|
Ḥa b́nh theo Lăo học |
Nguyễn Đăng Trúc Strasbourg |
Đạo nơi Khổng gần người, nhưng người không thấy. Đạo nơi Lăo khác xa nếp sống, khác xa bước đi của con người trong thực tế trước mắt, mặc dầu Đạo gắn liền với chân tính thâm sâu của con người. Hai cách nói khác nhau nhưng đều gợi lên tương quan kỳ bí giữa Đạo và người. Qua lịch sử tiếp cận hai luồng văn hóa nầy trong các cộng đồng dân tộc, trong những xă hội và chế độ chính trị khác nhau qua các triều đại, người ta chứng kiến rằng phần lớn dân chúng, và nhất là những lớp khoa bảng trường ốc học Đạo để làm quan, làm đạo sĩ, để tu tiên v.v. lại thường đồng hóa Đạo với một cái ǵ đó trong muôn ngàn vật thể mà con người định vị được, nên tân-nho và tân-lăo (cũng có thể gọi là hủ nho và quái lăo) đă : - hoặc đồng hóa Đạo với lễ nghi, khuôn phép bên ngoài, - hoặc với việc trốn đời t́m kiếm các phương thức ma thuật, phù phép. Nếu Nho học thường được hiểu là một lối cai trị quân chủ với những lễ nghi khắt khe, rườm rà, th́ Lăo học thường được mơ hồ biết đến như một phương thuật thần thông, nặng phần mê tín. Nhưng cũng như phần tŕnh bày trên đây về ảnh hưởng của Nho học nơi văn hóa Việt Nam, chúng ta đă chứng kiến tinh thần Đạo học thấm nhập vào cuộc sống hằng ngày và tâm thức của người dân Việt. Sách Trung Dung, chương đầu, đă nhắc nhở rằng Đạo rất ẩn kín, quá sức hiểu biết của con người, nên ngay bậc quân tử cũng phải khiêm cung cẩn trọng. Đạo đó là điều mà mọi người phải thi hành, là nghĩa cuộc đời làm người, nhưng không ai, không tâm nào của con người bằng xương bằng thịt (= nhân tâm duy nguy), không một chủ thuyết, chế độ nào trong trần thế nay c̣n mai mất nầy được tự đồng hóa ḿnh với Đạo cả. Mẫu mực thời Nghiêu Thuấn là “vườn Eden” của huyền thoại, là h́nh ảnh biểu tượng của tiếng nói lương tâm ẩn kín, là Đại Kư Ức. Thực tế lịch sử đang xảy ra, và ngay cả thực tế của mỗi đời sống con người chúng ta, là thực tế xa Đạo. Tệ hại hơn nữa là v́ con người lịch sử đă chuyển Đạo siêu việt thành dụng cụ cho ư muốn của”nhân tâm duy nguy”, tác oai tác quái làm nên những “đạo” giả tạo theo ư ḿnh, rập khuôn theo quyền lợi, theo ư hệ của phe ḿnh.. Thiên hạ loạn không phải v́ không nói đến Đạo, nhưng nói quá nhiều về Đạo, và đạo đó lại là “thần tượng” mỗi người, mỗi thời theo ḷng dục của ḿnh khắc đẽo ra. Trước thực trạng đó Lăo Tử khẳng định có Đạo Thường, nhưng không ai là người làm ra được; có một Danh Thường, nhưng không ai nhân danh Đạo đó để nói hết ư nghĩa được. Đạo mà con người có thể đi được, không phải Đạo Thường; Danh mà con người gọi được, không phải Danh Thường. [1] Cái ǵ có thể là “Thường” được, là măi măi tồn tại được trong thân phận có đó rồi mất đó nơi con người ở dương thế! V́ thế, nơi dương gian nầy, điều mà con người cho rằng ḿnh tự đủ sức định được là tốt, là xấu, th́ tốt, xấu đó cũng tương đối, nghĩa là không có nền tảng nơi chân lư thường hằng. Khi đọc những câu sau đây của sách Lăo Tử, ta thấy một h́nh ảnh gần gũi với nghiệp làm người của Adam và Eva khi muốn tự ḿnh phân biệt tốt xấu. Nơi dương thế, Những điều người ta cho là đẹp (và) lấy đó làm Đẹp, nghĩ như thế là xấu rồi; Những điều người ta cho là tốt (và) lấy đó là Tốt, nghĩ như thế là không tốt rồi. [2] Nên việc ưu tiên phải làm để trở nên người chân thật nơi dương thế là ngưng đừng “làm” nữa. (= vô vi): Vậy nên người thánh, lấy “không làm” mà xử sự [3] “Không làm” = “vô vi” đă được nhiều người hiểu là rút lui thế sự, không làm ǵ cả. Nhưng Lăo Tử có nói vậy không? Ở chương 48 sách Lăo Tử viết: Không làm mà không phải không làm, Trị yên thiên hạ luôn theo đường lối không làm [4] Lối nói ngược đời nầy gợi lên t́nh trạng đảo điên của Tháp Babel, khi lời nói là tương quan giữa người vơiù nhau đă bị lạm dụng, bị xuyên tạc do t́nh trạng không biết đến Đạo. Trước hết, “vi” là “làm” như con người đang làm theo hậu ư của ḿnh. “Làm” ở đây là tự ư làm ra Đạo, do ḿnh và cho ḿnh. Con người làm nên lịch sử ḿnh với hậu ư là lịch sử đó làm nên bản tính ḿnh. Đạo Thường đă bị phế bỏ v́ cái làm nầy. Nên tiên khởi phải triệt hạ cái “làm tác quái như thế”. Ngôn ngữ Kitô giáo gọi “vô vi” nầy là “chết đi con người cũ”. “Vô vi” là ngưng ư đồ “ta làm nên ta” để trở lại cái Thanh Tịnh, nguyên sơ lúc ban đầu của Đạo. Trở về gốc gọi là Thanh Tịnh, ấy gọi là ‘Phục Mạng’ Phục mạng gọi là Thường Biết Thường gọi là Minh Không biết Đạo Thường mà mơ mộng hăo huyền th́ gây hung bạo. Biết Đạo Thường th́ bao dung Bao dung th́ công b́nhCông b́nh th́ biết đạo vương Đạo vương là đạo trờiTrời là Đạo... [5] Nói cách khác, Khổng đề nghị nên làm điều phải làm đó là tiến về “thái ḥa”, nghĩa là từng bước đem Đạo siêu việt vào đời. C̣n Lăo th́ nói ngược lại, dứt điểm thoát ra khỏi “thế giới vô đạo do do ḿnh làm ra” th́ thấy ngay Đạo; và bấy giờ một cảnh vực của Đạo mở ra. “Làm” là làm với Đạo, đó là thái ḥa. Khổng cho rằng “Đạo = điều phải làm” ngay cả Nghiêu Thuấn cũng bất cập. C̣n Lăo th́ lấy thánh nhân làm mẫu mực cho con đường “vô vi”, nhưng thánh nhân đó như là một kẻ xa xưa của một thế giới vườn Eden, c̣n sót lại nơi Đại kư ức. Nên người thánh nhân, Để thân ra sau, mà thân ở trước; Để thân ra ngoài, mà thân đựơc c̣n. Thánh nhân đó cũng là: Đời xưa, người tốt thi hành Đạo... [6] Nếu Khổng nhắc nhở cho kẻ kiến tạo ḥa b́nh về “nghĩa” (nghĩa là tích cực làm cái phải làm trong khiêm tốn), th́ Lăo lưu ư cho kẻ kiến tạo ḥa b́nh phải dừng chân; phải từ khước thực trạng mê lầm, cố chấp của xă hội; và phải hướng hành động của ḿnh kết hợp với Đạo để sống một thế giới vị tha, quên ḿnh. Khổng cho thấy “ḥa” thật sự không có nơi dương gian một cách trọn đầy, nhưng là nỗ lực con người từng bước xây đắp và hy vọng. C̣n Lăo th́ nói đến một ḥa b́nh trọn đầy khi con người theo đạo vô vi, nhưng đạo đó chỉ vang vọng như một Đại Kư Ức. Điều con người phải làm để hy vọng được cảnh Thái Ḥa đó trước tiên là “hủy bỏ thế giới tăm tối trước mắt”. Cuộc sống con người và xă hội đang bịnh, việc đầu tiên là trị liệu. Tự căn, không phải có hai Đạo nơi Khổng và Lăo, nhưng trước thực trạng của con người, xă hội và lịch sử của nó, mỗi vị nhấn mạnh đến điều phải làm và điều phải bỏ để tiến gần đến Đạo. V́ ảnh hưởng ưu thắng của Nho học trong bối cảnh điều hành xă hội, người ta thường nhắc đến Lăo học và thuyết “vô vi” qua h́nh ảnh của kẻ cao ngạo, không tin Trời Đất, đạp bằng mọi giá trị luân thường, hoài nghi các giá trị tốt xấu, và c̣n tệ hơn nữa là ghép Lăo học vào giới làm bùa, làm phép, mê tín dị đoan. Tiền kiến đó không những ở trong dân gian, nhưng ảnh hưởng cả giới thức giă. Trong cuốn ‘Việt Nam văn hóa sử cương’ của học giả Đào duy Anh, khi nói đến ảnh hưởng của Lăo học trong cuộc sống người Việt, tác giả viết: Những điều mê tín thuộc về đạo giáo vốn có từ đời cổ... Ngài (Lăo Tử) đă không tin trời cho nên mới nêu ra một cái gọi là ‘đạo’...[7] Và “Đạo”, nguồn chân lư ẩn kín được hiểu như là biểu tượng của tâm thức tiêu cực triệt để, không tin có chân lư nào cả, đêm đen huyền hoặc của t́nh trạng mất trí, quên lăng trong men rượu. Ba vạn sáu ngh́n ngày là mấy, Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười, Thôi công đâu chuốc lấy sự đời, Tiêu khiển một vài chuông lếu láo...[8] Những hiện tượng nổi bật đó như trái ngược với ảnh hưởng bàng bạc, tự nhiên của dân chúng. Dân chúng không mấy khi được đọc đến các tác phẩm như Lăo Tử, Nam Hoa Kinh…, nhưng sống tinh thần thanh thản và rất thức tỉnh trước những giới hạn của những cái hay cái dở của xă hội, lịch sử. Tinh thần đó ngược lại với thái độ phản kháng, nóng nảy, bạo động và cố chấp. Nói cách khác, kiến tạo ḥa b́nh trên trần thế qua Nho học và Lăo học không phải là “xuất” hay “nhập” cứng nhắc một chiều, nhưng xuất và nhập theo thời của Đạo, là con đường chân thật để con người thực hiện Đạo ở đời, và đưa đời về với Đạo. Điểm đáng lưu ư là hai học thuyết Nho Lăo tiêu biểu cho tinh thần lạc quan, hay có thể nói là niềm hy vọng hầu như không giải thích được về thân phận con người trong tương quan với chân lư, trong nỗ lực kiến tạo ḥa b́nh. Trong Luận ngữ, Khổng Tử nói: Điều nhân có ở xa đâu? Ta muốn nhân, hăy nghĩ là điều nhân đến rồi vậy![9] Hẳn nhiên đây không có nghĩa là tùy ta muốn nhân mang ư nghĩa nào, là đó cũng thật sự là nhân. Nhưng sự thật sẵn sàng đến với con người, khi con người thành tâm t́m sự thật. Tuy vậy, trong thiên hạ kẻ nói được “ngă dục nhân” cũng hiếm hoi, hơn thế nữa dường như « dục » nầy là từ Đạo mà đến chứ không do ư muốn riêng hay tài sức ǵ nơi cá nhân ấy ! Có lần Khổng Tử như muốn nói đến sứ mạng trời sai khiến[10]: Khổng Tử nói: ‘Không ai hiểu cho ta cả!’ Từ Cống hỏi: ‘ Sao lại không có người hiểu thầy?’ Khổng Tử đáp: ‘ Ta không oán trời, không trách người, Ta học nơi việc người để đạt đạo trời; biết ta chỉ có trời chăng? [11] Lăo Tử cũng nói tương tự như thế: Lời ta dễ hiểu, dễ thực hành, Thế mà thiên hạ không hiểu, không làm. Lời ta có gốc, việc ta có chữ. Thiên hạ không hiểu việc đó, nên không hiểu ta [12] Ở đây, không có mặc khải rơ rệt như nơi lịch sử Israel về Một Thiên Chúa trao một sứ mạng cho một tiên tri, nhưng qua hai lời trích dẫn nầy, ta thấy Chân lư không thể gọi tên, Đạo không do con người làm ra luôn rộng mở cho kẻ khao khát và thực thi. Hơn thế nữa, nơi Lăo học không những Đạo đón người trở về mà c̣n miễn xá lỗi lầm quá khứ : Noi theo Đạo, Đạo làm ta ở trong Đạo, Ở trong Đạo, th́ Đạo vui tiếp đó. Người xưa sở dĩ quí Đạo ấy là tại sao? Không ngày nào họ không cầu cho được, Cho nên có tội cũng được miễn, hay sao? [13] Người xưa (cổ chi) không phải là đă có một thời như thế trên cơi đời nầy, nhưng là thời phải đến của Đạo mà đời hiện tại của lịch sử che khuất. Thời xa xưa đó cũng là chỗ phải quay về, mà ngôn ngữ ngày nay gọi là cứu cánh của lịch sử, thời chung măn của thân phận con người. Lăo Tử dùng lối nói, gần như lối nói của Do thái giáo và Kitô giáo: “Vô vi” là chết đi người cũ để thấy và sống trời mới đất mới của Đạo, cảnh thái ḥa. Đi ra cái sống, đi vào cái chết... Ai biết cái đạo nhiếp sinh đó, Đi đường không gặp thú dữ, Vào trận không bị đao thương, Tê không chỗ đâm Cọp không chỗ vấu. Đao không chỗ phạm. [14] Ở chương 55 Lăo Tử c̣n viết: Kẻ sống sức mạnh của Đạo Như con trẻ c̣n thơ Đội tùy không cắnThú dử không ăn, Ác điểu không xớt. [15] Và lạ thay trước đó khoảng 100 năm, nơi đất Israel tiên tri Isaia cũng đầy Thánh Thần để nói với con người những lời về ḥa b́nh tương tự: V́ Ta (Giavê) đă gọi, nhưng các ngươi đă không nghe, Ta nói nhưng các ngươi không lắng nghe, Các ngươi đă làm điều Ta xem là ác, Các ngươi t́m hoan lạc nơi việc Ta không ưa... Ai ao ước được Chúa chúc lành dưới đất th́ cũng muốn được chúc lành bởi Thiên Chúa chân lư... V́ tội lỗi xưa Ta sẽ quên và mắt Ta không c̣n nh́n đến. V́ Ta sẽ tạo một trời mới và một đất mới, và người ta không c̣n nhớ đến quá khứ nữa, Không để tâm đến nó nữa... Chó sói và chiên con sẽ gặm cỏ chung, sư tử sẽ ăn rơm như ḅ và rắn sẽ ăn đất bụi. (Isaia, 65, 12; 16-17; 25) [1] “Đạo khả đạo, phi Thường Đạo; Danh khả Danh, phi Thường Danh.” (Lăo Tử, Chương 1) [2] “Thiên hạ, Giai tri mỹ chi vi mỹ, tư ác dĩ; Giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ.” (Lăo Tử, ch. II) [3] “Thi dĩ thánh nhân, xử vô vi chi sự.” (Lăo Tử, chương II) [4] “Vô vi nhi vô bất vi, Thủ thiên hạ thường dĩ vô sự.” [5] “Quy căn viết Tịnh ; Thị vị viết Phục Mạng Phục Mạng viết Thường ; Tri thường viết Minh, Bất tri thường, vong tác hung;Tri thường Dung, Dung năi Công ; Công năi Vương Vương năi Thiên ; Thiên năi Đạo.” (Lăo Tử, Chương 16) [6] “Thị dĩ thánh nhân, Hậu kỳ thân nhi thân tiên; Ngoại kỳ thân nhi thân tồn.” (Lăo Tử , ch. 7) “Cổ chi thiện vi Đạo giă... ” (Lăo Tử, ch. 65) [7] Đào Duy Anh. Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, Quan Hải Tùng Thư, 1983, tr. 24. [8] Thơ của Cao Bá Quát, trích trong, Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển, Dương Quảng Hàm Trung Tâm Học Liệu, Bộc Quốc Gia Giáo Dục, 1968, tr. 139. [9] Nhân viễn hồ tai ! Ngă dục nhân, tri nhân chí hỷ ! (Luận ngữ, Thuật nhi VII,29) [10] Không khác ǵ Sorcrate nói đến thần ở trong ḷng ông, buộc ông nói; cũng như các tiên tri trong Cựu Ước và sứ mạng truyền lịnh của Thiên Chúa cho dân [11] Tử viết: ‘Mạc ngă tri dă phù!’ Từ Cống viết: ‘Hà vi kỳ mục tri tử dă!’ Tử viết: Bất oán thiên, bất vưu nhân, hạ học nhi thượng đạt; tri ngữ giă kỳ thiên hồ?” (Luận ngữ, Hiến vấn III, 37) [12] “Ngô ngôn thậm dị tri, thậm dị hành. Thiên hạ mặc năng tri, mặc năng hành. Ngôn hữu tông, sự hữu quân. Phù duy vô tri, thị dĩ bất ngă tri.” (Lăo Tử Ch. 70) [13] “Tùng sự ư Đạo giă ; Đạo giă đồng ư Đạo Đồng ư đạo giă ; Đạo dực lạc đắc chi » ; « Cố chi sở dĩ quí thử Đạo giă hà? Bất nhật dĩ cầu đắc. Hữu tội dĩ miễn da? » (Lăo Tử, .” chương 23) [14] “Xuất sanh nhập tử... Cái văn thiện nhiếp sinh giă ; Lục hành bất ngộ tỷ hổ Nhập quân bất bị giáp binh ; Tỷ vô sở đầu kỳ giác, Hổ vô sở thố kỳ trảo ; Binh vô sở dung kỳ nhẫn” (Lăo Tử Ch. 50) [15] “Hàm Đức chi hậu ; Tỷ ư xích tử ;Đội tùy bất thích ;Mảnh thú bất cứ ; Cược điểu bất bác.” ” (Lăo Tử ch. 55)
|