Trịnh Thanh Thủy (TTT):
Chào Giáo sư Trần Quang Hải.Gần đây trong một bài viết trên
VNExpress, nhạc sĩ Quốc Bảo có phát biểu rằng «Âm nhạc Việt Nam đang đuối
sức». Là một nhạc sĩ chuyên về nghệ thuật cổ truyền Việt Nam đương
đại,GS nghĩ thế nào về hai ngành nghề GS đang theo đuổi, liệu hai
ngành này có nguy cơ mai một hay sụp đổ không? Nó có kéo theo hệ thống
âm nhạc Việt Nam không?
GS Trần Quang Hải (TQH): «Âm nhạc Việt Nam đang đuối sức» theo
nhạc sĩ Quốc Bảo ư? Điều này chỉ đúng một phần nào theo hiện trạng của
nền tân nhạc trẻ Việt Nam tại quốc nội mà thôi. Đó là điều phải nhấn
mạnh chứ không thể nói một cách mơ hồ v́ tân nhạc Việt Nam từ trước
tới nay có rất nhiều bài bản đă đi vào đời sống người dân và đă lưu
lại trong ḷng hàng triệu người trong và ngoài nước từ hơn 50 năm như
«Biệt ly» (Doăn Mẫn), «Con thuyền không bến» (Đặng Thế Phong), «Đêm
Tàn Bến Ngự» (Dương Thiệu Tước), «Đêm Đông» (Nguyễn Văn Thương), «Chùa
Hương» (Hoàng Quư), «Mơ Hoa» (Hoàng Giác), «Gửi gió cho mây ngàn bay» (Tô
Vũ), v.v. Ngay cả hiện nay có hàng trăm nhạc sĩ sáng tác hàng ngh́n,
hàng chục ngh́n bài «nổi / ch́m» lẫn lộn từ khắp các nẻo đường Việt
Nam. Ngay tại hải ngoại, cũng có vài chục nhạc sĩ trẻ hăng say sáng
tác và một số ca khúc không dựa vào nhạc xứ nào hết mà rất được yêu
thích.
Sau khi Việt Nam bắt đầu mở cửa, trước những luồng nhạc trẻ Tây phương
(phần lớn là nhạc Mỹ, Anh, Pháp), và luôn cả nhạc trẻ Nhật, Đại Hàn,
Hồng Kông, Trung Quốc, Đài Loan và Thái Lan, các nhạc sĩ trẻ Việt Nam
tại quốc nội t́m nguồn cảm hứng qua các luồng sóng nhạc ngoại nhưng chưa
kịp «tiêu hóa» và lại phải «nuốt, ngốn» để sáng tác thật mau, thật
nhiều sáng tác mới dựa trên nhạc ngoại hầu cung ứng thị trường đang
trên đà thay đổi sở thích quá nhanh chóng. Và gần đây, nhạc quốc nội
xôn xao về vấn đề “đạo nhạc”. Trong số vài nhạc sĩ bị nghi vấn có Quốc
Bảo. NS Quốc Bảo là một nhạc sĩ đàn ghi-ta trong ban nhạc của cố NS Phạm
Trọng Cầu và là người dạy nhạc lư ở trường cao đẳng sư phạm. Anh đă
từng tự cho ḿnh ngang hàng với cố NS Trịnh Công Sơn, và c̣n tuyên bố
là «tôi ra sức cứu văn nền ca nhạc Việt Nam».
Tuy nhiên cả hai bài «T́nh thôi xót xa» (Bảo Chấn viết lời Việt trên
nhạc Nhật) và «Tuổi 16» (Quốc Bảo viết lời Việt trên ca khúc
Renaissance Fair) chỉ là ca khúc thông thời thị trường chưa được xếp
vào những thành tựu của tân nhạc Việt Nam.
Việc sao chép ca khúc ngoại quốc là hậu quả của nhu cầu của giới trẻ
trong nước đ̣i hỏi cái mới liên tục quá mau hơn đà phát triển tự nhiên,
và hiện tượng «siêu sao» đă làm đảo lộn đời sống. Nhạc trẻ không kịp
cung ứng nhu cầu quá vội vàng của giới trẻ. Mức sáng tác nhạc bị «chùn»
lại và nguồn hứng của các nhạc sĩ cũng cạn đi. Nhạc ngữ hết phù hợp
với sở thích giới trẻ. Lời không c̣n lăng mạn du dương như thời tiền
chiến mà là những ngôn từ ngớ ngẩn, ngây thơ, đôi khi trắng trợn, thiếu
tŕnh độ. Lời nhận xét của NS Quốc Bảo về sự đang đi xuống của âm nhạc
Việt Nam hoàn toàn thiếu suy nghĩ, nếu không nói là thiển cận, hấp
tấp. Tôi vừa ngạc nhiên lẫn thất vọng khi biết NS Quốc Bảo c̣n là một
nhà phê b́nh âm nhạc từ nhiều năm qua tại Sài G̣n và có uy tín đối với
giới trẻ và nhạc trẻ Việt Nam.
Là một nhạc sĩ nhạc truyền thống Việt Nam và nhạc đương đại Tây phương
từ hơn 40 năm tại Pháp, có thể tôi có một cái nh́n khác với một số nhạc
sĩ tại quốc nội. Đôi lúc, tôi nghĩ ḿnh được may mắn hơn người khác,
tỷ như:
1.
Tôi sinh ra trong một gia đ́nh nhạc sĩ cổ truyền từ hơn 150 năm, là đời
thứ 5 trong gia đ́nh họ Trần và được hấp thụ hai nền âm nhạc Đông Tây.
2.
Cái may mắn thứ hai là tôi được học suốt 10 năm, vừa thực tập vừa học
lư thuyết nhạc Á châu tại Trung tâm nghiên cứu nhạc Đông phương
(Centre of Studies for Oriental Music) tại Paris do thân phụ tôi làm
giám đốc. Tôi được học nhạc truyền thống Ả rập, nhạc Ba Tư, nhạc Ấn
độ, nhạc Trung quốc, Đại Hàn, Nhật, Nam Dương. Chính sự tiếp xúc trực
tiếp với những truyền thống nhạc dân tộc của các quốc gia Á châu qua
các nhạc khí mà tôi luyện tập đă làm giàu số vốn âm nhạc sẵn có trong
tôi, và mở rộng tầm mắt tôi trong việc sáng tác và tŕnh diễn.
3.
Cái may thứ ba là tôi học nhạc cổ điển Tây phương ở trường quốc gia âm
nhạc Sài G̣n (1955-61), và sau đó theo học lớp sáng tác nhạc điện
thanh (electro-acoustical music) năm 1965 với cố nhạc sư Pierre
Schaeffer, người sáng lập ra nhạc điện tử (electronic music), và nhạc
cụ thể (concrete music).
4.
Cái may thứ tư là tôi học môn nghiên cứu nhạc học (musicology) tại đại
học đường Sorbonne (1962-67) để có dịp nghe tất cả loại nhạc cổ điển
Tây phương từ thời Trung cổ tới đương đại (Schönberg, Xenakis, Boulez,
v.v.). Từ năm 1962 tới 1969 tôi học thêm bộ môn dân tộc nhạc học (ethnomusicology)
để khám phá gia tài âm nhạc truyền thống thế giới.
5.
Cái may thứ năm là tôi được đào tạo thành một nhà nghiên cứu nhạc dân
tộc tại Paris, thủ đô của văn hóa và văn minh thế giới, và tạo cả một
sự nghiệp âm nhạc từ hơn 40 năm qua. Tôi thuộc thế hệ tiên phong của
bộ môn nghiên cứu dân tộc nhạc học, tham gia tích cực vào phong trào
chấn hưng dân nhạc tại Pháp và Âu châu từ năm 1965 tới 1975.
6.
Cái may thứ sáu là tôi vừa là nhà nghiên cứu và vừa là nhạc sĩ tŕnh
diễn. Tôi đă tŕnh diễn trên 3.000 buổi tại hơn 60 quốc gia trên thế
giới, tham gia tại hơn 130 đại hội liên hoan nhạc truyền thống quốc
tế.
Về nhạc cổ truyền, cách đây 50 năm, ít có ai để ư tới nhạc cổ truyền
nói chung. Nhạc sĩ Ravi Shankar, một danh cầm đàn Sitar Ấn độ, đă
chinh phục Tây phương từ cuối thập niên 50. Ông c̣n là thầy của George
Harrisson (một nhạc sĩ của nhóm The Beatles), của John Coltrane
(Jazz). Ông đă làm vang danh nhạc Ấn độ khắp nơi trên thế giới. Ảnh hưởng
của nhạc Ấn độ có thể t́m thấy ở nhạc đương đại Âu Mỹ (sáng tác của
nhà soạn nhạc Pháp Jacques Charpentier), ở nhạc trẻ pop (The Beatles,
và nhiều nhóm nhạc pop khác trong thập niên 60 ở Anh Quốc). Nhạc cổ
truyền Nam Mỹ, đặc biệt của xứ Péru, Bolivia đă xâm chiếm thị trường
nhạc mới suốt thập niên 60. Rồi tới nhạc Phi Châu, nhạc RAI Ả rập, nhạc
du mục Gypsy Đông Âu trong thập niên 70 và 80. Hiện tượng nhạc thế
giới (World Music) được phát hiện vào giữa thập niên 80 là sự giao lưu
giữa nhạc cổ truyền và nhạc trẻ Tây phương đă giúp cho giới trẻ thế
giới khám phá những truyền thống âm nhạc cổ xưa của các lục địa. Gần đây
nhất, kỹ thuật hát đồng song thanh của dân Tuva, dân Mông cổ, và dân
Xhosa (Nam Phi) được thế giới khâm phục. Cách đây 30 năm, nguyên cả xứ
Tuva và xứ Mông cổ chỉ có khoảng vài chục người biết về kỹ thuật hát
hai giọng cùng lúc này. Năm 2004, tại hai quốc gia vừa kể có trên
3.000 người hát chuyên nghiệp và hàng năm đều có tổ chức đại hội liên
hoan hát đồng song thanh. Nhạc Phật giáo Tây Tạng rất được ưa chuộng
từ hơn 40 năm. Ống thổi Didjeridu của thổ dân Úc trở thành nhạc khí
rất được ưa thích tại Âu Mỹ từ 1990. Đàn môi Mông của miền thượng du
Bắc phần Việt Nam trở thành nhạc khí bán chạy nhất ở Âu Mỹ, đến nỗi có
một người Đức đă làm một trang nhà lấy tên là Đàn Môi chuyên bán đàn
môi Mông (www.danmoi.de),một phần lớn là nhờ vào sự biểu diễn đàn môi
Mông do tôi tŕnh diễn từ hơn 20 năm nay tại nhiều đại hội liên hoan
nhạc dân tộc trên thế giới. Nhạc đàn gamelan của Nam Dương, nhạc cung
đ́nh Gagaku, nhạc tuồng Kabuki, nhạc múa rối Bunraku, nhạc đàn tranh
koto của Nhật, nhạc cung đ́nh Ah Ak, nhạc đàn tranh kayakeum của Đại
Hàn, nhạc đàn cổ cầm Trung quốc, nhạc cung đ́nh Huế, ca trù, múa rối
nước của Việt Nam được thế giới ngưỡng mộ. Sự phát triển và bành trướng
nhạc cổ truyền Á châu và thế giới nói chung, và Việt Nam nói riêng, đă
cho thấy là nhạc dân tộc ngày càng được phổ biến rộng răi chứ không có
mai một hay sụp đổ...
Nhạc đương đại Tây phương được dạy tại hầu hết các trường quốc gia âm
nhạc khắp năm châu. Sự giao lưu giữa các nhạc ngữ cổ điển và dân gian
đă tạo một trường phái mới cho nền âm nhạc thế giới. Những nhà sáng
tác nhạc đương đại gốc Việt đang sống ở hải ngoại, có thể kể: Cung
Tiến, Nghiêm Phú Phi, Phan Quang Phục ở Hoa kỳ; Nguyễn Văn Tường (từ
trần 1996), Trương Tăng (từ trần 1989), Tôn Thất Tiết, Nguyễn Thiên
Đạo, Trần Quang Hải ở Pháp, Hoàng Ngọc-Tuấn, Nguyễn Mạnh Cường, Lê
Tuấn Hùng, Đặng Kim Hiền ở Úc châu. Chỉ có Trần Quang Hải, Hoàng
Ngọc-Tuấn, Lê Tuấn Hùng và Đặng Kim Hiền là vừa sáng tác và vừa tŕnh
diễn nhạc của ḿnh.
Gia đ́nh tôi (GS Trần Văn Khê, em gái tôi Trần Thị Thủy Ngọc và tôi)
đă đào tạo hàng trăm nhạc sinh Việt và ngoại quốc về đàn tranh tại
Pháp. Bạch Yến và tôi đă có mặt tại trên cả trăm đại hội liên hoan
nhạc quốc tế và tŕnh diễn cả ngàn chương tŕnh tại trên 60 quốc gia.
Nữ nhạc sĩ Phương Oanh và nhóm Phượng Ca, sau 35 năm kiên tŕ đă tạo
hàng ngh́n nhạc sinh đàn tranh và các nhạc khí khác tại Pháp, Bỉ, Thụy
Sĩ, Na Uy, Úc, Canada, và luôn cả ở Việt Nam. Nữ nhạc sĩ Quỳnh Hạnh
cũng mở lớp dạy đàn tranh, bầu, trưng, thu hút khá nhiều nhạc sinh tại
Paris. Nhóm Hồng Lạc ở Canada, nhạc sĩ Phạm Đức Thành, nhạc sĩ Khắc
Chí, Bích Ngọc ở Canada, nhạc sĩ Nguyễn Thuyết Phong, nữ nhạc sĩ Ngọc
Dung, nhóm Lạc Việt ở Hoa kỳ, đă có nhiều sinh hoạt nhạc dân tộc ở
khắp Bắc Mỹ.
Nh́n vào nhạc quốc nội, sự phục hưng hay tái sinh của nhạc cung đ́nh
Huế (Ngày 7 tháng 11. 2003, UNESCO ban tặng một giấy khen nh́n nhận
Nhạc Cung Đ́nh Huế là «kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu của nhân
loại» - Chef d’œuvre de l’oral et de l’héritage intangible de
l’humanité / Masterpiece of the Oral and Intangible Heritage of
Humanity), ca trù, chầu văn, múa rối nước và sự phát triển đàn tranh
(nhờ sự đóng góp của nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo, nữ nhạc sĩ Phạm Thúy
Hoan, nữ nhạc sĩ Phương Bảo, hai nữ nhạc sĩ trẻ Hải Phượng và Thanh
Thủy) đă làm cho nhạc cổ truyền khởi sắc với nhiều chuyến đi tŕnh
diễn ở nước ngoài từ 15 năm nay. Các nhóm nhạc sĩ trẻ như Phù Đổng,
Tre Xanh, nhạc sĩ Đỗ Lộc, Phạm Thúy Hoan, Hải Phượng, ban ca trù Thái
Hà, đoàn múa rối nước Hà nội và Thành phố HCM, cũng như nhiều nghệ sĩ
cải lương có mặt thường xuyên tại nhiều đại hội liên hoan quốc tế.
Viện âm nhạc Hà nội (32 Nguyễn Thái Học, Hà Nội) là nơi tàng trữ hàng
chục ngàn bài hát dân ca, xuất bản nhiều CD, VCD nhạc dân tộc Kinh và
các sắc tộc Thái, Gia Rai, Ba-Na, v.v., sách nghiên cứu âm nhạc nói
chung, và một pḥng triển lăm hàng trăm nhạc khí dân tộc. Bao nhiêu đó
đủ cho thấy nhạc cổ truyền Việt Nam vẫn c̣n sống mạnh tại hải ngoại
cũng như trong quốc nội.
TTT: Tôi được biết Giáo Sư có nghiên cứu, thí nghiệm và
giảng dạy về kỹ thuật hát đồng song thanh (overtone singing). Giáo Sư
có thể cho độc giả biết nó là ǵ? Và kỹ thuật này có ứng dụng được vào
âm nhạc Việt Nam không? Giả dụ một bài t́nh ca hay dân ca chẳng hạn?
TQH: Hát đồng song thanh là hát cùng một lúc ra hai giọng ở hai
cao độ khác nhau. Một giọng trầm phát ra từ cổ họng tức là giọng chánh
(fundamental sound) và một giọng bổng thoát ra từ những bồi âm
(overtones) của giọng chánh. Mỗi bồi âm mang một số chỉ định thứ tự
cao độ. Điểm quan trọng cần phải biết trong cách hát đồng song thanh
là làm sao phải giữ nguyên một cao độ cố định trong khi đó phải di
chuyển các bồi âm theo một giai điệu nào đó tùy theo bài bản lựa chọn
trong giới hạn giữa bồi âm số 4 và bồi âm số 16. Người Mông cổ và
người Tuva chuyên sử dụng bồi âm từ số 6 tới 13. Nếu tôi bắt đầu giọng
chánh là Do th́ các bồi âm 6, 7, 8, 9, 10, 12, 13 sẽ có cao độ là Sol,
La, Do, Ré, Mi, Sol tức là các nốt của một âm giai ngũ cung. Những bài
hát thuộc âm giai ngũ cung của các quốc gia khác đều có thể hát với âm
giai ngũ cung tạo bởi bồi âm, chẳng hạn như bài “Amazing Grace”. Cái
khó thứ ba trong cách hát đồng song thanh là làm sao hăm giọng chánh
cho thật nhỏ để cho bồi âm được nghe lớn hơn. Cách này có thể luyện
tập với phương pháp nín hơi trong cách lặn dưới nước
Hát đồng song thanh (danh từ này do tôi đề nghị có nghĩa là hát hai
giọng cùng một lúc) trong khi người Mông cổ và người Tuva dùng từ ngữ
KHOOMEI (có nghĩa là “giọng hầu”). Hát đồng song thanh được phát triển
tại Âu châu từ hơn 30 năm nay nhờ vào công tŕnh nghiên cứu của tôi
khởi xướng từ năm 1969 tại Paris. Thế giới âm nhạc Tây phương chỉ biết
nghệ thuật tạo bồi âm của các nhà sư Tây Tạng thuộc nhánh Gyuto của
trường phái Gelugpa (Dalai Lama thuộc trường phái này) qua cách tụng
kinh giọng thật trầm và phát ra bồi âm số 10 (quăng 3 trưởng trên 3
bát độ đối với cao độ của giọng chánh của người hát). Nhà soạn nhạc
Đức Stockhausen soạn một ca khúc “Stimmung” cho 6 giọng vào năm 1968.
Nhưng nghệ thuật hát lạ lùng này chưa được phát triển cho lắm. Phải
đợi tới năm 1974, khi dĩa hát “Chants mongols et bouriates” do hăng
dĩa Vogue phát hành, theo tài liệu thu thanh của GS Roberte Hamayon và
do tôi lựa chọn, rồi khi tôi đă khắc phục kỹ thuật này và bắt đầu dạy
và phổ biến khắp Âu châu, thế giới nhạc Tây phương bắt đầu khám phá
hát đồng song thanh. Đầu thập niên 80, hát đồng song thanh Tuva được
phát hiện qua đại hội liên hoan giọng hầu tại xứ Tuva và một vài ca sĩ
Tuva giới thiệu cách hát này tại Âu Mỹ. Lúc đầu tại Mông cổ và Tuva
chỉ có vài chục ca sĩ hát kỹ thuật giọng hầu khoomei. Bây giờ (2004),
có tới vài ngàn ca sĩ chuyên môn hát khoomei tŕnh diễn khắp các nơi
trên thế giới, nổi tiếng nhất của Mông cổ là các ca sĩ Sundui,
Tserendava, Ganbold, các nhóm Eschiglen, Altai Kanga, các ca sĩ Genadi
Tumat, Mongush Kandar, các nhóm Huun Huur Tu, Shu De, Tuva Ensemble,
v.v.
Năm 1995, tôi được mời làm chủ tịch cuộc thi hát giọng hầu tại thủ đô
Kyzyl, xứ Tuva, Tây bá lợi Á, với sự tham gia của trên 300 ca sĩ Tuva,
và trên 100 thí sinh thuộc các quốc gia Mông cổ, Altai, Khakassia,
Nhựt Bổn, Pháp, Ḥa Lan, Đức, Canada, Hoa Kỳ. Tôi được mời làm hội
viên danh dự của hội ca sĩ hát khoomei của Tuva, hội viên danh dự của
Trung tâm quốc tế giọng hầu (International Center of Khoomei). Từ hơn
10 năm nay, đề tài hát đồng song thanh được một số sinh viên nghiên
cứu dân tộc nhạc học chọn làm đề tài cho thạc sĩ (M.A. / Maitrise),
tiến sĩ (Ph.D. / Doctorat). Tôi đă theo dơi và hướng dẫn trên 10 luận
án về đề tài này do các sinh viên thuộc các trường đại học Pháp,
Đức,Ḥa Lan, Ư, Na Uy, Nhật. Hát đồng song thanh có liên hệ tới âm
thanh học (acoustics), y học (phoniatrics), âm nhạc điều trị học
(music therapy), tâm lư điều trị học (psychotherapy) và sáng tác
(composition).
Trong lĩnh vực dạy ca hát, tôi đă dạy nhiều lớp master classes tại các
trường âm nhạc nổi tiếng thế giới như trựng âm nhạc Tshaikovsky ở
Moscow (Nga), Paris (Pháp), trường âm nhạc hoàng gia Nhật ở Tokyo
(Nhật), trường âm nhạc hoàng gia ở Rotterdam (Ḥa Lan), hàn lâm nhạc
viện ở Basel (Thụy Sĩ). Một số đông các ca sĩ chuyên nghiệp Tây phương
đă theo học với tôi để học cách giữ hơi, hăm hơi, lấy hơi. Trong cách
hát đồng song thanh, cách thở ra hít vào hoàn toàn khác với kỹ thuật
dạy về thở ở các trường âm nhạc.
Trong lĩnh vực trị bịnh, hát đồng song thanh giúp cho người nhút nhát
bớt nhút nhát, người bị cà lăm bớt cà lăm (nói lắp), mang lại tự tin
cho người tập loại hát này. Ngoài ra loại hát này giúp cho người học
Yoga có hơi thở dài hơn, cho người học khí công có nhiều điện lực hơn
và cho người học Thiền có nhiều nghị lực tập trung tư tưởng trong khi
ngồi thiền.
Từ trên 30 năm nay, có hơn 7000 người theo học với tôi từ 60 quốc gia.
Hiện nay có khoảng 20 người học tṛ Tây phương theo học với tôi đă mở
lớp dạy hát đồng song thanh và bành trướng môn phái hát đồng song
thanh do tôi đề xướng tại Âu châu từ 1972.
Áp dụng vào trong nhạc Việt Nam: Về nhạc đương đại, tôi là người đầu
tiên dùng hát đồng song thanh trong nhạc điện thanh qua bài “Về Nguồn”
soạn chung với cố nhạc sĩ Nguyễn văn Tường từ năm 1972 và tŕnh diễn
lần đầu vào năm 1975. Sau đó Lê Tuấn Hùng tại Melbourne (Úc), rồi
Hoàng Ngọc-Tuấn tại Sydney (Úc) có dùng hát đồng song thanh trong
những sáng tác mới. Trong dân nhạc Việt Nam, tôi có thu bài “C̣ lả”
với kỹ thuật hát đồng song thanh trong dĩa 33 ṿng “Music of Vietnam /
Tran quang Hai & Hoang Mong Thuy”, hăng Albatros sản xuất, Milan, Ư,
1978.
Các bạn có thể vào đây xem video về kỹ thuật hát đồng song thanh:
http://www.canalu.com/canalu/affiche_programme.php?
programme_id=1440745852&chaine_habillage=512
&vHtml=0&cycle_id=&num_sequence=&largeur=1024
Dùng quang tuyến X để xem bên trong miệng khi hát đồng song thanh:
http://media.cines.fr/ramgen/3517/real/
canalu/science/1440745852/1440745852-1.rm
http://honque.com/PhongVan/pvTQH/
SongThanh_LaMelodieDesHarmoniques.mp3
http://honque.com/PhongVan/pvTQH/
SongThanh_LaMelodieDesHarmoniques.ra
TTT: Giáo sư đang hoạt động trên hai lĩnh vực song song: “âm
nhạc cổ truyền” và “âm nhạc đương đại”. Theo Giáo sư, hai hoạt động
này đóng góp thế nào cho âm nhạc hải ngoại nói riêng và âm nhạc Việt
Nam nói chung? Có thể nào chúng ta vừa bảo tồn và giới thiệu di sản âm
nhạc cổ truyền với thế giới, vừa phát huy sáng tạo hay ứng dụng nó vào
âm nhạc đương đại? Có khó khăn không?
TQH: Với trên 3.000 buổi tŕnh diễn nhạc Việt Nam ở hải ngoại
từ 1966 tới nay, tôi lúc đầu và từ 1978 cùng với Bạch Yến đă mang ḍng
nhạc Việt qua tiếng đàn tranh, đàn c̣, sinh tiền, muỗng, đàn môi và
giọng hát đến với cộng đồng quốc tế và Việt Nam để cho thấy sự phong
phú của nhạc dân tộc. Những buổi thuyết tŕnh tại các đại học đường
hay hội thảo quốc tế giúp cho người ngoại quốc hiểu thêm về sự đa dạng
của các loại nhạc Việt và các sắc tộc sống trên lănh thổ Việt Nam. Đó
là h́nh thức giới thiệu nhạc Việt Nam với thế giới.
Muốn hội nhập vào thế giới âm nhạc Tây phương, tôi đă sáng tác giai
điệu mới dựa trên các thang âm ngũ cung, chế biến tiết tấu mới lạ dựa
trên kỹ thuật đánh trống Việt Nam (toong, tà- roong, táng, cắc, rắc,
trắc, sậm, tịch, rù, v.v.), áp dụng vào kỹ thuật gơ muỗng (với trên 10
kỹ thuật mới do tôi sáng tạo). Tôi đă dùng tiếng đàn tranh, đàn môi,
muỗng, hát đồng song thanh trong nhạc điện thanh (electro-acoustical
music) do cố nhạc sĩ Nguyễn Văn Tường và tôi hợp tác với nhau trong
nhạc phẩm “Về Nguồn” tŕnh bày lần đầu tiên vào tháng 2. 1975 tại
thành phố Champigny, Pháp. Tôi đă ứng dụng tiết tấu muỗng vào nhạc tùy
hứng tiết tấu để tŕnh diễn với trống zarb của Ba Tư (1972) với free
jazz đối thoại với saxo tenor (1982) (dĩa hát 33 ṿng “SHAMAN”, hăng
Didjeridou Records DJD 001, Paris, 1983, tôi cùng nhạc sĩ Misha Lobko
song tấu tùy hứng), đàn môi, hát đồng song thanh với ống thổi
Didjeridu của thổ dân Úc (1997) (dĩa CD “Philip Peris / Didjeridu”,
hăng Les 5 Planètes, Paris, 1997, tôi cùng Philip Peris tùy hứng qua
hai nhạc phẩm trong CD này). Tôi đă ḥa đàn môi Việt với các loại đàn
môi Na Uy, Anh quốc, Nhật Bản trong một CD chuyên về đàn môi xuất bản
tại Na Uy (2000). Tôi sử dụng kỹ thuật hát đồng song thanh để đệm cách
tụng kinh Mantra Tây Tạng (2004) tại đại hội liên hoan nhạc quốc tế
tại Genova, Ư. Tôi đă dùng âm thanh của đàn tranh, đàn bầu, đàn c̣,
muỗng, sinh tiền, đàn môi, hát đồng song thanh cho nhạc các phim
thương mại của các nhà viết nhạc phim Pháp như Vladimir Cosma,
Philippe Sarde, Maurice Jarre, Gabriel Yared, Jean Claude Petit từ
1970 tới nay.
Lúc đầu tiên, tôi gặp rất nhiều khó khăn v́ không biết phải làm thế
nào để cho thế giới biết tới nhạc Việt Nam. Với thời gian và học hỏi
trường kỳ, cũng như với tuổi đời và sự tham gia hàng năm tại các
chương tŕnh dân nhạc thế giới, tôi đă gọt giũa những ǵ thừa thăi,
không ích lợi mà chỉ giữ lại những tinh hoa sáng giá và đặc trưng của
nhạc Việt. Kinh nghiệm được rút tỉa qua hàng ngàn buổi tŕnh diễn nhạc
Việt cho trẻ em Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ và Na Uy đă giúp tôi làm một chương
tŕnh hoàn hảo để chinh phục người ngoại quốc qua các buổi giới thiệu
nhạc cổ truyền Việt Nam.
TTT: Xin Giáo Sư cho độc giả biết thêm về ḿnh và những hoạt
động cùng thành tựu trong lĩnh vực Giáo sư hoạt động.
TQH: Những hoạt động của tôi từ 40 năm qua được kê khai trên
các trang nhà (www.tranquanghai.org;
http://tranquanghai.phapviet.com). Đứng về mặt nghiên cứu , tôi là hội
viên của nhiều hội nghiên cứu âm nhạc quốc tế như Society for
Ethnomusicology (Hoa kỳ từ năm 1969), Asian Music Society (Hoa kỳ từ
năm 1980), International Council for Traditional Music (Hoa kỳ từ năm
1969), European Seminar for Ethnomusicology (Đức từ năm 1983), Société
Francaise d’Ethnomusicologie (sáng lập viên từ năm 1985),
International Society for Musicology (Thụy Sĩ từ năm 1977),
International Society of Sound Archives (Na Uy từ năm 1978 tới 1995).
Tôi vào làm việc cho Trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học (National
Center for Scientific Research) của Pháp từ năm 1968, chuyên về ngành
dân tộc nhạc học thuộc nhóm nghiên cứu nhạc dân tộc có trụ sở tại
Musée de l’Homme (Viện Bảo Tàng Con Người) ớ Paris quận 16. Nơi đây
tôi được đặc trách giao phó về nhạc Việt Nam và nhạc sắc tộc ở Việt
Nam. Sau đó tôi chuyên về nghiên cứu các kỹ thuật giọng hát trên thế
giới và trở thành chuyên gia về hát đồng song thanh có uy thế nhất
trên thế giới. Tôi được mời dạy tại trên 100 trường đại học ở khắp năm
châu, tham gia trên 50 hội nghị quốc tế về âm nhạc, viết cho tự điển
âm nhạc New Grove Dictionary of Music and Musicians (ấn bản 1980 và
2002) và nhiều tự điển âm nhạc khác ở Âu châu, viết 4 quyển sách về
nhạc thế giới, có bài viết trong 12 quyển sách tập thể về nhạc truyền
thống (xuất bản tại Pháp, Hoa kỳ, Đức, Lituania, Ư, Anh Quốc, Nhật,
Việt Nam) và trên 400 bài viết về nghiên cứu âm nhạc bằng tiếng Pháp,
Anh và Việt. Tôi đă thực hiện chung với một nhà nghiên cứu dân tộc
nhạc học gốc Thụy Sĩ tên là Hugo Zemp một cuốn phim 16 ly tựa là “ Le
chant des harmoniques” (the Song of Harmonics / Bài hát bồi âm vào năm
1989) đă gặt hái 4 giải thưởng quốc tế. Năm 2004, tôi đồng thực hiện
với Luc Souvet một DVD về hát đồng song thanh tựa là “Le chant
diphonique” do Trung tâm quốc gia tài liệu sư phạm (CNDP – Centre
National de Documentation Pédagogique) của đảo La Réunion, Pháp sản
xuất. Ngoài ra tôi hướng dẫn trên 10 luận án về hát đồng song thanh
của các sinh viên thuộc đại học Pháp, Đức, Ư và Na Uy.
Về tŕnh diễn âm nhạc với tư cách nhạc sĩ, tôi đă tham gia trên 150
đại hội liên hoan nhạc cổ truyền quốc tế, tŕnh diễn trên 3.000 buổi
giới thiệu nhạc Việt Nam tại 60 quốc gia cùng với Bạch Yến. Chúng tôi
đă diễn trên 1.500 buổi cho học sinh các trường tiểu trung và đại học
do các cơ quan chính phủ các nước Na Uy (Rikskonsertene), Pháp
(Jeunesses Musicales de France JMF), Bỉ (Jeunesses Musicales de
Belgique JMB), Thụy Sĩ (Jeunesses Musicales Suisses JMS), Úc châu (25
chương tŕnh tại các tỉnh Melbourne, Sydney, Brisbane, Perth). Đối với
cộng đồng người Việt hải ngoại, mỗi năm chúng tôi dành 10 chương tŕnh
giới thiệu nhạc dân tộc tại những nơi có người Việt cư ngụ từ gần 30
năm qua.
Về sáng tác nhạc, tôi là hội viên của hội tác quyền Pháp (SACEM –
Société des Auteurs, Compositeurs et Editeurs de la Musique) từ năm
1980. Số lượng bài hát đủ các loại (tân nhạc, nhạc cho đàn tranh, đàn
môi, đàn bầu, hát đồng song thanh, nhạc điện thanh, nhạc tùy hứng)
tổng cộng trên 500 bài đă được cầu chứng. Ngoài ra tôi c̣n là hội viên
của hai cơ quan bảo vệ nghệ sĩ tŕnh diễn của Pháp (ADIDAM, và
SPEDIDAM).
Về mặt báo chí, tôi viết cho nhiều báo nghiên cứu nhạc dân tộc của
nhiều xứ trên thế giới. Ngoài ra tôi viết cho trên 30 tờ báo Việt ngữ
ở hải ngoại, đặc biệt có nhiều bài đăng ở các trang nhà trên mạng lưới
như
www.vietnhac.org;
www.honque.com;
www.talawas.org.
Về mặt tiểu sử, tôi là cố vấn quốc tế (international adviser) của hai
hội tiểu sử nổi tiếng nhất thế giới là WHO’S WHO của Hoa kỳ (American
Biographical Institute ABI) và WHO’S WHO của Anh Quốc (International
Biographical Centre IBC). Từ 25 năm nay, tôi đă đề nghị nhiều người
Việt có tiểu sử ở một trong 26 loại tự điển Who’s Who. Tiểu sử của tôi
có trong 15 loại tự điển tiểu sử Who’s Who, quyển Vẻ Vang Dân Việt
(1996) Trọng Minh, quyển Fils et Filles du Việt Nam (1997) Trọng Minh,
Tuyển Tập Nghệ Sĩ (1995) của Trường Kỳ. Tôi là nhạc sĩ Việt Nam chuyên
nghiệp đàn cho nhạc các phim của Pháp về nhạc có màu sắc Á châu có tên
trong quyển Guide Du Show Business từ 30 năm nay.
Về mặt các giải thưởng quốc tế, tôi đă thu thập trên 30 giải thưởng,
đặc biệt là những giải thưởng sau đây:
1967: Giải Vua Muỗng (King of Spoons) tại Cambridge Folk Music
Festival
1983: Giải thưởng của Hàn lâm viện dĩa hát Charles Cros cho dĩa hát
“Vietnam / Tran Quang Hai & Bach Yen” (hăng dĩa SM, Pháp)
1986: Huy chương vàng của Hàn lâm viện văn hóa Á châu, Pháp
1990: Giải thưởng ưu hạng của Đại hội liên hoan quốc tế về Phim nghiên
cứu tại Parnu, Estonia cho cuốn phim “Le chant des harmoniques” (Bài
hát bồi âm) do tôi là đồng tác giả, diễn viên chánh và nhạc sĩ sáng
tác nhạc cho phim
1990: Giải thưởng phim hay nhứt về dân tộc nhạc học của Hàn lâm viện
khoa hoc Estonia cho phim “Le Chant des Harmoniques”
1990: Giải thưởng về nghiên cứu khoa học của đại hội liên hoan quốc tế
phim nghiên cứu cho phim “Le chant des harmoniques”, Palaiseau, Pháp .
1991: Giải thưởng ưu hạng Northern Telecom của đại hội liên hoan quốc
tế phim khoa học của Québec cho phim “Le chant des Harmoniques”,
Montréal, Canada.
1991: Giải thưởng Van Laurens của British Association of the Voice và
Ferens Institute, Luân đôn, Anh quốc
1995: Giải thưởng đặc biệt về hát đồng song thanh, đại hội liên hoan
quốc tế hát đồng song thanh, Kyzyl, Tuva
1996: Huy chương thủy tinh (Medal of Cristal) của Trung Tâm Quốc gia
nghiên cứu khoa học, Pháp
1997: Giải thưởng của Hàn lâm viện dĩa hát Charles Cros cho CD Voices
of the World, Pháp .
1998: Huy chương công dân danh dự thành phố Limeil Brévannes, Pháp
2002: Bắc đẩu bội tinh (Legion d’Honneur) của Pháp
TTT: Công việc bảo tồn, phát huy và sáng tạo âm nhạc cổ
truyền Việt Nam thật khó nhọc và lớn lao. Giáo sư có ai tiếp sức
không? Giáo sư có ước vọng ǵ trong tương lai? Nếu có thể Giáo sư sẽ
làm được ǵ cho nền âm nhạc Việt Nam?
TQH: Đối với nhạc cổ truyền Việt Nam, ở hải ngoại tôi không có
ai tiếp nối. Điều rất dễ hiểu, học nhạc không phải là đối tượng của đa
số người Việt di tản. Âm nhạc chỉ là thú tiêu khiểu hơn là cứu cánh
trong cuộc đời. Tôi nghĩ là sự phát huy nhạc cổ truyền Việt Nam phải
từ trong xứ Việt Nam chứ không thể từ bên ngoài đưa vào. Bổn phận của
tôi chỉ là dọn chỗ, lót đường để cho người ngoại quốc khám phá và t́m
hiểu nhạc Việt thêm khi có dịp viếng thăm đất nước Việt Nam. Mặt khác
là mang lại cho những trẻ em sinh ra và lớn lên ở hải ngoại những h́nh
ảnh âm thanh của văn hóa Việt để các em đừng quên cội nguồn. Sau đó
khi các em có dịp quay về quê hương, sẽ không bị bỡ ngỡ.
Ước vọng của tôi là một ngày nào đó tôi có dịp trở về quê hương với
điều kiện thuận tiện, tôi sẽ mang lại cho tất cả những trẻ em Việt Nam
hay những sinh viên âm nhạc những kinh nghiệm mà tôi đă thu thập ở hải
ngoại, trao lại gia tài âm nhạc mà tôi đă lĩnh hội, hấp thụ suốt cả
cuộc đời cho dân tộc Việt. Chỉ có ở Việt Nam là tôi hy vọng t́m được
người thừa kế di sản âm nhạc tôi để lại. Ngày đó chưa biết là lúc nào,
nhưng tôi tin rằng sẽ có ngày đó trước khi tôi vĩnh viễn ra đi.
© 2004 talawas
|