Từ hơn hai
tháng nay, theo dơi những cuộc tranh luận trên talawas về vụ Công
giáo đ̣i Ṭa Khâm và tiếp theo là những tranh căi về sự kiện Nhà thờ
Lớn Hà Nội được xây dựng trên phần đất Chùa Báo Thiên, tôi không khỏi
không choáng váng v́ sự đối chọi nhau giữa những bài có những hàng
tít bị coi là "khiêu khích" tuy nội dung từ tốn như "Đừng đánh lạc mục
tiêu, đừng đánh tráo chủ đề", hay "Tṛ phù phép đánh tráo..." của những
tác giả có lập trường "chống", và những bài phản biện có những hàng
tít vô thưởng vô phạt nhưng nội dung lại mang đầy tính cách cáo buộc
và hận thù chia rẽ tôn giáo của những tác giả có lập trường "thân".
Nhà thờ Lớn Hà Nội được xây dựng trên phần đất nào, trong hoàn cảnh
lịch sử nào, lẽ ra chỉ nên bàn căi trong mục lịch sử, văn hoá xă hội,
đă leo thang và trở thành một điểm nóng chính trị và tôn giáo. Sống
ở Paris, nơi tích lũy nhiều tài liệu có thể tham khảo được, tôi thử
đứng ngoài mọi lập trường để, chỉ căn cứ vào những tài liệu chính
xác, đối chiếu, kiểm chứng những luận chứng trái ngược nhau trong những
bài tranh luận kể trên và phân tích một cách khách quan những sự kiện
liên quan đến Công giáo đă thật sự xẩy ra trong thời kỳ Pháp đánh
chiếm Việt Nam.
Trước hết, theo những tài liệu lịch sử Pháp, tôi có đủ bằng
chứng xác nhận là Nhà thờ Lớn Hà Nội được xây dựng trên phần đất có
Chùa Báo Thiên.
Nhà thờ Lớn Hà Nội được xây dựng từ năm 1883 và được khánh thành 4
năm sau trong dịp lễ Giáng sinh 1887. Nhà thờ này được xây theo kiểu
tân gô-tích phỏng theo kiểu vẽ của Paul Abadie, kiến trúc sư nổi tiếng
Âu châu hồi cuối thế kỷ thứ XIX, người chuyên tái thiết và xây dựng
nhiều nhà thờ ở Pháp và nhiều nước khác với phong cách độc đáo gọi
là tân - Trung cổ. Nhà thờ nổi tiếng nhất mà ông Abadie đă vẽ kiểu
là thánh đường Thánh Tâm (la basilique du Sacré Coeur) trên đồi
Monmartre. Ai qua Paris cũng thường tới thăm thánh đường này, được
xây từ năm 1875 đến năm 1919 mới xong. Nhà thờ Lớn Hà Nội đă phá kỷ
lục thời đó về tốc độ xây dựng một nhà thờ – chỉ cần 4 năm, nhờ tiền
thu được qua xổ số giữa những người Pháp với nhau. Ở Âu châu thời
Trung cổ, xây một nhà thờ phải mấy trăm năm mới xong v́ cần nhiều thế
hệ góp công góp của.
Tuy nhiên, không có tài liệu nào nói rơ là Nhà thờ Lớn đă được
xây đúng chỗ có chính điện của Chùa Báo Thiên hay chỉ trên một phần
đất của khu chùa.
Theo những tài liệu tôi thâu thập được th́ Chùa Báo Thiên do vua Lư
Thánh Tông xây năm 1056–57 để kỷ niệm chiến thắng Chiêm Thành. Chùa
c̣n là một tu viện rất lớn và là nơi Lư Quốc Sư trụ tŕ.
Ngài tu ở chùa Khai Quốc trước khi đến Báo Thiên. Là tu viện
tất nhiên phải có nhiều khuông viện ("monastère" trong các tài liệu
Pháp) để cho các chú tiểu học đạo, đồng thời đất Chùa Báo Thiên phải
rất rộng lớn, không thể chỉ bằng diện tích một ngôi nhà nhỏ 300 mét
vuông như ông Lê Quang Vịnh đă khẳng định. Nhà thờ có thể được xây
trên một phần đất rộng lớn của Chùa nhưng không nhất thiết ở chỗ có
chính điện Chùa. Đây là một chi tiết rất quan trọng v́ nếu cố ư phá
chính điện Chùa để xây Nhà thờ lên trên th́ phải coi đó là một hành
động hoàn toàn xấu của các chức sắc Công giáo thời ấy muốn bỉ mặt những
người Phật giáo. Tôi chắc là không như vậy v́ trước khi xây Nhà thờ
Lớn, ở trên khoảng đất đó đă có một nhà thờ bằng gỗ (có h́nh c̣n để
lại) bị quân Cờ Đen đêm 15-5-1883 đột kích giết giáo dân và đốt cháy
(theo nhật kư của Marolles, sĩ quan phụ tá của Henri Rivière viết
ngày 16-5-1883). Ngoài ra kế cận Chùa Báo Thiên là phủ Chúa Trịnh
khi trước. Phủ Chúa rất rộng lớn gồm nhiều dinh thự hoàng tráng hơn
dinh thự Vua Lê nhiều. Theo một bản đồ vẽ năm 1770, Phủ Chúa là một
h́nh vuông giới hạn bởi những đường phố Lư Thường Kiệt, Quán Sứ,
Nguyễn Gia Thiều, Quang Trung bây giờ (tài liệu Philippe Papin). Năm
1786 Lê Chiêu Thống trả thù cho lệnh đốt Phủ Chúa, "khói lửa ngợp trời
10 ngày đêm liền vẫn c̣n cháy". Khu đất Phủ Chúa bị coi là đất "ngụy"
không ai được làm nhà, chỉ những kẻ bần cố thây vô gia cư lén lút
làm lều ở. Đất Nhà Chung bây giờ gồm cả đất Toà Khâm có lẽ thuộc về
phần đất ngụy bị bỏ trống hồi đó.
Những tài liệu được coi là đáng tin cậy đều khẳng định t́nh
trạng đổ nát của Chùa Báo Thiên; và chuyện Tháp Báo Thiên cao 80 mét
chỉ là một huyền thuyết.
Chỉ cần tŕnh độ toán lớp 7 cũng đủ biết là phải giầu trí tưởng tượng
lắm mới có thể nghĩ Tháp Báo Thiên "cao đến mức bóng tháp soi xuống
mặt hồ Hoàn Kiếm"như trong bài viết của một tác giả. Nghĩa là phải
cao cả ngàn mét! Tôi cũng không biết theo tài liệu nào mà Hội Khoa học
Lịch sử Việt Nam có thể khẳng định tháp cao 20 trượng tức là 80 mét.
Tôi nghĩ có lẽ có sự nhầm mét với thước ta: 80 thước ta bằng chừng
27 mét, cao bằng toà nhà hiện đại 10 tầng. Tôi thấy như vậy đă là
cao lắm. Thử so sánh với Tháp Phước Duyên 7 tầng, tượng trưng 7 kiếp
của Đức Phật – được xây trong khuôn viên Chùa Thiên Mụ (bằng gạch lấy
từ một ngôi đền của người Chàm) dưới thời Thiệu Trị năm 1884 –, cũng
chỉ cao 21 mét, bằng toà nhà 7–8 tầng. 80 mét là chiều cao của một
cao ốc hiện đại 33 tầng. Ông cha ta đă có kỹ thuật làm cần trục đem
gạch đá xây được tháp cao 80 mét cách đây 950 năm th́ Tháp Báo Thiên
phải sánh ngang 7 kỳ quan thế giới (để thành kỳ quan thứ 8)! Tôi đă
đi tham quan nhiều chùa chiền bên Tàu bên Nhật, và tôi không thấy
nơi nào có tháp cao tới 40 mét cả. Ngôi tháp nổi tiếng nhất Âu châu
là Tháp Pise xây cùng thời với Tháp Báo Thiên (1174–1350), gần 200
năm mới xong, cũng chỉ cao có 54 mét 50. Tháp bị nghiêng v́ bằng đá
nặng quá đất bị lún dần. Đó là tháp c̣n được xây ở vị trí đất liền
thổ trong thành Pise, chứ Tháp Báo Thiên xây gần sông Hồng trên đất
phù sa thời đường kính phải bao nhiêu, nền móng phải sâu đến độ nào,
phải bằng loại đá ǵ mới không bị ṃn dần mà sụp đổ?
Tôi cũng không thấy ảnh hay h́nh vẽ nào về Chùa Báo Thiên trong các
tài liệu Pháp, đặc biệt là trong số những ảnh chụp phong cảnh Hà Nội
năm 1883 của bác sĩ Hocquard tác giả cuốn Une campagne au Tonkin
hồi ấy. Một ngôi chùa to lớn như vậy dù trong t́nh trạng xuống cấp
cũng không thể qua mắt Hocquard, người đă để lại rất nhiều h́nh ảnh
Hà Nội như Chùa Báo Ân, Đền Ngọc Sơn, phố Hàng Bông, phố Hàng Gai,
đường vào Đồn Thủy, cửa ô Quan Chưởng v.v... Trong cuốn Lịch sử
Hà Nội (Histoire de Hanoi) xuất bản mới đây, Tiến sĩ
Philippe Papin, người làm luận án tiến sĩ về Hà Nội và là môt nhà Việt
Nam học nổi tiếng có viết rất nhiều sách về Việt Nam, nhân viên trường
Viễn Đông Bác Cổ Pháp sống ở Hà Nội từ 15 năm nay, có nói rơ là Chùa
Báo Thiên đă bị sụp đổ từ năm 1547 và không được trùng tu lại v́ Phật
giáo dưới triều Lê không c̣n được trọng vọng nữa. Đất chùa ban ngày
trở thành nơi họp chợ, ban đêm là chỗ tụ tập của những người hành khất
co quắp ôm nhau chết lạnh dưới những chơng bán thịt. Khi xây Nhà thờ
Lớn, những di tích c̣n lại đều bị hốt bỏ. Qua những sưu tầm của ông
Papin và được chứng nhận bởi những h́nh ông Hocquard chụp, quanh hồ
Hoàn Kiếm trước khi Pháp chiếm đóng Hà Nội chỉ c̣n hai đền đài: Chùa
Báo Ân và Đền Ngọc Sơn. Chùa Báo Ân cũng được gọi là Chùa Liên Tŕ
v́ có bể hoa sen được xây dựng bởi Tổng đốc Nguyễn Đăng Giai năm
1842, gồm 36 toà nhà, rất nhiều stupa
[1] và hơn 200 bức tượng bị Pháp phá bỏ năm 1886 để
xây Nhà Bưu điện. Khi bị phá, Chùa Báo Ân mới xây được 44 năm nên
trong h́nh Hocquard chụp năm 1883 trông c̣n mới và không thể coi là
cổ được. Theo tôi nghĩ có lẽ ông Nguyễn Đăng Giai làm chùa này để
thay thế Chùa Báo Thiên đă bị sụp đổ. Đền Ngọc Sơn cũng chỉ được thi
hào Nguyễn Văn Siêu quyên tiền xây lại năm 1865 khi đó cũng chưa có
cái cầu nữa. Nghĩa là không có đền đài ở Hà Nội nào mà không phải
trùng tu hay xây lại nhiều lắm là 100 năm sau cả. Bởi vậy Chùa Báo
Thiên xây cách đây gần 1000 năm mà bị sụp đổ hoàn toàn cũng là đúng.
Tôi cũng xin thêm là không có ai lẩn thẩn so sánh một ngôi chùa mới
xây 44 năm có h́nh ảnh rơ ràng như Chùa Báo Ân với một ngôi chùa đă
sụp đổ từ 300 năm trước, không biết h́nh thù ra sao, như ông Lư Khôi
Việt đă lí luận trong bài "Về Chùa Báo Thiên...".
Pháp có cần sự cấu kết của Công giáo để xâm chiếm Việt Nam
không?
Phân tích kỹ những lần Pháp can thiệp bằng vơ lực vào Việt Nam, chỉ
có một lần dưới Đệ nhị Đế chế Napoléon III là có sự hợp tác giữa một
giáo chức Pháp, Giám mục Pellerin, và Phó Đề đốc Rigault de
Genouilly để đánh Trà Sơn Đà Nẵng. Giám mục Pellerin âm mưu với
Rigault de Genouilly, viện cớ cứu giáo dân để có sự ủng hộ của Hoàng
hậu Eugénie vợ Napoléon III rất ngoan đạo, đánh Trà Sơn Đà Nẵng ngày
1-9-1858. Tuy cùng một toan tính nhưng mục đích của hai người khác
nhau. Giám mục Pellerin muốn đánh để làm áp lực với với Vua Tự Đức,
đ̣i quyền tự do giảng đạo. C̣n De Genouilly muốn có một căn cứ cho
tàu Pháp tự do thông thương. Pellerin lừa Genouilly nói là giáo dân
sẽ nổi lên trợ lực. Rút cục chờ đợi măi chả có giáo dân nào đến giúp
cả và liên quân Pháp - Y Pha Nho bị kẹt cứng ở Trà Sơn 5 tháng. Cho
là Pellerin đă nói láo, Genouilly tính bắt giam Pellerin, sau đuổi về
Hồng Kông (Taboulet, tr. 438–440) rồi quyết định rút hầu hết quân
lính khỏi Trà Sơn đi đánh Sài G̣n. Đó là lần đầu tiên cũng là lần cuối
có sự tham dự của giáo sĩ Gia Tô trong việc đánh chiếm nước ta và
cũng là một sự kiện chứng tỏ là giáo dân hồi ấy tuy bị tàn sát nhưng
cũng không v́ thế mà theo Tây phản lại đất nước.
Pháp đánh chiếm Việt Nam với mục đích ǵ?
Cần phải hiểu là nửa cuối thế kỷ XIX nền kinh tế tư bản các nước Anh,
Pháp bắt đầu phát triển, hàng hoá sản xuất cần phải có thị trường
tiêu thụ. Thị trường có nhiều triển vọng nhất là Trung Quốc. Nhưng
những đầu cầu xâm nhập thị trường Trung Quốc, không kể Hồng Kông,
như Quảng Đông và Thượng Hải đều nằm trong tay người Anh. Giới doanh
thương Pháp cần phải t́m một con đường mới để xâm nhập thị trường
Tàu mà không bị Anh án ngữ. Con đường độc nhất là xuyên qua Việt Nam
vào Vân Nam và từ đó có cả một thị trường to lớn là cả miền Tây và
miền Nam nước Tàu. Muốn vậy giới doanh thương Pháp phải cấu kết với
một lực lượng không những có nhiều phương tiện mà c̣n có nhiều thế lực
về chính trị v́ kiêm luôn Bộ Thuộc địa là Hải quân Pháp. So với chiến
tranh Pháp - Việt năm 1946 sau này, lịch sử đă diễn ra gần tương tự:
từ trận hải chiến Pháp - Việt đầu tiên ở Vịnh Đà Nẵng năm 1847 đến
Hoà ước Patenotre mất nước năm 1885, chỉ trong chưa đầy 40 năm nước
Pháp đă thay đổi chính thể bốn lần. Chính quyền Pháp ở Paris quá yếu
nên bọn hải quân ở Sài G̣n tha hồ lộng quyền. Chỉ từ khi có chế độ Đệ
tam Cộng hoà sau 1870, Pháp mới có chính sách thuộc địa rơ ràng. Trớ
trêu thay những người cầm đầu chế độ cộng hoà tiến bộ thuộc về phái
tả cấp tiến như Gambetta, Jules Ferry lại là những người cổ súy
chính sách thuộc địa tuy có thêm chiêu bài "reo rắc văn minh Pháp".
Đa số có chân trong Hội Tam Điểm, chống các giáo đoàn công giáo và cấm
không được mở trường dạy học kể cả ở thuộc địa để thế tục hoá nền học
vấn. Những nhân vật này cho tới nay vẫn được các đảng tả phái bên
Pháp đề cao. Cũng như hồi 1946 " thực dân" cấu kết với phái tả chứ
không phải với Công giáo.
Cũng cần nhắc lại vai tṛ của Francis Garnier, một sĩ quan hải quân
cấp úy trong việc xâm chiếm Việt Nam: Mục đích của tụi đô đốc Pháp
khi chiếm Sài G̣n là lấy Sài G̣n làm căn cứ để dùng sông Cửu Long
làm đường thông thương qua Tàu. Francis Garnier xung phong đi thám
hiểm trước với một vài đồng đội. Phải mất gần hai năm, Garnier mới tới
Vân Nam, và người chỉ huy hắn, Trung tá Doudart de Lagrée chết phải
kéo xác theo sông Dương Tử đem về. Garnier gặp Jean Dupuis ở bên Tàu,
được tên này khuyên con đường tiện nhất là ḍng sông Hồng. Francis
Garnier kết bè với Dupuis xin hải quân Pháp đi đánh Hà Nội năm 1873
để mở đường thông thương qua Tàu. Từ đó ư đồ xâm lăng của tụi cầm đầu
Pháp ở Sài G̣n cứ lớn dần để đi đến chỗ xâm lược toàn cơi Viêt Nam.
V́ có công như vậy nên tuy chỉ là một tên đại úy quèn, Francis
Garnier cũng được dựng tượng ở chỗ khá sang tại Paris, gần quán La
Closerie des Lilas nơi Lénine hay ngồi uống rượu.
Trong chương tŕnh biến Hà Nội thành một thành phố Pháp, thủ đô
của Đông Pháp, Giám mục Puginier có đóng vai tṛ chủ động trong việc
xây dựng Nhà thờ Lớn không?
Từ một miếng đất nhỏ bé 5 mẫu ta (chưa đầy 2 hectares) là Đồn Thủy,
được nhường cho Pháp năm 1875, Pháp cứ gậm nhấm lần lần và đến
năm1888, ép Vua Đồng Khánh phải nhường hoàn toàn cho Pháp Hà Nội và
hai thành phố khác là Hải Pḥng và Đà Nẵng. Thật ra đó chỉ là trên
giấy tờ chứ sau khi Henri Rivière đánh chiếm Hà Nội lần thứ hai năm
1882, Pháp muốn làm mưa làm gió ǵ ở Hà Nội cũng được. Pháp có truyền
thống như người La Mă là một khi là thành phố của ḿnh, Pháp xây dựng
lại như một thành phố Pháp. Bởi vậy những người Hà Nội tới một thành
phố Pháp không có cảm tưởng lạc lơng v́ thấy lại toà thị sảnh, nhà
hát thành phố, nhà thờ, nhà bưu điện, nhà ga... cùng một kiểu. Hà Nội
c̣n hơn các thành phố khác của Pháp ở chỗ được chọn làm thủ đô cho
toàn cơi Đông Pháp nên có nhiêu công thự nhắc nhở những công thự ở
Paris. Nhà hát Lớn Hà Nội cũng hao hao giống Nhà hát Garnier Paris
ngay cả về địa thế ở đầu một con đường lớn. So với tất cả những nhà
hát lớn của mọi thành phố khác của Pháp, Nhà hát Lớn Hà Nội to đẹp
hơn nhiều. Cũng như Nhà thờ Đức Bà ở Paris hai mặt trông ra sông
Seine, địa thế Nhà thờ Lớn Hà Nội trông ra hồ Hoàn Kiếm cũng là do sự
chọn lựa của kiến trúc sư vẽ kiểu chứ không phải theo ư muốn của
Giám mục Puginier. V́ là thủ đô nên những kiến trúc sư, kỹ sư được cử
sang xây dựng cũng là những nhân vật đă xây những công thự nổi tiếng
ở Paris như Eiffel làm cầu Long Biên chẳng hạn và nhiều nhà, nhiều
đường phố cũng được xây dựng phỏng theo kiểu Hausmann như ở Paris.
Kết luận
Tôi đă cố gắng giữ tư cách khách quan để chỉ dựa vào những tài liệu
được coi là chính xác ở Paris để kiểm chứng và phân tích những sự kiện
đă được nêu ra trong những cuộc tranh luận trên talawas. Chắc có nhiều
độc giả đồng t́nh với tôi là sự kiện Công giáo đ̣i Toà Khâm không
dính líu ǵ đến sự kiện Nhà thờ Lớn Hà Nội được xây dựng cách đây
111 năm. Nếu cứ cố t́nh nhập hai sự kiện vào nhau để tranh luận th́
tôi thấy những cuộc bàn căi sẽ sa lầy và không có lối thoát. Tôi thiết
tưởng phải nhân cơ hội này mà đ̣i hỏi chính quyền đưa ra những luật
lệ rơ ràng về nhà đất. Đó là vấn đề quan trọng số một liên quan đến
đời sống của mỗi người chúng ta.
©
2008 talawas
|