BẢN TIN
Đại Học Hè 96

Tại Tu Viện Orsonnens, Thụy Sĩ từ 04 - 11.08.1996

Trung Tâm Nguyễn Trường Tộ

 

Khóa đầu tiên Đại Học Hè - một h́nh thức gặp gỡ, thảo luận, học hỏi về văn hóa Việt Nam cấp Đại Học mở rộng cho người Việt thuộc nhiều lứa tuổi, tôn giáo khác nhau trong cộng đồng Việt Nam Hải Ngoại - đă khai diễn từ ngày 4 đến 11 tháng 8 năm 1996 tại Tu Viện Xitô Việt Nam, nhà Orsonnens, Thụy Sĩ.

Số học viên tham dự: 115 người, đa số là sinh viên và chuyên viên vừa tốt nghiệp các đại học. Ngoài ra có 10 giáo sư và 20 hỗ trợ viên. Tất cả đến từ 18 quốc gia trên thế giới.

Đại Học Hè cống hiến một chương tŕnh đào tạo là bốn tuần lễ cho bốn năm liên tục. Mỗi năm với một chủ đề riêng. Chủ đề của khóa 96 này là: "Dẫn vào văn hóa Việt Nam".

Ngoài phần học hỏi giáo tŕnh, học viên tham gia các cuộc thảo luận, thực tập các bộ môn nghệ thuật, sinh hoạt cộng đồng và giải trí. Đặc biệt vào giữa khóa, học viên dành một ngày du ngoạn tham quan thành phố Genève, hồ Léman, trụ sở cơ quan Liên Hiệp Quốc và thăm Trung tâm Đại Kết các Giáo Hội.

Đại Học hè do Trung Tâm Nguyễn Trường Tộ chủ trương. Khai diễn hằng năm vào đầu tháng 8 và kéo dài một tuần lễ.

Sau đây là phần trích dẫn một vài đoạn trong các bài diễn thuyết của suốt khóa học:

 

Văn Hóa, Di Dân và Giáo Hội

 

 

(Bài thuyết tŕnh khai mạc của linh mục Michael A. Blume, đại diện Hội Đồng Giáo Hoàng đặc trách Mục Vụ cho người Di Dân và Du Mục)

"... Tôi muốn khuyến khích quí vị phê b́nh góp ư với ḷng ưu ái cho nền văn hóa ở những nơi quí vị đang định cư. Sự đóng góp này có một nguyên tố tôn giáo thiết yếu. Tất cả những phán định tôn giáo được hàm súc ở đây đều diễn tả, cách này hay cách khác, xác quyết này, đó là con người sinh ra để t́m kiếm chân lư...

Tôi khuyến khích quí vị cố hết sức đào sâu những niềm tin tôn giáo của chính ḿnh. Đó không có nghĩa là trở nên cuồng tín hay tự cô lập. Ngược lại, điều tôi muốn nói là sự trung tín với chân lư và tiềm năng giúp chúng ta phát triển và quảng kiến. Công việc t́m kiếm và phát hiện ra chân lư là cái mà chúng ta có thể chia sẻ với những người thiện chí. Qua đó, chúng ta, những người từ nơi khác tới, sẽ góp phần tích cực vào việc phát triển văn hóa không những của ḿnh và của quốc gia ḿnh định cư mà c̣n của cả thế giới chúng ta đang sống..."

 

Diễn Văn Khai Khóa

 

Diễn văn khai khóa của Đức Ông Trần Văn Hoài, viện trưởng Đại Học Hè

"... Đại Học Hè khóa I.96 tại Tu Viện Xitô Việt Nam Orsonnens Thụy Sĩ là kết quả của nhiều cố gắng, nỗ lực của hàng ngàn người Việt Nam hải ngoại đă thao thức, đă chuẩn bị nhiều công tác để dần hồi hoàn thành một tổ chức, một cơ cấu cống hiến một môi trường để chúng ta có thể thảo luận, trao đổi, học hỏi, truyền đạt các nội dung văn hóa, lịch sử, nghệ thuật... Việt Nam ở cấp Đại Học.

Đây là bước tiên phong, khởi đầu... Chúng ta cầu mong cho nỗ lực của Trung Tâm Nguyễn Trường Tộ, của ban giảng huấn, của các học viên khóa này tạo được một truyền thống sinh hoạt văn hóa tốt đẹp trong cộng đồng người Việt Hải Ngoại trong tương lai..."

 

Diễn Văn Chào Mừng

 

Diễn văn chào mừng của Giáo sư Nguyễn Đăng Trúc, đại diện ban tổ chức

"... Đại diện các thành viên của Trung Tâm Nguyễn Trường Tộ, thay mặt ban tổ chức Đại Học Hè Việt Nam hải ngoại khóa I.1996, chúng tôi kính chào mừng các vị quan khách, các giáo sư và tất cả các học viên đến từ 18 quốc gia trên thế giới..."

 

Bài Giảng Thánh Lễ Khai Khóa

 

Bài giảng thánh lễ khai khóa của Lm Nguyễn Đ́nh Tuyển, Tu Viện Trưởng Tu Viện Xitô, Nhà Orsonnens, Thụy Sĩ

"... Các bạn trẻ là kho tàng quư giá nhất của Mẹ Việt Nam. Tương lai của quê hương, đất nước, đồng bào là của các Bạn, tùy thuộc vào phẩm chất con người của các Bạn. Các bạn trẻ chúng ta không thể hững hờ, để mặc, nhưng cần vận dụng tất cả ư chí của ḿnh, những cơ hội may mắn để trau dồi nhân cách, tô bồi chất xám và kỹ năng, ư thức trách nhiệm đối với cộng đồng để trưởng thành dấn thân cùng nhau canh tân, xây dựng lại quê hương yêu quí của Mẹ Việt Nam..."

 

Huyền Thoại trong công cuộc dựng nước
căn bản cho Văn Hóa Dân Tộc

 

Gs. Hán Chương Vũ Đ́nh Trác (Hoa Kỳ)

"... Chúng ta vừa qua một chuyến đi thăm lại quê hương đất nước từ thuở khai nguyên, như vừa kết thúc một cuộc hành hương về Đất Mẹ. Từ thuở khai nguyên minh mạc, với những huyền thoại bí ẩn, với những nhân vật nửa Người nửa Tiên, với những nhân vật lỗi lạc đồng hương, đồng chủng, đồng nguyên khí của Tiên Rồng...

Chúng ta hiểu biết phần nào sự phát xuất của dân tộc do một truyền thống thần tiên cao quư, do bàn tay Tạo Hóa nhiệm mầu. Mảnh đất của ta là mảnh đất gấm hoa, có sông dài biển rộng, có rừng rậm núi cao, bốn mùa thay đổi điều ḥa. Là con ḍng cháu giống, dân tộc ta nhờ Trời tự tay tạo lập đời sống theo triết lư và đạo sống linh thông thực tế. Truyền thuyết cho rằng: Hùng Vương khi thấy thần dân sinh sôi nẩy nở vô số, liền đúc thành 1600 trống đồng, trao cho mỗi tộc một trống, để nhờ âm thanh và ánh sáng và những chứng từ ghi trên mặt trống, để sinh động và tự tồn. Trống Đồng v́ thế trở thành truyền thống văn hóa của dân Việt. Truyền thống văn hóa ấy cùng với các huyền thoại trở thành hiến chương lập quốc, hưng quốc và phục quốc cho muôn thế hệ mai sau...

Những tai nạn chính trị đă từng gây nên biết bao đổ vỡ bi thương. Nhưng nhờ ơn Trên và Tiên Tổ phù hộ, người Việt vẫn tồn tại và từ từ vá lành những rách nát, để phục hồi và vươn lên. Dân ta đang ḥa ḿnh với thế giới, cùng bước vào quỹ đạo thế giới, để vươn lên, để phục hồi và thăng hoa. Nhân tài không thiếu, chỉ sợ thiếu ư chí tái tạo trong tương thân tương nhượng. Không thiếu tài nguyên, chỉ sợ thiếu những bàn tay trong sạch, mẫn cán điều hành những tài nguyên ấy. Tinh thần dân tộc không thiếu, chỉ sợ thiếu tinh thần phục vụ đúng mức. Không sợ thiếu những khối óc bàn tay đầy năng lực xây dựng, mà chỉ sợ những khối óc vọng ngoại và những bàn tay đập phá thiếu t́nh tự dân tộc.

Hôm nay trước oai linh Tiên Tổ, trước khí thế Tiên Rồng, chúng tôi với bàn tay thô thiển chỉ muốn gióng lên một tiếng chuông chiêu Hồn Nước. Với khối óc hèn mọn chỉ muốn tâm niệm rằng: Dân tộc đời đời vẫn tồn tại. Với làn môi chân thành, chỉ muốn tụng niệm rằng: "Mẹ Việt Nam ơi, chúng con vẫn c̣n đây".

 

Bản Thể và Bản Chất Việt Triết

Giáo sư Trần Văn Đoàn (Đài Loan)

Việt triết là Nhân triết:
Vị nhân song không duy nhân

"Khi nói Việt triết là một nền Nhân triết, chúng tôi muốn nhấn mạnh những điểm sau:

Thứ nhất, trong Việt triết, con người là trung điểm, trung tâm của nền suy tư. Nói cách khác, đối tượng cũng như mục đích chính là con người...

Vậy phải chăng triết học của người Việt là triết duy nhân? Thoạt nh́n, chúng ta có cảm tưởng như vậy, song Việt triết là triết học vị nhân, đó là một nền triết học cho con người... Vị nhân có nghĩa là coi con người như mục đích song không coi con người là tất cả. Vị nhân có nghĩa là con người tự h́nh thành, phát triển từ dă thú tới con người nhân linh chính nhờ vào sự tương giao giữa người với người...

Thứ đến, sự h́nh thành của con người không phải do những thế lực hay năng lượng ngoại tại, song đó chính là những động lực và qui luật nội tại. Nói cách khác, con người h́nh thành con người... Nói như vậy, chúng tôi muốn nhấn mạnh:

(1) Việt triết tách biệt sáng tạo khỏi h́nh thành. Thượng đế tuy sáng tạo con người, song lại phú bẩm cho con người bản năng h́nh thành chính ḿnh...

(2) H́nh thành con người có nghĩa là làm cho con người trở thành con người vị cách (man as person), một con người xứng đáng là con người nhân cách (man as human) tách biệt khỏi thú vật và các sinh vật khác.

(3) Sự h́nh thành của con người có tính chất siêu việt, mà siêu việt có nghĩa là tiến vuợt một cách vô định và vô biên. Thế nên trong mạch văn Nho giáo, Việt triết nhận định con người có thể trở thành thánh nhân, và trong mạch huyết của Việt dân, con người có thể trở thành thần và quỷ.

(4) Do vậy, triết học vị nhân của người Việt có thể tóm gọn trong đạo nhân, tức là đạo làm người, phát triển người, và siêu việt con người..."

 

Hồn Nước với Lễ Gia Tiên

Giáo sư Nguyễn Hữu Doăn (Anh Quốc)

"... Lễ Gia Tiên, sự biểu lộ cô đọng tinh hoa của văn hóa dân tộc Việt Nam. Nó diễn đạt một cách cụ thể Đạo làm người, mối tương giao giữa thần thánh với con người, mạc khải nền tảng xây dựng Đạo nghĩa gia đ́nh, xă hội. Trước bàn thờ Tổ Tiên, con người cung kính tiếp nhận những giá trị ngàn đời được tiền nhân tôn trọng và lưu truyền, ư thức vai tṛ và sứ mệnh làm cha, làm mẹ, làm con, làm anh chị em, làm chồng, làm vợ, làm người công dân.

Nơi đó, con người được giáo hóa để hoàn thành nghĩa vụ làm người, một con người trọng lễ nghĩa, trưởng thành và trách nhiệm..."

 

Niềm Tin Người Kitô Hữu

Giáo sư Trần Năng Thể (Pháp)

"... Niềm tin không im ĺm, bất động, vô sinh, cũng không như viên ngọc quư chỉ để trưng bày trong tủ kính. Nhưng tin là một hành tŕnh, một con đường phải đi, dài như cuộc đời mỗi người. Đă có hành tŕnh, tất phải có lữ khách và lữ khách đó chính là tôi. Tôi tin như tôi sống, tôi làm cuộc đời như tôi tin. Cuộc đời và niềm tin gắn liền. Cuộc sống và đức tin không chịu xa nhau. Nếu mẹ đă giúp tôi ăn bột, uống sữa khi c̣n bé, th́ khi lớn khôn tôi phải tự lo một ḿnh, không những lo cho ḿnh, mà c̣n phải lo cho nhiều người khác. Cũng vậy, khi c̣n non dại, niềm tin của tôi được cưu mang, vun xới bởi nhiều người; nhưng khi đủ lớn, chính tôi phải thực hiện hành tŕnh TIN này. Không ai sống thay cho ai, cũng như không ai có thể tin thay người khác. Như thế, sự có mặt và giúp đỡ của người khác quả rất cần cho cho tôi khi tôi c̣n bé. Thiếu họ, hẳn tôi không thể sống được. Niềm tin thơ ấu của tôi cũng vậy, không thể thiếu những niềm tin lớn hơn cưu mang, bao phủ, ươm trồng. Đây là giai đoạn tập đi, tập đứng. Sau giai đoạn này tôi phải tự đi: ung dung, tự nhiên, vững chăi với mọi người.

Kể từ khi ư thức đức tin là một hành tŕnh và chính tôi phải thực hiện hành tŕnh đó, tôi bổng thấy ḿnh lớn lên, trưởng thành hơn, tự tin hơn, vui tươi hơn, hạnh phúc hơn. Thấy ḿnh lớn lên v́ khám phá con đường đức tin dài hun hút, bao la, hấp dẫn lạ thường, con đường như mời gọi tôi đến gặp đấng Vô Cùng trên đó tôi bước đi tự do. Thấy ḿnh trưởng thành hơn v́ tôi bước đi trên đường đức tin nhiều thử thách, nhiều chông gai, đ̣i hy sinh, phấn đấu; nhưng chính trong thử thách, vất vả, kể cả ngao ngán, chán chường này, tôi thấy ḿnh luôn tự do, tự do lựa chọn không ngừng. Tôi cũng thấy ḿnh tự tin hơn v́ những đoạn đường đă thực hiện, những đoạn đường ấy dù tươi sáng hay mịt mù, dù ấm áp dưới nắng xuân hay rét buốt giữa giông băo, tôi vẫn nhận ra dấu chân ḿnh trên những đoạn đường đă đi qua. Sau cùng tôi thấy đời vui hơn, dễ thương hơn, v́ trên đường không chỉ ḿnh tôi lủi thủi, lầm lũi nhưng có rất nhiều người, đông vô số kể cùng đi với tôi, cùng chia sẻ cơm bánh, tâm tư, mưa nắng với tôi. Họ cũng như tôi nên thông cảm dễ dàng, hợp nhất dễ dàng."

 

Niềm Tin của Người Phật Tử

Giáo sư Vơ Văn Ái (Pháp)

"... Phật đă dạy: "Ta là Phật đă thành, chúng sinh là Phật sẽ thành".

Con đường thành Phật phát xuất từ nỗi thao thức truy t́m sự hiểu biết chân thật, toàn vẹn về thực tại con người, cuộc sống, thực tại tâm linh. Và "tự giác như giác tha", niềm tin của Phật tử gắn liền với sự dấn thân khám phá, thực hiện chân tánh của ḿnh. Trong ánh sáng chân thật của chân tánh, người giác ngộ sẽ đến gần, gặp gỡ, phục vụ tha nhân trong chân lư.

Con đường thành Phật là con đường giải thoát con người khỏi những tà kiến và thành kiến để gặp chân lư. Kinh điển và lời dạy của Phật hỗ trợ cho chúng sinh chứng thực ánh sáng chân lư cư ngụ nơi tâm ḿnh. Chân lư của tam pháp ấn: vô thường, vô ngă và niết bàn..."

 

Tuổi Trẻ và Hội Nhập Văn Hóa

Giáo sư Nguyễn Đăng Trúc (Pháp)

"... Trong hoàn cảnh chúng ta ở hải ngoại, nhiều giới, nhiều giải pháp đă đề nghị với chúng ta về các mẫu mực, nội dung về "hội nhập" khác nhau. Và chúng ta ái ngại, hoang mang tự hỏi, hội nhập là cần, nhưng hội nhập thế nào đây?

Truy cứu truyền thống văn hóa của dân tộc, chúng ta đọc qua truyện "Bạch Trĩ" trong cuốn "Lĩnh Nam Chích Quái" một mẫu mực của cha ông chúng ta về hội nhập, đó là h́nh ảnh "Thánh Nhân". Thánh Nhân ở đây tượng trưng cho những nét căn cơ, nền tảng xây dựng nên phong cách của con người, bất cứ ở đâu, vào bất cứ thời đại nào, cho bất cứ ai.

Nhưng "Thánh Nhân" ngày nay đối với người trẻ Việt Nam Hải Ngoại chúng ta là những phẩm chất, giá trị, nội dung nào đây? Câu trả lời cần đến những khám phá, kinh nghiệm riêng của mỗi người chúng ta.

Và để góp thêm ư kiến, tôi xin gợi lên câu thơ bất hủ của thi hào Nguyễn Du:

Thiện căn ở tại ḷng ta
Chử tâm kia mới bằng ba chữ tài..."

 

Tiếng Việt Chữ Việt

Giáo sư Lê Hữu Mục (Canada)

"... Tu từ là sửa sang lại lời nói cho đúng và cho đẹp. Cổ nhân bảo đó là lựa lời, "lựa lời mà nói cho vừa ḷng nhau". Lựa lời là lựa chọn và sử dụng các phương pháp ngôn ngữ một cách thế nào đó, theo kinh nghiệm hay theo những nguyên tắc tu từ học để phát ngôn của ḿnh đạt hiệu quả cao nhất trong chức năng giao tiếp và truyền thông. Các sử dụng phương pháp biểu đạt phải có tính chính xác, gợi cảm và phù hợp với bối cảnh giao tiếp, sao "cho vừa ḷng nhau", nghĩa là cụ thể và phù hợp, hay nói rơ hơn, phải hội đủ các sắc thái biểu cảm, phong cách và ư nghĩa của từ tiếng Việt..."

 

Khởi Nguyên của Tiếng Việt Hiện Đại

Giáo sư Vơ Long Tê (Canada)

"... Xuyên qua cả hai thứ chữ nôm và chữ quốc ngữ, tiếng Việt hiện đại phát triển qua nhiều giai đoạn. Vấn đề là xác định giai đoạn khởi nguyên kể từ bao giờ?

Có sách kể từ năm 1838 là năm xuất bản hai từ điển danh tiếng của giám mục Taberd, nhưng chính tác giả thừa nhận đă khai dụng công tŕnh của giám mục Bá Đa Lộc soạn từ năm 1772...

Có sách kể lại từ năm 1862 là năm mở đầu nền văn học mới với những nhà văn "tiền phong", trong thể loại văn xuôi chữ quốc ngữ, chẳng hạn P.J.B. Trương Vĩnh Kư, Huỳnh Tịnh Paulus Của, P.T.B. Nguyễn Trọng Quản. Thật ra, văn xuôi chữ quốc ngữ ra đời sớm hơn nữa với tác phẩm đủ loại của linh mục Philipphê Bỉnh.

Chúng tôi nghĩ rằng giai đoạn khởi nguyên của tiếng Việt Hiện Đại nên kể từ khoảng cuối thế kỷ thứ XVIII với sự phát triển của phong trào truyện nôm và xuất hiện nhiều tác phẩm chữ quốc ngữ quan trọng..."

 

Lịch Sử Việt Nam từ khai sinh đến thế kỷ X

Giáo sư Nguyễn Lư Tưởng (Hoa Kỳ)

"... Sau Hai Bà Trưng, chúng ta không c̣n nghe nói đến các cuộc tranh đấu dành độc lập của người Lạc Việt nữa. Một phần v́ người di cư từ phương Bắc đến càng ngày càng nhiều và họ đă lập thành làng mạc, sống có tổ chức và đă chiếm cứ vùng đồng bằng, nơi gần cửa sông, cửa biển. Một phần v́ người Lạc Việt đă sống xa cách với người phương Bắc, rút vào rừng để sống cuộc đời tự do phóng khoáng hợp với tính t́nh và phong tục tập quán của họ. Dần dần họ đă trở thành thiểu số như ngày nay...

Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất lục quốc, dùng chữ Hán làm văn tự chính thức, đốt sách vở, cấm các dân tôc không được dùng chữ riêng của ḿnh và tiếp đến, nhà Hán cũng thống nhất văn tự trên toàn lănh thổ Trung Hoa th́ những người đi theo Triệu Đà vượt Ngũ Lĩnh về phương Nam vẫn duy tŕ tiếng nói và phong tục riêng của ḿnh, càng ngày càng xa dần với trung ương và cảm thấy gần gũi với người địa phương hơn. Họ không c̣n nhớ đến mẫu quốc Trung Hoa nữa. Những người sinh ra và lớn lên ở phương Nam của Ngũ Lĩnh, họ xem vùng đất mới này là tổ quốc, là quê hương của họ. Họ có công khai phá, mở mang, xây dựng giang sơn mới này th́ họ cũng đ̣i hỏi quyền làm chủ giang sơn đó. Họ không muốn lệ thuộc bởi chính sách cai trị của mẫu quốc, không muốn đóng thuế cho vua Hán, không chấp nhận quan quân nhà Hán gởi đến cai trị họ. Ư thức độc lập đó đă khởi đi từ vị lănh tụ của họ là Triệu Đà, trải qua mấy trăm năm, càng lớn mạnh thêm lên trong tập thể người di dân trên vùng đất Giao Chỉ..."

 

Màu Sắc trong Tiếng Việt

Giáo sư Đỗ B́nh (Côté d' Ivoire)

"... Về nguyên tắc pha chế màu sắc th́ chỉ có một nhưng cách sử dụng màu sắc của mỗi dân tộc thường lại không giống nhau do ảnh hưởng của thiên nhiên, tâm lư và cả phong tục tập quán. Về cách sử dụng chất liệu lại càng khác xa. Như tranh sơn mài Việt Nam, tuy cùng một chất liệu là nhựa cây sơn, nhưng sơn mài Việt Nam có một sắc thái đặc biệt, trội hẳn các sản phẩm sơn mài của Thái Lan, Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản, là các nước chú trọng nhiều về ứng dụng kỹ thuật về sơn mài vào các sản phẩm tiểu công nghệ hơn là thực hiện tranh nghệ thuật..."

 

Cải Lương, Ca Vũ, Nhạc Cổ Truyền Việt Nam

Giáo sư Vũ Thị Bích Thuận (Pháp)

"... Vào khoảng năm 1917, hai chữ "Cải Lương" được chọn làm danh từ tiêu biểu cho phong trào cải cách trong kịch giới nước nhà; hai chữ này rút từ câu nho "Cải biến kỳ sự, sử ích tự thiện lương", có nghĩa là đổi những cái cũ c̣n lại ra thành cái ǵ mới và hay..."

 

Để cùng có Một Lối Nh́n...

Giáo sư Nguyễn Văn Thành (Thụy Sĩ)

"Làm sao muốn t́m hiểu nhau mà không lắng nghe nhau?
Làm sao lắng nghe nếu không cẩn trọng nhau?
Làm sao cẩn trọng nhau nếu mỗi người không nh́n nhận ḿnh là một giá trị ưu việt?
Làm sao nhận ra tôi là người có giá trị ưu việt, nếu chính tôi không chịu mở mắt để nhận ra giá trị ưu việt của người anh em ngày ngày bên cạnh tôi?
Làm sao làm người bên nhau và với nhau, nếu ngày ngày không góp tay xây dựng và chia sẻ hướng nh́n chung?

... Phải Lắng Nghe

Lắng nghe là t́m hiểu người khác và tạo ra những mảnh đất đồng thuận. Trên đó, dù khác biệt đến độ nào, chúng ta cũng có thể đứng chung với nhau và cùng nh́n chung về một hướng...
Mục đích đầu tiên và cuối cùng của lắng nghe là t́m hiểu. T́m hiểu đúng với sự thực nơi người đối thoại. Sự thực khách quan bên ngoài ḿnh, không do ḿnh tạo ra, đoán ṃ, nghĩ ra. Lắng nghe thực sự và trọn vẹn một người là cố gắng hiện diện tích cực, đặt ḿnh vào vị trí người ấy để thấy, nghe, cảm và nói lên được điều họ nói.

 

... Và Đối Thoại

Trong thế giới con người, nếu không có đối thoại, con người không thể làm người thật sự và trọn vẹn. Đối thoại là tạo ra những quan hệ ràng buộc hai chiều giữa ta và người đối diện. Chính nhờ những quan hệ ấy, một đứa bé mới sinh ra sẽ có khả năng lớn lên, phát triển, làm người... Nhờ đối thoại, con người kiện toàn những ǵ chưa hoàn chỉnh, bổ túc những ǵ c̣n thiếu sót, sửa chữa những ǵ sai trái, làm cho đời ḿnh đổi mới tốt đẹp hơn... Không có đối thoại, hận thù, chiến tranh, bạo động sẽ tràn ngập nhân loại...

Tóm lại, đối thoại là một h́nh thức học tập làm người với nhau. Một phương tiện giúp nhau làm người. Nhấn mạnh hơn, đó là một phương cách làm người