Nguyên bản tiếng Đức:
GEORG SCHURHAMMER,
Annamitisch
Xavierius Literatur, Missionswissenschaftliche Studien,Aacher
(Aix-la-Chapelle), 1951,pp. 300-314.
Phiên dịch từ bản dịch
Pháp văn. (In trong Tập san Việt Nam Khảo Cổ số 2, Sài G̣n, 1960)
Đây là bản dịch một bài
khảo cứu của cha Georg SCHURHAMMER, nhan đề Annamitisch Xavierius
Literatur đăng trong quyển Missionswissenschaftliche Studien, in tại
Aacher (Aix-la-Chapelle), 1951, từ trang 300 đến trang 314. Chúng
tôi hết ḷng cảm tạ các Mẹ Ḍng Bê-nê-đích-tô tại Ban Mê Thuột đă
tận tâm giúp chúng tôi phiên dịch nguyên văn bằng tiếng Đức và các
cha Ḍng Tên Saigon đă bổ túc bản dịch ra tiếng Pháp. Chúng tôi cũng
gián tiếp tỏ niềm biết ơn đối với tác giả bài khảo cứu, cha G.
Schurhammer, mà chúng tôi không t́m được địa chỉ để xin phép trước
khi phiên dịch. Nhưng chúng tôi dám tin rằng tác giả sẽ không thấy
trở ngại nào và kính xin tác giả nhận nơi đây ḷng biết ơn của chúng
tôi. Sau cùng chúng tôi cảm tạ Ṭa Đại Sứ Tây Đức đă biếu Viện Khảo
cổ quyển sách nêu trên.
Vào thế kỷ XVII, sự trục xuất các giáo sĩ khỏi Nhật Bản và việc giải
tán tất cả giáo đoàn đă buộc các giáo sĩ Ḍng Tên của tỉnh hạt Nhật
Bản t́m một trường hoạt động mới: Đàng trong (Annam hiện nay), Đàng
ngoài Chiêm Thành (miền Nam Annam hiện nay) Cam bốt (Cam bốt và Nam
kỳ hiện nay). Lào quốc, Quảng Đông, Hải Nam, Macassar, Malacca,
Timor và Solor. Nhưng công việc giảng đạo không khi nào lại gặp được
một mảnh đất ph́ nhiêu bằng những xứ nói tiếng Việt (Việt Nam kể từ
1946). Xứ ấy bị chia thành hai vương quốc đánh phá lẫn nhau từ thế
kỷ thứ XV và chỉ thống nhất lănh thổ vào năm 1802: Bắc kỳ và Nam kỳ.
Mặc dầu các cuộc bắt đạo và lưu đày các giáo sĩ, giáo hội Đàng trong,
thành lập vào năm 1675, tính ra có được 70.000 giáo dân, vào năm
1675 (2), giáo hội Đàng ngoài thành lập năm 1627, gồm có hơn 150.000
giáo dân(3) vào năm 1647 và hơn 300.000 giáo dân vào năm 1661. Trong
số giáo dân đó có các quan to, các nhà thông thái, các tướng và cả
người của hai họ nhà Chúa nữa (4).
Cũng v́ lư do đó mà từ lâu các giáo sĩ đă nghĩ đến sự cấu tạo một
nền văn chương công giáo bản xứ; bằng Hoa ngữ là chữ thông dụng ở
các xứ ấy (chữ Nôm) cũng như bằng La ngữ là thứ chữ mà các giáo sĩ
áp dụng cho ngôn ngữ Việt Nam bằng cách thêm giọng và thêm dấu (Quốc
ngữ). A-lịch-sơn Đắc Lộ, một trong những giáo sĩ sáng lập giáo hội
Đàng ngoài, đă có soạn một quyển sách giảng đạo với một quyển tự
vị(5) và cũng v́ người Việt Nam có thói quen vừa học vừa hát (6) nên
các thi phẩm xuất hiện rất mau chóng. Ca và kịch thường có cơ hội để
được sáng tác, đặc biệt vào những ngày lễ Giáng Sinh. Các ngày đó
với những cuộc lễ long trọng và máng cỏ luôn thu hút giáo dân và cả
người ngoại đạo rất đông đảo đến nhà thờ. Trong xứ Nam, các giáo sĩ
đă làm máng cỏ năm 1626 ở Cacham (7) và năm 1647, ở Faifo (8). Ở xứ
Bắc, trong dịp lễ Giáng Sinh năm 1634, tại Rum (9), cuộc tŕnh diễn
đời sống của hai thánh Alexis và Eustache đă làm khán giả rơi lệ
(10). Ở Langcon (tỉnh ở miền Nam) (11), rất nhiều người đă theo đạo
v́ các bài hát về phép mầu nhiệm của ngày Giáng Sinh (12). Năm 1642,
lễ Giáng Sinh đă được cử hành ở Kẻ Mlé (13) (tỉnh ở miền Tây) có
máng cỏ, ca và kịch như vừa tŕnh bày trên đây (14). Năm 1648, cũng
nhân ngày lễ này, 4.000 giáo dân đă tụ họp lại Kẻ Ḅ (15) (Thanh Hóa)
để xem diễn lại sự cải giáo của Josaphat. Trong buổi lễ, có những
cuộc đối thoại và âm nhạc bản xứ.(16)
Giáo sĩ Manuel Ferreira, thuộc Ḍng Tên, đă viết về buổi lễ Giáng
Sinh tại Khi-lan (17) năm 1674 như sau:
“Từ khắp nơi trong tỉnh,
giáo dân tấp nập đến xem máng cỏ, đến đỗi cả nhà không chứa đủ tất
cả mọi người. Đêm như ngày, tôi ngồi nghe bổn đạo xưng tội nhưng chỉ
có một phần mười giáo dân có đủ thời giờ để xưng tội thôi. Những
người ở lại được th́ xưng tội sau buổi lễ. Để cho buổi lễ được vui
vẻ hơn, tôi ra cho các giáo dân một câu đố với một giải thưởng cho
người nào t́m được câu giải thích. Đây là lần thứ nhất trong tỉnh
này, nên chẳng có ai t́m ra lời giải được cả. Câu đố đó là một tấm
ảnh tŕnh bày một nhân vật mặc một chiếc áo hai màu: đen và trắng,
một tay cầm mặt trời, một tay cầm mặt trăng, như người ấy đang điều
khiển ngày và đêm. V́ là con của thời gian và cũng v́ tốc hành của
hắn, nên người ấy có một cặp cánh. Bao quanh người ấy có 12 con thú
chỉ định tên của 12 giờ trong một ngày, theo phong tục của người Bắc
(giờ dần: con cọp, giờ th́n: con rồng...). Dưới tấm h́nh có viết chữ
thổ bằng chữ bản xứ. Chữ ấy bao gồm ư nghĩa của cuộc đố. Trong câu
đố có mấy câu thơ tôi đă sáng tác, ám chỉ những ngày khác nhau trong
tuần: 6 ngày, trong thời gian đó Đức Chúa Trời tạo thiên lập địa và
ngày thứ 7, là ngày Chúa nghỉ ngơi; hai ngày đă được kéo dài trên
thế giới này, lần thứ nhứt do lời cầu khẩn của Josuê và lần thứ nh́
bởi lời cầu khẩn của thánh Phanxicô Xaviê; ngày kinh khủng nhứt trên
thế giới là ngày phán xét và ngày cuối cùng là đêm Giáng Sinh. Kế đó
vài câu thơ về những ngày quan trọng nhất đối với giáo hội và những
ngày khác đă được thánh hóa bởi sự cứu thế của Chúa và bởi phép mầu
của đức tin. Tôi giảng dạy những điều ấy cho các giáo dân và khuyên
họ nên lấy những điều ấy làm niềm hoan hỉ và giáo lư. Và đến đây tan
buổi lễ Giáng Sinh”(18).
Ta được biết là năm 1622, bà Chị của Chúa Đàng trong (19) – bà này
là vợ của một ông quan mà giáo dân rất thù hằn – xin chịu phép rửa
tội. Một nữ ca sĩ Đàng ngoài thường hát cho bà nghe những bản hát
đạo cùng tiểu sử các thánh nên đă làm bà công chúa theo về đạo (20).
Người ta c̣n kể rằng vào năm 1700 các giáo dân Đàng trong thường hát
những bài hát đạo trong nhà thờ (21) và năm 1713, giáo sĩ Isidor
Luci, để xin gửi cho giáo sĩ vài tiểu sử của các thánh mới như
Phanxicô de Salles, Phêrô Nolasque... hầu làm cho bản danh sách các
thánh của Đàng ngoài thêm phong phú (22). Ta lại được biết bởi giáo
sĩ Juan Arnedo chịu tử đạo năm 1700, thầy giảng Anton Ki là một văn
sĩ tài ba đă viết bằng thơ Tiếng Việt cuộc đời các thánh: tiểu sử
thánh Antôniô, bà thánh Elidabết xứ Bồ Đào Nha, thánh Gioan Guarino,
Tobie, bà thánh Catarina thành Bôlônha, và thánh Xêbastianô (23).
Chúng tôi xin giới hạn bài khảo cứu này với ba tác giả của phái bộ
truyền giáo cổ Ḍng Tên ở những xứ nói tiếng Việt. Các tác phẩm văn
chương của những người này ít được biết hoặc không được biết tới,
cho đến ngày nay.
I. Cha Girolamo Majorca,
S.J.
Sanh tại thành Napoli (Ư đại lợi), ông vào Ḍng Tên năm 1605, sang
Ấn Độ vào năm 1619, ông làm việc ở đấy hai năm trong triều của Âdil
Khan. Từ đó ông qua Macao năm 1623 và từ Macao đến xứ Nam, ngang qua
Macassar. Trong thời gian lưu trú 5 năm tại đây, ông học tiếng bản
xứ. Bị trục xuất năm 1629, ông bị cầm tù hai năm tại nước Chàm. Kế
đó được người Bồ Đào Nha giải thoát, ông ra xứ Bắc năm 1631 và lưu
lại đấy đến khi qua đời vào năm 1656 (24). Trong bản tiểu sử của ông
trong Ḍng Tên, sử gia khen ngợi công lao to tát của ông đối với
giáo đoàn v́ ông đă hết ḷng giảng đạo, tŕnh độ đạo đức của ông rất
cao và cũng v́ ông đă sáng tác hoặc phiên dịch rất nhiều sách vở: cả
thảy có 48 quyển (25). Năm 1643, người ra có nói ông đă soạn nhiều
sách vở bằng ngôn ngữ, văn tự của giáo dân ông cai quản: tiểu sử
thánh Inhatiô, các bà thánh Đôrôtê, Bạcbara, Luxia, Agnès, Agata,
Xebastianô, các thánh Faustin và Jovite, Job và nhiều thánh khác.
Ông cũng có lẽ đă viết nhiều bài suy gẫm về ḷng bác ái của Chúa Cứu
Thế, của Đức Bà, về Địa ngục, về phép giải tội và về sự giao phó
trong tay Đức Chúa Trời (26). Trong năm 1635, ông cũng có soạn nhiều
bài khảo luận về hôn nhân, nhiều bài suy gẫm về vinh quang của các
thánh với nhiều ví dụ, một tác phẩm về nạn cho vay với lăi nặng, một
bài suy gẫm về Thánh lễ với sự chuẩn bị rước Thánh Thể, một bài về
ḷng trung kiên trong khi đạo bị truy nă, một tiểu sử của Đức Mẹ gồm
có 20 chương, tiểu sử của thánh Jérôme, của thánh ẩn sĩ Antôniô và
một bức thư rất dài về sự cần phải băi bỏ nhiều điều hà lạm (27).
Trong bức thư hàng năm cho năm 1637 (viết vào tháng tư năm 1638),
Majorca ôn lại những công tŕnh văn chương của ông.
“Tuân lệnh bề trên, tôi đă soạn và viết ra nhiều tác phẩm với mục
tiêu cứu rỗi linh hồn. Tôi đă viết tiểu sử thánh Phanxicô Xaviê và
cũng có viết về phép lạ mà thánh Phanxicô đă ban ở Napoli, cho thánh
tử đạo Marcello (28). Tôi đă viết tiểu sử của Á thánh Phanxicô
Borgea (29) của các bà thánh Engrace, Olaya(30) và 7 vị thánh khác.
Tôi đă soạn một tập thảo luận rất dày về những tội lỗi gây ra bởi
cái lưỡi và những phương cứu chữa. Một tập khác dày hơn nữa nhan đề
“An ủi kẻ đau khổ”; một tập khác về sự trong sạch với nhiều tiểu sử
của các bà thánh đồng trinh như Agnès, Cecile, Agathe. Tập này tôi
vừa sửa chữa lại. Tiếp theo đó là 7 bài suy gẫm về Thánh giá, về sự
phán xét, và một cuốn sách nhỏ về việc tử đạo... Giáo dân bắt đầu
thờ phượng thánh Phanxicô Xaviê v́ phép lạ cho thánh tử đạo Marcello
được truyền lan nhiều”
(31).
Năm 1642, ra đời một tập khái luận về các thiên thần hộ mệnh (32).
Một tập kư sự nói ông đă sáng tác cả thảy là 48 tác phẩm (33). Một
quyển khác viết:
“Ông đă viết rất nhiều
sách vở bằng ngôn ngữ và văn tự của xứ Bắc. Ông đă phiên dịch hoặc
sáng tác hơn 45 quyển: đó là một kho tàng mà giáo hội ngày nay ǵn
giữ và kính trọng. Ông có soạn 12 quyển sách khác bằng văn xuôi hay
thơ, ví dụ để ngợi khen Thánh Thể, Đức Bà Maria, các thiên thần,
thánh tổ Inhatiô, thánh Phanxicô Xaviê và các ông cùng các bà thánh
khác. Công việc này làm ông rất bận. Luôn cả trên tàu khi đi viếng
thăm giáo dân, ông không khi nào ngưng làm việc (34)”.
II. Joăo Ketlâm (35), cũng gọi là Joăo Vuang (36).
Sanh năm 1588 tại làng Thanh Minh (quận B́nh Sơn, tỉnh Quảng Ngăi,
thuộc Trung phần). Cha mẹ ông là người ngoại đạo. Mẹ ông quê quán ở
Kêtlâm (37). Cha ông là một quan lớn (38), bậc thứ nh́ trong tỉnh
(39). Khi ông lên 15 tuổi, cha ông cho người dạy ông về triết lư
thánh hiền Trung hoa. Vốn thông minh nên không bao lâu, ông đă vượt
khỏi các bạn đồng môn, và khi được 25 tuổi, ông đă thâu thái một nền
học thức có thể cho phép ông đạt những chức vụ cao trọng. Lúc bấy
giờ, ông cũng đă nổi tiếng là văn sĩ và thi sĩ. Lối năm 1622, năm
ông được 34 tuổi, ông được đọc một quyển sách giáo lư và nhiều sách
khác bằng chữ nho về đạo Thiên Chúa, do các giáo sĩ Ḍng Tên ở Trung
Hoa biên soạn. Nhờ những quyển sách ấy, ông đă nhận chân đạo Thiên
Chúa (40). Ông nhờ cha Manuel Fernandez, thuộc Ḍng Tên giáo hóa và
được rửa tội cùng vợ ông, lấy tên thánh là Joăo. Để tỏ ḷng cảm tạ,
ông cho cha này trú ngụ tại nhà ông trong 6 tháng lúc đạo đang bị
bắt bớ và từ lúc ấy, ông đi theo cha để làm thầy giảng trong những
cuộc đi giảng đạo của cha ấy; nhiều người đă trở về đạo v́ uy tín,
học thức, những lời giảng của ông và nhất là v́ những tác phẩm mà
ông đă soạn trong những lúc nhàn rỗi, về tiểu sử của các thánh, bằng
lời thư rất chải chuốt, như chuyện ông thánh Constantini le Grand,
Barlaam và Josaphat. Những tác phẩm ấy rất được nhiều người hâm mộ.
Không thể tả xiết được tiếng tăm mà những tác phẩm tinh thần của ông
đă gây cho đạo Thiên Chúa trong giới quan lại trong xứ (41). Chính
Chúa Thượng (Nguyễn Phước Lan, 1635-48) khi nghe ông hát cũng phải
khen (42).
Nhưng đến năm 1629, tất cả các giáo sĩ đều bị trục xuất và Joăo lui
về Ketlâm ẩn núp trong một vài năm. Sau đó với tư cách người đi thâu
thuế, ông tới tỉnh Quảng Ngăi nơi có mỏ vàng. Nhiệt tâm v́ đạo của
ông đă nguội dần và, lấy cớ tuổi già, ông bắt đầu uống rượu quá độ
(43), khiến các giáo dân phật ḷng, đến nỗi phải phái 9 người đại
diện đến Ketlâm yêu cầu ông giảng đạo như khi xưa. Một đêm trước khi
phái đoàn ấy đến ông nằm mộng thấy Đức Mẹ quở trách ông từ lâu rồi
không xưng tội. Lúc đó là năm 1648. Và phái đoàn giáo dân đă thành
công. Ông theo các sứ giả về Faifo (Hội An). Nhiều giáo sĩ đă trở về
đó được rồi và ông nhận lại chức vụ cũ là thầy giảng và người viết
sách (vợ ông đă chết giữa khoảng thời gian này) (44). Năm chót của
đời ông, ông đă sống tại triều đ́nh ở Cacham. Các giáo dân đă kêu
gọi ông vào đó để dạy dỗ con em của họ và luôn thể giảng đạo cho
những người muốn theo trở về đạo. Ở đây cũng như ở Faifo, ông đă làm
cho mọi người phải hâm mộ v́ đời sống thánh thiện của ông. Ông đă bỏ
tuyệt rượu chè và suy gẫm hằng giờ về sự thương khó của Chúa Cứu Thế
mà không khi nào ông nói tới không phải rỏ lệ. Trái lại những người
khác, khi biết được bốn, năm câu của Khổng Tử th́ khinh khi các linh
mục, ông th́ tự xem ḿnh như một đứa trẻ trước các giáo sĩ; ông theo
sự hướng dẫn của các giáo sĩ trong mọi việc và không bao giờ cho
xuất bản một quyển sách nào mà không tŕnh để bề trên của Hội xem
trước và cho phép. Không chút sợ hăi, ông biểu bạch đức tin của ông
và, năm ông 75 tuổi; Chúa cho bắt ông và sau đó ông chết vinh quang
dưới lưỡi gươm của đao phủ ngày 11 tháng 5 năm 1663 (45).
Ông viết tất cả 15 tác phẩm bằng tiếng Việt. Ngoài ra, theo lời yêu
cầu của các giáo sĩ, ông có soạn truyện bà thánh Maria Mađalêna, và
theo lời yêu cầu của rất nhiều người, truyện các thánh Inhatiô đờ
Loyola, Phanxicô Xaviê, Dominico và Catarina, tất cả bằng lời thơ
hết sức chải chuốt cùng với ḷng thành kính lớn lao đến nỗi làm cho
các truyện ấy được ưa thích bởi tất cả mọi người trong xứ. Tác phẩm
chót của ông là một quyển sách về tuần trai lấy sự ăn chay của Chúa
Cứu Thế trong sa mạc làm chủ điểm (46).
III. – Philiphô Rôsariô cũng gọi là Philipê Bỉnh
Ông là văn sĩ cuối cùng của giáo đoàn Ḍng Tên ở những xứ nói tiếng
Việt. Trong khi các tác phẩm của hai người tiền bối của ông đều bị
mất, theo lời của Sommervogel, của Cordier cũng như của Streit,
không ông nào t́m ra một tác phẩm nào, th́ về Philipê Bỉnh, chúng
tôi lại t́m được những tác phẩm mà đến bây giờ chưa được ai biết tới.
(47)
Những tác phẩm ấy được lưu trữ tại thư viện ṭa thánh Vaticanô.
Những sách viết tay th́ kiểm tra dưới số Borgiani Tonchinensi 1-21
và 24 và Borgiani Latini, tập 668. Những quyển sách này đều có khổ
80 (20.5cm x 15cm) đóng b́a giống nhau, cùng một thứ giấy xanh xanh,
tất cả đều do Bỉnh viết tay bằng tiếng Bồ vụng về, tiếng Latinh hay
bằng tiếng mẹ đẻ của ông là tiếng Việt. Ở đầu mỗi tác phẩm, trừ một,
đều có câu ghi chú này: “Este livro he o? Padre Felippe do
Rosario, enviado da Christandade de Tunkim (48) Sách này là của thầy
cả Bỉnh”.
1. Tiểu sử: các tác phẩm và nhật kư của ông là những nguồn sử liệu
chính liên quan đến đời sống của ông. Để t́m hiểu cuộc đời đó ta cần
phải lui ngược thời gian để chứng kiến sự tiến triển của giáo hội
sau cuộc tử đạo của Ketlâm năm 1663. Năm 1659, Đức Giáo Hoàng biến
xứ Bắc và Nam thành hai địa phận đặt trực thuộc Thánh bộ Truyền Giáo
mà không đếm xỉa đến chủ quyền của vua xứ Portugal trên, những địa
phận ấy (49), hai địa phận này được đặt dưới quyền của hai đức giám
mục cùng các giáo sĩ thuộc Hội Thừa sai ngoại quốc vừa mới thành lập.
Năm 1664, giáo sĩ thứ nhất người Pháp thuộc Hội Thừa Sai đặt chân
lên xứ Nam và năm 1666 đến xứ Bắc. Hậu quả của việc này là cuộc cạnh
tranh kéo dài gần một trăm năm giữa Bồ Đào Nha và Thánh bộ Truyền
Giáo, giữa các giáo sĩ Ḍng Tên Bồ (cùng các giáo sĩ Ḍng Tên thuộc
nhiều nước khác) và các Thừa Sai người Pháp (giúp đỡ bởi các tu sĩ
Yphanho Ḍng Đa Minh từ năm 1676 và sau đó bởi các tu sĩ thuộc Ḍng
Augustin và Phanxicô). Nhờ sự can thiệp của nước Bồ, người ta đi đến
một thỏa hiệp. Chia xứ Bắc ra làm hai phần năm 1678: các tu sĩ Ḍng
Đa Minh lănh miền đông và miền tây thuộc các Thừa sai Ba Lê. C̣n các
giáo sĩ Ḍng Tên Bồ Đào Nha, mặc dầu thuộc quyền cai trị của các
giám mục, vẫn có thể lưu lại trong nước và cho đến cuối thế kỷ
XVIII, giào đoàn của họ có lẽ hơn tất cả các giáo đoàn khác ở xứ Bắc
về diện tích, về số giáo dân (130.000 người) và về ḷng tận tâm của
những giáo dân đó (50).
Nhưng từ lúc các Thừa sai Pháp và Yphanho đến, giáo hội chia ra
thành hai phe đối lập. Và khi các giám mục đại diện tông ṭa thay
đổi những bài kinh cầu đă cho các giáo sĩ Ḍng Tên đưa vào các xứ,
th́ sự phân tách trở thành hoàn toàn, đến nỗi từ đó các giáo dân của
hai phe không c̣n muốn giao thiệp với nhau nữa, như chúng ta được
biết bởi một bức thơ do cha Luci, Ḍng Tên, gửi cho cha Cả Ḍng vào
năm 1714 (51).
Sự giết hại giáo sĩ Ḍng Tên bởi Pombal (1757-1760) (52) và sự băi
bỏ Ḍng ấy bởi Đức Giáo Hoàng Clément XIV công bố năm 1775 ở Viễn
Đông là những đ̣n rất nặng đối với giáo đoàn Ḍng Tên. Nhưng giáo
dân cấp dưỡng các cha (53) và các “nguyên giáo sĩ Ḍng Tên” không
những vẫn ở lại chứa mà lại c̣n được nâng đỡ bởi những lực lượng mới,
v́ năm 1773, cha cả Ḍng Tên là Ricci gởi thêm cho họ các giáo sĩ
người Ư (6 người cho xứ Bắc và 2 cho xứ Nam) (54). Thánh bộ Truyền
Giáo sau lệnh giải tán cũng cho phép một cách minh bạch các giáo sĩ
Ḍng Tên được giữ và điều khiển giáo đoàn của họ và đă gửi gắm họ
cho các giám mục đại diện tông ṭa, như ta đọc được trong một bức
thư mà Thánh bộ gửi cho cha O. Villiani, Bề trên của giáo đoàn Ḍng
Tên ngày 16 tháng giêng 1777 (55).
Nhưng bắt đầu từ ngày Ḍng bị băi bỏ việc luân phiên các giáo sĩ
không c̣n nữa. Năm 1775, giáo đoàn gồm có 10 giáo sĩ Ḍng Tên người
Âu; 6 người Ư, 2 người Bồ và 2 người Đức (56). Tử thần làm hàng ngũ
họ càng thưa thớt. Năm 1782, chỉ c̣n có 8 giáo sĩ và một vài người
trong số đó lại nghĩ đến việc trở về Âu, v́ họ không muốn chứng kiến
lúc các con chiên họ bị xô xuống vực thẳm. Các giám mục đại diện
tông ṭa, sau lệnh băi bỏ Ḍng Tên, đă bắt buộc họ nạp bản kê khai
tất cả các tài sản của họ và các giám mục cũng tỏ vẻ hối hả tịch thu
các tài sản ấy cùng với giáo đoàn của họ ở nhiều nơi, các giám mục
c̣n cất quyền phân phát các phép thánh của các giáo sĩ Ḍng Tên và
phái đến để cai quản các giáo dân những “thầy cả người Bắc Việt dốt
nát và kém văn minh” (57) (Toàn địa phận của miền Tây xứ Bắc thuộc
chủng viện Paris, chỉ c̣n có 4 hay 5 giáo sĩ người Âu thôi) (58).
Nhưng các giáo dân thuộc giào đoàn Ḍng Tên không chịu phục tùng
những thầy cả đó v́ thế nên phần đông chọn việc bỏ nhà thờ hay các
phép thánh hơn là tự đặt dưới quyền điều khiển của các thầy cả đó
(59). Năm 1786, xứ Bắc chỉ c̣n có ba nguyên giáo sĩ Ḍng Tên người
Âu, c̣n trong xứ Nam th́ vị nguyên giáo sĩ Ḍng Tên cuối cùng đă từ
trần năm 1783 (60).
T́nh h́nh đang ở trong giai đoạn này, các giáo dân của giáo đoàn
Ḍng Tên mới quyết định gửi một phái đoàn đến nhà vua xứ Bồ để xin
vua gửi cho họ một giám mục cùng các giáo sĩ Bồ thuộc Ḍng Tên nếu
được. Philiphê Bỉnh được cử lănh nhiệm vụ này (61).
Bỉnh sanh năm 1759 tại Hải Dương, tỉnh lỵ của tỉnh cùng tên, ở phía
đông Hà Nội, cha mẹ là người xứ Bắc. Ông vào chủng viện năm 1775 và
được phong chức thầy cả sau khi học măn khóa. Cùng với thầy giảng
Liên, ông đáp tàu vào tháng chạp để đi Goa, và v́ có chiến tranh với
Pháp nên không thể đi ngang qua Macao được. Ở đây, Bỉnh viếng mộ
thánh Phanxicô Xaviê là vị thánh ông hâm mộ nhất, nhưng ông lại
không t́m được tàu để đi thẳng tới nước Bồ Đào Nha nên ông để thầy
Liên ở lại Goa rồi ông trở về xứ Bắc. Cùng với ba thầy giảng Tôma
Vincente, José de Rosario và Phanxicô de Rosario, ông qua Macao và
từ đó xuống tàu đi thẳng sang nước Bồ. Sau rất nhiều hiểm nguy đă
tránh được khỏi nhờ ông cầu xin sự che chở của thánh Phanxicô, Bỉnh
và ba người đồng hành đến Lisbôa ngày 20 tháng 6 năm 1796 (62).
Lúc đó Pombal, kẻ thù số một của Ḍng Tên, sau khi bị ruồng bỏ, đă
chết năm 1782. D. Joăo, con của nữ hoàng khùng Maria, đang trị v́
thay mẹ với tư cách là thái tử nhiếp chính. Các sứ giả đệ đơn lên
thái tử. Nhưng t́nh h́nh chính trị xứ Bồ không được thuận lợi lắm.
Về phía Tây Ban Nha và Pháp, chiến tranh đang đe dọa. V́ đó mà thái
tử nhiếp chính phải có nhiều mối lo khác. Rốt cuộc, sau 6 năm chờ
đợi, Bỉnh thấy những cố gắng ḿnh thành tựu: ngày 15 tháng 10 năm
1801, nhiếp vương phong tu sĩ Frei Manuel de S. Gualdino thuộc Ḍng
Đa Minh lên chức giám mục xứ Bắc. Nhưng niềm thất vọng lại theo liền:
Đức Giáo Hoàng từ chối không chịu nh́n nhận sự phong chức ấy, viện
lẽ rằng xứ Bắc đă có đức giám mục đại diện tông ṭa rồi. V́ vậy mà
sau khi được phong chức, tu sĩ lại được gửi đến Macao chớ không phải
đến Đông Dương và ông đến nơi ngày 3 tháng 9 năm 1803. Lập tức, ông
đứng về phía các đức giám mục đại diện tông ṭa và cho đến khi ông
rời bỏ nơi ấy để sang Goa, cuối năm 1805, ông cố gắng hết sức để
thuyết phục giáo dân của giáo đoàn Ḍng Tên xứ Bắc và xứ Nam nên
phục tùng các đức giám mục đại diện tông ṭa. Trong bốn bức thư, ông
nêu rơ ràng là bốn sứ giả mà họ gửi sang Lisbôn đă lường gạt thái tử
nhiếp chính khi họ thúc đẩy thái tử phong ông lên địa vị giám mục xứ
Bắc. Giáo dân không nên tự cho ḿnh là “môn đồ của Ḍng Tên” v́ giáo
đoàn này đă bị băi bỏ từ 30 năm rồi. Họ nên bỏ các sách của những
giáo sĩ Ḍng Tên cũng như những nhà thờ và những tài sản của những
giáo sĩ ấy mà thâu nhận những sách vở mới của các giám mục đại diện
tông ṭa.
Những kẻ đă gieo vào ḷng giáo dân mầm hy vọng là Ḍng Tên sẽ trở
lại, đă gạt họ. Cả Đức Giáo Hoàng cũng như quốc vương không ai sẽ cử
cho họ một đức giám mục Bồ Đào Nha nào nữa. Vậy họ nên bỏ sự ly giáo
và phục tùng các đức giám mục đại diện tông ṭa. Ông viết thư về Bồ
Đào Nha cho biết các nguyên giáo sĩ Ḍng Tên là Tulano Carneiro và
Nuncio Horta không chịu tuân lệnh và lôi kéo theo họ một số đông
giáo dân ước muốn có ít nữa là một giám mục Bồ Đào Nha cho các “giáo
khu Bồ Đào Nha” (63).
Đức cha Jean Labartette, đức giám mục đại diện tông ṭa xứ Nam cảm
tạ đức giám mục Macao, năm 1804, v́ đức giám mục này đă cố hết sức
vận động để phá tan sự “ly giáo” đă kéo dài từ 30 năm. Đức giám mục
đại diện tông ṭa xứ Bắc là tu sĩ Ignacio Delgado, thuộc Ḍng Đa
Minh, cũng có lời cảm tạ như vậy nhưng lại có thêm rằng những “kẻ ly
giáo” đă cầu cứu tận thái tử nhiếp chính và ông sợ sẽ có những cuộc
vận động mới nữa, nhất là với sự giúp đỡ của thầy cả “khốn nạn
Philiphê Bỉnh” mà theo những bức thư của hắn, chưa thấy tỏ vẻ hối
hận chút nào cả.(64)
Trong bức thư cuối cùng của ông gửi cho giáo dân xứ Bắc, tu sĩ FR.
Manuel có thêm rằng năm nay (1805) quốc vương đă trục xuất khỏi Bồ
Đào Nha ba người Việt xứ Bắc ở đấy từ 10 năm (65). Đấy là ông ám chỉ
đến Bỉnh và các người đồng hành. Chúng ta không được biết lời tuyên
bố này đúng đến độ nào. Năm 1801, Pháp và Tây Ban Nha đă tuyên chiến
với Bồ Đào Nha và năm 1807, Junot, đại tướng của Napôlêông, đă đem
bạo quân sang xâm chiếm xứ Bồ, bắt buộc hoàng gia và thái tử nhiếp
chính phải chạy trốn sang Ba Tây. Kể từ ngày ấy, Bồ Đào Nha trở
thành một chiến trường, nơi ấy Pháp, Anh và Bồ tranh quyền lẫn nhau,
chỉ vào năm 1811 quân đội của Napôlêông mới rút khỏi xứ và cũng vào
năm ấy, chúng ta lại gặp lại lần thứ nhất Bỉnh tại Lisbôn (66).
Trong khoảng thời gian ấy, vị giáo sĩ Ḍng Tên chót hết là giáo sĩ
Carneiro đă từ trần tại xứ Bắc năm 1809 (67), và mỗi năm số các giáo
sĩ Tây phương ở Viễn Đông giảm bớt lần hồi. Năm 1812 xứ Bắc chỉ c̣n
có sáu người với số giáo dân là 200.000; năm 1813 ở xứ Nam chỉ c̣n
có bốn người với số giáo dân là 60.000 người. Năm 1817, số các giáo
sĩ Tây phương ở xứ Bắc sụt xuống c̣n ba người (68) và đến các địa
phận Bồ Đào Nha vị trí về phía đông mũi Hảo Vọng, t́nh trạng các
giáo đoàn cũng đă sụt xuống mức thấp kém nhất (69). Nhưng một ngôi
sao mới đầy hy vọng mọc lên ở phía Tây: mỗi năm, Bỉnh theo dơi thời
cuộc từ khi vừa mới đến Âu Châu và ghi mọi chi tiết vào nhật kư của
ông. Ông biết rằng Ḍng Tên vẫn c̣n tồn tại ở nước Nga xa xăm dưới
sự cai quản của cha Bề Trên Brzozowsky. Và năm 1418, ông c̣n được
ghi thêm một tin đáng mừng hơn nữa, Đức Giáo Hoàng vừa về tới La Mă
vào cuối tháng 5, sau thời gian giam cầm, liền đến nhà thờ Ḍng Tên
ngày 6 tháng 6 để ban phép lành cho nhà thờ. Đến ngày 7 tháng 8, Đức
Giáo Hoàng làm lễ tại bàn thờ thánh Inhatiô và đọc lời tuyên ngôn
tái lập Ḍng Tên mà không chút e sợ những kẻ thù hay những sứ giả
của các triều đ́nh thù nghịch với Ḍng Tên.
“Tôi không sợ những sứ giả, mà cũng không sợ đến vua nước Tây Ban
Nha đang ở tại Rôma. Cũng như thánh Phêrô, tôi lại sợ đàn bà. Trừ ra,
tôi không sợ vua, thế gian, cũng không sợ hoàng đế Roma, bởi v́ tinh
thần của Chúa không khiếp sợ ai cả” (70) rất đỗi vui mừng, Bỉnh viết
những câu trên, rồi thêm rằng: “Cũng trong năm ấy, ngày 14 tháng 11,
40 người xin vào Ḍng, trong đó có 20 thầy cả và phần đông lại là
giáo sư đại học... và D. Manuel Carlos, vua xứ Sardaigne, cũng vào
Ḍng tu như thánh Phanxicô đờ Borgia; đó không phải là điềm lành sao?...
vào năm 1814, các giáo sĩ Ḍng Tên đi giảng đạo ở xứ các người da
đen và vua xứ Tunisie lập cho họ một tu viện, đó không phải là điềm
lành sao?” (71).
Bởi thế nên có niềm hy vọng rằng các giáo sĩ Ḍng Tên sẽ trở lại xứ
Bắc. V́ đó mà tu sĩ Vincenzo d’Osimo, Ḍng Phanxicô, sau khi được
tin tái lập Ḍng Tên viết thư về Cha Cả Ḍng năm 1817 để xin gửi
giáo sĩ Ḍng ấy. Ông quả quyết là giáo dân đang đợi chờ “các giáo sĩ
Ḍng Tên như chờ chính Chúa Cứu Thế vậy”(72). Nhưng Ḍng Tên vừa hồi
sinh nên vẫn c̣n ít người và kẻ thù của Ḍng Tên lại đă bắt đầu hành
động. Năm 1818, các giáo sĩ Ḍng Tên bị trục xuất khỏi Ḥa Lan. Năm
1820, khỏi nước Nga và Tây Ban Nha, năm 1821 khỏi Mễ Tây Cơ và chỉ
đến năm 1829, Ḍng mới được trở về xứ Bồ Đào Nha. Tan nát cơi ḷng,
Cha Bề Trên cả đành từ chối đơn này tiếp theo đơn khác. Bỉnh cũng
không t́m thêm được người thợ nào cho đất nước ḿnh cả. Năm 1819,
vua Joăo VI gửi một bức thư cho tất cả các Ḍng nói sẽ cấp dưỡng cho
ai muốn sang Ấn Độ. Năm 1820, lại gửi một bức thư khác cũng cho các
Ḍng ấy để khuyến khích gửi người sang Ba Tây, nhưng cũng chẳng ai
trả lời. Năm 1820, buồn rầu, Bỉnh ghi những ḍng cuối cùng như sau:
“Hầu tước Pombal có tuyên bố nếu không có giáo sĩ Ḍng Tên, ông sẽ
gửi các Ḍng khác nhưng đến nay chưa gửi ai cả... Chỉ có các tu sĩ
Oratoire-Rifoles (73) mới đi đến Macao và Bắc Kinh v́ ở những nơi ấy,
họ có nhà cửa và tiền bạc mà các giáo sĩ Ḍng Tên đă để lại cho họ.
Nhưng đă hơn 30 năm rồi mà chỉ có ba người sang Trung Hoa thôi. Làm
sao bây giờ? Đối với giáo dân c̣n chưa đủ huống hố đối với những
người ngoại đạo”.
Quyển sách chấm dứt như vậy và trên b́a, ông ghi thêm những chữ này:
“Oitocantos os veneraveis Jesuitas Marlyres” (74) (Tám trăm tu sĩ
Ḍng Tên tử v́ đạo).
Nhưng Bỉnh khôngbỏ mọi hy vọng, ông đă tận dụng những năm đợi chờ để
sáng tạo một nền văn chương công giáo Việt Nam, có thể giúp ích cho
các giáo sĩ sau này và cho các đồng bào của ông. Bởi thế nên năm
1818, ông viết một quyển sách rất dày về tiểu sử thánh Phanxicô
Xaviê, năm 1819, tiểu sử của thánh Inhatiô đờ Loyola, năm 1820, tiểu
sử của Phanxicô Borgia, năm 1822-23, một bộ lịch sử Việt Nam gồm có
hai quyển và cũng trong thời gian này, ông khởi đầu tập kư ức. Năm
1830, lại có một tác phẩm vĩ đại về bà thánh Anna. Đó là tác phẩm
cuối cùng của ông. Ông tiếp tục tập kư ức cho đến năm 1831, và thêm
vào đó một danh sách những tác phẩm của ông và một bản sao hai cái
biên lai chứng nhận rằng “cha Felippe de Rosario, được gửi từ giáo
hội Vương quốc Bắc, ngụ ở nhà thờ Conceiçăo và thánh Antoniô ở
Lisbôa, vào đầu năm 1830, 250 thánh lễ cho các linh hồn nơi luyện
ngục (75). Về năm 1832, ông chỉ ghi tựa thôi và trong quyển sách
lịch sử các Đức Giáo Hoàng, ở đoạn nói về cái chết của Piô VIII, với
một bàn tay run rẩy ông có ghi thêm tên của người kế vị là Grégorio
XVI (1831) (76). Người bạn Việt Nam đồng hành đă soạn bản chỉ dẫn
cho tác phẩm của ông về bà thánh Anna. Và ở đoạn chót, năm 1833, ông
thêm vào một tờ tŕnh về cái chết của cha Bỉnh. Philippê Bỉnh chết
năm 1832.
2. Tác phẩm của Philipê
Bỉnh.
Sau đây chúng tôi nêu ra một cách vắn tắt danh sách tác phẩm của cha
Bỉnh theo thứ tự thời gian. Những tác phẩm tiếng Việt đều được viết
bằng chữ quốc ngữ, nếu chúng tôi không nói chi khác. Trung thành với
đề tài, chúng tôi sẽ dẫn chứng, một cách vắn tắt, mỗi lần đến những
ghi chú của tác giả liên quan đến thánh bổn mạng chính của ông là
thánh Phanxicô Xaviê. Hầu hết mỗi tác phẩm đều có một bản chỉ dẫn
bằng tiếng Việt (77).
1/ Borg. Tonch. 7: Kư sự, thư từ, thi thơ (1793-1826). Bằng tiếng
Việt (18+) 575 (+5) trang trống; (1-4)157-180, 298-360, 398-424,
468-570, 574 tờ. Trên mỗi trang, đều có ghi tựa: Nhật tŕnh kim thư
khất chính chúa giáo. Mục lục: 1. Kư sự 1793-1862, tr. 1-156; 2.
Lịch sử phái đoàn cha Bỉnh với tài liệu về việc ấy vào năm
1795-1800, tr. 181-239; 3. Thư từ 1799-1826, tr. 239-297, 361-397;
4. Thi thơ 1793-1802, tr. 425-467. Nói về Xaviê, tr. 77 và 129-130.
2/ Borg. Tonch. 8: Rhodes, Tự điển (Bản sao, Lisbôa, 1797) (8 tờ +)
820 cột (+96 tờ và chỉ dẫn). Nhan đề: Dictionarium Annamiticum
Lusitanum ope Sacrae Congreg. de Prop. Fide in Lucem editum ab Al.
de Rhodes e Soc. Iesu, Roma, nhà in của Thánh bộ Truyền Giáo, 1651.
3/ Borg. Tonch. 12: Rhodes, Sách giáo lư và bài vắn tắt (Lisbôa,
1797).
Bằng tiếng Latinh, Bồ và Việt. (18+) 315 trang. Thứ tự số trang đáng
lẽ như sau: 313-315, 293-308, (1-18), 1-312. Mục lục: 1. Bản dịch ra
Việt ngữ quyển Catechismus của Al. de Rhodes, Roma, 1651, có ghi năm:
Lisbôa, 1797, tr. 1-212(78); 2. Những bài vắn tắt bằng tiếng Việt về
bà thánh Elidabết xứ Bồ, bài bằng tiếng Bồ về Giáng Sinh Chúa Cứu
Thế, với danh sách của các Cha Bề Trên Cả, các người sáng lập đầu
tiên, và những ông thánh của Ḍng Tên, tr. 213-233; 3. Bằng tiếng Bồ,
bài trích của M. Bernardes, Luz e Calor (Ánh sáng và sức nóng),
Lisbôa, 1696, tr. 234-269; 4. Vida de S. Joze (tiểu sử thánh Giuse)
của P.J.B. de Castro, Lisbôa, 1761; nhiều bài bằng tiếng Bồ, tr.
270-315 – Về Xaviê: Soneto de S.F. Xavier (sau trang 309), rửa tội
1.200.000 người (tr. 225).
4/ Borg. Tonch. 21: Lịch sử các Đức Giáo Hoàng (Lisbôa, 1798-1831).
Bằng tiếng Bồ (30 tờ +) 423 tr. Nhan đề: Historia Chronologica dos
Pontifices, (Lịch sử các Đức Giáo Hoàng theo thứ tự thời gian). Mục
lục: 1. Lời chỉ dẫn phi lộ trước những trang có đánh số, danh sách
các Đức Giáo Hoàng; Đại cương về các tổng giáo nghị hội, bản chỉ dẫn,
Phương pháp để viết dễ dàng một quyển sử các Đức Giáo Hoàng, tờ 6v –
tr. 30; 2. Lịch sử các Đức Giáo Hoàng cho đến năm 1822, với phần phụ
lục từ năm 1823 đến 1831, tr. 1-423. Phầnphụ lục, trong đó có nói
đến sự tái lập Ḍng Tên, là do Bỉnh viết c̣n phần c̣n lại th́ h́nh
như Bỉnh đă sao chép lại từ một quyển sách khác.
5/ Borg. Tonch. 11: Linh tinh về lễ thức và tu hành (1802).
Bằng tiếng La tinh, Bồ và Việt (20 +) 76 + (12+) 177 trang. Mục lục:
1. Lễ thức: Stabat Mater (Đức Mẹ đứng dưới Thánh Giá) với lời b́nh
luận, tuần thánh cho đến lễ Chúa Thăng Thiên, tr. 1-76; rồi đến sự
tu hành của người Việt; 2. Lề luật của Ḍng Marianistes, Thánh lễ,
tr. 1-84; 3. Cửu nhật cho thánh Giuse, tr. 85-155; 4. Truyện th’(anh)
Anam tử v́ đạo, dịch năm 1802 từ quyển Relacăo bằng tiếng Bồ về cuộc
tử đạo của cha Kratz, viết năm 1737 và in tại Lisbôa năm 1738, tr.
156-177 – Sau số 1 có một bảng kê vắn tắt những biến cố quan trọng
trong thế giới, bắt đầu từ “Chúa Giáng Sinh năm 1802, thánh Xaviê
giảng đạo năm 261, Bỉnh sang xứ Bồ năm 10.
6/ Borg. Tonch. 18: Linh tinh về tu hành (giữa năm 1802-1810?).
Bản viết tay bằng tiếng Việt và Trung Hoa (19+) 520 (+18) trang. Mục
lục: 1. Kinh đọc sáng và chiều, tr. 1-94; 2. Cửu nhật cho bà thánh
Anna, tr. 95-222; 3. Cửu nhật cho ông Giuse, tr. 223-326; 4. Cửu
nhật cho lễ Giáng Sinh tờ 327; 5. Ḷng thờ kính và cửu nhật cho bảy
bà Maria đau khổ, tờ 327; 6. Ân xá trong những cuộc thăm viếng các
nhà thờ tại Roma, tr. 467; 7. Những phận sự, tờ 477; 8. Kinh cầu
Latinh về tên Chúa Giêsu và kinh đọc trong cửu nhật cho thánh Anna
và Giuse.
7/ Borg. Tonch. 19: Kinh trong thánh lễ (giữa năm 1802 và 1810?).
Bằng tiếng Bồ với giải thích bằng tiếng Việt (4+) 45 (+57) tờ. Nhan
đề: Oraliones ou Oracăes da Missa. Mục lục: từ đầu, một bài nghị
luận rất hay trong đó tác giả nói cha Majorica đă thêm vào kinh cầu
tên của thánh Inhatiô cùng tên thánh Xaviê và, sau đó, nêu lên tất
cả những lư do tại sao thánh Xaviê được gọi đúng lư là Thánh Bảo Trợ
Viễn Đông, tr. 1-4a.
8/ Borg. Tonch. 17: Phận sự đối với Thánh lễ (giữa năm 1802-1810?).
Viết tay bằng tiếng Việt và Trung Hoa, (22+) 150 tr. Nhan đề: Về
điều răn thứ ba, phải đi xem thánh lễ.
9/ Borg. Tonch. 13: Ml. Fernandes, Ḍng Tên, Alma Instruida 1 ( vào
lối năm 1811).
Bằng tiếng Bồ (37+) 574 (+32) trang. Nhan đề: Alma Instruida na
Doutrina e vida christiana, của P.M Ml. Fernandes, Ḍng Tên, Lisbôa,
1688 (sic), tr. 1-574. Mấy trang đầu có một bản chỉ dẫn tiếng Việt
gồm có 37 trang, những trang sau có một bài phụ lục về Chúa Thánh
Thần bằng tiếng Việt, tr. 574-574b, và bằng tiếng Bồ: Arvore da vida,
Jesus crucificado, 5 tr.
10/ Borg. Tonch. 14: Như trên, quyển II (Lisbôn, 1811).
Bằng tiếng Bồ. Như trên, quyển II, Lisbôn, 1690, trang 1-547. Trước
có một bản chỉ dẫn bằng tiếng Việt.
11/ Borg. Tonch. 15: Như trên, quyển III (Lisbôa, 1812).
Bằng tiếng Bồ 501 + (24) tr. Như6 trên, quyển III, Lisbôn, 1699, tr.
1-501, ở trang 478, tác giả chép đoạn văn về cái chuông nhỏ trong
giáo lư của thánh Xaviê (Chuông đó, nay được ǵn giữ tại S. Roch,
trong buồng ngủ của cha Bề Trên, đặt trong một cái túi bằng vải,
được xem như một bảo vật). Rồi có một bài bằng tiếng Việt về những
người Bồ sang Ấn Độ năm 1644 và sau trang 501, một đoạn trích trong
sách Escola de Belem, 24 trang.
12/ Borg. Tonch. 10: Tài liệu để viết sử truyền giáo (1813?).
Bằng tiếng Bồ, Latinh, Việt (18+) XIV (+9+) 321 trang. Mục lục: 1.
Đoạn trích về Rhodes và Majorica từ quyển Bibliotheca Scriplorum,
của Soltwellus, Roma, 1676, rồi một bản sao của 2. Relaçăo da Prizăo
e Morte dos quattro Ven. Padres... J.G. Kratz (Kư sự về việc bắt bớ
và sự tử đạo của bốn Thầy Cả... J.B. Kratz), Lisbôa, 1738, tr.
1-122, một đoạn về các giáo sĩ ở xứ Bắc trích của 3. Ant. Franco,
S.J. Imaagem da virtute em o Noviciado de Lisbôa, Coimbra, 1717, tr.
123-351 và 4. Franc de Mattos, S.J. Vida de Sancto Ignacio de
Loyola, Lisbôn, 1718, tr. 252-270 và sau cùng 5. Livro Mappa do
Mundo, tr. 271-319, một quyển sách về địa lư và lịch sử, soạn năm
1813; trong tác phẩm này, Bỉnh vẽ lại một cách vắn tắt sự nghiệp của
thánh Xaviê và lịch sử truyền giáo tại Đàng trong và Đàng ngoài.
Đoạn chót, trang 291-319, có tựa là Noticias dos Marlyrios, nhưng
bằng tiếng Việt.
13/ Borg. Tonch. 9: Linh tinh về Việt Nam (Lisbôa 1814-1816)
Bằng tiếng Việt (6+) 217 (+2+) 114+94 (+4) trang. Mục lục: Sách
gương truyện, Lisbôa, 1815: nhiều gương mẫu để làm sáng tỏ 10 điều
răn, tr. 1-126; 2. Sách này là truyện tú mạt, tr. 126-217; nhiều bài
về thánh lễ, ăn năn tội, bản dịch quyển Differença entre o temperal
e eterno của J.E. Nuremberg S.J., Coimbra, 1741, soạn tại Lisbôa,
1816 (tr. 1-113); 3. Truyện sách gẫm sự chết, Lisbôa, 1816 (tr.
1-113). 4. Sách truyện các đời Đức Thánh Phapha, bắt đầu từ năm 1814
cho đến đời Lêô XII, tr. 1-94.
14/ Borg. Tonch. 16: Gương truyện (Portugal, 1815).
Bằng tiếng Việt, 507 trang và bản chỉ dẫn. Nhan đề: Sách gương
truyện. Bàn về đời sống của ba thượng đẳng thiên thần, 12 thánh tông
đồ, kinh về Đức Mẹ, thiên ân, sự thương khó Chúa Cứu Thế... Có nói
về thánh Xaviê ở trang 72.
15/ Borg. Tonch. 20: Mendes Pinto (Lisbôn 1817).
Bằng tiếng Việt 195 (+7) trang. Nhan đề: Truyện nhật tŕnh ông
Fernăo Mendès Pinto. Trong lời tựa, Bỉnh cho biết ông chỉ trích một
vài đoạn trong những tác phẩm mà ông Mendès Pinto đă cho xuất bản,
rồi thuật lại sự thành lập, phát triển và duy tŕ của Ḍng Tên tại
nước Nga, sự tái lập của Ḍng Tên và sự văn hồi của Ḍng Tên tại Tây
Ban Nha năm 1815. Tác giả có ghi thêm danh sách của các cha Bề Trên
Ḍng từ thánh Inhatiô cho đến Brzozowsky, cùng với một bài về t́nh
trạng của giáo hội xứ Bắc, tr. 1-42. Trong đoạn chót, tác giả tuyên
dương công trạng của thánh Xaviê tại Nhật Bản mà Pinto là người đă
mục kích. Về những chi tiết khác ông căn cứ trên tiểu sử của thánh
Xaviê mà ông ước ao rằng sẽ hoàn thành được với sự giúp đỡ của thánh
bổn mạng của ông. Phải có một sự lựa chọn, v́ nếu ta muốn kê khai
tất cả các đức tánh củ ông thánh ấy th́ không thể nào đi tới cùng
được, dẫu cho ta muốn giảng dạy hàng ngày trong năm tṛn. Rồi ông
nói vắn tắt về Xaviê với tư cách là thánh tiên tri, tử v́ đạo, tu sĩ,
tông đồ, giảng đạo và làm phép lạ: thánh Xaviê đă làm sống lại 62
người chết và mặt trời cũng đă vâng lời ông như đă vâng lời Josuê.
Xaviê vẫn sống sau cái chết của ông, và cũng như Chúa đă giữ xác
chết của Môi-sen, Chúa đă giữ trọn xác của Xaviê, để toàn thế giới
được biết xác ấy ở đâu và đến cầu nguyện trước xác ấy, trước thân
ḿnh của ông bên Á Đông và trước cánh tay của ông tại Rôma, tr.
185-188.
16/ Borg. Tonch. 6: Tiểu sử của thánh Phanxicô Xaviê (Lisbôa, 1818).
Bằng tiếng Việt (22+) 599 trang. Nhan đề: Tự truyện ông thánh
Phanchicô Xavter. Đây là một tiểu sử đầy đủ và chắc chắn nhất của
thánh ấy bằng tiếng Việt. Một bản mục lục tất cả các chương và một
mục lục phân tích khởi đầu quyển sách, và trong lời tiểu dẫn, soạn
giả một cách khiêm tốn có viết rằng: “Tôi không thể nào sưu tầm được
tất cả những tài liệu, và cũng không thể nh́n ánh sáng mặt trời của
giờ ngọ, cũng như trong bóng tối... Xaviê từ trần tại Trung Hoa lúc
nửa đêm ngày 2 tháng chạp năm 1552. Xác của ông được giữ ở Á Đông
trong một thánh đượng thành Gôa, một cách tay ở La Mă, trung tâm
điểm của thế giới. Mặc dầu sự chia sẻ đó, xác của ông ở trong một
t́nh trạng rất khả quan. Phép lạ đó là một bằng chứng sau cái chết
của ông cũng như những phép lạ của ông làm đă là những bằng chứng
trong khi ông c̣n sống. Không đủ lời để diễn tả tất cả những sự huyề
diệu! “Tôi là Thầ Cả Bỉnh”. Chúng tôi thấy cần phải nêu ra một cách
vắn tắt những tựa của 62 chương trong quyển sách:
1. Gia đ́nh.
2. Lúc ra đời và giáo dục.
3. Paris.
4. Hành tŕnh đến Venezia.
5. và Rôma.
6. Yết kiến Phaolo III (Đức Giáo Hoàng).
7. Lễ chịu chức thầy cả.
8. Những công tŕnh đầu tiên.
9. Giảng dạy tại Bôlônha và Rôma.
10. Hành tŕnh sang Bồ Đào Nha.
11. Công nghiệp tại xứ Bồ.
12. Hành tŕnh sang Ấn Độ.
13. Mozambique và Gôa.
14. Học viện Phaolồ.
15. Miền duyên hải với những người đánh cá.
16. Đạo Bà-la-môn.
17. Làm sống lại hai người chết.
18. Đuổi người Badagas.
19. 600 người tử v́ đạo ở Manaar.
20. Thánh Tômê.
21. Rời khỏi Meliapur.
22. Đến Malacca, Ninive thứ nh́.
23. Ambiono.
24. Ternate và Moro.
25. Giáo dân Moro bị bốn quốc vương bắt bớ.
26. Phép lạ về bịnh ung thư (?)
27. Phép lạ Achin.
28. Sứ mệnh của thánh tông đồ.
29. Phép lạ trong lúc rước Thánh Thể và phép rửa tội.
30. Nh́n lại tất cả các cuộc hành tŕnh của Xaviê.
31. Tin tức từ Nhật Bản.
32. Chuẩn bị cuộc hành tŕnh sang Nhật Bản.
33. Cuộc hành tŕnh sang Nhật Bản.
34. Phong tục Nhật Bản.
35. Bài giảng ở Cangoxima.
36. Các tu sĩ Phật giáo chống lại tại Satsuma.
37. Hành tŕnh tới Firando.
38. Tại Amanguchi, kinh đô của Nangato.
39. Đến Miaco.
40. Trở về Firando.
41. Trở lại Amanguchi.
42. Một phép lạ nơi đó.
43. Đi Bungo.
44. Yết kiến nhà vua.
45. Gây gỗ với các sư.
46. Fucarandono.
47. Từ biệt nhà vua.
48. Sanchăo.
49. Đoán trước sự chống cự của ma quỉ.
50. Tại Sanchăo, ông nói cho Velho biết trước là sẽ có một đời sống
dài lâu.
51. Chết và đám tang.
52. Đưa xác về Malacca và Goa.
53. Phép lạ sau khi chết: Melchior Nunes Barreto, Joăo de Britto,
Travancore, Mastrilli, cửu nhật tạ ơn, Potami; Urbain VIII, Grêgôriô
XIII, Maluco, Mani...
54. Chuyện một đứa trẻ biết ơn và một đức trẻ bạc nghĩa. (Miaco và
Bungo).
55. Chuyện tu sĩ Gaspar Barzaeus, người anh cả (Ormuz).
56. Hành tŕnh của P. Matthaeus Ricci và của những người kế tiếp tại
Trung Hoa.
57. Lịch sử những giáo sĩ tại Đàng trong (Buzomi...)
58. Chuyện những người David, Đê linh và Nghè (tử v́ đạo).
59. Lịch sử những người tử v́ đạo tại Đàng trong.
60. Lịch sử các giáo sĩ Đàng ngoài.
61. Lịch sử các vị tử đạo tại Đàng ngoài trong cuộc bắt đạo thứ nhất.
62. Lịch sử bốn vị tử đạo trong cuộc bắt đạo thứ nh́ (1725-1737)
Quyển sách chấm dứt với sự băi bỏ Ḍng Tên tại sứ Bồ Đào Nha năm
1759 và với sự tái lập Ḍng ấy tại Roma năm 1814 với những phụ lục
cho đến năm 1820.
17/ Borg. Tonch. 5: Tiểu sử thánh Inhatiô de Loyola (Lisbôa, 1819).
Bằng tiếng Việt (11+) 723 trang. Nhan đề: Truyện ông thánh Ignacio
de Loyola. Cũng có chép nhiều chi tiết xảy ra sau khi thánh qua đời
và lịch sử Ḍng của thánh ấy sáng lập cho đến năm 1820 với nhiều
phần phụ lục bằng những mảnh giấy dán thêm vào cho đến năm 1826.
18/ Borg. Tonch. 4: Tiểu sử thánh Phanxicô Borgia (Lisbôa, 1820).
Bằng tiếng Việt (7+) 601 (+36) trang. Nhan đề: Truyện ông thánh
Phanxicô de Borja.
19/ Borg. Lat. 668: Về Ḍng Tên (1820)
Bằng tiếng Bồ (79 tờ). Mục lục: 1. Estatutos e Governoda Campanhia
de Jesus confirmado por constituicăo do Smo N. Sr. Gregorio Papa
XIX. (Điều lệ và cách quản trị của Ḍng Tên, được nh́n nhận bởi Đức
Giáo Hoàng Grêgôriô XIV). 2. Hai số báo Gazeta da Lisbôa, số 215
ngày 12 tháng 9 năm 1814 với nguyên văn của nghị định tái lập Ḍng
Tên và số 133 ngày 8 tháng 6 năm 1815 nói về sự thành lập lại Ḍng
Tên tại nước Tây Ban Nha. 3. Một mảnh giấy có viết những chữ: “Kinh
của V.P. Petri Canisii để nguyện cho chính thân ḿnh và cho người
khác”. 4. Taboada curiosa, Bỉnh thoạt tiên kể lại những năm đầu của
các tà thuyết, rồi nói đến sự thành lập Ḍng Tên, sau cùng kể lại
công nghiệp của thánh Xaviê. Thánh đă trải qua 33.000 dặm, rửa tội
cho 1.200.000 linh hồn, là người thứ nhất đă mang Phúc Âm đến cho 7
nước, đă làm 33.000 phép lạ (79). Bỉnh cũng có nói là năm 1717, Ḍng
Tên có 736 học viện và 25.325 hội viên và chỉ từ Lisbôa cho đến năm
1683 có tới 1129 giáo sĩ Ḍng Tên đi giảng đạo ở miền Đông Ấn Độ,
Bỉnh kể lại sự thành lập giáo hội tại Nhật Bản do Xaviê, sự thành
lập giáo hội tại Trung Hoa do Ruggieri và Rucci (nơi đó năm 1681, đă
có hơn một triệu người trở lại đạo), đoạn Bỉnh viết về Việt sử: Việt
Nam thoát khỏi nền đô hộ Trung Hoa năm 800, sự chia sẻ làm hai vương
quốc trong thế kỷ XV, những người Âu thứ nhất tới Việt Nam năm 1516,
sự thành lập giáo đoàn Ḍng Tên năm 1615 và t́nh trạng của giáo đoàn
ấy đến năm 1773. Trong những giáo sĩ Ḍng Tên mà Pombal đă bỏ tù và
gửi đến ở xứ Bồ Đào Nha, có một “con chiên của xứ Đàng Ngoài” cũng
bị bắt v́ không chịu từ bỏ chiếc áo nhà tu và người ấy từ trần tại
Rôma (80). Bỉnh cũng có kể lại việc tám giáo sĩ Ḍng Tên được gửi
sang Đàng Trong và Đàng Ngoài vào năm 1772 và tại sao những người
giáo sĩ cuối cùng đă từ trần. Rồi Bỉnh thuật lại với rất nhiều chi
tiết sự tái lập Ḍng Tên năm 1814 và những cố gắng vô hiệu quả của
vua xứ Portugal để gửi các giáo sĩ đi ngoại quốc.
20/ Borg. Tonch. 1: Lịch sử Việt Nam (Bồ Đào Nha, 1822).
Bằng tiếng Việt (18+) 739 tr. Nhan đề: Truyện nước Annam. Một bài
phụ lục kể lịch sử cho đến năm 1824. Viết quyển sách này dâng cho
Giêsu, Maria, Giuse, Doakim, Anna, Inhtiô và Phanxicô Xaviê.
21/ Borg. Tonch. 2: Lịch sử Việt Nam II (Bồ Đào Nha, 1822).
Bằng tiếng Việt (18+) 691 (+12) trang. Phần thứ nh́ này chép đến năm
1822.
22/ Borg. Tonch. 3: Nhật kư (Lisbôa, 1822-1832).
Bằng tiếng Việt (20+) 626 tr. Nhan đề: Sách sổ sang chép các việc.
Bỉnh kể lại với nhiều chi tiết đời sống của ông và cuộc hành tŕnh
từ Macao sang Lisbôa (1-63). Sau đó, những sự xảy ra trong Hội Thánh
và các giáo đoàn trong những năm 1824-1831. Về năm 1832, ông chỉ đề
tựa: 1832. Ông có thêm vào đó bảng chỉ dẫn và ở những trang 598, 599
và 601 danh sách những tác phẩm ông sáng tác, trong số đó có rất
nhiều tác phẩm bằng tiếng Việt mà chúng tôi chưa t́m thấy được,
chẳng hạn như quyển tiểu sử của thánh Phanxicô đờ Hiêrônymô, Antôniô
Vieira. Giuse Anchieta, Stanislao Antoniô (81). Trang 624-625 chép
lại hai biên lai năm 1830 về sự xin thánh lễ của ông. Những trang
323-324, 529-533, 600, 602-617, 623, 626-627 hoàn toàn trắng.
23/ Borg. Tonch. 24: Tiểu sử thánh Anna và Doakim (Lisbôa, 1830).
Bằng tiếng Việt XXVIII +599 trang. Nhan đề: Truyện bà thánh Anna ông
thánh Joaquim. Trước hết, Bỉnh kể lại cuộc hành tŕnh của ông tới xứ
Bồ Đào Nha năm 1794-1795. Sau đó, là tiểu sử của bà thánh Anna dưới
h́nh thức một kinh cầu cửu nhật. Mảnh giấy ghi nhận quyển sách đó là
của ông không c̣n t́m thấy. Bảng chỉ dẫn có một lối viết khác, là
lối viết của người bạn đồng hành của ông, cũng là người xứ Đàng
Ngoài. Người ấy, sau rốt, thêm vào đó bài tường thuật lúc từ trần
của Bỉnh. Viết tại Lisbôa năm 1833 (597-599).
IV. Thời Cận Đại.
Với cái chết của Bỉnh là cũng mất đi luôn người đại diện cuối cùng
của giáo đoàn cũ Ḍng Tên tại Viễn Đông. Nhưng những người nối
nghiệp không quên vị thánh bảo trợ truyền giáo là thánh Phanxicô
Xaviê. Chúng tôi có t́m gặp hai tác phẩm viết tay bằng tiếng Việt do
hai giáo sĩ thuộc Hội Thừa Sai ngoại quốc Paris:
Tác phẩm thứ nhất là của François Honoré Favreau. Giáo sĩ này sanh
tại Sêmêrê (tỉnh Loire- Inférieure) vào năm 1846. Ở xứ Bắc từ năm
1869 đến năm 1877. Từ trần năm 1891. Tác phẩm của ông có nhan đề là:
Ông thánh Phanxicô Xaviê. Sách gẫm đủ 9 ngày về những việc nhơn đức
ông thánh Phanxicô Xavêrô, Tân định (không đề năm), khổ 16, 54 trang.
Chúng tôi không được thấy tác phẩm này. (82)
Tác phẩm thứ nh́ là của Jean Joseph Cosserat, tên Việt là Tân, sanh
tại Haillainville (tỉnh Vosges) năm 1840, đến xứ Bắc từ năm 1864 và
từ trần tại Hà Nội năm 1897. Tác phẩm này viết bằng chữ Hán có nhan
đề là: Sách truyện ông thánh Phanxicô Xaviê in tại Ninh Phú Đường.
Phía sau trang tựa có biên: Giuse Côchinh Tân soạn thuật, Thiên Chúa
Giáng Sinh nhất thiên cửu bách bát niên, Giám mục Phêrô Maria Đông
truyền in, khổ 20x13cm, (2+) 24 + 4 trang. Quyển sách này c̣n có một
bản tàng trữ tại thư viện của Thánh bộ Truyền Giáo và có mang kư
hiệu: C 10h (1130) (83).
----------------------------------
Chú thích
(1) Tất cả
các bản chép tay những quyển sách ghi trong bài này (với ghi chú
Borgiani Tonchinesi và Latini) đều được giữ tại Văn khố Ḍng Tên ở
Rôma (ghi chú Japsin.). Về phần phiên dịch những đoạn văn bằng
tiếngViệt, chúng tôi hết ḷng cảm ơn cha Lucas Trần Văn Huy.
(2) A.
JANN O. CAP., Die katholishen Missionen in Indien, China und Japan,
Paderborn, 1915, tr. 208 (Công cuộc truyền đạo Thiên Chúa tại Ấn Độ,
Trung Hoa và Nhật Bản).
(3) Japsin.
64, 255.
(4) Japsin.
64, 398: Hơn 350.000 người chịu phép rửa tội từ khi thành lập.
(5) Xem R.
STREIT, Bibliotheca Missionen, qu. V, số 1640.
(6) Bài kư
sự đề năm 1663 trích trong A. LAUNAY, Histoire de la Mission de
Conchinchine, III, Paris, 1925, tr. 510.
(7) Japsin. 71, 98, 352v.
(8) Ibid.,
88, 203. D. Bartoli nghĩ vở kịch đó do Majorica soạn.
(9) Japsin.
88; 450v.
(10)
Cacham: là làng Thanh Chiêm. Xem PHẠM Đ̀NH KHIÊM, Đi t́m địa điểm di
tích thành cổ Quảng Nam và Phú Yên đầu thế kỷ XVII, trong Việt Nam
khảo cổ tập san, số 1 trang 72-77.
(11) Rum:
có lẽ là cửa Rùm trong tỉnh Nghệ An, cửa sông Cả.
(12)
Langcon: có lẽ là Lăng Cô, dưới chân đèo Hải Vân về phía Huế.
(13) Kẻ
Mlé: chúng tôi chưa nhận được tên địa điểm này.
(14)
Japsin., 85, 205.
(15)
Ibid., 65,46.
(16) Kẻ Ḅ:
chắc là Kẻ Bố, làng Bố Vệ, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
(17) Khi
Lan: chúng tôi chưa nhận được tên địa điểm này.
(18)
Japsin. 85, 33lv.
(19)
Ibid., 71, 462.
(20)
Japsin. 70, 273.
(21) Chị
của Đàng Trong: Chúng tôi không t́m biết được một cách chắc chắn
nhân vật này là ai.
(22)
Japsin. 82, 557-558.
(23)
Japsin. 70, 278v.
(24) Theo một bản chép tay về Danh sách tác phẩm và tiểu sử của các
người đă chết tại Giáo Hội Nhật Bản trong Japsin.
64,
366-368v, và Japsin. 89, 297-305v.
(25)
Japsin. 64, 366v.
(26)
Japsin. 88, 202v.
(27)
Japsin. 85a, 26.
(28) Nhan đề của sách ấy là: MIRACULI – A. S.
FRANCISCO XAVERIO Indiarum Apostolo – In collegio Neap. Soc. Jesu
patrati die III – Janurij Anno Dom. M.DC. XXXIV NARRATIO – Ex
Archiepiscopalis Curiae Tabulis-deprompta – NEAPOLI – Apud Lazarum
Scorigium, 1634. Bản chép tay h́nh như đă được sửa chữa bởi cha P.
Marcello Mastrilli, thuộc Ḍng Tên.
(29)
Borgia.
(30)
Eulalia.
(31)
Japsin. 88, 336v. 337.
(32) Ibid,
85, 200.
(33)
Ibid., 64, 336v.
(34)
Ibid., 89, 299v.
Xem HOÀNG
XUÂN HĂN, Girolamo Majorica, ses oeuvres en langue v́etnamiense
conservès à la Bibliothèque Nationale de Paris, trong Archivum
Historium Societatis Iesu, tập XXII (1953) tr. 203-214.
(35) Về Ketlâm, xem M. FERREIRA Noticias Summarias das perseguiçơes
da Missam de Cochinchina, Lisboa, 1700, tr. 187-218; hai bài tường
thuật năm 1663 trong sách của A. LAUNAY, op. cit.,III, tr. 510-520;
cũng xem Tiểu truyện các người chết trong Japsin.
73, 171.
(36) A.
LAUNAY, op.cit.,tr. 510.
(37)
Japsin 73, 171.
(38) A.
LAUNAY, op. cit., tr. 520.
(39)
Japsin 73, 171.
(40)
Ketlâm: chúng tôi chưa nhận được tên địa điểm này.
(41) M.
FERREIRA, op. cit., 191.
(42) A.
LAUNAY, op, cit., 520.
(43)
Japsin. 73, 171 và M. FERREIRA, op. cit., 191-192.
(44) M.
FERREIRA, op. cit., 192.
(45) M.
FERREIRA, op. cit., 192-193, 187-188, 213-215; Japsin. 73, 170-175
và A. LAUNAY, op. cit., 510-520.
(46)
Japsin. 73, 171.
(47) Một
bài của F.L. PULLÉ về Alexandre de Rhodes theo văn kiện Borg. Tonch.
10 trong Studi italiani di filoligia indo-iranica 4, (1904), tr.
127-136 là bài duy nhất mà chúng tôi được biết.
(48) Quyển
sách này là của thầy cả Philipphê do Rosario, gửi từ Giáo hội của xứ
Bắc.
(49) Năm
1493, Đức Giáo Hoàng đă chia những đất mới có thể t́m được cho nước
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Nhưng v́ sợ phân chia ấy không được rơ
ràng nên năm 1494, với ḥa ước Tordesillas tất cả những lănh thổ
ngoài Âu Châu về phía Tây của kinh tuyến vị trí 370 dặm phía Tây đảo
Açore là thuộc về Tây Ban Nha, phía đông của đường ấy th́ thuộc về
Bồ Đào Nha.
(50) Biên
bản của nguyên giáo sĩ Ḍng Tên Onofrio Villiani (vào năm 1782).
Giáo sĩ này đă làm Bề Trên của giáo đoàn xứ Bắc năm 1775 và năm 1784
vào Ḍng Capucins với tên là Lorenzo da Faenza (Japsin. 87, I, 8.)
(51)
Japsin. 82, 567.
(52)
Pombal: một chính trị gia xứ Bồ Đào Nha, là người đầu tiên bắt bớ
các giáo sĩ Ḍng Tên v́ ông theo những phong trào triết lư chống đạo.
(53)
Villiani, 17-v.
(54) Borg.
lat., 668.
(55)
Villiani, 12-v.
(56)
Ibid., 7-v.
(57)
Villiani, 8, 10v-13v.
(58)
Ibid., 10.
(59)
Ibid., 12v.
(60) Xem
J.A. OTTO, Grundung des neuen Jesuit-mission durch General Pater
Johann Philipp Roothaan, Freiburg i. B., 1930, tr. 60 (Sự thành lập
giáo đoàn Ḍng Tên mới do cha bề trên cả J.P.R.)
(61) Năm
1727, các thầy giảng cùng giáo dân xứ Bắc đă có gửi cho vua xứ Bồ một
bức thư, trong đó họ xin vua Bồ gửi cho họ một Đức Giám Mục và các
giáo sĩ Ḍng Tên. Với điều kiện đó họ có thể làm giáo dân cho xứ Bồ
và, luôn thể, chấm dứt một sự cạnh tranh không biết chừng nào mới hết.
Japsin, 68, 126v.
(62) Borg.
Tonch. 3, 1-63.
(63) F. DE
ALMEIDA, Historia da Igreja em Portugal, tập IV, 4 (1921), tr.
420-421 (Lịch sử giáo hội xứ Bồ); R. STREIT, Bibliotheca Missionum,
XI, số 43, 48, 52-54 và C.C. DE NAZARETH, Mitras Lusitanas no
Oriente II, Lisboa, 1913, tr. 334 và 346.
(64) R.
STREIT, op. cit., XI, số 43 (nơi nào tác giả biên chữ Chinh là phải
đọc Bỉnh), 48.
(65) C.C. DE NAZARETH, op. cit., II, 346.
(66) Borg.
Tonch. 14.
(67) R.
STREIT, op. cit., XI, số 81.
(68)
Ibid., số 102, 106 và 114.
(69) C.C.
NAZARETH, op. cit., II, tr. 335-336.
(70) Borg.
Lat. 668.
(71) Tất
cả đoạn này viết bằng tiếng Bồ Đào Nha.
(72) J.A.
OTTO, op. cit., tr. 24.
(73) Người
ta gọi các tu sĩ Ḍng Oratoire bằng tên Rilhafoles – chứ không phải
Rifoles – v́ tu viện của Ḍng vị trí tại địa điểm Rilhafoles, bây
giờ là một dưỡng trí viện, về phía đông bắc thành Lisbôa. Xem P.
LEAL, Portugal Antigo e Moderno, IV, tr. 266. Về sự cạnh tranh giữa
Ḍng Oratoire, giúp đỡ bởi Pombal và Ḍng Tên, xem F. RODRIGUES,
Historia da Companhia de Jesus na Assistencia de Portugal IV, 1,
Porto, 1950, tr. 327-336, 358-362.
(74) Borg.
Lat. 668.
(75) Borg.
Tonch. 3, 634.
(76) Borg.
Tonch. 21, 423.
(77) Trong
cách tŕnh bày những quyển sách, chúng tôi sẽ đặt trong dấu ngoặc
những trang không có ghi số.
(78) Một
bản sao của bản dịch này do tay của người bạn đồng hành là Thômê
Vincentê Quinh Nhân Ki giữ trong Borg, Tonch. 22, chép tại Lisbôa,
năm 1801. Quyển sách này cũng có phiếu ghi thường lệ với lời chú là
quyển sách thuộc quyền sở hữu của Philiphê Bỉnh. V́ đó mà ta có thể
tin rằng người bạn đồng hành đă từ trần trước Bỉnh.
(79) Bỉnh nêu ra đây những con số không đúng lắm, nhưng là những con
số phổ thông trong thời đại đó. Con số 33.000 phép lạ có lẽ được lầm
lẫn với con số 33.00 dặm.
(80) Người
ta thường nói người đó là giáo sĩ P. Machado thuộc Ḍng Tên, mà
thường được mệnh danh là “người xứ Đàng Ngoài”. Sanh năm 1709, vào
Ḍng năm 1728, trở thành phó bề trên giáo đoàn Nhật Bản năm 1753 (Japsin,.
25, 291). Năm 1760, ông bị bắt tại Macao cùng với nhiều giáo sĩ khác
thuộc Ḍng Tên và bị giải về Lisbôa – Nơi đây ông bị giam, cùng với
những người khác, tại hầm ngục thánh Julien. Rồi ông được tha nhưng
trục xuất khỏi nước Bồ Đào Nha. Ông tới Civitavecchio ngày 7 tháng 9
năm 1797 (Lus. 42, 92) và từ trần ngày 12 tháng chạp năm ấy tại
Castel Gandolfo (Ibid., 192)
(81) Truyện ông th’. P. de Jeronimo, Truyện thầy cả Antonio Vieira,
Truyện thầy cả José Anchieta, Truyện thầy Irmăo Phêrô Basto, Sách
kinh Novena ong th’. Ignacio, Sách kinh Novena ong th’. P. Xavier,
Sách kinh Novena ong th’. P.B (orja), Sách kinh Novena ong th’. Luis
C (onzaga), Sách kinh Novena ong th’. Estanislao, Sách kinh Novena
ong th’. Anton.
(82) Chúng
tôi kê khai tác phẩm này theo R. STREIT, op. cit., XI, số 1442,1.
(83) Theo
ư ông Streit, là người đă kê khai tác phẩm này (XI, số 1684 và
975,5), quyển sách này do nhà in giáo đoàn Kẻ Sở xuất bản.
Trích từ:
www.dunglac.net
Đỗ Văn Anh & Trương Bửu Lâm (dịch)
Oakland, CA, DHN ghi luu
|