CHUYỆN ĐỨT QUĂNG

 VỀ DÂN VĂN KHOA

 

Lệnh Hồ Saigon

 

Nhớ mấy ngày đầu sau 30/4, có một ông “nón cối” xuất hiện ở nhà tôi.  Tội nghiệp ba mẹ tôi đă quà cáp, trọng vọng quá sức người bà con mới nhận lại này, chỉ mong dựa hơi cán bộ để kiếm việc làm cho con cái. Do đó, không ai được phép nhắc tới cái thời ông đi tập kết năm 54, làm việc mấy năm trên lưng mấy con ḅ ở nông trường Sơn La hay Mộc Châu ǵ đó rồi mới được đề bạt đi học, rồi cũng thành y sĩ ngành răng-hàm-mặt. Nghe nói thằng cháu dạy học ở chế độ cũ đang thất nghiệp ở chế độ mới, ông gọi tôi tới. Ngắm tôi vài giây – chắc ông xem tôi có “trí thức” chút nào không  – rồi ông lấy ngón trỏ vỗ vào màng tang mà phán rằng: “Cháu học Văn khoa? Chà, trí thức tiểu tư sản, lại học triết nữa th́ tư tưởng khó chuyển biến đấy! Phải phấn đấu nhiều lắm mới được. Phải chi cháu tốt nghiệp kỹ sư  kinh tế th́ bác có thể giới thiệu cháu tham gia công tác ngay ở...”.

 

Lúc ấy, tôi hiểu ngay tương lai ḿnh chẳng sáng sủa, nhưng không hiểu “kỹ sư kinh tế” là ǵ. Theo phân ngành đại học, “kỹ sư” thuộc khoa học ứng dụng, làm sao gắn với “kinh tế”, thuộc phía nhân văn – xă hội? Chỉ có “ kỹ sư điện tử” của ĐH Bách khoa Phú Thọ hoặc “ cử nhân kinh tế học” của ĐH Luật, sao lại pha tạp thành “kỹ sư kinh tế”? Sau này, tôi mới hiểu rằng, bị tâm lư chung làxem nhẹ các ngành học từ chương, nghèo tính thực dụng (chỉ có thực dụng mớisản xuất ra được  của cải vật chất?) nên h́nh như khoa kinh tế học miền Bắc muốn che dấu tính chất nghiên cứu, nặng lư thuyết của ḿnh, cho sinh viên ra trường xưng là “kỹ sư”, thay v́“cử nhân”. Tuy cùng là lao động trí óc, nhưng phải nhập nhằng nhào vô ngồi chung với các anh kỹ sư thủy lợi, kỹ sư  giao thông vận tải, kỹ sư nông nghiệp.v.v...th́ anh “kinh tế” mới khỏi bị đánh giá là kém ích dụng, ít thực tiễn  hơn mấy anh họ “kỹ”.

 

Vào cuối thập niên 60, bọn chúng tôi đă chọn ghi danh ở một ngôi trường cũ kỹ, nhưng được cái là nằm trong một khu yên tỉnh ở đất Sàig̣n. Văn khoa bao gồm nhiều ban như Việt Hán, Sử Địa, Triết, Ngoại Ngữ... nhưng hẳn linh mục Thanh Lăng, dạy môn văn học sử, cứ mơ màng nh́n những giảng đường lâu năm bụi bám giống như cửa Khổng sân Tŕnh của đám nho sinh Hán tộc cổ xưa, mà gọi là trường Văn. Riêng bọn tôi th́ có vẻ...cổ hủ thật. Có lần tôi trồng cây si một cô nàng rất hấp dẫn, học cái ban à la mode (thời thượng) nhất trong trường  là Anh văn. Lân la đến làm quen th́ nàng nh́n tôi với con mắt đầy... tội nghiệp: “Toa học bên Triết đông hả? Sao cái ban ǵ tên nghe... cải lương dữ vậy!?”. Đáng đời cho tên nghịch đồ của ban phái Đông phương! Người trong mộng của hắn, như lời t́nh ca quen thuộc Hỡi người t́nh Văn khoa..., phải là một tiểu thư áo dài tha thướt, yểu điệu, rất Á Đông, chứ sao lại là một nàng trường đầm, mặc jupe bó đùi? Kẻ thất t́nh lầm lạc đă được các bạn đồng môn an ủi bằng cách dẫn đi ngồi café ghế-cao là quán Hân ở Đakao, có nhạc Paul Mauriat tuyệt vời. Chỗ đóng đô thường nhật của bọn tôi - trong những ngày... cạn túi- c̣n là quán cóc ghế-thấp ở lề đường Nguyễn Du. Ở đây có phiêu lăng những lá me bay lạc vào tách café b́nh dân rẻ tiền, nhưng có ǵ cấm được đám sinh viên nghèo ngồi đó mà nghĩ suy, dệt mộng lớn cho tương lai, dự phóng giúp ích cho đời bằng kiến thức, chữ nghĩa mà ḿnh đang dùi mài, tích lũy từ ngôi trường cổ kính của ḿnh qua mấy mùa mưa nắng ?

 

Rồi ra trường, thời sinh viên lăng mạn, đầy hoa mộng khép lại tuy vẫn ghi danh tiếp, làm luận án cao học và không thường xuyên đến trường nữa. Đa số đi dạy học; có người làm thơ (bịnh làm thơ của đa số bọn sinh viên trường Văn !); có người viết văn, làm báo, nghiên cứu hay công tác xă hội... - nói chung là làm việc, kiếm sống trong các lănh vực giáo dục, văn hoá, xă hội.

 

Rồi ngày 30/4 đă dựng lên cái thời đại mà người ta chỉ tôn vinh những ai có bàn tay dính dầu máy, phân bón, thuốc trừ sâu, bùn đen đất đỏ... th́ bọn xuất thân Văn khoa làm sao khá nổi?

 

Ai dính nguỵ quân, nguỵ quyền th́ đi học cải tạo. Một số rất ít anh chị em được cho tiếp tục dạy học với môn dạy khác và lương bậc thấp hơn. Hăy quên đi danh xưng “giáo sư”, “giáo viên” thôi! Cũng quên đi cái bằng cử nhân để xin vào làm công nhân viên ở cơ quan, xí nghiệp. Nếu bạn không được là lao động trực tiếp đầy vinh quang ở dưới xưởng th́ khi làm ở văn pḥng (bị... có chữ nghĩa?), bạn chỉ là loại lao động gián tiếp. Nghĩa là tiêu chuẩn gạo, nhu yếu phẩm thấp, thấp hơn cả người lao động phổ thông, tức làm chân tay không cần học nghề, như quét dọn, bưng nước, đào đất, bốc vác...

 

C̣n lại là... đủ thứ nghề ngỗng lặt vặt. Mấy ngày đầu th́ đem ly tách, chén dĩa, sách vở... trong nhà ra lề đường ngồi bán. Hết đồ đạc để bán th́ đi làm rẫy, trồng nấm, nuôi gà vịt, chạy hàng tạp hoá, đứng chợ trời... Thời kỳ này, cả ngày đạp xe đạp long nhong ngoài đường phố, tôi mới có dịp nh́n thấy Sàig̣n khác hẳn xưa. Không biết đi ra đường làm những việc ǵ, nhưng từ những góc phố, vĩa hè,  đến bến xe bus,  bến xe lam, người Sàig̣n đi đi lại lại, vội vă, đăm chiêu... Trong cái hoạt cảnh ảm đạm diễn ra từ  sáng sớm đến tối mịt ấy, mốt thời trang phổ biến cho cả nam lẫn nữ là nón  vải đội đầu, dép lê dưới chân, và một món không thể thiếu là một cái túi, một cái giỏ xách  kè kè bên người. Mở túi ra coi th́ bên trong chỉ là những món mua-đi-bán-lại: gói thuốc lá hay cuộn giấy vệ sinh, cái đồng hồ hư hay cuốn sách cũ, hộp thuốc tây hay chai hoá chất... Sàig̣n biến thành một cái chợ trời khổng lồ! Người ta mua mua, bán bán tất cả mọi thứ vặt vănh, nhận chút tiền, hẹn gặp lại, chạy tiếp...

 

Năm 76, tôi đang cùng một anh bạn, nguyên tổng thư kư một viện đại học tư  của giới Công giáo, làm nghề phạc-ma-xiên-à-la-mái-hiên (nói theo tiếng Tây bồi ở chợ trời thuốc tây, nghĩa là dược-sĩ-đứng-mái-hiên!) ở Tân Định th́ uỷ ban phường kêu tôi đi thuỷ lợi dài hạn. Thấy cùng đường, tôi bèn đăng kư đi công trường lao động do Hội trí thức thành phố lập ở Củ Chi. Nghe “ hội trí thức” có vẻ... sang hơn cấp phường nhưng cũng chỉ là đào kênh, đắp đê tối tăm mặt mũi.

Dù sao, đối với tôi, tập phim “ t́nh nguyện đi lao động” ở cánh đồng bưng quanh năm ngập nước, cách Sàig̣n 55km ấy cũng có vài cảnh vui vẻ. Tất nhiên, không có ǵ vui về phần xác. Sau khi đăng kư làm việc ở công trường 6 tháng, 1 năm... tuỳ ư, bạn được ở láng trại cất bằng tre nứa, xài đèn dầu và nước giếng, cơm canh tiêu chuẩn đạm bạc và lănh sinh hoạt phí (không phải lương) là50 đồng/tháng. Riêng lao động nữ được phụ cấp mấy chục xu cho khoản ... vệ sinh trong tháng. Đáng lẽ lao động nam cũng nên có phụ cấp về khoản... quần xà-lỏn, v́ cũng chỉ một tháng là mục nát một cái quần, do ngâm nước phèn! Nhưng tôi vẫn vui phần hồn, nhờ rung rũi gặp lại nhiều bạn bè, nhất làụ khi tôi được cho làm thống kê (sau 2 tháng đào kênh) tha hồ đi khắp trại. Đầu tiên là H.K. Hồi ra trường th́ anh được bổ về dạy triết ở Nha Trang và c̣n là một nhà phê b́nh văn học có tiếng. Ở một tổ thuỷ lợi gồm 6 nam 2 nữ, nhà giáo ốm nhom này được bầu làm tổ trưởng v́ lớn tuổi nhất.

 

Công trường mở một đợt thi đắp đê cấp 3. Ngoài bưng, nước ngập sâu đến thắt lưng, mô h́nh đê được thấy qua hai hàng cây tiêu cắm song song, ló lên khỏi mặt nước. Vậy mà H.K. đạt danh hiệu “kiện tướng thuỷ lợi”, năng suất 6m3/ tám tiếng/ngày, nhận bằng khen cấp thành phố. Anh nói riêng với tôi: “Cũng không có ǵ khó nếu ḿnh biết dùng cái đầu một chút. Bữa thi, hai cô nữ yếu sức sẽ ảnh hưởng năng suất tập thể, nên khai bệnh nghỉ. Mượn thêm vài cái len xắn đất để đang làm mà găy len th́ quăng, khỏi sửa mất th́ giờ, chụp cái khác... Đội h́nh: cạnh mỗi hàng tiêu là 3 người, để lấy đất cùng lúc từ hai bên. Người đứng xắn đất th́ đi lui, khỏi cản trở người chuyền đất trước măỉt ḿnh. Không xắn cục đất quá lớn, để người kia có thể bê, chuyền trên tay cho người thứ ba đắp từ giữa h́nh chân đê mà đắp ra. Phần chân đê phải xong theo chiều ngang rồi mới lo chiều dài. Mệt th́ đổi vai. Khi ước lượng – làm toán trước!- thấy cái khối h́nh thang con đê dài đủ 36m3 th́ dừng, đắp pô-luya theo hướng ngược lại. Xong th́ gọi nghiệm thu đến đo liền, để lâu đê thấm nước mà lùn xuống, mất khối lượng... Cứ thế, 36 m3 cả tổ, chia cho 6. Không ai một ḿnh vừa xắn,  vừa chuyền, vừa đắp mà đạt được 6 mét khối.”  Anh được chuyển qua khâu tiếp phẩm (đi chợ mua hàng cho tổ bếp), tôi chọc quê: “Theo lô-gíc th́ ai có năng lực ở khâu nào th́ sẽ ở luôn nơi ấy để... phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật. Có cần tui hót cho ông được...tiếp tục đắp đê không hả?”. Anh cười, gật gù: “Đúng ra nếu ai đó muốn thử thách loại người-sách-vở như  tụi ḿnh bằng cách giao ḿnh công việc chẳng dính ǵ với chữ nghĩa sách vỡ, th́ họ lầm. Có công việc chân tay nào, mà khi muốn làm cho tốt hơn lại không được phép vận dụng đến bộ năo, nếu như thật sự anh có bộ năo?”.

 

Ở một đội khác, lại gặp hai  cậu “đàn em” Văn khoa cũ, sau 30/4 chỉ được dạy học thêm ít tháng ở Bến Tre, một vùng rất kỳ thị dân trí thức cũ.  H.K. nói ở Nha Trang cũng khó thở như thế nên anh mới bỏ dạy. Lại gặp  Bích D., một phụ nữ Huế duyên dáng, vô tổ bếp sau 2 tháng chuyền đất.  H.K.(cũng dân Huế) nói nhỏ đây chính là Diễm trong Diễm xưa của T.C.S. Chị D. thố lộ ḿnh t́nh nguyện lao động chỉ để kiếm điểm, để có chút thành tích phấn đấu dính-bùn-dính-đất mà kể lể trong đơn bảo lănh cho chồng, một phó tỉnh trưởng, được học tập về sớm... Nhân vật Diễm nay làm việc rất tốt, c̣n có sáng kiến rủ chúng tôi và mấy nữ tu xin phép ban chỉ huy mở lớp Anh văn và Pháp văn. Đêm đêm, dưới ánh đèn dầu, người hiếu học đến gặp người muốn phục vụ bằng sở học của ḿnh, cùng nhau ôn luyện, tập tành một ít chữ nước ngoài...

 

Đến năm 77, chuyển thành nông trường quốc doanh, công trường biên chế những thanh niên xung phong và những sĩ quan  cải tạo mới về (do t́nh nguyện đi sản xuất) thành lao động dài hạn. Những người trí thức, tư sản, tu sĩ... đă đủ (hoặc dư ) thời hạn đăng kư lao động th́ được động viên ở lại, tiếp tục phục vụ... dài hạn!

 

Phải nói lời giă biệt thôi! Xem đơn xin nghỉ việc v́ lư do  “... muốn trở lại nghề dạy học cũ ở thành phố, cho đúng khả năng”, giám đốc nông trường nói thẳng: “ Trở lại nghề cũ? Nhớ quá khứ? Cái kiểu mấy anh cứ vừa đi tới mà vừa ngoáy lại phía sau, dễ vấp té lắm đó! Có giấy chứng nhận tham gia lao động do công trường cấp, cũng chưa chắc ở nội thành người ta tiếp nhận các anh! Mà Củ Chi cũng là thành phố, sao mấy anh không ở lại phục vụ?”. Tôi ít khoái kiểu ví von “vừa đi, vừa ngoáy th́... té” của ông ta nhưng phải công nhận ông không nói gạt về tiền đồ của chúng tôi. Sau nhiều khó khăn, chạy vạy, nhất là chuyện cắt hộ khẩu từ Củ Chi chuyển về nội thành, rồi kẻ trước người sau, chúng tôi trở về Sàig̣n. Vài anh chị quá nhớ nghề dạy học, vác đơn lên sở giáo dục. Tuy đă đi lao động t́nh nguyện nhưng“Trước đây đă bỏ nhiệm sở v́ lư do khó khăn, xa gia đ́nh...” ? Cán bộ ở sở đă gọi tội của đám thầy, cô giáo mất dạy là “vô tổ chức” và bác đơn.  Có gốc giáo sư  biệt phái, đă học xong cải tạo, th́ “ Chưa có chủ trương cho thầy giáo gốc sĩ quan ngụy được đứng lớp!”.

 

Lại thất nghiệp. Lại ăn bám cha mẹ, vợ con. Lại ngày ngày ghé Hội trí thức xem có được giới thiệu chỗ làm không. Lại cả ngày ở ngoài đường.  Bọn tôi mở café vĩa hè,  vừa bán vừa coi chừng bị hốt nên tôi đặt tên quán là Fất Fơ. Hay ngồi sửa giày dép, đi bỏ mối các loại bánh trái, café trộn bắp, hàng tạp phẩm... Lại có vài bạn đi bán... nước bọt, tức chạy mánh. Nghe tuy-dô ở đâu c̣n vài tấn hóa chất, mấy cái máy phát điện cũ, đồng hồ ODO c̣n gơ chuông.v.v.. là lập tức chạy kiếm đầu mua, thoả thuận được là ăn hoa hồng môi giới. Một bạn, dân Triết Đông, cũng đi bán nước bọt, nhưng cao trọng và kín đáo. Đó là chấm tử vi, chỉ lấy thù lao“tượng trưng”. Tôi bái phục v́ dần hồi anh trở thành nhân vật quan trọng, chính danh “thầy”. Nhiều người phải lặn lội t́m đến anh v́ họ cần xem tử vi coi số ḿnh có đi được không, tức là họ đi kiếm ở “thầy” một niềm hy vọng - hy vọng đơn xin ra đi được số mạng siêu h́nh chịu duyệt xét, giải quyết...

 

Cuối thập niên 70, chế độ đăi ngộ giới trí thức cũ có thoáng hơn chút đỉnh qua sự kiện Hội trí thức mở căn-tin bán bia hơi giá rẻ, phục vụ cho những người c̣n phải lui tới, nhờ vă cơ quan này bố trí, giới thiệu chỗ làm. Tất nhiên, vẫn đám kỹ sư, kỹ thuật viên thường được có chỗ làm sớm. Cũng tất nhiên, vẫn c̣n những người ngoài-đường-phố,  quả quyết tự lo cho ḿnh chứ không nhờ vă hội hiếc nào tuy bia hơi và mồi nhắm ở hội cũng được lắm!

 

Coi như  cái nh́n lạnh lẽo về trí thức cũ, trong đó có dân Văn khoa, đă có phần thay đổi nhưng một số trí thức cũng đă xuống ghe, thay đổi chỗ ở mất rồi! Ở  cái quán cóc lề đường làm điểm hẹn gặp nhau ngày ngày, bạn bè cứ dần hồi thưa vắng... Đến đây th́ câu chuyện về dân Văn khoa đành bị đứt quăng.