Đạo Chúa đă có mặt trên đất nước này đă năm thế kỷ. Ngày nay, nh́n
lại đạo Chúa từ những ngày đầu như một cánh đồng lúa vừa mới được
cầy vỡ. Qua mỗi vết luống cầy đă hằn lên những vết thương tủi nhục,
ḥa lẫn máu và nước mắt. Bao nhiêu người đă chết. Bao nhiêu mồ hôi,
máu và nước mắt. Từ những luống cầy vỡ lúc ban đầu của đạo công giáo
với gian nan thử thách, người viết đi t́m về dấu chân cha ông của
ḿnh.
Có một điều ngạc nhiên đến thích thú là trong công cuộc Nam Tiến
của đất nước thời Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa có một sự trùng hợp một
cách định mệnh với sự có mặt của đạo Chúa ở Việt Nam.1
Thật vậy, đất nước ta lúc đầu vỏn vẹn thu vén vào mỏm đất đồng bằng
sông Hồng cộng thêm một eo đất hẹp miền Trung mà giới hạn cuối cùng
dừng lại ở vùng Hà Tĩnh. Đất c̣n hẹp, người c̣n thưa. Chung quanh tứ
phía chỉ là sinh lầy với lau sậy. Con người c̣n lao đao khốn khổ mới
có miếng ăn cái mặc.
Nhưng nhờ cái kế sách Thuận Hóa, nhờ cái hướng chỉ dẫn của Sấm Trạng
Tŕnh : Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân đă làm nên
nghiệp lớn. Từ một kế sách tạm thời, Thuận Hoá chỉ c̣n là trạm dừng
chân, trạm nghỉ mở đầu cho cuộc Nam Tiến.
Nếu không có cuộc Nam Tiến này, ngày nay tất cả chúng ta c̣n ngồi bó
gối chen chúc nhau ở mảnh đất đồng bằng sông Hồng.
Đất nước ta sau này, trải dài từ Nam chí Bắc đều thu gọn vào một chữ
: Sông nước. Chỗ nào cũng là nước đến có thể nói sông nước,
con người là một. Pierre Gourou, tác giả cuốn Les Paysans du Delta
Tonkinois nhận xét : Đó là hai miền đất mầu mỡ, nhưng cũng rủi ro
đầy bất trắc với sự có mặt đến như ám ảnh bởi nước với những kinh
rạch tự nhiên hay do người đào arroyos ... với ruộng lúa ph́ nhiêu.
Chỗ nào cũng là nước, lúc nhúc các thuyền đủ lọai, lúc nhúc con
người với cá tôm cua, với ruộng lúa..Và cuối cùng vùng đất với
nước như thế chỉ thật sự biến mất khi nó đổ vào đại dương. Đại
dương với biển cả là cánh cửa sổ của nước ta ḍm ra bên ngoài.
Chính qua những cánh cửa sổ nh́n ra đại dương này mà các nhà
truyền giáo đầu tiên đến từ Bồ Đào Nha, Y Pha Nho vào nước ta.
Họ đến từ nhiều ngă : có thể từ Ma cao, có thể từ Xiêm và xa hơn nữa
từ Aán Độ. Đến thế nào th́ ra cũng vậy. Chính qua những cửa ngơ này
nếu cần, các ngài quay về Aán Độ hoặc Xiêm La.
Hăy cứ tưởng tượng, một vị truyền giáo lần đầu tiên đặt chân lên một
băi biển xa lạ, hoang vắng và đầy bất trắc, họ sẽ gặp ǵ và sẽ phải
làm ǵ. May mắn ra họ có thể gặp đâu đó một vài chiếc thuyền đánh cá
nằm trơ trên băi, có bóng dáng người đang phơi lưới hoặc vá lưới.
May mắn hơn chút nữa, họ có thể gặp một xóm dân chài. Gọi là xóm cho
có vẻ sang chứ thật ra chỉ là non chục thuyền đánh cá và một vài túp
lều che mưa nắng. Với độ dăm chục người cả già trẻ lớn bé. Đàn ông ở
trần , chỉ đóng một cái khố. Đàn bà có giải yếm che ngực và chiếc
váy . Trẻ con trần truồng chạy nhảy, bơi lội như những con nhái bén.
Cái nh́n lần đầu tiên từ phương xa, từ nửa phần trái đất bên kia đại
dương của các thừa sai không khỏi ngạc nhiên đầy thích thú về những
ước mơ dự phóng cho cánh đồng lúa mới. Những con mắt nh́n nhau xa lạ,
e ngại dọ dẫm. Những cử chỉ, ra dấu bằng đủ mọi cách để bước đầu làm
quen.Rồi chủ khách về túp lều dựng tạm..Công việc truyền giáo bắt
đầu. Và hiển nhiên, người đến trước, người gặp đầu tiên, người có
cái cơ duyên như tiền định trong chuyến tao ngộ trở thành những
người đồng hành, những người mở đầu cho kỷ nguyên Thiên Chúa giáo
vào Việt Nam là đám dân thuyền chài này. Họ có khác chi 12 môn đồ
của Chúa lúc bắt đầu ngày Chúa đi rao giảng tin mừng. Nếu 12 môn sứ
được chọn trong muôn vàn th́ những người thuyền chài ở ven biển Việt
Nam chỉ là một sự chọn lựa t́nh cờ bất đắc dĩ.
Dù sao, họ những người thuyền chài, ḿnh trần đóng khố vải là những
kẻ tiền phong nhận tin mừng cứu độ. Từ một giả định như vậy, người
viết nghĩ rằng đa số những người công giáo lúc đầu hẳn là những
dân chài. Người viết giả định như vậy,v́ có những lư do của nó.
Thật vậy, xă hội nước ta xưa chia ra hai hạng người :
- Những người đă định cư, đă có nếp sống ổn định, sống trong những
đơn vị làng, xă là nền móng tổ chức căn bản của sắc dân Việt. " Làng
xă Việt Nam là một cơ cấu vững bền trải qua những cuộc biến thiên
của lịch sử nước nhà" 2. Những làng xóm này là những đơn
vị có định chế, có tổ chức, có phép tắc theo một nếp sống phong tục
có trên dưới, có một số ngành nghề bảo đảm cho đời sống dân trong
làng. Người dân làng sinh ra, lớn lên và chết đi cũng ở trong khuôn
khổ làng. Đó là một đơn vị xă hội khép kín về nhiều mặt, từ kinh tế,
xă hội đến nếp ăn, nếp ở, đến lễ nghi phong tục. Một xă hội khép
kín với nếp sống phong tục cổ truyền rất khó để đạo có cơ hội truyền
giảng tin mừng .
- Bên cạnh đó, có một số lưu dân chủ yếu sống bằng nghề chài lưới mà
người ta quen gọi là làng vạn hay làng chài. Các dân chài thường là
dân lưu động, sống trôi nổi trên sông nước Population flottante rầy
đây mai đó nên phép tắc không có, luật lệ cũng không. Họ được gọi là
dân giang hồ, dân tứ chiếng. Khi cần th́ người ta mỉa mai gọi là bọn
"Trôi sông lạc chợ, bọn chốn sâu lậu thuế ". Sau này người Pháp c̣n
gọi là bọn "du côn", giới anh chị. Nhưng nói chung, dân thuyền chài
v́ sống ít giao tiếp với xă hội bên ngoài nên vẫn giữ được tính chất
thuần phác, đơn sơ, hiền lành đến khờ khạo, v́ ít học, ít hiểu biết.
- Nhưng chính v́ những cá tính đặc biệt đó mà họ dễ chấp nhận các
nhà truyền giáo hơn những người dân đă có cơ ngơi, có tín ngưỡng của
họ như Phật Giáo , Lăo giáo, Nho giáo. Bởi v́ giữa một nhà nho và
một dân chài, người dân chài có cơ may dễ chấp nhận lời Chúa hơn cả.
- Đằng khác, bản thân những người dân chài là những người nghèo bị
hất hủi ra bên lề xă hội. Họ là dân khố rách áo ôm, tứ cô vô thân,
một miếng đất cắm dùi cũng không có. Các nhà truyền giáo đến với họ
cũng nghèo đói khốn khổ như họ, chia sẻ sự thiếu thốn khó khăn với
họ. Điều đó làm cho họ dễ gần nhau, dễ chia xẻ.." Điều làm họ cảm
động hơn cả là nh́n thấy chúng con ( Các thừa sai) chấp nhận bao vất
vả và gian nguy mà không có một niềm hy vọng trần thế nào, mà
chỉ có mục tiêu duy nhất là rao giảng cho họ về tin mừng, về chân lư..
V́ thế chúng con sẵn sàng chịu tất cả v́ danh Ngài..Trên miền núi
này, người ta thiếu thốn tất cả : Nước th́ độc, khí hậu th́ âm u
nặng nề dịch bịnh.. Mọi người đềụu nói rằng Chúa đă làm một phép lạ
để giữ cho con được khỏe mạnh an toàn "3 .
Quả thực, xét về nhiều mặt, từ địa lư thiên nhiên, từ đời sống vật
chất đến tinh thần., người dân chài có cơ may nhiều hơn hết là những
người đầu tiên chấp nhận ánh sáng phúc âm của các nhà truyền giáo.
Nhưng nếu cần xác định một người công giáo đầu tiên, có tên, có
tuổi dựa trên tài liệu chính xác th́ chúng ta phải nghiêng về
quan điểm viết dựa trên tài liệu của Hội truyền giáo Ba Lê do giáo
sĩ C.Ponset viết :’’ L'un des premiers Annamites, sinon le premier,
convertis au Catholiscisme (Một trong những người Annam, có thể
nói là người đầu tiên, đă trở lại đạo Công giáo). Tài liệu của
Ponset được đăng trên Bulletin des amis du vieux Huế, số đầu, năm
1941
Vậy người Công giáo đầu tiên theo cha Poncet là ai.
Dựa trên gia phả ḍng họ Đỗ có tên là Đỗ Tộc gia phả, ở làng Bông
Trung, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, Cha Ponset t́m thấy ở trang
18b một câu như sau : Đỗ Hưng Viễn theo đạo có tên là Hoa Lang.
Chỉ vỏn vẹn có mấy chữ. Nhưng lại có tầm vóc lịch sử, v́ đánh dấu
giai đọan mở đầu của đạo công giáo vào Việt Nam. Chữ Hoa Lang được
dùng lúc bấy giờ chỉ có thể hiểu được là đạo Công giáo, không thể là
tin lành. V́ Tin Lành đến 200 năm sau mới vào Việt Nam.Vậy đạo Hoà
Lang là đạo Công giáo.. 4
Kể như giải quyết được một vấn nạn. Vấn đề kế tiếp là lúc nào
ông Đỗ Hưng Viễn trở lại đạo Công giáo.
Theo gia phả, Ông Đỗ Biển, bố của ĐHV làm quan lớn trong triều đ́nh
vào khoảng năm 1558 đến năm 1571, dưới thời Lê Anh Tôn (Thời Lê anh
Tôn 1556-1573). Lúc đó, ông khoảng 60 tuổi. Từ đó suy ra ông Đỗ Hưng
Viễn lúc đó khoảng 30 tuổi. Việc trở lại đạo của ông chỉ có thể xảy
ra vào lúc ông từ 25 đến 30 tuổi. Trước 25 tuổi, ông có thể c̣n ở
với bố mẹ nên chịu sự kiềm tỏa gia đ́nh không cho phép theo đạo. Sau
tuổi 30 có thể ông cũng ra làm quan mà theo tục lệ lúc bấy giờ cho
phép ông có nhiều bà vợ cũng sẽ cản trở việc trở lại đạo của ông.
Khó có thể ông từ bỏ tất cả vợ con để vào đạo. Xét như thế, việc trở
lại đạo của ông rơi vào thời gian từ 1560-1570, lúc ông c̣n trẻ dưới
thời Lê Anh Tôn.
Nhưng từ năm 1560 đến 1570 mà ông Đỗ Hưng Viễn đă trở lại đạo là một
điều khó cắt nghĩa được, v́ theo Romanet du Caillaut trong Essai
sur les origines du Christianisme du Tonkin et dans les autres pays
Annamites , trang 36 có viết : Giáo sĩ đầu tiên liên lạc với
Việt Nam là Giovanni Battista da Pesaro, ḍng Phan xi cô đến từ
Macao đă gửi thư cho vua nước ta xin được truyền đạo vào năm 1581,
vua đă nhận lời . Trước năm 1581, chưa có nhà truyền giáo nào đến
rao giảng ở Việt Nam. Làm sao Đỗ Hưng Viễn có thể trở lại đạo vào
khoảng năm 1560. Cùng thời gian đó, có hai nhà truyền giáo là khác
là Diego d!oreposa đến Việt Nam vào năm 1583 và Bastholomê de Ruitz
đến vào năm 1584. Nhưng cả hai đều thất bại rồi lút lui.5
Nhưng Caillaut đă hé lộ ra một dữ kiện khá quan trọng ở trang 67 ông
viết : Các nhà truyền giáo trên khi đến Thanh Hóa vào khoảng
1582-1583 th́ ở đó đă có người công giáo rồi. Họ đă truyền đạo giữa
người Việt Nam với người Việt Nam rồi.Có nghĩa là đă có người công
giáo trước khi các giáo sĩ trên đặt chân tới Việt Nam.6
Vậy cái người công giáo Caillaut muốn nói tới ở đây là ai, phải
chăng là Đỗ Hưng Viễn, nhưng cho dù là Đỗ Hưng Viễn đi nữa vẫn chưa
có lời giải đáp bằng cách nào trước năm 1581 Đỗ Hưng Viễn trở lại
đạo.
Theo Poncet, Các thương buôn người Bồ Đào Nha, Tây ban Nha thường
chỉ ghé Việt Nam như Tourane để mua thêm lương thực hoặc trữ thêm
nước mà không ở lại . Giáo sư Nguyễn khắc Ngữ, đă quá văng,
trong cuốn sách Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hoà Lan giao tiếp với Đại
Việt của ông cũng xác nhận một lần nữa điều đó.
Tóm lại, họ chỉ ghé Việt Nam sau đó đi sang Tầu hoặc Nhật Bản. Ngay
như thánh Phan xi Cô cũng chỉ ghé Việt Nam đến ba lần vào các năm
1549-1551-1552, nhưng ngài không bao giờ dừng lại . V́ thế,
trong các thư từ của ngài không bao giờ nhắc tới Việt Nam. Nhưng
điều đó cũng cho thấy rằng, trên các thương thuyền đó thường có các
giáo sĩ đi theo, câu hỏi được đặt ra tiếp là Đỗ Hưng Viễn được
rửa tội ở đâu. Ông chắc chắn đă không được các giáo sĩ trên rửa
tội, v́ không ai dừng lại. Chỉ c̣n một cách giải thích là ông đă đi
theo các thuyền buôn người Bồ và được các giáo sĩ rửa tội hoặc trên
thuyền, hoặc ở Ma Cao, vào khoảng năm 1556-1570 . Để giải thích rơ
hơn là các vua Lê Anh Tôn rất muốn giao thiệp với các nhà buôn ngoại
quốc và sẵn sàng đón nhận các giáo sĩ vào truyền đạo nên rất có thể
vua đă truyền cho họ Đỗ mang thư của vua sang Macao cho các cha Phan
xi cô, v́ vậy mà họ Đỗ đă có thể đi học đạo và rửa tội không phải
ở Việt Nam mà ở ngoại quốc7 .
Đôi lời kết luận
Giả thuyết người viết nêu ra từ đầu khẳng định là những người công
giáo đầu tiên phần lớn là dân nghèo, và nhất là dân chài vẫn là
những giả định chứa đựng nhiều sự thật, mặc dầu cho đến nay, chưa có
tài liệu nào của các vị thừa sai nói rơ về điều đó. Nhưng giả thiết
đó vẫn gây một chút thích thú và vinh dự cho giáo hội Công giáo Việt
Nam, v́ tổ tiên của họ theo đạo đầu tiên đều thuộc lớp dân nghèo, ít
học, lớp người bị coi rẻ, gạt ra bên lề. Việc truyền đạo, hạt giống
phúc âm phải chăng nảy mầm, bén rễ từ lớp dân nghèo hèn đáp ứng đúng
tin mừng cứu độ. Dù sao, vẫn cần có sự dè dặt, chẳng nên có một
quyết đoán bừa băi nào. Nhưng nội điều đó thôi, h́nh ảnh giáo hội
lúc ban đầu đă thật là đẹp rồi.
Về giả thuyết của thừa sai C.Ponset có một điều đáng là tiếc, v́
ngài đă không có điều kiện để trưng ra gia phả họ Đỗ. Trong t́nh
huống như thế, bắt buộc chúng ta hoặc tin hoặc không tin mà
thôi.Trong hoàn cảnh nước ta, việc truy ḍ lại lịch sử quá khứ là
một điều nan giải đến bất lực, đến chán nản. Dù đă chấp nhận họ Đỗ
là người Công giáo đầu tiên đi nữa, cái câu hỏi c̣n gây vấn nạn và
lúng túng vẫn là ông học đạo ở đâu và trở lại đạo ở đâu. Tất cả c̣n
là những điểm tồn nghi, chưa rơ ràng.
Nhưng dầu thế nào đi nữa cũng phải nhận với nhau một điều là : Nhờ
có sự giúp sức của chính phủ Pháp và chính quyền Viện Đại học Huế mà
ngày nay, những người dân giả như người viết mới có cơ may được tiếp
cận với hơn mười ngàn trang tài liệu của cố Cadière, suốt từ năm
1914 đến 1944. 30 năm lao khổ, sưu tầm, hiệu đính đủ thứ, đủ chuyện.
Hơn 10 ngàn trang tài liệu nhờ đó mà một số chi tiết lịch sử Việt
Nam sẽ phải được viết lại, nhất là giai đọan đầu đời Nguyễn Ánh. Lớn
đến mức độ thán phục choáng váng. Những trang tài liệu thật quư giá
mà trước đây ngay cả các vị học giả vị tất đă có cơ may được xử dụng.
Bài viết này chỉ tŕnh bày lại những điều mà trước đây cố Cadière đă
làm, đă nghiên cứu mà thôi. Cái công trạng của ai , xin trả lại cho
người đó. Món nợ của chúng ta đối với vị học giả này chả có cách chi
trả nổi, ngay những người đương đại mà tầm mức đến cỡ nào đi nữa
cũng chả có chi ngang tầm. Nói chi đến những kẻ hậu bối như người
viết chỉ nội đọc cũng đă không xong rồi.
Nguyễn Văn Lục
______________________________________
1. Khi Chúa Nguyễn Hoàng vào lập nghiệp tại đất Thuận Hóa vào năm
1558, Thiên chúa giáo được truyền vào Việt Nam dưới thời Lê Trung
Hưng, và nếu định cho một mốc điểm đánh dấu sự có mặt này th́ kể từ
năm 1560. Hai mốc điểm thời gian đó mở ra cho lịch sử Việt Nam một
trang sử mới : Một mặt mở mang bờ cơi đi vào phía Nam như một vùng
đất hứa, một mặt sứ mạng rao giảng tin mừng mới của Đạo Thiên Chúa.
Nhưng cũng kể từ đó, con đường đi của Thiên Chúa giáo là con đường
Émau với tiếng thở dài, với những gian lao khốn khổ bắt bớ tù đầy,
hành quyết mà mức độ mỗi ngày mỗi gia tăng..Nhất là thời Minh Mạng,
Tự Đức..
2. La commune annamite est une institution qui a survécu aux
vicissitudes de l' histoire de notre pays. Nguyễn Hữu Khang. Trong
La commune Annamite. Eùtudes historique, juridique et économique.
Trích lại trong Nếp cũ,làng xóm Việt Nam của Toan Ánh. trg26
3. ** (Thư của Thừa sai Le Pavec gửi về cho cha mẹ, ngày 7 tháng 4
năm 1797 . NLEC, tập V11, trang 382-383. Trích lại trong Đạo Chúa ở
Việt Nam. Nguyễn văn Trung, trg102.)
4. Theo cố Cadière đă trích dẫn Cristofori Borri th́ chữ Hoà lang do
ở câu : Congnơ muon bau tlom laom Hoalaom chiam (Con nhỏ muốn vào
trong ḷng Hoà Lang chăng). Đây là lần đầu tiên người ta nghe và
hiểu rằng đạo Hoa Lang có nghĩa là đạo Công giáo. Thuở ấy, ils se
croyaient que se faire chrétien n '!était autre chose que de cesser
d'être Cochinchinois pour devenir Portugais .(Trích trong BAVH.
1931, trang 339-340.)
Nhưng cha P. Henri Bernard, ḍng tên trong : Pour la compréhension
de L'Indochine et de L'occident, trang 58 có lối giải thích đơn giản
hơn. Cha cho rằng Người Việt Nam xưa khi theo đạo của người Bồ th́
gọi là Đạo Phu Tu Ghê, theo người Y Pha Nho th́ gọi là đạo Y Pha Nho,
theo người Pháp th́ gọi là đạo Pha Lang Sa và theo người Hoà Lan th́
sẽ gọi là đaọ Hoà Lan… Đơn giản như vậy. Nhưng từ thế kỷ thứ 17 th́
tất cả những ǵ có liên quan đến đạo Công giáo đều gọi chung là Hoà
Lang.
5. Giáo sư Ngữ trong sách đă dẫn của ông cũng đă khẳng định như sau
: Tuy nhiên, ngoài tài liệu trong Khâm Định Việt Sử nói trên, không
có tài liệu nào nói đến những họat động thương mại và truyền đạo của
Bồ trước năm 1579. Lư do dễ hiểu v́ măi đến năm 1539, công ty Bồ Đào
Nha phụ trách việc truyền giáo ở MaCao mới đưọc thành lập nên không
có các tài liệu lưu trữ trước đó. Ông nói thêm Tài liệu xưa nhất của
người Bồ nói đến việc truyền giáo của người Bồ là vào năm 1579.
Nhưng chỉ sau đó ít ḍng, Giáo sư Ngữ đă nói ngược lại điều khẳng
định ông vừa nêu trên trên khi ông viết : Tài liệu này chứng minh
rằng đến năm 1579, xứ ta đă có một số nhà thờ và giáo dân quan trọng
và đă có một số giáo sĩ từ Macao gởi sang, nhưng không đủ.
6.Giáo sư Ngữ đă bỏ khá nhiều công phu sưu tầm tài liệu, nhất là
sách xuất xứ từ Bồ Đào Nha mà ông cho biết nhờ sống ở khu vực có
nhiều người Bồ , đường Colonial, Montréal, ông đă thu thập được một
số tài liệu liên quan đến mối liên hệ Việt Bồ. Ông trích dẫn trong
Les débuts du Christianisme en Annam của Bonifacy như sau : Cuối thế
kỷ 16, người Tây Ban Nha về qua Cửa Hàn đă thấy ở đấy có hai giáo sĩ
Bồ thuộc ḍng Augustins. Những linh mục này không giảng đạo cho
người bản xứ mà chỉ làm lễ cho các thủy thủ Bồ thường đi qua cửa
biển này.
7.Thời vua Lê thần Tông 1619-1643, thế kỷ 17, ở Mật Sơn, vùng Thanh
Hóa, người ta c̣n t́m thấy ngôi đền của vua có bức tượng vua và 6
bức tượng các bà vợ của ông. Trong đó có một bà Việt Nam, một bà Tầu,
một bà đất Ba Thục ( Tầu ), một bà người Xiêm và cuối cùng một bà
đầm người Hoà Lan. Điều đó cho thấy , có một thời gian mối liên lạc
giữa Việt Nam và các nước ngoại quốc khá thân thiện
|