghị từ chối chương
tŕnh nghị sự này, ba đoàn thể của họ sẽ rút lui liền. Bầu không khí
cực kỳ sôi động. Bên ngoài, lúc đó, từ cầu chữ Y, quân B́nh Xuyên pháo
kích xung quanh Dinh Độc Lập. Các tổ chức và phần tử ủng hộ từ lâu TT
Diệm tỏ ra quá khích. Nhà báo Bùi Quang Nga, bút hiệu Văn Ngọc, vừa hô
to "Đả đảo Bảo Đại", vừa tuột giày, ném vào bức chân dung đồ sộ của
Cựu Hoàng treo trên vách Pḥng Khánh Tiết. Tiếp theo, nhiều nhân vật
như Vũ Văn Mẫu, Hoàng Cơ Thụy... công kênh Nhị Lang lên vai họ để
triệt hạ chân dung này giữa tiếng hoan hô vang dội. Hội nghị bầu ra
một Ủy ban cách Mạng, sau đổi là Hội đồng Nhân Dân Cách mạng, rồi Hội
đồng Nhân dân Cách mạng Quốc gia, thể theo ư kiến của một số nhân vật
"ôn hoà" lo ngại chính quyền Diệm sẽ không kiểm soát nổi khuynh hướng
cực đoan. Hội đồng này gồm có Nguyễn Bảo Toàn (chủ tịch), Hồ Hán Sơn (Phó
chủ tịch) Nhị Lang (Tổng thư kư) và một số ủy viên như Hoàng Cơ Thụy,
Trần Thanh Hiệp, Đoàn Trung C̣n, Hoàng Phố, Văn Ngọc, bà Đức Thọ,
Hùynh Minh Ư, Hà Huy Liêm và Nguyễn Hữu Khai. Cuối cùng, Hội nghị đưa
ra một bản Quyết nghị nảy lửa, gồm ba điểm: Truất phế Bảo Đại, giải
tán Chính phủ Diệm và ủy nhiệm chí sĩ N Đ Diệm thành lập Chính phủ
Cách Mạng Lâm thời, tổ chức tổng tuyển cử, tiến tới chế độ cộng hoà.
Lúc 5 giờ chiều, sau phiên nhóm kéo dài 7 tiếng, chủ tịch Nguyễn Bảo
Toàn mời TT Diệm xuống pḥng họp nghe kết quả. Nhị Lang viết: "Khi Thủ
tướng nghe xong, tôi thấy mặt ông tái hẳn đi. Tôi chắc ông không ngờ
Hội nghị này lại quay sang một chiều hướng khác và lôi kéo ông đi một
bước quá xa như vậy... Thủ tướng Diệm lộ vẻ đăm chiêu và nói bằng một
giọng trầm mặc: "Xin quư ngài cho tôi được có thời giờ suy nghĩ kỹ về
vấn đề trọng đại này!"(trang 310).
Qua ngày 30 tháng 4, lại một cuộc tập họp đông đảo khác tại Pḥng
Khánh tiết Toà Đô chính Sàig̣n để triệt hạ h́nh Bảo Đại và nghe N B
Toàn, H H Sơn, Nhị Lang tường tŕnh. Tŕnh Minh Thế, Nguyễn Thành
Phương và Nguyễn Giác Ngộ xuất hiện, dân chúng hoan hô. Một Hội Đồng
Chỉ Đạo được thành lập, gồm có ba tướng giáo phái này, để bao trùm lên
Ủy ban Cách Mạng, theo lời đề nghị đầy tham vọng của Nguyễn Thành
Phương. Khi sáu nhân vật vừa kể lập một phái đoàn vào Dinh Độc Lập lúc
6 giờ chiều, để thông báo cho Thủ tướng th́ họ thấy lối 50 sĩ quan
Quân đội quốc gia có mặt ở tầng dưới và hai tướng Nguyễn Văn Vỹ và Lê
Văn Tỵ trong pḥng khách nhỏ ở tầng trên. Trong hồi kư "VN Nhân Chứng"
(nxb Xuân Thu, 1989), Trân Văn Đôn kể lại: Trưa 29.4.1955, Vỹ và Đôn
đến nhà tướng Tỵ yêu cầu trao quyền cho Vỹ theo sắc lệnh của Bảo Đại,
ông Tỵ trả lời: "Tôi sẵn sàng nếu Thủ tướng ra lệnh". Tất cả đồng ư
vào gặp Thủ tướng. Chỉ có Đỗ Cao Trí đ̣i ở lại: "Các anh vô đi. Nếu có
ǵ xảy ra, tôi đến vây Dinh Độc Lập." Một bi kịch bất ngờ xảy ra làm
đảo lộn lịch sử Đất nước: Với sự chấp thuận của Tŕnh Minh Thế và
Nguyễn Thành Phương, Nhị Lang lặng lẽ đột nhập vào pḥng khách, chĩa
thẳng khẩu súng Colt 45 vào người tướng Vỹ, hô to: "Dơ tay lên, không
tôi bắn!" Vỹ hoảng hốt dơ tay khỏi đầu. Tướng Tỵ liều mạng chạy lại ôm
lấy Nhị Lang nhưng bị gạt ra. Nhị Lang gọi Hồ Hán Sơn, chỉ về phiá Vỹ:
"Hăy bốc ga lông của ông này cho tôi!" Sơn làm ngay. Phóng viên
Francois Sully chụp được tấm h́nh và cho đăng vào báo Life, số phát
hành tháng 7.1955. Bộ trưởng Trần Trung Dung cấp báo với Thủ tướng: "Cụ!
Cụ! Chúng nó đang định bắt giết ông Vỹ!" TT Diệm vội ra kéo Vỹ vào
pḥng. Cố vấn Nhu chạy đến can gián Nhị Lang: "Thôi đừng nóng, mấy ông
tướng đang họp bàn với cụ"
Trả lời người viết, Nhị Lang cho biết những diễn tiến sau đó: trong
một buổi họp liền tiếp theo giữa TT Diệm, Nhị Lang, Hồ Hán Sơn và hai
tướng Vỹ, Tỵ trong pḥng ngủ (vừa dùng làm văn pḥng) cuả ông Diệm,
tướng Vỹ cuối cùng - để được tự do - chịu kư một tuyên ngôn ngắn "tự
nguyện từ bỏ hết mọi quyền hành chức chưởng do Bảo Đại ban cho và tự
nguyện gia nhập hàng ngũ cách mạng" (nguyên văn). Ngoài ra, lấy lại
được chức Tham mưu trưởng, tướng Tỵ cũng bảo đảm "Vỹ sẽ không làm phản".
Trong suốt phiên họp, Đỗ Cao Trí và hai tiểu đoàn Ngự Lâm quân bao
Dinh Độc lập để gây áp lực, không ngớt kêu vào xin nói chuyện với Vỹ.
Rốt cuộc, họ êm thấm rút lui v́ bị kềm kẹp giữa hai đối thủ, phía
trước là toán binh pḥng vệ Dinh Độc Lập của đại tá Vinh, phiá sau là
các đơn vị Cao Đài của Nguyễn Thành Phương bố trí tại đường Trần Quư
Cáp và Liên Minh của Tŕnh Minh Thế phục kích ở đường Phan Đ́nh Phùng.
Ngày hôm sau theo Trần Văn Đôn trong hồi kư, tướng Vỹ họp báo cho biết
Quân đội sẽ đảo chính v́ TT Diệm bị Thế, Toàn và Nhị Lang lấn quyền.
Các sĩ quan nhóm, có mặt Nguyễn Hữu Có, Dương Văn Đức, T V Đôn..vv..
Lê Văn Tỵ hỏi: Các anh làm ǵ đó? Vỹ đáp: Tôi đảo chính! Tỵ: Anh lấy
ǵ để đảo chính? Vỹ: Quân đội. Tướng Tỵ lột sao cuả ḿnh bỏ xuống bàn:
"Tôi lột lon trao cho anh đây. Tôi không theo anh đâu!" Nguyễn Văn Vỹ
và Nguyễn Tuyên bay lên Đà Lạt, từ đó qua Cao Miên rồi sang Pháp sống
lưu vong. Điểm đáng lưu ư là trong quyển "Le Dragon d'Annam", Bảo Đại
rất vắn tắt, không kể lại những chi tiết trên đây, chỉ ghi rằng ông
đồng ư cho tướng Vỹ đảo chính TT Diệm và phủ nhận tính cách hợp pháp
của Hội Nghị Toàn Dân ngày 29 tháng 4.
Ngô Đ́nh Diệm có sẵn sàng
truất phế Bảo Đại hay không?
Đa số các tác
giả trà lời: Không. Trừ Đỗ Mậu ("VN Máu Lửa Quê Hương tôi" nxb Hoa kỳ
1986). Tất cả những ai từng tiếp xúc với ông Diệm đều nhận xét ông
luôn luôn giữ thái độ khiêm cung thành tín khi nói đến các vua chúa
triều Nguyễn, kể luôn Bảo Đại, mà ông không bao giờ phê b́nh thiếu lễ
độ. Người viết c̣n nhớ: Sau 1956, khi ban sắc lệnh cải tổ hành chính,
Tổng thống Diệm đặt trọng tâm vẽ lại bản đồ các tỉnh Miền Nam (thay
đổi ranh giới, đặt tên mới, tổ chức quy chế xă, quận và đô thị..vv..)
nhưng giữ nguyên các cơ chế tại Miền Trung do các vua chúa đặt ra, v́
cho rằng tổ chức này không cần canh tân. Khi Bộ Nội vụ, do người viết
phụ trách, làm thủ tục tịch thu tài sản của Cựu Hoàng, Tổng thống ra
lệnh nới tay, giúp Đức Từ Cung có phương tiện sinh sống đầy đủ và chỉ
thị cho các tỉnh trưởng trùng tu lăng tẩm của những đấng Tiên Đế.
Chính Nhị Lang thường xác nhận nhiều lần với người viết rằng Thủ tướng
Diệm không hiện diện khi Hội Đồng Cách Mạng lấy quyết định truất phế
Bảo Đại, ông Diệm tỏ vẻ không thoải mái nhận quyền ủy nhiệm của Hội
đồng và không ngờ mọi việc diễn tiến ngoài mọi dự tính như vậy. Nhị
Lang viết trong Hồi kư: "Cái Ủy Ban Chỉ Đạo do sáng kiến của Nguyễn
Thành Phương đă gieo nghi ngờ trong ḷng Thủ tướng chính phủ càng ngày
càng ác cảm với tướng Phương và đưa Phương đến chỗ suy bại." Để kềm
hăm những thành phần "cách mạng quá khích", ông Nhu gài những cán bộ
thân tín như Hà Huy Liêm, Văn Ngọc, Nguyễn Hữu Khai và Hùynh Minh Ư
vào Hội Đồng để gây lục đục. Mặt khác, Bộ trưởng Thông tin Trần Chánh
Thành và tướng Nguyễn Ngọc Lễ, TGĐ Cảnh sát-Công An, áp dụng nhiều
biện pháp tạo khó dễ.
Chuyện ǵ đă
xảy ra cho các lănh tụ cốt cán trong Hội Đồng Cách Mạng và Ủy ban Chỉ
Đạo?
1. Chủ tịch Nguyễn Bảo Toàn, đứng đầu Lực lượng Hoà Hảo (tổ chức đông
và mạnh nhất năm 1955), từ chức, trốn qua Phi Luật Tân, rồi bị thủ
tiêu khi trở lại VN. Ông là nhân vật từng ủng hộ Giải pháp Bảo Đại và
sáng lập viên Mặt trận Thống nhất Quốc gia với Nguyễn Hải Thần và
Nguyễn Tường Tam. Cựu đại tá Nguyễn Văn Y, nguyên cục trưởng Trung
ương T́nh báo và TGĐ Công an thời Diệm, hiện ở Virginia, quả quyết với
người viết rằng Hội đồng Quân nhân năm 1963 vu oan ông đă giết N B
Toàn. Theo ông, công tác này có thể do nhóm Lê Quang Tung hay Dương
Văn Hiếu thi hành theo lệnh của Ngô Đ́nh Nhu.
2- Hồ Hán Sơn, gốc Hà Tĩnh, vào Nam năm 1954, gia nhập VN Phục Quốc
Hội của Nguyễn Thành Phương, được Hộ pháp Phạm Công Tắc vinh thăng Đại
tá Cao Đài, tác giả "Nghệ thuật Chỉ đạo Chiến tranh" từng làm say mê
Tŕnh Minh Thế. Người lùn thấp, đầu tóc bờm xờm, ăn nói ngang tàng, đă
tổ chức một lớp huấn luyện chính trị cho các sĩ quan Cao Đài. Sau biến
cố tháng 4.1955, Sơn thất sủng, rồi bị Nguyễn Thành Phương (lúc đó
xoay qua chống N Đ Diệm) đưa ra xử tại một phiên họp cao cấp Cao Đài
tại số 195 đường Công lư Sàig̣n, chỉ v́ Sơn đi dùng cơm với Bộ trưởng
Trần Chánh Thành, hành động coi như "đào ngũ, tư thông với địch". Ở tù
tại Bến Kéo, Tây Ninh, Hồ Hán Sơn bị trung úy N.N.V, bí thơ của tướng
Phương, hạ sát, ném thây xuống giếng. Theo Nhị Lang kể lại, năm 1961,
H M H, em ruột của Sơn, định truy tố Nguyễn Thành Phương trước Toà án,
Nhị Lang khuyên y bỏ qua nội vụ.
3- Nhị Lang, tên thật là Thái Lân, xin tị nạn tại Nam Vang cuối 1955
và chỉ trở lại VN sau vụ đảo chính 1963. Đảng viên VN Quốc Dân Đảng,
rể của Nhất Linh, ông làm cố vấn từ 1951 cho Tŕnh Minh Thế, lănh tụ
nhóm Cao Đài kháng chiến Liên Minh. Trả lời người viết, Nhị Lang cho
biết lư do phải trốn qua Cam-bốt là để tránh sự đàn áp từ một số cơ
quan chính quyền. Đặc biệt, Trần Chánh Thành và Nguyễn Ngọc Lễ đă vu
khống ông bỏ túi trên một triệu bạc cấp cho Hội đồng Cách Mạng. Có một
lần, Nhị Lang bị nhân viên cảnh sát của Trần Bá Thành chận bắt, phải
nhờ Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Thinh can thiệp mới được thả. Lư do khác
là Nhị Lang bị kẹt giữa hai lằn đạn, hai tướng Cao Đài Nguyễn Thành
Phương (Ṭa thánh Tây Ninh) và Văn Thành Cao (Liên Minh kháng chiến,
thay Tŕnh Minh Thế tử trận ngày 3.5.1955) tranh dành ngôi vị, không
v́ lư tưởng. Nhị Lang cũng đă bút chiến dai dẳng với Đỗ Mậu tại Hoa kỳ
v́ Mậu tố ông cọng tác với Sihanouk và CS Mai Văn Bộ. Theo Nhị Lang,
Sihanouk đă từ chối trục xuất ông khỏi Cam-bốt theo lời yêu cầu của Bộ
trưởng tại Phủ Tổng thống Nguyễn Hữu Châu. Năm 1970, Nhị Lang giữ vai
tṛ Tổng thơ kư trong "Ủy ban phối hợp Hành động các Chính đảng" - một
tổ chức hữu danh vô thực - để giúp cựu chủ tịch Quốc hội Trương Vĩnh
Lễ ra ứng cử Phó Tổng thống trong liên danh Nguyễn Cao Kỳ tranh với
Nguyễn Văn Thiệu và Dương Văn Minh. Một điều khó hiểu là Nhị Lang luôn
luôn ca tụng TT Diệm và Cố vấn Nhu. Cho đến ngày ông qua đời năm ngoái
ở tiểu bang Colorado.
4- Nguyễn Thành Phương, Tổng tư lệnh Cao Đài Tây Ninh, lănh tụ Việt
Nam Phục quốc Hội, được TT Diệm vinh thăng Trung tướng, v́ thế ủng hộ
mạnh mẽ Chính phủ lúc đầu. Hằng tháng, Phương lănh được một quỹ đen,
nói là để giúp quân đội Cao Đài. Ư đồ của Phương lũng đoạn chính phủ
bằng Ủy ban Chỉ đạo nóí trên quá lộ liễu nên gây ngờ vực. Sau ngày
Tŕnh Minh Thế tử trận, Phương mất chức Quốc vụ khanh và ra mặt chống
Diệm cay cú. Phương ra ứng cử Phó Tổng thống, chung liên danh với
Nguyễn Đ́nh Quát chống lại Ngô Đ́nh Diệm. Ngày 31.3.1955, khi được
biết Đức Hộ pháp Phạm Công Tắc định thay thế ông trong vai tṛ quân sự
cao nhất trong Đạo, ông quyết định ra tay trước bằng cách "quốc gia
hoá" toàn bộ Quân đội Cao Đài, giao cho Chính phủ. Mặt khác, ông phát
động một chiến dịch bôi nhọ Toà thánh Tây Ninh khiến giáo chủ Phạm
Công Tắc phải cùng với Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa qua tị nạn tại Cao Miên.
Nơi đây, P C Tắc ngả hẳn về đường lối trung lập và xây cất một thánh
thất đồ sộ, được nửa chừng th́ Sihanouk ra lệnh phải ngưng. Đức Hộ
pháp qua đời tại Nam Vang năm 1959. Sau 1975, một nhóm tín đồ vận động
đem xác về chôn tại Tây Ninh.
Với cuộc trưng cầu dân ư ngày 26.10.1955, Thủ tướng Diệm trở thành
Tổng thống. Chính quyền hạ ngón độc thủ, cho mở ngày 15.2.1956 Chiến
dịch B́nh định Miền Đông do tướng Văn Thành Cao - đối thủ của Phương -
phụ trách, với Bộ chỉ huy đặt ở Toà thánh Tây Ninh. Nguyễn Thành
Phương hoàn toàn thất sủng, bị lấy lại công thự số 195 Công Lư. Cuộc
đời chính trị cuả y chấm dứt thê thảm. Trong cảnh túng thiếu, nghèo
nàn.
5- Tŕnh Minh Thế là một anh hùng yểu số. Đêm 6.6.1951, đại tá Tham
mưu trưởng Cao Đài Tŕnh Minh Thế bất thần "thoát ly" với một số chiến
sĩ vào rừng Bưng Rồ, Tây Ninh, để lập chiến khu "chống cộng, đả thực
và bài phong". Đường lối này thích hợp với chủ trương của TT Diệm và
đắc nhân tâm hơn các giáo phái khác, phần đông thân Pháp và ủng hộ Bảo
Đại. Tuy rất trẻ - 29 tuổi - Thế có một kinh nghiệm khá vững về du
kích chiến nhờ được Nhật huấn luyện. Ngày 20.8.1951, một Hội nghị đại
biểu nhóm tại G̣ Ngải và cho ra đời "Mặt trận Quốc gia Kháng chiến VN".
Quân đội Quốc gia Liên Minh lập hai chiến khu ở Núi Bà Đen và Bù Lu.
Mau chóng, tổ chức này gây tiếng vang nhờ tài lănh đạo của Thế. Tŕnh
Minh Thế sinh năm 1922 tại quận G̣ Dầu, Tây Ninh, trong một gia đ́nh
nông dân, học lực chỉ đến mức primaire nhưng rất thông minh và yêu
nước nồng cháy. Toà thánh Tây Ninh và tướng Nguyễn Văn Thành, Tổng tư
lệnh Quân đội Cao Đài, gây khó cho tập thể Liên Minh bằng cách phong
toả lương thực và cho tảo thanh trừng phạt nhiều phen.
Ba thành tích làm cho trùm CIA Edward Lansdale chú ư đến Thế: vụ cho
bom nổ chậm trước nhà Hát Tây Saigon, vụ mưu sát tướng Pháp Chanson và
Thủ hiến Thái Lập Thành tại Sadec và vụ bắt cóc Trần Quang Vinh (thân
Pháp, thân Bảo Đại) mà Đức Hộ pháp Phạm Công Tắc định bổ nhiệm để thay
thế tướng Nguyễn Văn Thành. Sau nhiều lần viếng thăm chiến khu Liên
Minh, Lansdale móc nối cho cố vấn Ngô Đ́nh Nhu tiếp xúc thẳng với Thế.
Hoa kỳ đầu tư chính trị vào Liên Minh.
Ngày 31.1.1955, Thủ tướng Diệm đích thân đến Ḷ G̣, Tây Ninh, gần căn
cứ Bầu Gơ của Liên Minh, mời Thế về hợp tác theo những điều kiện thỏa
thuận giữa Nhu và Thế. Ngày 13.2.1955, một buổi lễ long trọng được tổ
chức tại đại lộ Nguyễn Huệ Sàigon, trước sự hiện diện của đầy đủ ngoại
giao đoàn, để trên 8.000 quân Liên Minh gia nhập Quân đội Quốc gia.
Thế nhận từ tay Thủ tướng mũ nón và ngôi sao Thiếu tướng. Trước ngày
về hợp tác, Thế làm một cú ngoạn mục gọi là quà sơ kiến, một món quà
có lẽ làm hai ông Diệm, Nhu khá bỡ ngỡ: bắt giữ (và thu âm lén) Bs
Phạm Hữu Chương, Tổng trưởng Xă hội, v́ Chương thừa dịp viếng Tây Ninh,
đến quyến rũ Thế bắt tay với Pháp. Hai nhân vật nhờ móc nối với Tŕnh
Minh Thế mà được bổ nhiệm vào Nội các là Huỳnh Hữu Nghĩa (Lao động) và
Lê Văn Đồng (Canh Nông).
Ngày 28.3.1955, đáp lời mời của Tổng thống Nam Dương Soekarno, Chính
phủ cử Tổng trưởng Kế hoạch Nguyễn Văn Thoại, cựu giáo sư Collège de
France, hướng dẫn một phái đoàn dự Hội nghỉ Á Phi tại Bandung. Có đủ
mặt lănh tụ: Nehru, Chu Ân Lai, Nasser, Sihanouk, Abdul Rhaman..v..v..
T M Thế xin phép tháp tùng, TT Diệm nể t́nh chấp nhận. Cánh Nguyễn
Thành Phương gởi Hồ Hán Sơn làm quan sát viên. Tại Bandung, Thế và Sơn
tự ư - không bàn trước nội dung với trưởng phái đoàn - thảo một "Tờ
Hịch" bằng Anh ngữ tố cáo Xă hội chủ nghiă. Thế đích thân ôm đi phát
cho các phái đoàn trong lúc trên bục, đại diện các nước trung lập thao
thao đề cao "5 nguyên tắc sống chung hoà b́nh." Theo Trần Văn Đôn (VN
Nhân chứng, trang 132), Nguyễn Văn Thoại đă kư vào bản tuyên cáo chủ
trương phi liên kết. Ngày 10.5.1955, TT Diệm cải tổ Nội các, Nguyễn
Văn Thoại bay chức.
Uy danh của tướng Thế qua mặt Tổng tham mưu trưởng Lê Văn Tỵ và trung
tá Quân trấn trưởng Dương Văn Minh, thấy rơ. Bởi thế, phần đông sĩ
quan trong Quân đội lúc đó - do Pháp để lại - không khỏi xầm x́ ganh
tị. Cũng trong thời gian này, Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia (gồm
có Cao Đài, Hoà Hảo, B́nh Xuyên, Liên Minh và Dân Xă của tướng Lê
Quang Vinh) kư chung một bản tuyên ngôn đoàn kết và cử phái đoàn trao
cho Thủ tướng Diệm một tối hậu thư buộc phải cải tổ ngày 2 tháng 5 là
thời hạn chót. Được Mỹ ủng hộ âm thầm, ông Diệm từ chối. Để cứu Chính
phủ, tướng Thế họp báo tuyên bố Liên Minh rút khỏi Mặt trận. Bảy Viễn
bắt đầu cho pháo kích Dinh Độc Lập. Mọi việc diễn tiến mau lẹ ngày
29.4.1955 như ghi trên. Ngày 3.5.1955, bất ngờ Thủ tướng Diệm cử Thế
tấn công B́nh Xuyên, dù ông dư biết mối giao hảo cá nhân tốt giữa hai
bên. Phải chăng để thử ḷng? Một thâm mưu? Tướng Thế nhận sự bổ nhiệm
đầu tiên này.
Theo Nhị Lang kể lại: Đúng 7 giờ chiều ngày 3 tháng 5, Thế mất trong
lúc ông đích thân đứng trên chiếc quân xa đi đầu để chỉ huy lính Liên
Minh tiến qua cầu Tân Thuận, phiá Nam Sàig̣n. Một viên đạn carbine duy
nhất bắn rất gần vào lỗ tai bên phải xuyên qua mắt trái. Thế chết tức
tốc. Người bắn viên đạn núp dưới chân cầu không thể cách xa mục tiêu
hơn 10 thước. Khi đem xác về căn gác nhỏ ở đường Trương Minh Giảng th́
tṛng mắt và hàm răng giả của tướng Thế đă bay mất. Thủ tướng Diệm và
cố vấn Nhu đ̣i đến thăm liền. Nhị Lang đề nghị đợi đến hôm sau v́ lư
do an ninh. Tờ mờ sáng ngày 4.5.1955, hai ông Diệm, Nhu đến. Tháp tùng
có tướng Tỵ, toàn thể Nội các và Bộ Tham mưu. Thủ tướng đầm đià nước
mắt, ôm gh́ thi hài tướng Thế và ngất xiủ. Ông Nhu th́ quỳ bên giường,
nắm tay người chết, vừa kêu than ai oán "Anh Thế ơi". Chính phủ vinh
thăng T M Thế lên trung tướng và tổ chức lễ quốc táng ngày 6 tháng 5.
Thế có mặt tại Sàig̣n vỏn vẹn 80 ngày. Đại tá Văn Thành Cao, tay mặt
của Thế, thăng cấp thiếu tướng. Lúc Thế tử trận, Cao về Đồng Tháp Mười
để kiếm thêm viện binh Liên Minh v́ Thế không dùng lính quốc gia, theo
lời Nhị Lang.
Về cái chết của tướng Thế, có nhiều giả thuyết: Sau 1975, cựu trùm Đệ
nhị pḥng Savani viết một bài thú nhận đă chủ mưu giết Thế để trả thù
các tội ác chống Pháp. Nhị Lang, trong Hồi kư, th́ quy trách cho Mai
Hữu Xuân và cực lực phản bác tin đồn vô căn cứ là do lệnh của ông Nhu,
để trừ hậu hoạn. Trong nhiều đọan của hồi kư, trang 395 và tiếp theo,
Nhị Lang than phiền Văn Thành Cao bỏ rơi Liên Minh để thụ hưởng, khiến
cho một số sĩ quan của Thế trở vào bưng biền đầu tháng 9.1955 v́ cho
rằng chính quyền Diệm không thi hành các cam kết ngày 31.1.1955 tại Ḷ
G̣. Có lẽ v́ sự bất măn đó, họ phao đồn Cao có liên hệ đến vụ bắn Thế.
Cuối 1956, Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu có trao cho người viết (phụ trách Bộ
Nội vụ) một hồ sơ tố Cao dự trữ vơ khí riêng. Tướng Cao có giải thích
với người viết đây chỉ là một việc tư thù. Nội vụ được xếp. Cao là sĩ
quan mang danh hiệu Liên Minh duy nhất được Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hoà
trọng dụng trong nhiều chức vụ (kể cả Đại biểu Chính phủ Miền Đông năm
1960, Ủy ban Lănh đạo Quốc gia thời N V Thiệu, Pḥng nghiên cứu du
kích chiến, Bộ Tổng Tham Mưu..v..v..). Sau 1975, ông bị đi cải tạo
trên mười năm. Ông là một người thân tín của cố Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu.
Năm 1999, qua sự giới thiệu của cựu đại tá Cao Đài Đặng Quang Dương,
hiện ở Dallas, nay trên 90 tuổi, cấp chỉ huy cũ của Thế và Cao, người
viết gặp tại Orange County bà quả phụ Tŕnh Minh Thế nhủ danh Nguyễn
Thị Kim (hiện ở Calgary, Canada) và đặt câu hỏi. Bà Thế không đồng ư
với Nhị Lang và có vẻ ấm ức nhiều chuyện. Cái chết của tướng Thế c̣n
có ẩn khúc. Đặc biệt, tướng Lansdale, trong hồi kư, cũng không quy
trách rơ ràng cho ai cả. Thời Đệ nhị Cộng hoà, ông có trở qua VN, đứng
chủ hôn cho Tŕnh Minh Nhựt, trưởng nam của Thế, cưới vợ.
Cuộc trưng cầu dân ư ngày
26.10.1955
Quyết nghị
ngày 29.4.1955 của Hội đồng Nhân Dân Cách Mạng khiến Thủ tướng Diệm
không thể tránh tổ chức Trưng cầu Dân ư, dù muốn hay không. Trong thâm
tâm, là một quan lại của Triều đ́nh, ông Diệm bảo hoàng và rất lo ngại
phạm tội khi quân (crime de lèse majesté). Nếu không bị Bảo Đại lấn ép
quá đáng, ông không bao giờ có thái độ phạm thượng. Cố vấn Nhu, vốn
không có cảm t́nh với chế độ quân chủ, dứt khoát hơn. Vấn đề là chụp
thời cơ, đừng để quyền lực vuột khỏi tầm tay, chận các khuynh hướng
quá khích - phiá quốc gia cũng như giáo phái đối lập - khuynh đảo
chính phủ. Trong t́nh thế nguy kịch, gần như tuyệt vọng, Ông Diệm rất
cần sự ủng hộ của thực lực Tŕnh Minh Thế, được Lansdale bảo đảm,
nhưng ông cũng biết Thế là một con dao hai lưỡi, một con ngựa bất kham,
có nhiều cao vọng. Thế đă cố gắng thuyết phục ông Nhu - nhưng thất bại
- vượt Bến Hải, chiếm hai tỉnh địa đầu Bắc Việt lập cái thế quân b́nh.
Thế tánh t́nh bộc trực, ngang tàng, độc lập. Thế có đầu óc chính trị,
tuy hợp tác với Chính phủ nhưng vẫn giữ mối giao hảo thân t́nh với Năm
Lửa, Bảy Viển và đặc biệt Ba Cụt. Có lần Lê Quang Vinh và vợ là Cao
Thị Nguyệt vào chiến khu thăm Thế, hai bên có vẻ tâm đầu ư hợp. Nhị
Lang kể lại trong hồi kư, trang180: Trước khi ra về, Ba Cụt nói với
Thế: "Miền Đông có anh, Miền Tây có tôi, chúng ta sợ ǵ lũ cộng sản?"
Tuy nhiên, theo gót "thầy dùi"
Lansdale,
vai tṛ king maker của Thế lộ liễu quá sớm. Điều này không khỏi làm
Ngô Đ́nh Nhu suy nghĩ.
NẾU (người viết nhấn mạnh vào chữ nếu) Thế dẹp được B́nh Xuyên năm
1955- một bài toán t́nh cảm đối Thế - và NẾU Ba Cụt không bị xử tử
năm1956 th́ chuyện ǵ xảy ra? Tŕnh Minh Thế sẽ lên thế Tổng tham mưu
trưởng Lê Văn Tỵ? Bao lâu, TT Diệm (và ông Nhu) có thể kiểm soát một
Tŕnh Minh Thế ngang tàng và một Lê Quang Vinh ngang ngược trên con
đường phản lọan? nhất là từ 1960 Hoa kỳ bắt đầu bỏ rơi chế độ Diệm?
Hoa kỳ sẽ dùng Thế và Vinh chống Diệm cách nào? Đó là bi kịch của Miền
Nam VN.
Lịch sử sẽ không thể phủ nhận nhóm Tŕnh Minh Thế đă đóng một vai tṛ
quyết đinh chuyển Miền Nam VN từ thời đại quân vương qua chế độ dân
chủ. Nền Đệ nhất Cộng hoà khó thể ra đời sớm nếu thời cuộc không diễn
tiến bất ngờ như trên, ngoài mọi ức đoán của cả Thủ tướng Ngô Đ́nh
Diệm và Hoàng đế Bảo Đại. Lịch sử cũng không thể quên cố vấn Ngô Đ́nh
Nhu là một nhà mưu lược thượng thặng, trong cả hai nghĩa tốt và không
tốt.
Trong VN Nhân Chứng, trang 133, Trần Văn Đôn viết: Theo ông Nhu kể lại,
trước ngày trưng cầu dân ư, TT Diệm tự tay viết một là thư dài giải
thích t́nh h́nh và mời Bảo Đại về nước lănh đạo nhưng Cựu hoàng đ̣i
một triệu mỹ kim. Trong Le Dragon D'Annam, trang 342, Bảo Đại cho biết
ông không đồng ư lập một chính phủ lưu vong, không chịu "dấn thân vào
một cuộc phiêu lưu mới" và phủ nhận chính sách Ngô Đ́nh Diệm. Cựu chủ
tịch Quốc Hội Trương Vĩnh Lễ nhận xét nơi trang 30 của hồi kư "VN, Où
est la Vérité?" (nxb Lavauzelle, Paris 1989): Trên phiếu, dân chúng có
thể chọn trả lời một trong hai câu hỏi: 1) tôi truất phế Bảo Đại và
chọn N Đ Diệm như Tổng thống VN với sứ mạng lập một thể chế cộng hoà
hay 2) tôi không truất phế bảo Đại và không công nhận N Đ Diệm như
Tổng thống để thành lập thể chế cộng hoà. Kết quả: ông Diệm thắng
98.2%. Tỷ lệ này có vẻ không hoàn toàn trung thực, dù quần chúng mến
mộ nhiệt t́nh ông Diệm lúc đó.
Bầu Quốc hội Lập hiến (tháng
3.1956) và ban hành Hiến pháp Đệ nhất Cộng hoà (ngày 26.10.1956)
Quốc hội Lập
hiến gồm có 134 dân biểu thuộc bốn đảng thân chính phủ, không có đối
lập. Ủy ban soạn thảo Hiến pháp gồm có Trần Văn Lắm (chủ tịch), Trần
Chánh Thành, Trần Trung Dung, Vũ Quốc Thông và Trương Vĩnh Lễ. Hiến
pháp phỏng theo các hiến pháp Hoa kỳ và Pháp. Phủ Tổng Thống đề nghị
tu chính một số điều khoản, Quốc hội chấp thuận. Việt
Nam
là một nước Cộng Hoà theo thể chế độc viện, có một Tổng thống và Phó
Tổng thống cử theo lối phổ thông đầu phiếu. Hiến pháp không chấp nhận
một người có thể nắm giữ hai chức Hành pháp và Lập pháp. Không có điều
khoản nào cho phép truất phế, impeach, khi Tổng thống phạm trọng tội.
Ngày 26.10.1956 ban hành Hiến pháp được chọn làm Ngày Quốc khánh. Trần
Văn Lắm và Vũ Quốc Thông là chủ tịch và phó chủ tịch đầu tiên của Quốc
hội.
Uy quyền của Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm mỗi ngày thêm vững, ít nữa cho
đến cuối 1960. Ngày 20.7.1955, Chính phủ Diệm tuyên bố không chấp nhận
chuẩn bị tổng tuyển cử qui định bởi Hiệp ước Genève. Với sự cộng tác
của Bộ Nội vụ do người viết phụ trách, Hội đồng Nhân Dân Cách mạng tổ
chức một cuộc biểu t́nh vĩ đại để đuổi về Bắc phái đoàn Văn Tiến Dũng
trong Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đ́nh chiến (gồm có Ba Lan và Ấn độ).
Văn pḥng đại diện CS đặt tại khách sạn Majestic, Bến Bạch Đằng.
Majestic bị phóng hoả, gây thiệt hại trên 5 triệu bạc, cũng như một
khách sạn khác mang tên Galliéni ở đường Trần Hưng Đạo. Văn Tiến Dũng
và các đồng chí thoát thân về trại của chúng ở Gia Định, bên cạnh nhà
thương Nguyễn Văn Học. Nhiều ngày liên tiếp, đồng bào di cư, sinh viên,
học sinh cô lập họ bằng những lời chửi rủa thậm tệ. Điện, nước, lương
thực bị cúp hoàn toàn. Cuối cùng Ủy Hội liên lạc với chính phủ xin bảo
đảm cho phái đoàn Bắc Việt rời Sàig̣n. Tổng Nha Cảnh sát/Công An cho
những chiếc xe nhà binh bít bùng chở chúng lúc trời hừng sáng đến Tân
Sơn Nhứt dưới sự đả đảo vang dậy của quần chúng. Tác giả bài này đích
thân đến phi trường kiểm soát mọi thủ tục. Vào lúc máy bay Ủy hội sắp
cất cánh, một sĩ quan CS hốc hác, đầu đội nón cối, không mang phù hiệu,
bước đến chào người viết theo lối nhà binh, tự xưng là thiếu tá Văn
Tiến Dũng. Y tỏ lời cám ơn giúp phái đ̣an ra đi trong trật tự.
Kết luận
Năm chục năm thấm thoát trôi qua. Dở lại những trang sử cũ, ḷng buồn
vô hạn. Chính trị đă đẩy xứ sở xuống đến tận đáy vực của tang tóc và
chia rẽ, nhân danh một cuộc chiến tương tàn do Đế quốc giựt dây. Đất
nước đă thí nghiệm đau đớn nhiều thể chế: Quân chủ, Dân chủ và Xă hội
chủ nghĩa. Đến nay, vẫn chưa t́m ra đáp số cho các vấn đề Chậm tiến,
Tự Do và Thống Nhất. VN vẫn là một con thuyền say, trôi dạt không bờ,
không bến. Nhóm cầm quyền ở Hànội vẫn bịt mắt trước cảnh khổ nhục của
Việt Nam. Chừng nào họ mới thức tỉnh?
LÂM LỄ TRINH
Thủy Hoa Trang
Ngày 9.10. 2005
|