Nh́n lại những năm Tư trong lịch sử

 
 

 Nguyễn Lư-Tưởng

 

 

     Sách Kinh Dịch, một tác phẩm do Khổng Tử san định cách nay vào khoảng 2500 năm, trong đó thu nhặt những tư tưởng của người Trung Hoa về vũ trụ quan và nhân sinh quan được phổ biến lâu đời trước Khổng Tử, có viết rằng: “Thiên sinh ư Tư, Địa tịch ư Sửu, Nhân sinh ư Dần” Thiên (Trời), Địa (Đất) và Nhân (Người) là ba yếu tố chính của vũ trụ, gọi là Tam Tài. Trời sinh ra từ Tư (Tư là giờ khởi đầu của một ngày, cũng là năm khởi đầu của một Giáp (12 năm: Tư, Sửu, Dần, Măo...) Trời là khởi đầu của mọi sự, mọi loài, mọi vật. Trời ở đây không phải là bầu khí quyển bao bọc chung quanh quả đất, mà là một ngôi vị, một Đấng thiêng liêng, Đấng Tạo Hóa, Đấng an bài mọi sự trong vũ trụ. Những câu trong sách Trung Dung như: “Thiên mệnh chi vị tính” (Tính là do Trời ban cho), “Đạo xuất ư Thiên” (Đạo từ Trời mà ra), “úy Thiên” (sợ Trời), “duy Thiên vi đại” (chỉ có Trời là lớn hơn cả), “Thiên vơng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” (Lưới Trời lồng lộng, thưa mà chẳng lọt),v.v. đều nói về một Đấng Tối Cao trong vũ trụ mà tổ tiên chúng ta gọi là “Ông Trời”. Ông Trời mà tổ tiên chúng ta luôn tôn thờ và đặt niềm tin vào Ngài, chính là Thượng Đế, Thiên Chúa hay Đức Chúa Trời mà người Thiên Chúa giáo tôn thờ. Đó là niềm tin của cả dân tộc chúng ta, của tổ tiên chúng ta dưới thời vua chúa cho đến ngày hôm nay. Dù h́nh thức thờ phượng có khác nhau, nhưng niềm tin vẫn là có một Đấng Tối Cao, Đấng Tạo Hóa Duy Nhất, tạo dựng nên vũ trụ và muôn loài, muôn vật.ï

     “Địa tịch ư Sửu” (Đất mở ra từ Sửu), nghĩa là Trời có trước, sau đó mới có Đất. Sửu đứng thứ hai sau Tư.

     “Nhân sinh ư Dần”, sau khi có Trời, có Đất th́ có Người. Con Người là do Trời và Đất mà ra. Trời che, Đất chở. Trời là Cha, Đất là Mẹ.

     Năm 2008 nầy là năm Mậu Tư. Chúng tôi lại có dịp viết về “Những năm Tư trong lịch sử” theo yêu cầu của các thân hữu trong làng báo tại Hoa Kỳ. Chúng tôi lại có cơ hội nghiên cứu sử sách, được ôn lại những điều đă học hỏi cách nay bốn, năm mươi năm, khi c̣n ngồi ở ghế nhà trường. Đọc lại những bộ sử quan trọng của nước ta như Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Đại Nam Thực Lục, Đại Nam Liệt Truyện, Đại Nam Nhất Thống Chí,v.v...chúng tôi nhận thấy Năm Tư là năm có nhiều biến cố quan trọng trong lịch sử nước ta: từ Hai Bà Trưng Khởi Nghĩa năm Canh Tư (40), đến Trần Hưng Đạo đại thắng quân Nguyên trên sông Bạch Đằng, Trần Hưng Đạo mất, vua Quang Trung mất, vua Hàm Nghi bị  bắt, giải pháp Bảo Đại, đảo chính TT Diệm ( 11/11/60) mùa Hè đỏ lửa (1972),v.v....đều là những năm Tư...Nói đến năm Tư, chúng ta thường nghe các cụ  xưa nhắc nhở “Tư hư, Sửu hao, Dần bất lợi”...Ba năm Tư, Sửu, Dần...đều là những năm phải cẩn thận đề pḥng v́ sẽ có nhiều biến cố xảy ra cho bản thân, cho gia đ́nh, cho xă hội, cho quốc gia...Sử sách ghi chép quá nhiều, trong phạm vi một bài báo Xuân, chúng tôi chỉ xin ghi lại một số biến cố quan trọng mà thôi.

 

Canh Tư: (40) thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên: Trưng Trắc khởi nghĩa chống lại nhà Hán. Nước Nam Việt của Triệu Đà bao gồm lănh thổ của Triệu Đà và lănh thổ Thục Phán (An Dương Vương) bị Triệu Đà chiếm trong đó có hai bộ tộc Âu Việt và Lạc Việt gọi chung là nước Âu Lạc. Triệu Đà đặt tên nước là Nam Việt. Sau khi nhà Triệu mất ngôi, nhà Hán đổi tên nước Nam Việt thành Giao Chỉ bộ và được chia thành quận, huyện đặt dưới quyền cai trị của quan lại nhà Hán. Người Lạc Việt phải chịu nhiều sự áp bức, bất công, nhất là dưới thời Thái thú Tô Định. Do đó, hai vị nữ anh hùng của Lạc Việt là Trưng Trắc và em là Trưng Nhị đă nổi lên chống lại nhà Hán, giết Tô Định, đánh đuổi quân xâm lăng ra khỏi đất nước, giành lại độc lập cho dân tộc. Hai Bà Trưng đă nổi lên ở quận Giao Chỉ, dân thiểu số các nơi hưởng ứng cùng nổi lên đánh phá quân Hán, chiếm được trên 60 thành (thành ở đây phải được hiểu như là những thôn, làng, ấp chiến đấu hay những công sự chiến đấu do người Hán dựng lên). Trưng Trắc xưng vương, dựng nền độc lập. Năm 41, nhà Hán sai danh tướng là Mă Viện qua đánh, hai Bà Trưng thua trận, chết vào mùa Xuân năm 43. 

     Theo sách “Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục” do Quốc sử quán nhà Nguyễn biên soạn năm 1856 (Tự Đức) viết rằng: “Vương vốn họ Lạc, lại có một tên họ nữa là Trưng. Là con gái quan lạc tướng huyện Mi Linh, quận Giao Chỉ, và là vợ của Thi Sách người huyện Chu Diên, bà là người rất hùng dũng. Lúc bấy giờ Thái thú Tô Định cai trị tham lam và tàn bạo, giết mất chồng bà. Bà cùng với em gái là Trưng Nhị dấy quân, đánh hăm chỗ châu lỵ. Tô Định phải chạy về Nam Hải. Quân bà đi đến đâu như gió lướt đến đấy. Các dân tộc man, lư ở Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng theo. Lấy lại và dẹp yên được 65 thành ở đất Lĩnh Nam. Bà tự lập làm vua, đóng đô ở Mi Linh.

(trong sách Thủy Kinh Chú , quyển 37, tờ 62 chép chồng bà Trưng tên là  Thi:“...Chu Diên lạc tướng tử danh Thi, sách Mi Linh lạc tướng nữ danh Trưng Trắc vi thê...” (Con lạc tướng ở Chu Diên, tên là Thi, hỏi lấy (sách) con gái lạc tướng ở Mi Linh, tên là Trưng Trắc, làm vợ). chú thích: Sách vi thê: đi hỏi vợ.

 

-Mậu Tư (1288) Trần Hưng Đạo đại thắng quân Nguyên trên sông Bạch Đằng.  Tháng Giêng, tướng Nguyên là Ô Mă Nhi  đem hải quân vào cửa Đại Bàng. Trần Khánh Dư đánh nhau với quân của Ô Mă Nhi bị thua, bị Thái thượng hoàng nhà Trần bắt tội, Trần Khánh Dư xin lập công chuộc tội. Binh thuyền của Ô Mă Nhi đi qua rồi, Trần Khánh Dư thu thập tàn quân chờ đợi thuyền chở lương thực của giặc. Quả nhiên, sau đó, thuyền lương của quân Nguyễn do Trương Văn Hổ kéo đến, bị quân của Trần Khánh Dư phục kích, quân Nguyên thua to. Khánh Dư bắt được quân nhu, khí giới rất nhiều. Trương Văn Hổ thoát chết chạy về Quỳnh Châu. Trần Khánh Dư đưa những quân địch bị bắt đến trại quân Nguyên...Khi biết được lương thực của chúng đă bị quân ta cướp, thiếu lương thực nên nên quân Nguyên rối loạn, không c̣n tinh thần chiến đấu. –Tháng Hai, Ô Mă Nhi biết tin thuyền lương của Trương Văn Hổ  bị quân ta cướp nên đem quân đánh trại An Hưng, rồi về chiếm Vạn Kiếp, giữ núi Chí Linh và Phả Lại để cố thủ.-Tháng ba, Trần Hưng Đạo áp dụng chiến thuật của Ngô Quyền (năm 939 thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng), đă thắng quân Nguyên ở sông Bạch Đằng, bắt sống  Ô Mă Nhi, các tướng Trương Ngọc, A Bát Xích tử trận, quân Nguyên bị thương, bị chết rất nhiều, bọn tàn binh phải liều chết hộ tống Thái tử ø Thoát Hoan chạy về Tàu...Thắng trận, rước Thượng hoàng về Thăng Long, đem bọn Ô Mă Nhi, Tích Lệ Cơ Ngọc ra chém đầu làm lễ hiến phù (tế cáo với tổ tiên họ Trần).-Tháng 10, sai sứ qua nhà Nguyên tŕnh bày t́nh h́nh, xin giảng ḥa và xin triều cống như cũ để cho nhân dân hai nước tránh khỏi nạn chiến tranh, vui hưởng ḥa b́nh.

 

-Canh Tư (1300) Tháng 8, Trần Hưng Đạo mất. Trần Hưng Đạo tên thật là Trần Quốc Tuấn, con của Trần Liễu (anh vua Trần Thái Tông tức Trần Cảnh), danh tướng nhà Trần có công đánh thắng quân Mông Cổ, là tác giả sách “Binh pháp yếu lược” (sách dạy về nghệ thuật quân sự) và bài “hịch tướng sĩ” để cổ vơ  chiến sĩ hăng say chiến đấu chống xâm lăng...Ông được phong Hưng Đạo Đại Vương. Sau khi chết được dân chúng lập đền thờ, rất linh hiển.

 

-Canh Tư (1420) nhà Trần bị tiêu diệt, nước ta bị quân Minh đô hộ......

 

-Bính Tư (1516): Tháng 3, Trần Cao tự xưng con cháu nhà Trần nổi loạn ở vùng Hải Dương, hàng vạn người theo. Vua đem quân đi đánh, các tướng Phùng Trấn vàTrịnh Khổng Chiêu tử trận,  Trịnh Ngạc bị bắt rồi cũng bị giết. Vua phải cho Nguyễn Hoàng Dụ đem quân đi đánh.-Trịnh Duy Sản hay can gián vua, làm trái ư vua nên bị vua sai dánh đ̣n làm nhục. Trịnh Duy Sản cùng Lê Quảng Độ và Tŕnh Chí Sấm mưu giết vua Lê Chiêu Tông (làm vua được 8 năm, thọ 24 tuổi). Trịnh Duy Sản lập người cháu vua Lê Thánh Tông là Quang Trị lên ngôi...Nguyễn Hoàng Dụ nghe tin Trịnh Duy Sản giết vua bèn đem quân về đốt phá kinh thành rồi kéo quân đi vào Thanh Hóa. Trịnh Duy Sản đem vua vào Thanh Hóa...Trần Cao thấy kinh thành có biến, vắng mặt vua nên kéo quân vào kinh thành, tự xưng làm vua, lấy niên hiệu là   Thiên Ứng...Dân chúng kéo nhau chạy lọan. Nguyễn Hoàng Dụ, Trịnh Duy Sản và các tướng đưa vua trở về kinh thành, bao vây Trần Cao. Hai bên đánh nhau, Trần Cao thua bỏ chạy, vua đổi niên hiệu là Quang Thiệu, đại xá trong nước. Tháng 11, vua hạ lệnh đi đánh Trần Cao ở vùng biển Hải Dương, Trịnh Duy Sản thua trận bị Trần Cao giết. Trần Cao lại đem quân về đóng ở Bồ Đề. Vua sai Trần Chân đem quân đánh, Trần Cao thua trốn vào rừng, trao quyền cho con là Trần Cung, rồi cạo đầu làm nhà sư trốn thoát...

 

-Canh Tư (1540), năm 1530, Mạc Đăng Dung truyền ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh . Tháng Giêng năm Canh Tư (chết), Mạc Đăng Doanh chết, em là Mạc Phúc Hải lên nối ngôi. Sau khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê (1527), cựu thần nhà Lê chạy qua  báo cáo t́nh h́nh với nhà Minh và xin nhà Minh đem quân hỏi tội nhà Mạc. Tháng 11 năm Canh Tư (1540), tướng nhà Minh là Mao Bá Ôn đem quân đến biên giới nước ta. Mạc Đăng Dung tự trói ḿnh đến cửa ải xin hàng và đem đất 5 động dâng cho nhà Minh. Từ mùa Xuân năm Quư Tỵ (1533), Nguyễn Kim con Nguyễn Hoàng Dụ đă lập người con cháu nhà Lê là Lê Duy Ninh lên làm vua, lúc đó đang ở đất Sầm Nứa vùng biên giới Lào -Việt và kêu gọi dân chúng ủng hộ nhà Lê chống nhà Mạc. Nguyễn Kim sai sứ sang nhà Minh xin thừa nhận con cháu nhà Lê. Tháng 11 năm Canh Tư, Nguyễn Kim đi thị sát trong vùng đất của ḿnh chiếm đóng ở Nghệ An.

 

-Canh Tư (1600) Nguyễn Hoàng trở về Thuận Hóa: sau khi giết được vua Mạc Mậu Hợp, Trịnh Tùng đem vua Lê trở về Thăng Long nhưng các nơi ở miền Bắc vẫn c̣n dư đảng nhà Mạc hoạt động. Nguyễn Hoàng đem quân ra Bắc giúp, ư của Trịnh Tùng muốn giữ ông lại không cho trở về Thuận Hóa. Nguyễn Hoàng phải mượn cớ đem quân đi đánh dẹp bọn Phan Ngạn, Ngô Đ́nh Nga, Bùi Văn Khuê... ở vùng biển Đại An (Nam Định), đưa hết tướng sĩ, binh thuyền thẳng ra biển về lại Thuận Hóa để lại hoàng tử thứ năm là Nguyễn Phúc Hải và hoàng tôn là Hắc ở lại làm con tin. Trịnh Tùng nghe tin Nguyễn Hoàng đem quân đi tưởng rằng sẽ vào chiếm Thanh Hóa nên rước vua Lê về Thanh Hóa. Chẳng bao lâu thấy t́nh h́nh yên ổn nên rước vua trở về Thăng Long. Những người ủng hộ nhà Mạc tôn Mạc Kính Cung (con Mạc Kính Điển là chú của Mạc Mậu Hợp) lên làm vua, trở lại Thăng Long. Nguyễn Hoàng về Thuận Hóa, tháng 11, gả con gái là Ngọc Tú cho Trịnh Tráng (con Trịnh Tùng) kết làm thông gia và cho sứ ra nộp thuế cống cho vua Lê như cũ và từ đó, ở hẳn Thuận Hóa không ra Thăng Long nữa. Trịnh Tùng phải đối phó với dư đảng nhà Mạc nên không dám đem quân chinh phạt họ Nguyễn ở Thuận Hóa.

 

-Bính Tư (1636). Mùa Đông năm Ất Hợi (1635) , chúa Nguyễn Phúc Nguyên mất, Nguyễn Phúc Lan lên nối ngôi, tháng Giêng năm Bính Tư (1636), cho người ra cao phó vua Lê. Tháng 2, vua Lê sai Nguyễn Quang Minh và Nguyễn Trật đem vàng bạc vào phúng điếu. Khi về, chúa Nguyễn Phúc ban tặng rất hậu.

 

-Mậu Tư (1648) Nguyễn Phúc Lan mất, Nguyễn Phúc Tần nối ngôi, quân Trịnh vào đánh, Nguyễn Phúc Tần giết Tống Thị...Tống thị được chúa Nguyễn Phúc Lan sủng ái, tiền bạc đút lót giàu có, Nguyễn Phúc Trung biết được, định mưu giết đi. Tống thị sợ, bèn dùng tiền bạc nhờ bố là Tống Phúc Thông vận động Trịnh Tráng đem quân vào và hứa sẽ làm nội ứng. Tháng 3, Trịnh Tráng sai tướng là Lê Văn Hiểu đem quân vào đóng ở phía Nam Bố Chính (Quảng B́nh), xâm phạm cửa biển Nhật Lệ. Trấn thủ dinh Quảng B́nh là Trương Phúc Phấn giữ lũy Trường Dục, quân Trịnh không sao phá được lũy. Nguyễn Phúc Tần lúc đó đang c̣n là thế tử, tước Dũng Lễ hầu, đem đại quân ra chống quân Trịnh, sai tướng Triều Phương chỉ huy thủy quân, Nguyễn Hữu Tiến chỉ huy trên 100 voi chiến, nhân ban đêm đánh thẳng vào trại quân Trịnh. Hai mặt thủy bộ cùng đánh, quân Trịnh thua to, 3000 quân Trịnh bị bắt...quân Trịnh rút về Bắc sông Gianh, pḥng thủ ở Hà Trung. Chúa Nguyễn Phúc Lan đi đánh giặc trở về, lâm bệnh nặng mất ở trên một chiếc thuyền tại phá Tam Giang. Nguyễn Phúc Tần không dám lên nối ngôi nên đă yêu cầu chú ruột là Nguyễn Phúc Trung lên kế vị cha ḿnh. Nhưng Nguyễn Phúc Trung không chịu, trả lời “thế tử nên vâng nối đại thống cho thuận ư trời và ḷng người”...v́ thế Nguyễn Phúc Tần mới lên ngôi, thường gọi là Hiền vương.  Về sau Tống thị quyến rũ được Nguyễn Phúc Trung (Tôn Thất Trung) mưu làm phản, Nguyễn Phúc Tần bắt giam Nguyễn Phúc Trung và giết Tống thị.

 

-Canh Tư (1660), Tướng Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật bất ḥa, rút quân, bỏ lại đất 7 huyện phía Nam sông Lam cho họ Trịnh...Trước đây, hai hổ tướng của quân Nguyễn là Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật đem quân chiếm 7 huyện phía Nam sông Lam là đất của Trịnh. Tháng 8, Trịnh Căn cho quân qua sông đánh nhau với quân của Nguyễn Hữu Dật ở Lăng Khê, quân Trịnh bị thua. Tháng 9, quân của Nguyễn Hữu Tiến đánh chiếm phía Nam sông Lam. Hai danh tướng của chúa Nguyễn là Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật bất ḥa nên tháng 11, năm Canh Tư (1660), Nguyễn Hữu Tiến tự ư dẫn quân về giữ Nhật Lệ.  Quân Trịnh đuổi theo, hai bên giao chiến, lính chết rất nhiều, Nguyễn Hữu Dật đóng quân ở Đông Cao pḥng giữ mặt Bắc. Từ đó, đất 7 huyện phía Nam sông Lam do quân Nguyễn chiếm, thuộc về Trịnh như cũ.

 

-Nhâm Tư (1672): Tháng 6, Trịnh Tạc rước vua Lê, đem đại quân vào xâm lấn lũy Trấn Ninh. Chúa Nguyễn Phúc Tần (Hiền vương) cho hoàng tử Nguyễn Phúc Hiệp, tuổi trẻ tài cao,  làm nguyên soái, đem quân ra Quảng B́nh chống giữ. Quân Trịnh phao tin có 18 vạn. Trần Đ́nh Ân nói rằng quân Trịnh chỉ có dưới 10 vạn mà phao lên 18 vạn. Liền cho gián điệp phao tin quân Nguyễn có 16 vạn do chúa Nguyễn chỉ huy kéo đến và tuyển thêm 10 vạn dân địa phương nữa là 26 vạn.  Quân Nguyễn chiến đấu rất hăng, Trịnh Tạc thấy đánh lâu ngày mà không thắng được nên phải rút lui. Từ đó, hai bên không c̣n đánh nhau nữa cho đến khi Tây Sơn khởi nghĩa.

 

-Bính Tư (1696): chúa Trịnh ra lệnh  cấm đạo Thiên Chúa cho rằng đạo nầy truyền dạy những diều dị đoan: đốt phá nhà thờ, kinh sách và ḍ xét những người theo đạo. Lệnh nầy đă có từ năm 1663 đời Lê Huyền Tông nhưng không sao cấm hẳn được, dân vẫn có người theo.

 

-Mậu Tư (1708): Chúa Nguyễn cho Mạc Cửu làm Tổng binh ở Hà Tiên. Mạc Cửu là người Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, trung thành với nhà Minh nên bỏ nước ra đi khi người Măn Châu chiếm Trung quốc lập ra nhà Thanh. Lúc đầu ông vào làm quan nhỏ nước Chân Lạp, lập ra 7 xă vùng Hà   Tiên quy tụ dân tứ xứ về làm ăn buốn bán thịnh vượng. Sau nghe lời khuyên của Nguyễn Cư Trinh nên xin về theo chúa Nguyễn.

 

-Giáp Tư (1744): Giặc Nguyễn Hữu Cầu ở Bắc. Nguyễn Phúc Khoát xưng vương ở Nam. Tại Đàng Ngoài, từ năm 1743, Nguyễn Hữu Cầu tập hợp được một lực lượng chiếm cứ vùng Đồ Sơn, chúa Trịnh cho các tướng đi đánh dẹp đều thất bại. Tháng 5 năm Giáp Tư (1744), Hoàng Ngũ Phúc bao vây Nguyễn Hữu Cầu ở Đồ Sơn, Nguyễn Hữu Cầu bỏ Đồ Sơn chạy qua chiếm được thành Kinh Bắc, đến tháng 7, Hoàng Ngũ Phúc và Trương Khuông  tái chiếm thành Kinh Bắc th́ Nguyễn Hữu Cầu lại đem quân đi chiếm vùng khác. Nhiều lần giao chiến, quân triều đ́nh bị thua, một số tướng tử trận nên thanh thế của Nguyễn Hữu Cầu càng thêm lừng lẫy, nhiều đảng cướp khác lại dựa thế Nguyễn Hữu Cầu, nổi lên quấy phá khắp vùng biển Hải Dương...-Trong khi đó, Nguyễn Danh Phương cũng nổi lên ở vùng Sơn Tây, quân triều đ́nh cũng vất vả mà không dẹp được. Tại Đàng Trong, Nguyễn Đăng Thịnh dâng biểu xin chúa Nguyễn Phúc Khóat chính thức lên ngôi vương gọi là Vơ vương, đúc ấn, bổ dụng quan lại, lập triều đ́nh như vua Lê chúa Trịnh ở Bắc Hà, phong tước cho tổ tiên đă chết, dựng tôn miếu,v.v...gọi chính dinh (Phú Xuân) là đô thành, tổ chức hành chánh, chia nước làm 12 dinh. Ái Tử gọi là Cựu dinh, đặt quan văn, vơ cai trị.

 

-Canh Tư (1780), quân Tam Phủ nổi loạn ở Thăng Long: Tháng 9, Trịnh Sâm bỏ con trưởng là Khải (tên cũ làTông, con của vợ chính) và lập con thứ là Cán (con của Đặng Thị Huệ, vợ thứ) . Phe Đặng Thị Huệ được Hoàng Đ́nh Bảo ủng hộ. Trịnh Khải bị tố cáo âm mưu đảo chính Trịnh Sâm nên bị mất quyền nối ngôi (thế tử) và bị giam...Sau khi Trịnh Sâm chết, phe ủng hộ Trịnh Khải lợi dụng lính Tam Phủ, giết Hoàng Đ́nh Bảo, lật đổ Trịnh Cán...

 

-Tháng Giêng, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi  vương tại Gia Định (thường gọi là Nguyễn Vương) dùng ấn “Đại Việt quốc, Nguyễn chúa Vĩnh trấn chi bảo” (ấn nầy do chúa Nguyễn Phúc Chu làm ra để truyền cho con cháu nối nghiệp chúa). Tháng 3, bà nguyên phi (hoàng hậu) họ Tống sinh Hoàng tử Cảnh (tức Anh Duệ hoàng thái tử).

 

-Nhâm Tư (1792): Nguyễn Phúc Ánh đem quân đánh Quy Nhơn,-Nguyễn Huệ mất tại Phú Xuân.

      Tháng 5, Nguyễn Phúc Ánh dược tin báo Nguyễn Nhạc đang tập trung  chiến thuyền đậu ở cửa Thị Nại (Quy Nhơn) dự tính vào cướp phá Gia Định, lợi dụng mùa gió Nồm, trong lúc quân Tây Sơn không pḥng bị, sai các tướng Tôn Thất Huy, Vơ Tánh, Tống Phước Đạm, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Trương, Phạm Văn Nhân...bất ngờ đem đại binh ra đánh Quy Nhơn. Đại quân của chúa Nguyễn đă vào tới cửa Thị Nại mà tướng Tây Sơn giữ cửa biển  không biết nên bỏ chạy, thuyền ghe và khi giới bị quân Nguyễn bắt được hết (5 chiếc thuyền lớn, 30 chiếc thuyền đi biển, 40 chiếc thuyền tuần tiễu...) Ba chiếc thuyền của bọn cướp biển  Tề ngỗi (người Tàu) cũng bị bắt...Nguyễn Phúc Ánh  đóng quân ở chợ Thị Nai, dựng cờ, phủ dụ dân chúng, cấm binh sĩ không được cướp bóc của dân. Rồi ra lệnh rút quân về.  Mỗi năm, cứ đến mùa gió Nồm (tháng 5, 6) quân Gia Định lại kéo ra...đánh phá Quy Nhơn, thời gian đi và về trong 10 ngày, người ta gọi là thần binh.

 

-Tháng Bảy, Nhâm Tư, Nguyễn Huệ mất tại Phú Xuân. Nguyễn Quang Toản nối ngôi, niên hiệu Cảnh Thịnh. Trước khi mất, Nguyễn Huệ dặn Quang Toản phải dời đô về Nghệ An, nơi đó, Nguyễn Huệ đă cho xây thành vững chắc đặt tên là Phượng Hoàng trung đô. Bùi Đắc Tuyên là cậu của Nguyễn Quang Toản được làm Thái sư quốc công nhiếp chính.

 

-Giáp Tư (1804): vua Gia Long xây kinh thành Huế. Thạng 5, vua Gia Long khởi sự xây cung thành (cung vua) và hoàng thành Huế. Sách “Đại Nam Thực Lục Chính Biên” cho biết:“Cung thành bốn mặt dài suốt 307 trượng 3 thước 4 tấc, xây bằng gạch, cao 9 thước 2 tấc, dày 1 thước 8 tấc. Phía trước có cửa Tả túc, cửa Hữu túc, bên tả là cửa Hưng khánh, bên hữu là cửa Gia tường, phía sau là cửa Tường lân và cửa Nghi phượng. Hoàng thành 4 mặt dài suốt 614 trượng, xây gạch, cao 1 trượng 5 thước, dày 2 thước 6 tấc. Hồ bọc 3 phía, tả, hữu, hậu, dài suốt 464 trượng 1 thước. Phía trước có cửa Tả đoan và cửa Hữu đoan, bên tả là cửa Hiển nhơn, bên hữu là cửa Chương đức, phía sau có cửa Cung thần. Cửa Tường lân sau đổi làm cửa Tường Loan, cửa Cung thần sau đổi làm cửa Địa b́nh). Sai Nguyễn Văn Chương và Lê Chất trông coi công việc. Các quân 1ứng dịch ở đây được thưởng thêm lương tiền. Lại lấy sự chậm chóng để thưởng phạt” (ĐNTLCH đệ I Kỷ, q.XXIV bản dịch Hà Nội, tr. 179) kinh thành Huế (cũng gọi là hoàng thành tức thành ngoại) được xây theo kiểu Vauban, thế kỷ 17 ở Âu Châu. Cung thành (hay hoàng cung cũng được gọi là thành nội) được mô phỏng theo thành Bắc kinh (Trung quốc) thu hẹp. Đây là kinh thành lớn nhất của Việt Nam từ trước tới nay. Năm 1804, thành nội và thành ngoại đă xây xong, vua Gia Long ban thưởng cho lính và thợ cùng các cấp chỉ huy. Các nhà cửa cung điện và phần trang trí bên trong c̣n phải mất nhiều năm nữa, qua đến đời Minh Mạng mới xong.

-Người con của Lê Quư Đôn (bảng nhăn thời nhà Lê) là Lê Duy Thanh đem dâng bộ sách “Phủ biên tạp lục” (6 quyển) và “Quần thư khảo biện” của cha.

-Sứ nước Anh đến dâng lễ vật, xin sứ quán tại Đà Nẵng, xin thông thương buôn bán...vua  không cho.

-Vua ra lệnh lập đền thờ ở Gia Định  để thờ những công thần đă chết, tổng cộng 1.015 vị được ghi tên vào bài vị để thờ.

-Quản tàu Long Phi là Nguyễn Văn Thắng (Chaigneau, người Pháp, theo giúp vua Gia Long) dâng sách Toán học và sách Thiên Văn của Tây phương.

 

-Mậu Tư (1828): Vua Minh Mạng sai làm cầu phao qua sông Hương để đi tế Trời Đất tại đàn Nam Giao. Hữu ty làm cầu phao qua sông Hương để rước xa giá vua đi nhưng nước sông tràn lên cầu nên vua phải dùng thuyền qua sông. Đại Nam Thực Lục Chính Biên chép rằng:“Tháng hai, ngày Bính tuất, tế Trời Đất ở đàn Nam giao.  Trước đây Hữu ty làm cầu phao để qua sông Hương, lại sai bày quân thí nghiệm. Đến trước tế Nam giao một ngày, xa giá đến Trai cung, đi qua cầu phao nước sông tràn lên, bầy tôi đi theo đều sợ. Vua không biến sắc mặt, sai đổi lấy thuyền rồng theo hầu để sang sông. Ngừơi chuyên coi làm cầu là Nguyễn Tài Năng, người thí nghiệm là Phan Văn Thúy cùng người phù giá là Phạm Văn Lư đều bị đ́nh thần tham hặc. Nhà vua đặc mệnh giáng cấp khác nhau. Dụ rằng:“ Việc nước tràn lên cầu, cũng là việc bất ngờ không tính trước được, t́nh c̣n khá thương, cho nên gia ơn khiến biết răn mà thôi. Nếu giao cho công nghị, th́ cũng khó v́ bọn ngươi mà bỏ phép nước được”.

 

-Canh Tư (1840)Vua Tự Đức sai sứ qua nhà Thanh: Phan Huy Vịnh (chánh sứ), phái đoàn gồm có Lưu Lượng, Vũ Văn Tuấn, Phm Chi Hương, Nguyễn Hữu Huyến và Nguyễn Du để tạ ơn nhà Thanh năm trước đă cho sứ qua phong vương tại Huế.

 

-Giáp Tư (1864): -Cho Nguyễn Công Trứ lănh chức Dinh điền sứ. Nguyễn Công Trứ dâng sớ gồm 3 điều:-luật pháp nghiêm minh để diệt trừ trộm cướp;-thưởng phạt nghiêm minh để khuyến khích quan lại;-khai khẩn ruộng hoang cho dân nghèo..

 

-Bính Tư (1876): lănh sự nước Pháp ở Quảng Yên xin khai mỏ than ở Đông Triều. Bùi Ân Niên đi sứ nhà Thanh

-Cho Khâm sứ nước Pháp là Lêâ Na xây dinh thự ở phía Nam sông Hương (sau nầy là Ṭa Khâm sứ Trung kỳ). Bọn giặc cướp từ bên Tàu qua quấy phá các tỉnh miền núi vùng biên giới. Vua Tự Đức ra lệnh cho các quan địa phương lo việc tuần pḥng, đánh dẹp. Miền Bắc lũ lụt, đê Văn Giang bị vỡ nhiều lần...

-Tháng 6, cử Bùi Ân Niên đi sứ sang nhà Thanh cống hàng năm, t́nh h́nh lúc đó đất Nam kỳ đă bị người Pháp chiếm rồi nên vua vẫn hy vọng nhà Thanh giúp can thiệp với Pháp để giữ được Bắc Kỳ. Sự thực nhà Thanh lúc bấy giờ đă suy yếu phải chống đỡ vớic ác nước Tây phương luôn gây sự với Trung quốc nên chẳng giúp ǵ được nước ta. Theo ḥa ước đă kưy với Pháp trước đây, Pháp đem tàu thủy, súng, thuốc súng, đạn dược đến tặng cho vua Tự Đức. Vua truyền cho lính tập bắn thử, có người Pháp đến Thuận An huấn luyện cách sử dụng.

 

Mậu Tư (1888): Tháng 9, Vua Hàm Nghi bị Pháp bắt. Ngày 27 tháng Chạp, Vua Đồng Khánh mất. Tháng Giêng, vua Đồng Khánh phong cho Nguyễn Hữu Độ (nguyên Khâm Sai Kinh Lược Bắc Kỳ, tước Vĩnh Lại Bá) được lên tước Vĩnh Lại Quận Công. Nguyễn Trọng Hợp, Thượng Thư bộ Lại, tước Hiệp biện đại học sĩ được thăng lên Văn Minh điện đại học sĩ. Sau vụ kinh thành thất thủ 23 tháng 5 Ất Dậu (5/7-1885) do Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chủ trương tấn công Pháp thất bại, vua Hàm Nghi theo Tôn Thất Thuyết ra Quảng Trị th́ Nguyễn Hữu Độ và Phan Đ́nh B́nh từ miền Bắc trở về Huế, hợp tác với Pháp để ổn định t́nh h́nh chính trị, đưa vua Đồng Khánh lên ngôi. Nguyễn Hữu Độ là Phụ chính đại thần và con gái của ông làø Nguyễn Thị Nhàn được vua Đồng Khánh phong làm chánh phi (hoàng hậu).

– Mùa Xuân năm Mậu Tư (1888), Pháp muốn chứng tỏ t́nh h́nh đă ổn định nên gợi ư cho vua Đồng Khánh tổ chức du Xuân...

-Vua phong cho cha là Hồng Cai tước Kiên Thái vương..-Vua ra lệnh cho Quốc sử quán  làm sách Thực Lục ghi chép việc từ vua Tự Đức thứ 36 (1883) cho đến tháng 8, Hàm Nghi năm đầu (1885)

-Tháng 9, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt. Tháng 7/1885, sau khi kinh đô Huế thất thủ, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra Quảng Trị, sau đó ra Quảng B́nh nhưng bị quân Pháp chận đường nên qua sông Tchépône theo đường núi thuộc địa phận nước Lào để ra Hà Tĩnh ...Sau khi Tôn Thất Thuyết ra Bắc và qua Trung quốc cầu viện nhà Thanh thất bại, vua lẩn trốn trong vùng núi thuộc huyện Tuyên Hóa (giáp ranh hai tỉnh Quảng B́nh và Hà Tĩnh) có Tôn Thất Thiệp và Tôn Thất Đạm ở bên cạnh vua. Tháng 9 năm Mậu Tư (1888) vua bị Trương Quang Ngọc và Nguyễn Đ́nh T́nh làm phản, ban đêm dẫn quân Pháp vào tận chỗ vua, Tôn Thất Thiệp rút gươm chống cự bị Pháp giết tại chỗ, vua bị đưa về Hà Tĩnh. Vua giữ im lặng, không trả lời và không chịu nhận ḿnh là Hàm Nghị. Nhưng khi người thầy dạy của vua nghe tin, đến yết kiến. Trước mặt ông thầy cũ của ḿnh, vua đă vái chào một cách lễ phép...từ đó, Pháp biết chắc chắn đó là vua Hàm Nghi. Vua Đồng Khánh xin cho vua Hàm Nghi trở về Huế để anh em gặp nhau, nhưng người Pháp từ chối lấy lư do đă đến ngày tàu phải rời bến. Vua liền cho một phái đoàn đến thăm vua Hàm Nghi tại Thuận An. Sau đó, Hàm Nghi bị đày qua Alger (Bắc Phi).-Tháng 11, Nguyễn Hữu Độ mất. Qua tháng sau, ngày 25 tháng Chạp, vua Đồng Khánh đau nặng, ngày 27 tháng Chạp năm Mậu Tư (28/01/1889)  vua mất ở điện Càn Thành, thọ 25 tuổi. Các hoàng tử con vua Đồng Khánh đều c̣n nhỏ tuổi, (hoàng tử Bửu Đảo sau nầy là vua Khải Định, lúc đó mới 3 tuổi) hoàng gia và người Pháp chọn con thứ 7 của vua Dục Đức là Hoàng tử Bửu Lân lên nối ngôi lấy niên hiệu Thánh Thái.

 

-Canh Tư (1900): khoa thi Hương năm Canh Tư: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Vơ Bá Hạp đều thi đỗ cử nhân. Về sau những người nầy đều dấn thân vào con đường tranh đấu, hoạt động cách mạng, khởi xướng phong trào duy tân

 

-Nhâm Tư (1912) Thành lập Việt Nam Quang Phục Hội tại Quảng Châu (Trung quốc). Sau khi Tôn Dật Tiên lănh đạo cuộc cách mạng lật đổ nhà Thanh năm Tân hợi (1911) thành công ở Trung Hoa, tháng 2 năm 1912 (Nhâm Tư) các nhà cách mạng Việt Nam thành lập Việt Nam Quang Phục Hội tại Quảng Châu, tôn Kỳ ngoại hầu Cường Để làm Hội trưởng, Phan Bội Châu làm Tổng lư.

 

-Giáp Tư (1924): Vua Khải Định qua đời, Hoàng tử Vĩnh Thụy, lúc bấy giờ c̣n nhỏ tuổi, đang du học tại Pháp, trở về nước thọ tang và lên nối ngôi lấy niên hiệu Bảo Đại. Nhưng măi đến 1933, ông mới trở về nước chấp chánh.

 

-Ngày 19-06-1924, tại khách sạn Sa Diện (Trung Hoa), Phạm Hồng Thái ném bom ám sát toàn quyền Pháp tại Đông Dương là Martial Merlin nhưng Merlin thoát chết. Phạm Hồng Thái nhảy xuống sông Châu giang tự tử. Phan Bội Châu có liên hệ đến vụ nầy nên bị lên án xử tử vắng mặt, Pháp lùng bắt những người yêu nước chống Pháp nhất là đảng viên Việt Nam Quang Phục Hội.

 

-Bính Tư (1936): Nam Phương hoàng hậu sinh hoàng tử Bảo Long. Vua Duy Tân bị đày ở đảo Réunion, gởi thư cho chính phủ Pháp yêu cầu được trở về nước

 

-Mậu Tư (1948): Giải pháp Bảo Đại ra đời: Đại diện các tôn giáo, đảng phái chính trị (không Cộng Sản) ở trong nước qua Hồng Kông gặp vua Bảo Đại đề nghị nhà vua đứng ra thay mặt toàn dân đ̣i Pháp trả độc lập cho Việt Nam. Ngày 7 tháng 01 năm 1948, trước Tết Mậu Tư, Bảo Đại hội đàm với đại diện Pháp là Bolaert tại Genève, sau đó lại gặp nhau tai Vịnh Hạ Long (trên tà thủy của Pháp).  Ngày 26/3/1948, Bảo đại tuyên bố đồng ư lập một chính phủ lâm thời để điều đ́nh với Pháp. Thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân được đề cử đứng ra thành lập chính phủ lâm thời tại Sài G̣n: quốc kỳ: cờ vàng ba sọc đỏ; quốc ca: bài Thanh  niên hành khúc của Lưu Hữu Phước (có thay đổi lời cho phù hợp với t́nh h́nh). Thành phần chính phủ như sau:

-Chủ tịch HĐ Tổng trưởng kiêm Tổng trưỡng Quốc pḥng: TT Nguyễn Văn Xuân

-Quốc vụ khanh Phó C.T Hội đồng TT kiêm Tổng trấn Nam Phan: Trần Văn Hữu

-Quốc vụ khanh kiêm Tổng trấn Trung Phần: Phan Văn Giáo

-Quốc vụ khanh kiêm Tổng trấn Bắc Phần: Nghiêm Xuân Thiện

-Quốc vụ khanh: Lê Văn Hoạch

-Tổng trưởng Lễ nghi – Giáo dục: Nguyễn Khoa Toàn

-Tổng trưởng Nội vụ: Nguyễn Hữu Trí (sau không nhận)

-Tổng trưởng Tư pháp: Nguyễn Khắc Vệ

-Tổng trưởng Tài chánh và Kinh tế quốc gia: Nguyễn Trung Vinh

-Tổng trưởng Công tác và Kế hoạch: Nguyễn Văn Tỵ

-Tổng trưởng Thông tin, báo chí và tuyên truyền: Phan Huy Đán (tức Phan Quang Đán)

-Tổng trưởng Canh Nông: Trần Thiện Vàng

-Tổng trưởng Y tế : BS Đặng Hữu Chí

-Quốc vụ khanh tùng Bộ Quốc pḥng: Trần Quang Vinh

-Thử trưởng tùng dinh Chủ Tịch: Đinh Xuân Quảng

-Thứ trưởng tùng Bộ Giáo Dục: Hà Xuân Tế

     Công bố bản Tuyên ngôn Việt – Pháp: Pháp  long trọng thừa nhận Việt nam độc lập và thống nhất, VNM hứa sẽ gia nhập Liên Hiệp Pháp.

     Quốc Hội Pháp vẫn chưa phê chuẩn hiệp ước Vịnh Hạ Long giữa Bảo Đại và Bolaert.

 

-Canh Tư (1960): Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm đưa ra kế hoạch dinh điền, đưa đồng bào nghèo ở miền Trung lên định cư ở vùng Cao Nguyên hoặc vào Miền Nam.

-Lực lượng vơ trang Việt Cộng bắt đầu phá hoại ở Miền Nam.

-Tại Tokyo, Nhật và Việt Nam kư kết các văn kiện bồi thường chiến tranh.

-Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đi thăm Đài Loan

-Hà Nội đàn áp các văn nghệ sĩ : Ṭa án xử vụ Nhân Văn Giai Phẩm...

-Cựu Thủ Tướng Nguyễn Phan Long từ trần tại Sài G̣n ngày 15/7/1960 thọ 72 tuổi.

-VNCH cải tổ Nội Các: Nguyễn Văn Lượng thay Nguyễn Văn Sỹ (Tư Pháp);-Bùi Văn Lương thay Lâm Lễ Trinh (Nội Vụ);-Nguyễn Đ́nh Thuần thay Trần Trung Dung (Quốc Pḥng)...

 

- 11/11/1960: đảo chánh lật đổ TT Ngô Đ́nh Diệm thất bại: Đại Tá Nguyễn Chánh Thi, Trung Tá Vương Văn Đông chạy qua Nam Vang...Trung Tướng Thái Quang Hoàng bị phe đảo chánh bắt đi theo qua Nam Vang, Trung Tá Nguyễn Triệu Hồng bị chết.

-Hội nghị Lương thực và Nông nghiệp quốc tế tổ chức tại Sài G̣n.

 

- 8/12/1960: thành lập Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Ṭa Thánh Vatican bổ nhiệm ba vị Tổng Giám Mục tại Hà Nội (TGM Trịnh Như Khuê), Huế (TGM Ngô Đ́nh Thục) và Sài G̣n (TGM Nguyễn Văn B́nh), thành lập Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (Miền Nam)

 

- 20/12 /1960 CS Hà Nội thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thay cho Mặt Trận Tổ Quốc trước đây để chống Mỹ và chống chế độ Ngô Đ́nh Diệm.

 

Nhâm Tư (1972): Quân Bắc Việt vượt qua sông Bếán Hải: Mùa Hè đỏ lửa: Mặt trận Quảng Trị, B́nh Long – An Lộc – Kontum... Ngày 30/3/1972, quân Bắc Việt với xe tăng yểm trợ, đă vượt vĩ tuyến 17, vùng phi quân sự để  tấn công vào tỉnh Quảng Trị. Ngày 2/4/1972, Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, Tư lệnh Sư đoàn 3 bỏ thị xă Quảng Trị. Ngày 27/4, CS chiếm thị trấn Đông Hà. Ngày 1/5/1972, CS chiếm Quảng Trị. Dân chúng bỏ chạy vào Huế, Đà Nẵng...VC pháo kích giết hàng ngàn người trên đoạn đường Quảng Trị - Hải Lăng (báo chị gọi là “Đại lộ kinh hoàng”. Ngày 13/5/1972, quân VNCH phản công, lập pḥng tuyếùn phía Nam Mỹ Chánh để tái chiếm Quảng Trị.-Ngày 26/7, quân Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến VNCH tái chiếm thị xă Quảng Trị, treo cờ trên cổ thành Quảng Trị. Tất cả thành phố chỉ c̣n lại một đống tro tàn. CS vẫn c̣n pháo kích và mở các trận đánh chung quanh Quảng Trị. Ngày 15/9/1972, sau 4 ngày cận chiến, quân đội VNCH hoàn toàn tái chiếm thị xă Quảng Trị ở phía Nam sông Thạch Hăn. CS vẫn chiếm phía Bắc sông Thạch Hăn và một vài vùng thuộc Triệu Phong, Hải Lăng...-Trong tháng 5/1972, trong khi tấn công Quảng Trị, quân CS cũng cũng mở các mặt trận tại Kontum và B́nh Long, An Lộc nhưng đă thất bại...

 

-Giáp Tư (1984): đồng bào trong nứớc tiếp tục t́m đường vượt biên bằng những chiếc tàu nhỏ được báo chí thế giới gọi họ là “những thuyền nhân”, nhiều người đă chết trên sông, trên biển, trong rừng sâu...Hà Nội cho chuyển những người tù cải tạo vào Nam, số c̣n lại tập trung về trại Nam Hà, Thanh Cẩm, v.v...Nguyễn Văn Linh theo gương Nga hô hào “đổi mới hay là chết”. Nhà văn, nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê qua đời tại Sài G̣n (1912 – 1984) để lại nhiều tác phẩm giá trị. Cuối đời, ông mới thú nhận rằng đă sai lầm khi cho rằng người Cộng Sản là những người yêu nước, yêu dân.

 

-Bính Tư (1996): Sau khi Mỹ chính thức lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, Đảng CSVN đưa ra chủ trương “kinh tế thị trường dưới định chế xă hội chủ nghĩa” một lối ngụy biện để che đậy cho việc làm ăn theo lối tư bản “đỏ” và  độc quyền tham nhũng, bóc lột dân.

 

Mậu Tư (2008): Những biến động xảy ra trong năm, nhất là phong trào đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền...và sự ra đời của khối 8406 rồi phong trào dân oan khiếu kiện...