Sau lần viếng thăm Việt Nam gần đây, nh́n thấy một Việt Nam thay đổi
ở nhiều mặt, nhất là mặt kiến trúc, tôi nhận ra kiến trúc quê hương
tôi đang bước vào một khúc quanh lạ lẫm. Tôi đi từ Bắc chí Nam phát
hiện nhiều căn nhà cao tầng sừng sững mọc lên, những cao ốc mỏng
mảnh h́nh ống, đủ màu vui mắt chen chúc nhau gợi tôi nhớ những căn
nhà technique color trong khu phố dành cho thế giới trẻ thơ ở
Disneyland.
Nh́n vào sự phát triển nhanh chóng của ngành xây dựng hiện nay, tôi
vừa mừng vừa lo. Không biết sự tiến hoá này sẽ thay đổi bộ mặt kiến
trúc Việt Nam từ thành thị tới nông thôn đến đâu? Không biết có ảnh
hưởng trực tiếp đến các di sản quốc gia hay lịch sử v́ tính hiện đại
của nó không? Bản sắc dân tộc có là một định hướng chỉ nam trong các
dự án kế hoạch xây dựng không?
Năm 1989, Ông Sturgis có viết: “Để hiểu thấu nơi chốn chúng ta ở
ngày nay, chúng ta cần biết rơ nơi ta ở trong quá khứ”. Tuy nhiên
ước muốn bảo tồn lịch sử văn hoá và ước muốn phát triển, đổi mới,
làm lại lịch sử đă làm chúng ta do dự. Không tăng trưởng, chúng ta
sẽ vướng vào sự chậm tiến, tŕ trệ. V́ vậy chúng ta cần phải hiểu
quá khứ trong khi theo đuổi sự tăng trưởng. Điều tối quan trọng là
tôn trọng và bảo tồn những cái chúng ta có trong quá khứ.
Tính “chuộng mới nới cũ” và “chạy cho kịp trào lưu” của người dân
Việt hiện nay góp phần không nhỏ trong việc tạo dựng nền một nền
kiến trúc Việt Nam đặc thù hay lai căng. Chúng ta đừng nên rẻ rúng
cái cũ hay xem thường kiến trúc của một đô thị hoặc nông thôn v́
kiến trúc của nó thể hiện nền văn hoá đặc thù của dân tộc đó. Từ xưa,
người Việt ḿnh v́ nghèo nên có thói quen khi xây nhà ít khi thuê
kiến trúc sư v́ sợ tốn tiền. Nhà cửa, cái thụt ra, cái thụt vào, rất
mất trật tự. Khi xây th́ lấn trước, lấn sau, lấn chỗ nào được th́ cứ
lấn, được tấc nào hay tấc ấy. Muốn xây nhà th́ gọi nhà thầu xây dựng
hoặc các ông thợ xây nhà đến và chủ nhà tự ra đồ án, thiết kế lấy
kiểu nhà ḿnh thích. Dở hơn th́ bắt chước. Cứ qua hàng xóm, lượn một
ṿng tham quan, khi về là có một kiểu nhà bà phước đồng phục, khác
nhau chỉ ở màu sơn. Muốn khác hơn th́ thêm bông hoa, màu mè cho bắt
mắt miễn sao nhà mới là tốt và có giá thôi.
Ngày nay tuy luật lệ xây dựng chặt chẽ hơn, mọi công tŕnh xây dựng
đều phải do Bộ Xây dựng thông qua nhưng v́ khe hở luật pháp quá lớn
nên những vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng đă xảy ra khá
nhiều, nảy sinh những căn nhà, toà nhà cao tầng xây dựng không đúng
tiêu chuẩn méo mó, kỳ dị, lún, nứt chỉ sau một thời gian ngắn sau
khi xây. Sự sai phạm không theo đúng các quy định pháp luật, lại
thêm tham nhũng tạo ảnh hưởng trực tiếp các công tŕnh thi công gây
tác hại như làm lệch, lún, nứt đến nhà của cư dân quanh vùng. Đời
sống sinh hoạt của khu dân cư cũng bị vạ lây: Không che chắn kỹ làm
bụi bẩn, vật liệu rơi văi xuống nhiều nhà dân; đập bể phốt nhưng
không hút, khiến mùi hôi thối bốc ra xung quanh, gây ô nhiễm môi
trường suốt mấy tháng trời. Người dân gửi đơn kêu cứu khắp các cơ
quan chức năng trong tỉnh, mà sự việc trên vẫn chưa được giải quyết
hoặc có giải quyết cũng không thoả đáng.
Trước đây ư niệm văn hoá kiến trúc hầu như không có trong ḷng người
Việt. Có thể không ai thấy hoặc có lẽ không cần biết đến cái ǵ gọi
là cấu trúc của một đô thị, một quốc gia. Tôi có hỏi ư kiến một vài
người về việc này. Có người quan tâm th́ bảo ḿnh nghèo quá mà, một
quốc gia nặng về nông nghiệp sau nhiều năm chiến tranh mới phát
triển như ta th́ bàn chi đến việc văn hoá kiến trúc cao xa đó. Gia
tài của mẹ để lại sau chiến tranh là một nước Việt buồn. Bom đạn,
tan hoang tàn phá khắp nơi, giờ thanh b́nh chỉ mong có cái nhà gạch
để ở là may rồi, nói chi đến văn hoá kiến trúc.
Người ta bảo, nước ḿnh tự do thế mà c̣n phàn nàn chi nữa, muốn xây
thế nào th́ xây, kích thước tiêu chuẩn không bị bó buộc, không ai
bắt chữa đi, sửa lại. Chả bù, ở Mỹ muốn xây cái ǵ cũng phải có kỹ
sư thành phố xuống kiểm soát, bắt chỉnh đi chỉnh lại cho đúng tiểu
chuẩn, xây cái nhà măi không xong. Khu nào dành cho nhà tư, không
cho xây xí nghiệp, nh́n măi một khuôn mẫu đến là đơn điệu. Khu
thương mại th́ chỉ có cửa hàng buôn bán không cho ở, trong khi bên
ta dưới nhà thường là buôn bán, trên th́ xây lầu để ở. Xây thêm cái
pḥng cũng phải xin phép, sửa lại cái nhà xe làm pḥng cho thuê cũng
không cho. Ở Việt Nam thế mà sướng, cái ǵ khó khăn mấy rồi cũng
xong. Thủ tục “đầu tiên” qua rồi th́ căn nhà có méo mó hay sai luật
đến mấy cũng được thông qua.
Kẻ góp
ư, tự do là một chuyện, qui luật là chuyện khác. Ta thử nh́n một
trang giấy với những ḍng chữ đẹp đẽ, ngay ngắn, theo hàng thẳng
lối. Nơi nào chữ hoa th́ viết hoa, nơi nào xuống ḍng th́ phải xuống
ḍng, có đẹp đẽ hơn một trang giấy lổn ngổn chữ, thụt ra thụt vào,
chữ to lấn chữ nhỏ, chồng chéo lên nhau. Luật lệ ràng buộc nhiều
điều nhưng thiếu chúng mọi sự sẽ loạn. Một đô thị kiến trúc mới, có
những luật bảo toàn an sinh rất có lợi cho người dân. Chẳng hạn ở Mỹ
mỗi con đường đều có nơi đặt ṿi nước cứu hỏa, để pḥng khi hoả hoạn
có nước mà chữa cháy. Việt Nam có những nơi nhà cửa san sát, ngơ
ngách chật hẹp khi bà hỏa tới viếng, người dân không chỗ chen chân
để chạy, nói ǵ đến chỗ cho xe ṿi rồng vào cứu hoả.
Nói chuyện ḿnh rồi lại nghĩ tới người. Thái có những đền đài cung
điện với kiến trúc chùa tháp và những mái cong là đặc thù của nền
văn minh khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Pháp,
Anh,
Ư,
Bỉ,
Hà Lan,
Tây Ban Nha trong những kiến trúc nghệ thuật Roman, sắc nét nhất
là các ngôi nhà thờ cổ, toà thánh, trần cao ngất (Sistine Chapel).
Các công tŕnh kiến trúc nhà cao tầng, tầng nối tầng, nhà nối nhà,
kiên cố ở Ư đă vang danh đế quốc La Mă một thời. Nhữ ng tác phẩm xây
dựng lẫy lừng của Brunelleschi, Ghiberti làm lóng lánh các kiến trúc
Phục Hưng, Gothic và Baroque. Trung Quốc sắc nét Đông Á trong kiến
trúc “Tử cấm thành” nh́n vào ai cũng nhận ra nó là của Trung Hoa.
Khi tới Dali, tức nước Đại Lư xưa, du khách chợt sững sờ với một khu
phố kiến trúc thật đặc biệt của những căn nhà mái cong sơn trắng
trang nhă điểm hoa văn hay tranh vẽ sơn thủy khắp nơi, trong cũng
như ngoài nhà. Người dân Đại Lư dành riêng khu phố cổ cho du khách,
c̣n chính họ, họ dời ra nơi khác xây dựng một khu phố mới tân tiến
hơn. Hàng năm rất nhiều du khách, phần lớn từ Âu châu ghé thăm Dali,
Trung Quốc để t́m hiểu thêm về một nền văn hoá lạ do sự kết hợp của
những bộ tộc thiểu số. Họ c̣n tận hưởng được khí hậu cao nguyên mát
mẻ trong lành và thưởng thức những kiến trúc trang nhă hài hoà sạch
và đẹp cho giờ phút thư dăn của một chuyến nghỉ hè lư thú.
Nét đặc thù của kiến trúc là một yếu tố quan trọng để lôi cuốn và mê
hoặc du khách khắp nơi.
Nh́n lại văn hoá kiến trúc của ta, tôi bỗng tự hỏi: Chúng ta có một
kiến trúc Việt Nam đặc thù hay không?
Kiến trúc một quốc gia bao gồm kiến trúc đô thị và kiến trúc nông
thôn.
Nhắc đến kiến trúc nông thôn chúng ta chợt thấy gần gũi hơn với cội
nguồn, cái cũ và truyền thống v́ những ǵ mới mẻ tân tiến thường xảy
ra nơi đô thị là chốn phồn hoa.
Từ xa xưa, kiến trúc nông thôn đi đôi với kiến trúc dân gian là cơ
cấu không gian của những đơn vị làng, xă. Đơn vị nhỏ của làng gồm
cổng làng, nhà ở, lũy tre bao bọc, nghĩa địa, đ́nh, chùa, chợ búa...
Đơn vị nhỏ nhất là nhà, hạt nhân cơ bản của một xă hội. Kiến trúc cổ
truyền Việt Nam đa phần sử dụng kết cấu khung gỗ như
nhà gỗ truyền thống Việt Nam, gồm các vật liệu bổ trợ như gạch,
đá, ngói, đất, rơm, tre...
Trong thể loại kiến trúc này, thực sự không có sự khác biệt hoặc
phân chia nhiều về kết cấu. Dựa trên vật liệu và đặc điểm cũng như
tính chất của hệ kết cấu, trong kiến trúc cổ truyền Việt Nam không
thực sự tồn tại các công tŕnh có kích thước lớn như ở các quốc gia
khác. Những ngôi nhà truyền thống của một vài làng cổ ở miền Bắc c̣n
sót lại đến nay, cho thấy chúng ta có một kiểu mẫu kiến trúc nông
thôn căn bản, giản dị, với những mái tranh hoặc một tầng mái dốc.
Các ngôi chùa cổ cũng có mái cong, dốc, tầng thấp khiến người muốn
vào phải cúi gập người để vào. Theo lời giải thích của một nhà tu,
mục đích của lối kiến trúc này giúp con người bớt ngạo mạn, bỏ đi
cái tôi, bản ngă to lớn của ḿnh. Có giàu sang, đức độ, tiếng tăm,
lẫy lừng đến đâu vào chùa cũng phải cúi xuống mà vào.
Các kiểu nhà miền Bắc thời ấy thường là: Nhà chữ nhị là hai nhà sóng
đôi; Nhà chữ công: trước sau hai nhà song có mái hiên nối; Nhà chữ
môn: nhà chính và hai nhà phụ hai bên vuông góc với nhà chính. Miền
Trung và miền Nam cũng có cấu trúc nhà ba gian, và hai chái phụ ở
hai đầu nhà sẽ là hướng Đông Tây chống hơi nóng mặt trời sáng và
chiều.
Gian chính làm nhà thờ hay tiếp khách c̣n hai gian kia để ở và lo
việc bếp núc.
Vật liệu xây dựng th́ cũng ít có tính cách lâu dài, chỉ trừ các công
tŕnh công cộng: gạch, đá, gỗ quư (thiết mộc)... mà đa số dùng các
vật liệu địa phương sẵn có như lá, tranh, tre, gỗ đẽo, đá kê nền cột,
đất sét nung hoặc không nung, bùn trộn rơm.
Hướng nhà cũng được chọn, thường hướng Nam, để đón gió cho phù hợp
với khí hậu nhiệt đới nóng, ẩm. Vật lư kiến trúc: thông gió tự nhiên,
tường và mái nhà thường trùm kín nhà do mưa rất nhiều, hơn nữa cửa
đi và cửa sổ mở rất ít do an ninh ngừa trộm cắp nên chiếu sáng tự
nhiên rất tối và kém sáng sủa.
Nơi nào gần sông chúng ta có nhà sàn là những căn nhà cao lêu khêu
có chân, cọc đóng dưới nước. Dân tộc thiểu số miền núi cũng ở nhà
sàn cao để tránh thú dữ. Sau này khi đi qua các vùng có nhiều đồng
bào Thượng ở Đà Lạt, tôi không c̣n nh́n thấy những căn nhà sàn ấy
nữa, hoặc có c̣n th́ rất ít, rải rác vài nơi hẻo lánh. Chính phủ với
các công tŕnh quy hoạch xây dựng đă thay thế chúng bằng những khu
nhà chung cư, h́nh ống với tháp tṛn hay nhọn cho họ ở. Tiếc quá,
theo tôi những ngôi nhà sàn ấy là nét đặc thù của đồng bào dân tộc.
Tôi c̣n thấy các cây cầu khỉ, cầu tre, cầu ván là nét đặc thù của
dân tộc miền Nam Việt Nam. Những cây cầu dễ làm, khó đi, lắt lẻo,
đầy t́nh tự dân tộc réo rắt trong điệu ḥ, ca dao Việt Nam. “Ví dầu
cầu ván đóng đinh - Cầu tre lắt lẻo gập gh́nh khó đi”. Bây giờ những
cây cầu khó đi kia dần dần được thay thế bằng những cây cầu đúc rất
tiện cho việc đi lại nhưng tiếng ḥ ru con “cầu tre lắt lẻo” vẫn c̣n
ầu ơ vang vọng nhắc nhớ người người chiếc cầu tre mẹ đi ngày nào dẫn
con qua vạn nẻo đường đời trắc trở.
Kiến trúc đô thị: Trong lịch sử của bề dày hàng ngh́n năm, kiến trúc
Hà Nội xưa tức Thăng Long thành đă sớm có sự giao thoa với kiến trúc
Chăm Pa (một nền văn hoá có ảnh hưởng sâu rộng của văn hoá Ấn Độ)
như trong bài viết của Đoàn Minh Châu về Hà Nội:
“Sự hoà quyện giữa văn hoá Việt - Chăm trên đất kinh thành tạo ra
một nét đặc sắc riêng, trở thành một thành tố cấu thành nghệ thuật
điêu khắc – kiến trúc Thăng Long. Điều đó c̣n thấy rơ ở khá nhiều
công tŕnh văn hoá. Sử sách c̣n ghi dấu một kiến trúc rất Chăm Pa,
tháp Báo Thiên nằm bên hồ Lục Thuỷ ( phần c̣n lại chính là Hồ Gươm
hiện nay), ở vào vị trí khu vực chùa Bà Đá - Nhà thờ lớn hiện nay và
hồi đó được ca ngợi như “cột chống trời, cao chót vót hơn 4 chục
trượng, 12 tầng, do vua Lư sai tù binh chiếm thành (Chăm Pa) xây” (Sách
An Nam chí lược của Lê Trắc viết năm 1333). Kiểu kiến trúc như tháp
Báo Thiên có thể coi là đặc trưng kiến trúc thời kỳ đầu dựng thành
Thăng Long, sau đó đă xuất hiện rất nhiều bên cạnh những ngôi chùa
cổ kính mang đậm sắc thái Việt ở nhiều làng quê Bắc bộ như một phần
không thể thiếu của nét văn hoá Kinh Kỳ. Nhiều sắc thái của văn hoá
Chăm Pa khác c̣n được lưu giữ ở nhiều di tích như chùa Châu Lâm tức
chùa Bà Banh - Bà Đanh, quăng trường Bưởi (Chu Văn An), rồi chùa ‘Bà
Già’ ở Phú Xá, Chùa Tứ Liên (cũng đều quanh Hồ Tây), đặc biệt là đă
đi vào tấm bia chạm ‘Bà Banh’ trần trụi, rất Chăm c̣n đọng lại ở
nhiều giai thoại văn học.” (Đoàn Minh Châu, “Bản lĩnh văn hoá
của Hà Nội ngh́n năm”)
Ngoài nét lai Chăm Pa, chúng ta thấy nhiều kiểu thức, sắc thái kiến
trúc cơ bản của Việt Nam bị ảnh hưởng mỹ thuật kiến trúc Trung Quốc
qua những công tŕnh điêu khắc và kiến trúc c̣n sót lại. Điển h́nh
là Văn Miếu, Đền thờ Vua Hùng, Vua Đinh Tiên Hoàng ở miền Bắc. Người
Hoa dùng màu vàng và đỏ tối đa trong các kiến trúc cung điện hay
chùa đ́nh, Tử cấm thành là một thí dụ.
Kinh đô Huế với Đại Nội và các lăng vua qua các triều đại nhà Nguyễn,
tiết lộ ảnh hưởng kiểu thức đền đài cung điện Trung Quốc thời Măn
Thanh với nhiều sắc đỏ, vàng đậm đặc. Các lăng tẩm Thiệu Trị, Minh
Mạng, Tự Đức (ngoại trừ lăng Khải Định có thêm nét đặc biệt khảm
trai và đồ sứ lai Pháp) rập khuôn cấu trúc Tử Cấm Thành và những
biểu trưng quyền lực tối thượng của Hoàng gia là rồng, cùng tứ quư
lân, ly, quy, phượng.
Hàn quốc cũng có kiến thiết cung điện giống Trung Quốc, nhưng họ
dùng màu sắc khác biệt để tạo nét đặc thù riêng. Kỹ thuật trang trí
cung điện Hàn Quốc này gọi là Dancheong tức là Đan Thanh (đỏ xanh)
hay Âm Dương theo nguyên tắc ngũ hành. Năm màu chủ lực được dùng là:
Trắng, đen, vàng, đỏ và xanh. Màu xanh lá cây nhẹ và cam được dùng
nhiều hơn, tạo một phong thái nhẹ nhàng, thanh nhă biện biệt. Nh́n
vào mát mắt chứ không chói lọi như hai màu vàng và đỏ. Biểu tượng
tối cao của Hoàng gia Hàn Quốc là mặt trăng và phượng hoàng nên các
nét chạm trổ và huy hiệu điêu khắc trên trần nhà các nơi mang h́nh
hai vậy quư này.
Nếu để ư kỹ ta có thể phân rơ sự khác biệt giữa kiến trúc lăng tẩm,
chùa chiền thời Lư trở về trước và các lăng tẩm chùa chiền ở Huế từ
thời Gia Long trở về sau. Những kiến trúc xưa như Chùa Một cột, chùa
Kim Liên, Hà Nội có góc mái cong khác với các mái cong lăng tẩm chùa
chiền Huế. Nó cong vút và thon thả giông giống kiến trúc các góc mái
những ngôi nhà cổ ở Dali (nước Đại Lư xưa), Trung Quốc. Điều này nếu
có thể sẽ dẫn ra đầu mối cho một giả thuyết mới đây nói về nguồn gốc
tộc Việt ngày xưa bắt đầu xuất phát từ các bộ tộc ở nước Đại Lư, Vân
Nam tuốt bên Tàu. Các góc mái lăng tẩm triều Nguyễn giống Tử cấm
thành nhiều hơn. Vua Gia Long có lẽ ưa chuộng triều Măn Thanh nên
ông bắt chước từ kiến trúc đền đài cho đến luật lệ. Ông đă bỏ cái
hay của bộ luật Hồng Đức nhà Lê rất giá trị, tiến bộ và đầy tính
nhân bản để ban hành bộ luật Hoàng Việt Luật Lệ dựa theo luật lệ xưa
cũ của nhà Măn Thanh.
Khu phố cổ Hà Nội c̣n là một quần thể kiến trúc tượng trưng cho kiến
trúc đô thị xưa.
Nét độc đáo mang nặng bản sắc dân tộc Việt là cấu trúc 36 phố phường
phân rơ theo sản phẩm thủ công dân cư truyền thống. Những phố Hàng
Bạc, Hàng Đào, Hàng Gai, Hàng Mă... là những ngôi nhà cổ được xây
gạch, lợp ngói. Sau này bên cạnh những mái ngói có những gờ đấu, bờ
nóc giật tam cấp lại xuất hiện các ngôi nhà có mặt tiền làm theo
kiểu cách Âu châu ghi dấu một thời kỳ kiến trúc thuộc địa. Sự tiến
hóa kiến trúc đô thị của Việt Nam có nhiều nét lai Pháp từ Bắc vào
Nam là những: Nhà hát lớn Hà Nội, Toà nhà của trường đại học Đông
Dương (nay là trường Đại học Quốc gia Hà Nội), Viện Viễn đông Bác cổ
(nay là Viện Bảo tàng Lịch sử), Bộ Ngoại giao, Phủ Toàn quyền (nay
là Phủ Chủ tịch), Thư viện Quốc gia, Nhà thờ Đức Bà, Dinh Bảo Đại,
trường học Trần Phú, Lycée Yersin, Marie Curie...
Thể loại kiến trúc này được du nhập từ các nước
phương Tây, cùng với sự xuất hiện của người
Pháp tại Việt Nam vào cuối
thế kỉ 19 đầu
thế kỉ 20. Loại h́nh kiến trúc này phát triển song song với quá
tŕnh
khai thác thuộc địa của người Pháp.
Ngày nay, song song với việc mở cửa hội nhập với quốc tế bằng nền
kinh tế thị trường, nhiều luồng kiến trúc khác nhau cũng hồ hởi du
nhập vào nước. Kiến trúc sư Việt Nam đang lần t́m một con đường
riêng và cố h́nh thành một khuynh hướng kiến trúc mới. Do đó đă nảy
sinh một trào lưu mới vừa muốn theo phong cách hiện đại với đặc điểm
cấu trúc mỹ thuật nước ngoài vừa muốn phù hợp với diện tích đất đai
ít ỏi nhỏ hẹp của thành thị. Hậu quả sự lai tạp và sao chép kiểu
thức ngoại quốc này khiến nền kiến trúc văn hoá xây dụng nước nhà
trở nên hỗn loạn. Những ngôi nhà siêu mỏng, siêu siêu mỏng mà người
ta gọi là những ngôi nhà “kỳ dị” ở thành phố Hà Nội đă mọc lên làm
rối mắt dân Hà Thành.
“Đó là những ngôi nhà mà bề dày chỉ dưới 1m. Nhà siêu mỏng rất đa
dạng về kiểu dáng. Từ h́nh tam giác, h́nh vuông, h́nh ống, h́nh lục
giác... thậm chí là những h́nh thù kỳ quái mà trong từ điển h́nh học
không có từ để diễn tả. Bộ mặt đô thị cũng v́ thế mà trở nên méo mó,
dị dạng.” (Trích Việt NamNet, “V́ sao Hà Nội vẫn tồn tại
nhà siêu mỏng”)
Gần đây nhất, khi đi từ Bắc chí Nam, tôi bắt gặp nhiều nhà cao tầng
h́nh ống liên kế, nền bê tông, mái nhọn hoặc h́nh tháp tṛn, màu sắc
có khi tương phản, chói lọi, mặt tiền trên cao lại điểm thêm những
bông trang trí giống Mă Lai hoặc Thái Lan ǵ đó làm tôi có cảm tưởng
sự lai tạp trong kiến trúc làm bay mất tất cả nét đặc thù nếu có của
nền kiến trúc Việt Nam.
Đây là ư kiến của Nguyễn Bỉnh Quân trong một bài viết “Nhà
ống – ‘thất bại hoành tráng’ của đô thị mới”:
“Đùng một cái với 20 năm kinh tế thị trường, nhà ống bùng phát
như một đại dịch. Có nhẽ tới 60-70% dân đô thị ở nhà ống. Chẳng ai
hiểu tại sao. Nền cứ bán 4/16-20m và thế là câu hỏi tại sao kia trở
nên ngớ ngẩn. Nước ta là một ḱnh ngư khổng lồ đang ra biển lớn, doạ
sẽ hoá rồng. Đường sá mọc ra hàng ngày. Nếu đường là bộ xương của
đất nước với hàng vạn nhánh th́ hàng triệu triệu ngôi nhà ống hai
bên là triệu triệu gai đôi hành khổ cơ thể kinh tế và dân sinh. Ai
bắt ta phải thế?
Một nhà sử học hỏi: Sao giữa đồi, ngoài cánh đồng cũng nhà ống hả
ông? Bêtông hoá đường nông thôn cũng sinh ra nhà ống luôn! Khu công
nghiệp mở tới đâu nhà ống vây xung quanh lập tức. Thị trấn, thị xă
đều nhất loạt ống hoá cả. Anh nào nghĩ ra cái nền 4/16-20m đáng gọi
là sư tổ của nền kiến trúc "manh mún" của Việt Nam. Thế hệ đầu ra
phố cứ mặc nhiên coi nhà ống là cách ở bắt buộc. Các pḥng thẳng một
hàng; xe máy có thể phóng qua; gió lùa một lối; ánh sáng hai đầu, ở
giữa tối om. Chả thấy có ǵ là bất tiện cả! Nguyên Chủ tịch Hội Kiến
trúc sư ngồi xe với tôi ở Vũng Tàu reo lên:
Đây có một blốc nhà liên kế ḱa! Các blốc nhà liên kế được kiến trúc
sư thiết kế đàng hoàng, trệt là các cửa hàng, khu công cộng, dịch vụ,
các lầu là các văn pḥng, căn hộ tiện nghi. Cứ vài blốc đến một ngă
tư ngăn nắp. Hẻm, ngách chỉ hăn hữu. Đó là dạng nhà thông thường của
các đô thị. Hiệu quả thu thuế, kinh doanh và sinh sống văn minh cao
gấp hàng chục, hàng trăm lần nhà ống. Thế mà ở ta nó lại là sự lạ
th́ có phải ta đang làm chuyện ngược đời không!”
Cấu trúc nhà ống tăng trưởng, ngôn ngữ cũng nảy sinh từ mới gọi là "Bệnh
nhà kín" hay hội chứng nhà cao tầng hoặc hội chứng đau yếu do nhà ở.
Bệnh này không có ǵ lạ với những người sống và làm việc trong các
ṭa cao ốc... Triệu chứng bệnh là: Người bệnh cảm thấy mệt mỏi, nặng
đầu, chóng mặt, buồn nôn, khó tập trung, mũi bị kích thích, khô họng,
da mặt khô, ngứa, nóng, căng hoặc đỏ...
Tuy kiến trúc nhà cao tầng h́nh ống có nhiều người phản đối nhưng nó
vẫn mọc lên khắp nơi nơi, một độc giả phản ứng trong mục bạn đọc
viết của trang mạng VietNamNet:
“Tôi đề nghị, cần có một điều khoản trong Luật Xây dựng như sau:
Không xây nhà h́nh ống trong đô thị mới, trong khu qui hoạch mới và
cấm xây nhà cao gấp ba lần bề ngang hẹp nhất của mảnh đất xây dựng (trừ
các cao ốc, chung cư…). Ví dụ: nếu mảnh đất có bề ngang hẹp nhất là
5 m th́ chiều cao tối đa của toà nhà là 15m (tức chỉ được 4 tầng,
không tính tầng hầm). C̣n nếu bề ngang hẹp nhất là 10m, chiều cao
ṭa nhà cao nhất sẽ là 30m (8 tầng).
Và, như vậy đô thị mới ở Việt Nam sẽ ‘không bao giờ có các ṭa
nhà dị dạng, khu phố trăm hoa đua nở’ nhếch nhác, ‘c̣ con’ mà sẽ có
một diện mạo hiện đại, văn minh.
Mạo muội vài ư kiến, xin chân thành cảm ơn!”
(Trần Văn Luyến, “Có nên phân lô xây nhà h́nh ống?”)
Trong cuộc tṛ chuyện với tờ Dân trí về kiến trúc - quy hoạch
của Thủ đô Hà Nội và về thế hệ kiến trúc sư trẻ hiện nay, kiến trúc
sư Hoàng Thúc Hào - một giảng viên đại học, một vị Chủ tịch HĐQT của
một văn pḥng kiến trúc sư tâm sự:
“Một thành phố muốn tốt, đẹp, trước hết quy hoạch phải tốt, trong
khi quy hoạch hiện tại của ta hết sức lộn xộn, cấu trúc của đô thị
không mạch lạc. Người ta vẫn nói không hiểu kiến trúc Hà Nội là kiến
trúc ǵ, như một nồi lẩu thập cẩm.”
Như chúng ta đă thấy tầm quan trọng trong sự tiến hoá kiến trúc của
một quốc gia rất lớn. Những công tŕnh kiến trúc phản ánh nếp sống,
văn hóa cũng như bản sắc truyền thống của một dân tộc. Thời gian,
con người, có mai một nhưng những cơ cấu kiến trúc qua nhiều thế hệ
vẫn có thể c̣n tồn tại đâu đó để đánh dấu cho những biến đổi hay các
dấu mốc lịch sử của một dân tộc. Sự hiện diện của kiến trúc đô thị
h́nh ống chúng ta thấy bây giờ sẽ c̣n lưu dấu đến 20, 30, 100 năm
sau như một bằng chứng hiển hiện cho một cơn shốc kiến trúc thời
kinh tế thị trường. Và con cháu chúng ta trăm năm, ngàn năm nữa nh́n
ngược lại lịch sử có bao giờ nảy sinh câu hỏi như tôi đă từng tự hỏi:
Cha, mẹ, ông, bà ơi! chúng ta có một nền kiến trúc Việt Nam đặc thù
hay không?
_________________________________
Tài liệu tham khảo
·
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ki%E1%BA%BFn_tr%C3%BAc
·
Đoàn Minh Châu: “Bản lĩnh văn hoá của Hà Nội ngh́n năm”:
http://www.vnn.vn/chuyenmuc/thanglong/content_blvhhn.html
·
Nguyễn B́nh Quân: “Nhà
ống – ‘thất bại hoành tráng’ của đô thị mới”
http://forum.ashui.com/index.php?topic=643.0
·
Trần Văn Luyến: "Có nên phân lô xây nhà h́nh ống?"
http://vietnamnet.vn/bandocviet/2004/04/62694/
|