Chiều chủ nhật nhân lúc rảnh, tôi lấy CD Người con gái trong tranh
của Hoàng Thị Bích Ngọc ra nghe lại. Say sưa với những ca từ đẹp và nhẹ
như tơ uốn lượn bềnh bồng trên cung điệu réo rắt của Violin, tôi thấy
ḿnh chơi vơi trong ḷng chảo âm sắc độc đáo đầy tính sáng tạo trong
lối hoà âm và phối khí của Duy Cường.
Tôi cảm thấy ḿnh giàu có và hạnh phúc. Hạnh phúc v́ được nghe một CD
hay. Giàu có v́ có cơ hội được thưởng thức bức hoạ lập thể đa sắc, đa
h́nh, đa văn hoá của âm nhạc Việt Nam hải ngoại.
Tôi chợt liên tưởng tới nhạc sĩ Quốc Bảo (QB) với bài viết
Nhạc sĩ Quốc Bảo nói về nhạc hải ngoại
được đăng ngày 24/5/2004 trên VnExpress, tôi thấy ḿnh sung sướng hơn
nhạc sĩ QB v́ trong bao màu sắc tươi đẹp khác nhau ông chỉ nh́n được
màu đỏ chói lọi trong một vài sản phẩm âm nhạc có tính cách thương mại
của chương tŕnh Thúy Nga Paris trên bức tranh đa dạng, đa sắc, đa văn
hoá âm nhạc hải ngoại. Chắc có lẽ nhạc sĩ Quốc Bảo chưa từng sống ở
hải ngoại hay tiếp xúc nhiều với các nhạc sĩ cũng như giới thưởng ngoạn
âm nhạc hải ngoại nên ông mới có cái nh́n về nhạc sĩ và âm nhạc hải
ngoại như trong bài viết trên.
Những ǵ bên ngoài Việt Nam là hải ngoạị. Hải ngoại bao gồm nhiều nơi
trên thế giới hiện người Việt tị nạn đang sinh sống. V́ tính quá bao
quát của địa dư nên các nhạc sĩ ở rải rác khắp nơi trên thế giới, mỗi
người hùng cứ một phương. Gom họ lại để làm thống kê cũng khó như việc
biết đến tên tuổi của họ vậy.
Ngồi ôn lại kư ức thư viện âm nhạc hải ngoại của ḿnh, tôi thấy ḿnh
may mắn và ước ǵ QB có được cái may mắn ấy. Tôi hănh diện về thư viện
âm nhạc hải ngoại v́ nó phong phú và đầy ắp. Đầy ắp sản phẩm âm nhạc
với hàng ngàn băng nhựa, đĩa CD, video do nhiều nhạc sĩ từ khắp mọi
nơi sáng tác và đóng góp. Tôi vui v́ sau gần ba mươi năm xa xứ người
Việt vẫn bảo tồn và phát huy được một nền âm nhạc hải ngoại đa dạng,
đa văn hoá. Đa dạng v́ nó kết hợp nhiều ḍng (luồng) âm nhạc khác nhau.
Đa văn hoá v́ mỗi nhạc sĩ sinh sống ở mỗi nơi khác nhau không những
chịu ảnh hưởng văn hoá gốc của ḿnh c̣n thấm nhuần văn hoá địa phương
ḿnh sinh sống nên không ít th́ nhiều đứa con nghệ thuật của họ cũng
có tinh thần đa văn hoá. Tinh thần này cũng phù hợp với đường lối tư
duy hậu hiện đại (post-modernism) của tiến tŕnh toàn cầu hoá âm nhạc
đang phát triển trên thế giới. Nghĩa là âm nhạc thế giới sẽ trở thành
một thế giới đa văn hoá mở rộng cho các quốc gia, mọi dân tộc đến với
nhau để trao đối, học hỏi, thâu thái những cái đặc thù của nhau mà
không ai phải từ bỏ cái “gốc” của ḿnh.
Tôi có đọc một bài tổng kết bằng Anh ngữ rất công phu và đầy đủ về âm
nhạc và đời sống âm nhạc hải ngoại sau năm 1975 của nhạc sĩ Trần Quang
Hải. Dựa theo tài liệu trên, tôi có thể tạm chia nền âm nhạc hải ngoại
sau 1975 làm 3 ḍng chính: nhạc cổ truyền, nhạc cổ điển & cận đại Tây
phương và tân nhạc.
-
Nhạc cổ truyền:
-
Bao gồm nhạc cổ truyền và cải lương. Nhạc cổ truyền hải ngoại tuy
không được giới trẻ ưa chuộng nhiều nhưng vẫn được ǵn giữ và tiếp
tục tŕnh diễn đến ngày nay v́ nhu cầu bảo tồn bản sắc văn hoá đặc
thù Việt Nam. Nhạc sĩ tŕnh diễn và sáng tác (Musicians and
Composers): Trần Quang Hải, Nguyễn Thuyết Phong, Nguyễn Đ́nh Nghĩa,
Lữ Liên, Quỳnh Hạnh, Ngọc Dung, Phương Oanh, Phạm Đức Thành, Khắc
Chí, v.v.
-
Nhạc cận đại Tây
phương (Western Contemporary
Music)và nhạc cổ điển Tây phương
(Classical Music):
Có thể nói ḍng nhạc này mới bắt đầu phát triển nhưng cũng có sức
thu hút người Việt rất mạnh. Nhạc sĩ tŕnh diễn và sáng tác: Nguyễn
Văn Tường , Nguyễn Thiện Đạo, Tôn Thất Tiết, Trương Tăng, Trần Quang
Hải, Cung Tiến, Hoàng Ngọc-Tuấn, Phạm Quang Tuấn, Trụ Vũ, Hồ Đăng
Long, Vũ Nhật Tân, Nguyễn Mạnh Cường, Lê Tuấn Hùng, Đặng Kim Hiền,
Phan Quang Phục, Trinh Bạch, Nguyên Lê (jazz), Duy Cường, Vũ Cường,
Trần Chúc (Ca Đoàn Ngàn Khơi), Lê Văn Khoa (Hội Hiếu Nhạc Việt Mỹ -The
Vietnamese American Philharmonic Association), Đặng Huy Hoàng, Lưu
Trọng Đạt, Huỳnh Hữu Đoan, Đỗ Thu Giang, Đỗ Quân Phong, Đặng Thái
Sơn, Vũ Tôn B́nh, Nghiêm Phú Phi, v.v.
-
Tân nhạc:
Có thể nói đây là ḍng chính của âm nhạc hải ngoại v́ nó đa dạng, được
yêu chuộng và phát triển mạnh mẽ. Chúng ta có thể phân nó ra những
ḍng phụ:
-
Nhạc hoài hương:
ḍng nhạc mang tâm trạng luyến tiếc quá khứ, nhớ nhung quê hương.
Nhạc sĩ sáng tác: Nam Lộc, Nguyễn Đ́nh Toàn, Phạm Duy, Trầm Tử
Thiêng (từ trần năm 2000), Song Ngọc, Lam Phương, v.v.
-
Ngục Ca: Nói về
những người tù cải tạo. Nhạc sĩ tŕnh diễn và sáng tác: Phạm Duy (phổ
thơ Nguyễn Chí Thiện), Hà Thúc Sinh, v.v.
-
Bi Ca: khóc thương
cho thảm kịch đớn đau cùng cực của người vượt biển t́m tự do, xót
xa cho những thân phận Việt Nam tha phương tị nạn. Nhạc sĩ sáng
tác: Việt Dzũng, Nguyệt Ánh, Phạm Duy, v.v.
-
Hưng Ca, Du Ca
và Dân Ca: ḍng nhạc đối kháng, phục hưng đất nước, nói lên hiện
thực đời sống và nỗi khát khao cùng lư tưởng của tuổi trẻ hải ngoại.
Nhạc sĩ sáng tác: Phạm Duy, Hà Thúc Sinh, Việt Dzũng, Nguyệt Ánh,
Phan Văn Hưng, Châu Đ́nh An, Khúc Lan, Nguyễn Đức Quang, Nguyễn
Hữu Nghĩa, Phan Ni Tấn, Nguyễn Công Anh, Phan Kiên, Nguyễn Quyết
Thắng, Trần Đ́nh Quân, Nguyễn Văn Thành, v.v.
-
Ḍng nhạc “new
wave” và nhạc phim bộ Trung Hoa. Nhạc được sáng tác theo thể điệu
“new wave” và phim bộ Hồng Kông, Đài Loan.
-
Nhạc tiền chiến.
Sự tái sinh của ḍng nhạc tiền chiến làm sống lại một thời đại Sài
G̣n vang bóng.
-
Nhạc T́nh ca: Đây
là gịng nhạc phong phú nhất nói về t́nh yêu. Nhạc sĩ tŕnh diễn
và sáng tác: những nhạc sĩ đă từ trần như Phạm Đ́nh Chương (1993),
Trần Văn Trạch (1994), Hoàng Trọng (1998), Văn Phụng (1999), Lê
Uyên Phương (1999), Ngọc Bích (2001), Hoàng Thi Thơ (2001), Nhật
Bằng (2004), Duy Khánh (2003), Vô Thường (2003), mdtt, Xuân Lôi,
Xuân Tiên, Lương Ngọc Châu, Phạm Duy, Đan Thọ, Vân Sơn Trường, Lê
Mộng Nguyên, Lê Dinh, Vũ Thành An, Cung Tiến, Trần Quang Hải, Ngô
Thụy Miên, Từ Công Phụng, Vơ Tá Hân, Trần Quảng Nam, Trịnh Nam
Sơn, Tùng Giang, Vũ Đức Nghiêm, Nhật Vũ, Phạm Anh Dũng, Nguyên
Bích, Hoàng Việt Khanh, Nguyễn Phước Nguyên, Tạ Văn Phước, Nguyễn
Hiếu Anh, Như Thu Nguyên, Mai Đức Vinh, Mai Anh Việt, Mai Anh
Tuấn, Bảo Trâm, Nguyên Chương, Hoàng Quốc Bảo, Hoàng Vỹ, Hoàng Kim
Chi, Nguyễn Thiện Doăn, Lê Văn Thành, Vũ Hữu Toàn, Cát Biển, Lê
Xuân Hân, Mỹ Ngọc, Lê Tín Hương, Nguyên Nhu, Nguyễn Trọng Khôi,
Nguyễn Tuấn Phước, Trần Duy Việt, Linh Phương, Nhật Trung, Hoàng
Trọng Thụy, Trọng Nghĩa, Quách Vĩnh Thiên, Trang Thanh Trúc, Linh
Chi, Vũ Thái Ḥa, Nguyễn Minh Châu, Mộng Trang, Nguyễn Linh Quang,
Lê Như Quốc Khánh, Duy Thiện, Hàn Lệ Nhân, Ngô Minh Khánh, Lê Khắc
Thanh Hoài, Jazzy Dạ Lam, Quách Nam Dung, Phan Văn Hưng, Nguyên Chương,
Trần Duy Đức, Trần Thụy Minh, Minh Thao, Anh Tú, Ian Bùi, Nguyễn
Tiến Dũng, Thơ Thơ, Nguyễn Công Hùng, v.v.
-
Nhạc Pop: bao
gồm Pop ngoại quốc và Việt. Theo định nghĩa, cũng như cái tên gọi,
Pop được viết tắt từ chữ “popular”, tức là phổ thông, đại chúng,
được nhiều người biết đến. Giới trẻ đặc biệt ưa chuộng loại nhạc
này. Đặc tính của nó là giản dị, dễ nghe, dễ nhớ, theo thị hiếu
của đại chúng, và nhạc cụ làm nền phần lớn là synthesizer. Người
thưởng ngoạn thường chỉ chú ư đến phong cách tŕnh diễn, quần áo,
lối nhảy và vẻ đẹp của ca sĩ hơn là giai điệu và ca từ của nhạc
Pop. Nhạc sĩ sáng tác tŕnh diễn: Nhóm ASIA4, nhóm Heart2, Hevin
và Kristine Sa, Sỹ Đan, Tú Minh, Vũ Tuấn Đức, Trúc Hồ, Trúc Sinh,
Trọng Nghĩa, Đức Huy, Trịnh Nam Sơn, Diệu Hương, v.v.
Trong bài viết của nhạc sĩ QB, ông có nhắc đến nhạc trẻ và các nhạc sĩ
trẻ hải ngoạị. Nhạc trẻ là một khái niệm khá mơ hồ. Nhạc trẻ và nhạc
sĩ trẻ cũng như thơ trẻ và thi sĩ trẻ, dường như cách gọi này chỉ có ở
Việt Nam. Ở hải ngoại người ta chia âm nhạc thành từng ḍng và các nhạc
sĩ đi chung với ḍng nhạc đó chứ ít khi nào họ chia theo cái mốc thời
gian của người thưởng ngoạn tỷ như cái nghĩa nhạc trẻ dành cho giới
trẻ nghe. Tôi không nên lan man thêm về từ “nhạc trẻ” rồi bàn luận dài
ḍng cách dùng từ này đúng hay sai mà có lẽ nên chấp nhận một giải
thích tương đối như "nhạc trẻ" như một phong cách, một ḍng nhạc, hoàn
toàn không có nghĩa là nó c̣n trẻ hay chỉ dành cho giới trẻ. Nó chỉ có
ư nghĩa phân biệt với các ḍng nhạc như nhạc cổ truyền hay nhạc cận
đại Tây phương.
V́ vậy tôi xin xếp hạng và đồng hoá nó với nhạc Pop v́ những đặc tính
chung của nhạc trẻ giống như nhạc Pop.
Vậy nhạc sĩ trẻ? Họ là ai? Tôi đoán, chắc QB muốn nói đến những người
trẻ khoảng dưới bốn mươi, viết, sáng tác và tŕnh diễn nhạc trẻ.
Những người vào lứa tuổi hai mươi, phần lớn sinh ra và lớn lên ở hải
ngoại. Họ nói và sử dụng ngôn ngữ nơi họ đang sống là ngôn ngữ chính
và tiếng Việt biến thành ngôn ngữ phụ. Tiếng Việt đối với họ là một
thử thách lâu dài. Nhưng không phải nói như thế là tất cả lớp người
trẻ sinh ra tại hải ngoại đều có vốn liếng Việt ngữ nghèo nàn. Cũng có
người đọc và viết tiếng Việt rất lưu loát. Phần c̣n lại ngoài hai mươi
hoặc trên một chút đều rành rẽ tiếng Việt nhất là những người mới sang
định cư sau này.
Viết, tŕnh diễn và sáng tác nhạc Việt là sự chọn lựa riêng của từng
người. Có nhiều nhạc sĩ bước hẳn vào ḍng chính âm nhạc Âu Mỹ như nhóm
Heart2Exit sáng tác và tŕnh diễn nhạc hip hop, R&B, ballad, rap,
soul, and a twist of heart với sự pha trộn nhạc cụ và văn hoá Việt Nam.
Nhóm ASIA4 cũng vậy, họ viết cả nhạc pop Mỹ và Việt tŕnh diễn ở Mỹ và
cả Á Châụ.
Tại Canada có Hevin và Kristine Sa, vũ, viết và tŕnh diễn nhạc pop ở
Hoa Kỳ, Canada, Taiwan, Australia và The UK. Họ quan niệm bước hẳn vào
ḍng chính âm nhạc Âu Mỹ là một cơ hội cho người Việt bước hẳn vào thị
trường âm nhạc quốc tế. Họ ước mơ sau khi thành công họ sẽ viết cả nhạc
Việt khi có cơ hộị. Tất cả đều thừa nhận văn hoá Việt Nam có ảnh hưởng
trực tiếp trong những sáng tác của họ.
Một số nhạc sĩ bước vào ḍng nhạc cận đại Tây Phương, rất thành công
và nổi tiếng như Phan Quang Phục đă đoạt giải âm nhạc The Prize of
Rome năm 1988. Anh đă được xem như một trong 6 nhạc sĩ trẻ sáng tác có
tài năng nhất Hoa Kỳ. Anh có bằng bác sĩ âm nhạc tại đại học Michigan
và dạy sáng tác ở đại học Mỹ. Trịnh Bạch, Hoàng Ngọc-Tuấn, Phạm Quang
Tuấn cũng vậy, họ đều gây được những tiếng vang trong cộng đồng quốc
tế.
Như tôi đă tŕnh bày ở trên, hải ngoại quá bao la nên tôi không kể ra
hết được số các nhạc sĩ ở khắp nơi, đây chỉ là một số nhạc sĩ tôi biết
và nghe đến qua các CD, băng nhựa và Internet. Tôi biết chắc rằng mỗi
cộng đồng đều có người Việt sinh hoạt âm nhạc nghệ thuật, thật lấy làm
tiếc khi c̣n có bao nhiêu nhạc sĩ mà tôi chưa có phương tiện để biết
đến.
Sau khi phân loại âm nhạc hải ngoại ngỏ hầu giúp bạn đọc có cái nh́n
tổng quát về âm nhạc hải ngoại, tôi cũng bàn thêm về nhạc trẻ. Chắc
bạn đọc có thể nh́n thấy nhạc Pop hay nhạc trẻ chỉ là một mảng màu đỏ
nhỏ bé trong bức tranh nhiều màu sắc của âm nhạc hải ngoại. V́ tính đa
dạng này, nếu chúng ta chỉ xem, nghe vài bài nhạc trẻ trong chương
tŕnh Thúy Nga Paris rồi đi đến kết luận như QB đă phê b́nh th́ thật
thiếu công bằng cho âm nhạc hải ngoại quá. Nó giống chuyện người mù
xem voi vậy.
Ở hải ngoại có nhiều trung tâm sản xuất âm nhạc mà Thúy Nga Paris và
Asia là hai trung
tâm lớn nhất. Các ca, nhạc sĩ mới xuất hiện sẽ có nhiều cơ hội nổi
danh nếu được hai trung tâm này chú ư và nâng đỡ.
Sản phẩm của Thúy Nga, tuy gần đây có nhiều tính thương mại, chiều
theo thị hiếu đại
chúng nhưng được dàn dựng công phu, nghệ thuật và tốn kém. Tôi ghi
nhận công sức của họ trong việc đem lại những chương tŕnh âm nhạc
giải trí súc tích, tuy nhiên họ chưa bao giờ đại diện cho âm nhạc hay
giới thưởng ngoạn nào tại hải ngoạị (Chẳng lẽ lấy một chương tŕnh
video nhạc thương mại nào đó tại Việt Nam để đánh giá giá trị âm nhạc
Việt Nam hiện nay?)
C̣n việc QB nhận định rằng Thúy Nga và Asia dùng nhạc quốc nội mới
sáng tác trong sản phẩm nghệ thuật của họ. Điều này chỉ đúng với Thúy
Nga v́ Thuư Nga theo sát thị hiếu đại chúng, Asia th́ không. Asia có
nét riêng trong chương tŕnh của họ và dường như chưa hoặc rất ít khi
nào đem những bài hát mới sáng tác trong nước vào chương tŕnh.
Trở lại việc phê b́nh ngôn ngữ nhạc trẻ hải ngoại của QB. Lời phê b́nh
nhạc trẻ hải ngoại đơn giản, lời lẽ ít trau chuốt, ư tưởng nghèo nàn,
thiếu sâu sắc, của QB, nó cũng na ná như việc chúng ta phàn nàn tại
sao con voi th́ quá to, con kiến sao mà bé thế vậy.
Đặc tính của nhạc trẻ cũng như nhạc Pop là phổ thông, dễ nhớ, dễ hiểu,
thời thượng, đáp ứng được nhu cầu nghe và nh́n của giới trẻ. Đối tượng
của nhạc trẻ là những người trẻ đam mê, sôi động và mau chán. Họ thích
được xem ca sĩ vừa tŕnh diễn, vừa múa, hát nên họ không đ̣i hỏi những
tiết tấu quá cầu kỳ phức tạp, ngôn từ trau chuốt sâu xa, chỉ cần dễ
nghe, dễ nhớ. Người viết nhạc trẻ đều dựa trên những đặc tính này mà
viết. Thường th́ nhạc sĩ trẻ viết lên những ǵ họ thấy, nghe và hiểu
theo lối tư duy đơn thuần của ḿnh về t́nh yêu và cuộc sống v́ họ chưa
trải qua và chiêm nghiệm. v́ họ chưa có vốn sống sâu sắc.
Một vài nhạc sĩ trẻ hải ngoại khi sáng tác, dùng ca từ có h́nh ảnh Sài
G̣n hay Việt Nam trong nhạc phẩm của họ, bị QB phê b́nh là tâm cảm
dựng lên thiếu cơ sở, giả tạo, ư tưởng phiến diện, kỳ quặc, méo mó.
Tôi nghĩ QB hơi khe khắt và kỳ thị trong cách phê b́nh của ḿnh. Quốc
Bảo làm như h́nh ảnh Sài G̣n hay Việt Nam chỉ dành riêng cho người
trong nước được dùng, nhạc sĩ hải ngoại không được dùng hay dùng mà chưa
sống hay chưa thấy là méo mó, giả tạo. Nếu bảo là chưa thấy những h́nh
ảnh này, làm sao QB khẳng định rằng họ chưa bao giờ thấy. Giả sử nếu
họ chưa sống, chưa thấy, th́ việc họ vay mượn h́nh ảnh Việt Nam làm
nền cho tác phẩm của ḿnh, tôi nghĩ đó là một điều tốt đáng khen hơn
là kết tội hoặc chê trách.V́ sao? V́ nếu họ là những người trẻ lớn lên
ở hải ngoại dù chưa biết quê hương Việt Nam là ǵ mà vẫn nghĩ đến và
biết đem những h́nh ảnh trừu tượng, hư cấu đó vào tác phẩm của ḿnh
th́ chúng ta những người đă may mắn được thấy, được sống phải khích lệ,
hănh diện hơn là chỉ trích, phê phán gay gắt. Tôi thấy nó chỉ giống
hành động một nhà văn dùng những h́nh ảnh hư cấu (ngoài những dữ kiện
thật) trong truyện của ḿnh.
Ông QB nhận định thêm, để che giấu vốn tiếng Việt ít ỏi của ḿnh, các
nhạc sĩ hải ngoại chọn cách pha Anh ngữ vào bài hát. Tôi nghĩ điều này
không phổ biến và nếu có th́ v́ dụng ư thay v́ thiếu ngôn từ
Cuối cùng ông kết luận: “Tôi cho rằng tâm lư người Việt vẫn muốn yên
tâm bằng các nghề bác sĩ, kỹ sư hơn là học nhạc và làm nhạc sĩ. Nếu
không trang bị được cho ḿnh đủ vốn kiến thức, kỹ thuật cũng như niềm
đam mê cháy bỏng, một nhạc sĩ a ma tơ chưa chắc đă lập thân nổi trong
cộng đồng người Việt, chứ đừng nói đến thị trường âm nhạc bản xứ. Hơn
nữa, bao giờ tâm lư người xa xứ cũng bị đè nặng mặc cảm thua kém trước
nền âm nhạc phát triển quá lớn mạnh ở Âu Mỹ, và sẽ rất hiếm hoi cho sự
trỗi dậy mạnh mẽ của một thiên tài lưu vong.”
Ông QB đă lẫn lộn giữa việc sáng tác nhạc Việt hải ngoại và việc học
âm nhạc. Đây là hai việc hoàn toàn khác nhau. Học nhạc để trở thành nhạc
sĩ chuyên nghiệp chưa chắc sẽ trở thành nhạc sĩ tài danh. Một nhạc sĩ
amatơ không cắp sách tới trường học âm nhạc mà tự học, nếu có năng
khiếu và thiên tài cũng có thể nổi tiếng lẫy lừng.
Để trao đổi thêm thông tin, tôi xin nói thêm về việc học nhạc ở hải
ngoại để các độc giả trong nước rơ.
Theo tôi biết, việc này đă và đang xảy ra ở Hoa Kỳ nơi tôi định cư
(nơi khác th́ tôi không rơ). Cứ trung b́nh theo tôi nhận xét, khoảng
ít nhất 60% gia đ́nh Việt Nam khá giả ở Mỹ cho con cái đi học Piano,
Violin thêm tại các trung tâm dạy nhạc tư. Số tiền chi phí học nhạc
riêng này rất cao, khoảng trên dưới 60 đô la một giờ. Ngoài ra tại các
trường trung học, từ lớp 6 trở lên trẻ em đều có môn nghệ thuật trong
giáo tŕnh và các em có thể chọn lựa môn âm nhạc nếu thích. Nghĩa là
trẻ em từ bậc trung học đă trang bị sẵn tại trường vốn kiến thức âm nhạc
của ḿnh để khi lên đại học có thể bước hẳn vào chuyên ngành nếu chúng
thích. V́ vậy giới thưởng ngoạn có kiến thức âm nhạc ở Hoa Kỳ rất cao.
Nếu một nhạc sĩ trẻ quyết định bước vào thế giới sáng tác âm nhạc, tôi
không tin rằng họ không có một kiến thức kỹ thật âm nhạc vững vàng.
Nếu khiếm khuyết họ có thể đi học thêm tại các đại học cộng đồng mà
chi phí rất hạ, nếu có tiền họ có thể đi học tư ở các trung tâm dạy nhạc
nổi tiếng điạ phương.
Phần lớn các nhạc sĩ Việt Nam ở hải ngoại đều là những nhạc sĩ nghiệp
dư, nghĩa là âm nhạc không phải là nghề chính có thể nuôi sống họ. Họ
học nhạc, sáng tác nhạc với tinh thần học hỏi và yêu mến nghệ thuật
hơn là mong muốn nổi tiếng và sống nhờ tiếng tăm của ḿnh. Do đó, t́nh
trạng sáng tác để sống c̣n, không phải nhu cầu, nên tính thương mại và
chiều theo thị hiếu đại chúng ít hơn trong nhạc phẩm của họ. Những tác
phẩm sáng tạo hay, lừng lẫy thường không phải những tác phẩm chiều
theo thị hiếu quần chúng.
Thiên tài âm nhạc là một tài năng đầy sáng tạo, nổi trội và vươn ra
tới tầm vóc quốc tế. Ông QB tỏ vẻ lo lắng và bi quan cho một sự khó có
thể trỗi dậy của một thiên tài âm nhạc hải ngoại v́ mặc cảm thua kém ở
xứ người. Sự quan tâm này của ông khiến tôi ngồi ôn lại trong gần 80
triệu người Việt trong nước có thiên tài âm nhạc nào nổi trội và lẫy
lừng tiếng tăm vang vọng quốc tế chưa và trong số khoảng 2 triệu người
Việt hải ngoại có ai xứng danh thiên tài âm nhạc không?
Tôi, một người không rành rẽ âm nhạc cho lắm, nên không dám đánh giá
hay dùng từ “thiên tài âm nhạc” bừa băi. Tuy nhiên tôi rất ngưỡng mộ
những người đă có công ǵn giữ, phát huy, giới thiệu và vinh danh âm
nhạc Việt Nam với cộng đồng quốc tế như Giáo sư Nguyễn Thuyết Phong(Hoa
Kỳ), giáo sư Trần Văn Khê (Pháp), giáo sư Trần Quang Hải (Pháp). Giáo
sư Tiến sĩ Nguyễn Thuyết Phong là người đă được National Endowment for
the Arts trao tặng danh hiệu “Di sản quốc gia”. Ông đă được tổng thống
Bill Clinton tiếp đón tại White House. Ông đồng thời giữ chức vụ chủ
tịch Hội Quốc Tế nghiên cứu Âm Nhạc Việt Nam. Giáo sư Tiến sĩ Trần Văn
Khê là cựu giám đốc nghiên cứu (Director of research) thuộc trung tâm
quốc gia nghiên cứu khoa học CNRS, Giảng sư đại học Sorbonne của
Paris, Hội viên danh dự The International Music Council (UNESCO), Hội
viên the European Academy of the Sciences, huy chương Officier des
Arts et des Lettres của Pháp. Giáo sư tiến sĩ Trần Quang Hải nhận huy
chương vàng âm nhạc của the Asian Cultural Academy, The Cristal Medal
of the National Center for Scientific Research, làm việc với the
National Center for Scientific Research (CNRS) ở Pháp, huy chương bắc
đẩu bội tinh (Chevalier de la Légion d’Honneur) của tổng thống Pháp
Jacques Chirac ban tặng. Ngoài ra ông c̣n nhận hơn 20 giải âm nhạc
quốc tế khác tại hơn 120 đại hội liên hoan âm nhạc quốc tế
(International Music Festivals) ở 60 quốc gia trên thế giới từ 1970
tới nay. Ngoài ra ở Pháp c̣n có Nguyễn Thiện Đạo, nhạc sĩ sáng tác
lừng danh, Tôn Thất Tiết , nhạc sĩ sáng tác nổi tiếng viết nhạc cho 3
cuốn phim của đạo diễn Trần Anh Hùng (Mùi đu đủ xanh, Xích lô,
v.v.) và Guitar Nguyên Lê nổi tiếng nhạc jazz, Nguyễn Mạnh Cường đoạt
giải sáng tác The Asia Pacific Festival và Composers Conference ở New
Zealand.
Tất cả đă góp phần làm tươi đẹp bức tranh âm nhạc hải ngoại.
Ngày nay, với sự giao lưu văn hoá trong và ngoài nước, trong nền âm nhạc
Việt Nam nói chung đang xảy ra những sự kiện đáng ghi nhận.
Giới trẻ quốc nội thích coi PBN và những chương tŕnh nhạc hải ngoại.
Thị trường ca nhạc hải ngoại bị xao động v́ các nghệ sĩ quốc nội liên
tiếp bay sang hải ngoại lưu diễn v́ tiền thù lao “bay sô” cao. Ngược
lại cũng có các nghệ sĩ hải ngoại về Việt Nam tŕnh diễn. Thị trường
âm nhạc Việt Nam trở thành thị trường mở v́ băng, đĩa, sản phẩm văn
hoá trong nước cũng như ngoài nước luân lưu trao đổi.
Quan sát sự việc trên, bỗng dưng ḷng tôi nở hoa một giấc mơ. Mơ trong
tương lai, khi tôi hay bất cứ người viết nào khi đặt bút xuống viết về
âm nhạc không c̣n dùng từ “âm nhạc hải ngoại” hay “âm nhạ quốc nội”,
mà chỉ dùng độc một từ. Âm Nhạc Việt Nam. Tất cả chúng ta, dù sống
trong nước hay hải ngoại, phương nam hay phương bắc, đầu vĩ tuyến này
hay cuối vĩ tuyến kia, đều mang chung một ḍng máu Việt, nói cùng một
ngôn ngữ, khoác chung một màu da vàng. Các ca nhạc sĩ của chúng ta
cùng viết và hát một thứ tiếng, có chung một tâm hồn, một nỗi niềm và
t́nh tự dân tộc. Tại sao lại phải phân biệt, chia rẽ và kỳ thị? Sự
trỗi dậy hay thành công của một thiên tài dù trong hay ngoài nước đều
làm chúng ta hănh diện như nhau v́ quốc tế sẽ trầm trồ đó là người
Việt chứ họ sẽ không phân biệt đó là người Việt hải ngoại hay quốc nội.
Xưa nay nghệ thuật không có biên giới và nó đă đánh đổ những rào cản
bất đồng chính kiến. Tôi ước mong âm nhạc, nghệ thuật sẽ là một thông
điệp hoà b́nh và nhân ái mang người Việt chúng ta xích lại gần nhau
hơn.
Tài liệu tham khảo
|