Gia đ́nh người Việt-nam

tại hải ngoại

 

* Mục Sư Huỳnh văn Công

 

I. Lời mở đầu

 

Từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, có nhiều gia đ́nh Việt-nam bỏ nước ra đi t́m tự do. Con số này tại hải ngoại lên đến khoảng 2 triệu người và trong đó rất ít gia đ́nh toàn vẹn. Ngoài ra c̣n có những thanh niên nam nữ gặp nhau trên đường tha hương họp nhau tạo thành đời sống lứa đôi. Được may mắn cùng ra đi với đầy đủ vợ chồng, con cái, th́ cũng c̣n kẹt lại những người thân yêu như cha mẹ già yếu, ông bà tuổi đă xế bóng chiều, anh chị em trong đại gia đ́nh theo dơi ngóng trông.

 

Hầu hết người Việt-nam đến định cư tại các quốc gia hào hiệp, đầy ḷng nhân đạo như Hoa Kỳ, thu nhận khoảng 1 triệu người, Pháp thu nhận khoảng 200 ngàn người, Canađa thu nhận khoảng 200 ngàn người và số c̣n lại được các quốc gia như: Úc, Đức, Bỉ, Ḥa Lan, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Na Uy, Đan-mạch, Anh v..v... thu nhận. Những người Việt-nam tỵ nạn như chúng ta đă ĺa bỏ quê cha đất tổ của ḿnh một cách bất đắc dĩ, không kịp chuẩn bị về mọi mặt, có khi không kịp gặp người thân để nói lời từ giă! Những khía cạnh tâm lư, văn hóa, xă hội, và tôn giáo...đôi khi phải tủi thẹn đánh mất để sớm ḥa ḿnh vào xă hội hoàn toàn mới lạ! Ngôn ngữ mới, văn hóa mới, phong tục, tập quán mới, nhu cầu ăn uống mới...

Mỗi người phải đành ḷng chấp nhận giao tiếp với văn minh Âu Mỹ mà tư duy, cảm nghĩ, quan niệm sống, tính t́nh, sỡ thích...có nhiều khác hẳn với đời sống người dân Việtnam.

Những giao động và xáo trộn trong đời sống mới, và đơn vị gia đ́nh trở thành vấn nạn. Xung đột giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, giữa ông bà và con cháu, và nhiều hiểu lầm đáng tiếc! Nhiều đổ vỡ hạnh phúc, nhiều hố sâu ngăn cách giữa thế hệ già trẻ...ít nhiều đă xảy ra trong mỗi gia đ́nh Việt-nam đang sống tại hải ngoại .

 

 

II. Xây dựng gia đ́nh

 

Gia đ́nh là ǵ? Có thể đơn giản giải thích rằng gia đ́nh là sự bắt đàu bằng một tổ uyên ương thương yêu nhau đậm đà từ giữa hai người nam và nữ. Họ hứa hẹn sống chung trọn đời vợ chồng, chung thủy cho đến chết và từ t́nh yêu này các đứa con thân yêu ra đời, được âu yếm nuôi dưỡng và giáo dục cho thành người hữu dụng.

            Trong đức tin Cơ đốc giáo, gia đ́nh là một đơn vị thánh, đơn vị xă hội căn bản được chính Thiên Chúa tạo dựng và chúc lành. ‘Nhưng từng lúc đầu sáng thế, Đức Chúa Trời làm ra một người nam và một người nữ...và hai người cùng nên một thịt mà thôi. Như thế vợ chồng chẳng phải là hai nữa mà chỉ là một thịt. Vậy người ta không nên phân rẽ những kẻ mà Đức Chúa Trời đă phối hiệp. Mác 10: 6-9

 

 

            Kể từ ông tổ A-đam và bà tổ Ê-va, gia đ́nh đă được thành lập và chúc phúc! Ngày nay chúng ta có thể hiểu rằng gia đ́nh là nền tảng căn bản tối cần nhất để nâng đỡ và xây dựng cuộc sống trong t́nh yêu; thông cảm và chia xẻ. Hơn bất cứ điều ǵ, gia đ́nh phải chính là tổ ấm t́nh yêu để đặt nền tảng cho mọi thứ t́nh yêu khác.

 

2.1 Gia đ́nh với xă hội Việt-nam:

 

            Chịu ảnh hưởng của Trung Hoa, xă hội Việt-nam xem gia đ́nh là một thực thể, nền tảng h́nh thành xă hội, cá nhân chỉ là thứ yếu. Gia đ́nh Việt-nam v́ vậy cũng là một đại gia đ́nh theo kiểu nới rộng v́ gồm có vợ chồng, con cái, và ông bà sống chung dưới một mái nhà với nhiều kỷ niệm. Bà con cô cậu, chú bác, d́ dượng, và họ hàng là một cộng đồng nhỏ đầy thương yêu và đùm bọc che chở cho mỗi người trong đại gia đ́nh này. Hài ḥa trong tinh thần Lạc-Việt, những người chết trong gia đ́nh cũng được kính yêu và tưởng nhớ.

            Gia đ́nh Việt-nam và xă hội Việt-nam chịu nhiều ảnh hưởng của Nho Giáo; hơn một ngàn năm từ tư tưởng, học thuật, nghệ thuật, luân lư, đạo đức...v́ vậy cách suy nghĩ, tâm t́nh, nếp sống, cách ăn ở, giao tiếp, phong tục, tập quán...đả trở thành quen thuộc. Hơn thế nữa, hầu hết người Việt-nam quen đời sống văn minh nông nghiệp, gần gũi với trời đất, thiên nhiên vạn vật. Hạnh phúc của người Việtnam nói riêng hay gia đ́nh nói chung là ư muốn và bắt nguồn từ thừa hưởng phúc đức của trời đất ban phát, do ông bà tổ tiên để lại và thể hiện trong ung dung thư thái của bản thân ḥa hợp với sự yêu thương lẫn nhau trong tiểu gia đ́nh và đại gia đ́nh. Có thể nói t́nh yêu thương chan ḥa, hạnh phúc miên viễn từ ông bà tới cha mạ, lứa đôi vợ chồng đến con, cháu, chắt, chút, chít!

Các gia đ́nh nho phong được xă hội tôn kính và trọng vọng v́ ông bà, cha mẹ con cái thương yêu nhường nhịn, kính trọng lẫn nhau và nhất là tuyệt đối vâng lời dạy bảo của kẻ bề trên: đi thưa về tŕnh; dựng vợ chồng tuân theo ư kiến cha mẹ.

Đơn vị gia đ́nh đó đă bị lung lay hoặc có khi bị gió băo thổi ngă với sự tiếp cận văn minh Âu-Mỹ?

 

2.2 Gia đ́nh với xă hội Âu Mỹ

 

            Gia đ́nh và xă hội Âu Mỹ thừa hưởng tư duy, triết lư của nền khoa học cực thịnh, kỹ nghệ phát triển toàn diện. Máy móc thay người sản xuất hàng hóa rất nhiều và rất nhanh. Con người sống hưởng thụ chỉ biết dùng, biết mua, biết phá hay làm cho hư hỏng để rồi tiếp tục trả tiền mua một vật dụng khác. Đó là văn minh cơ khí giúp con người tiêu thụ và tiêu khiển! Gia đ́nh của xă hội Âu Mỹ gần như không được đặt thành vấn đề quan trọng! Trong một xă hội, cá nhân con người được đề cao trên mọi lănh vực th́ gia đ́nh chỉ trở thành một hợp đồng được hợp thức hóa trước mặt pháp luật một cách tạm thời bằng một hôn thú. Hôn thú nầy có thể như một hợp đồng hợp thức việc sống chung với nhau. Pháp luật được lập ra và đồng ư cho xé bỏ tờ hợp đồng sống chung nầy qua thủ tục ly dị trước ṭa án. Điều đó cho chúng ta thấy rằng gia đ́nh của xă hội Âu Mỹ không được xem là thực thể thiêng liêng mà chỉ là hợp đồng sống chung tạm thời. Làm sao gia đ́nh được xem là tổ ấm, là nơi mọi người chung sống, chia ngọt xẻ bùi; khi cá nhân được coi như thực thể nền tảng thành h́nh xă hội? Cá nhân được đề cao thái quá trên mọi lănh vực. Khi chủ nghĩa cá nhân được đề cao, con người sống trong xă hội Âu Mỹ thật khó có thể lấy quyết định sống chung suốt đời với người khác phái dù rằng họ đă thương yêu. Đă lập gia đ́nh nhưng mỗi người trong họ c̣n nghĩ rằng mỗi người c̣n có nhiều thay đổi bất thường như v́ tuổi tác, v́ hoàn cảnh, công ăn việc làm và nhu cầu thăng tiến v..v... Cá nhân của họ muốn hưởng thụ thật nhiều mà không bị ràng buộc vào bất cứ một khế ước hay hợp đồng sống chung nào! Ngày nay trong quan niệm hẹp ḥi đó có nhiều thanh niên, thiếu nữ sống chung như vợ chồng mà không muốn làm lễ cưới hay hôn thú v́ họ phải sống thử bên nhau và thử xem có hợp với nhau hay không! Có rất nhiều người Âu Mỹ trong đời ḿnh đă đổi thay 5, 7 lần chồng vợ. Gia đ́nh tan nát và con cái bơ vơ hoặc thiếu cha hoặc thiếu mẹ. Chúng lạc lơng, thiếu chăm sóc giáo dục đầy đủ.

 

2.3 Hạnh phúc gia đ́nh

 

Hạnh phúc của người Việt-nam ít tính cách cá nhân hơn nơi người Âu Mỹ. Khi đời sống cá nhân được đề cao và thích hưởng thụ cho bản ngă th́ những người thân chung quanh như ông bà, cha mẹ, con cháu trở thành xa lạ mà ngay cả người vợ, người chồng thường được gọi là ‘một nữa của chính ḿnh’ hay ‘cái ta khác của chính ta’ cũng nhiều khi bị phân biệt với chính ḿnh trong cách ăn uống, suy nghĩ, cảm xúc hoàn toàn tự do, biệt lập và không cần chia ngọt xẻ bùi!

Nơi người Việt-nam, vợ chồng thân yêu khắng khít nên chồng gọi vợ là ‘ḿnh’ vợ gọi chồng là ‘ḿnh’ và khi phải xưng hô với người khác th́ các từ ‘nhà tôi, nhà con, nhà em’... nghe thật thắm thiết, êm tai, yêu thương, và thân mật. Vợ chồng được chúc phúc ‘trở nên một thịt’ là vậy.

Hạnh phúc của người Việt-nam có nhiều tích liên hệ, liên đới hơn. Dù sống ở bất cứ nơi nào họ cũng được cảm thấy không thể nào không ràng buộc với cha mẹ yêu quí, với những người thân gần xa. Nhiều gia đ́nh người Việt-nam chịu khó di chuyển, dời chổ để được đến gần bên người thân yêu trong đại gia đ́nh, bên bà con thân thiết. Trong khi đó người Âu Mỹ không muốn bị ràng buộc măi vào một mái nhà hay một chổ định cư nhất định. Họ ưng di chuyển, bán nhà, t́m nơi xa lạ để phát triển, để đời sống được thoải mái hơn. Họ cũng thường di chuyển v́ công ăn việc làm. Nếu người Việt-nam ưa thích ǵn giữ các món đồ trong gia đ́nh như bảo tàng trân quí th́ người Âu Mỹ, chẳng món đồ nào họ xử dụng, xài lâu v́ vậy đem bán đấu giá, bán rẽ để rồi mua những món đồ mới mang lại trang trí cho nhà, cho tiện nghi vừa mắt.

 

 

III. Gia đ́nh Việt-nam tại hải ngoại

 

Gia đ́nh được xem như trọng tâm của nền văn minh t́nh thương nhưng có nhiều người

lầm tưởng rằng gia đ́nh chỉ là sản phẩm của khoa xă hội học hay là một tổ hợp qui tụ các cá nhân chấp thuận sống chung với nhau. Nếu phân chia được những người Việt-nam ra đi và đang sinh sống tại hải ngoại th́ sẽ thấy có hai thế hệ. Thế hệ thứ nhất là những người lớn đă đưa trọn vẹn gia đ́nh hay bán phần gia đ́nh rồi lần hồi đoàn tụ; những thanh niên, thiếu nữ lớn lên và được trưởng dưỡng, giáo dục, hấp thụ văn minh văn hóa dân tộc gặp nhau cưới hỏi nên vợ chồng. Thế hệ thứ hai trẻ hơn, theo cha mẹ hoặc anh chị ra đi, lớn lên và hấp thụ văn hóa mới; giáo dục khác hẳn với phụ huynh của ḿnh. Thành phần này chưa đông lắm, và gần gũi với những gia đ́nh Âu-Mỹ hơn hay cách diễn đạt cách khác là thế hệ này đă Âu Mỹ hóa rất nhiều.

 

3.1 Đời sống vợ chồng

 

            Những cặp vợ chồng này sống trong đất nước mới, xă hội mới, phong tục, tập quán khác lạ với tâm hồn, phong tục, tập quán, giáo dục... c̣n rất Việt-nam. Theo đà hội nhập không tiên liệu hiện nay các gia đ́nh này đang đối đầu với những khó khăn mới phát xuất từ sự dị biệt giữa hai nguồn văn hóa mà t́nh nghĩa vợ chồng đặt trên căn bản, nền tảng tiểu gia đ́nh trong nghĩa hẹp, trong đại gia đ́nh theo nghĩa rộng. Tiểu gia đ́nh sẽ là đôi vợ chồng và con cái trong tương lai và đại gia đ́nh gồm ông bà, cha mẹ, chú bác, cô cậu và họ hàng đôi bên. Hành vi, cư chỉ xấu tốt của một người không chỉ liên quan đến người đó mà c̣n liên quan đến cả bà con ḍng họ (tam đại đồng tông, ngũ đại đồng dường hoặc một người làm quan, trăm họ được nhờ).

‘Hoa thơm, thơm cả cụm rừng. Thơm dây thơm rễ người trồng cũng thơm’. Đời sống chồng vợ gắn bó với nhau và cũng gắn bó với mọi người trong gia đ́nh. Tiêu chuẩn nhân, lễ, nghĩa, trí, tín ở vai tṛ người chồng hay người đàn ông và tam ṭng, tứ đức ở vai tṛ người vợ hay người đàn bà... đă làm cho xă hội Việt-nam được ổn định.

Tại hải ngoại, hoàn cảnh kinh tế và xă hội đă đổi thay, một vài quan điểm về luân lư dường như không c̣n thích hợp nhưng những người lớn tuổi vẩn c̣n chịu nhiều ảnh hưởng của nền văn hóa đó v́ đă hấp thụ từ lâu. Chuyện vợ chồng th́ nhiều người lầm tưởng rằng khi ra đi và được sống nơi hải ngoại th́ đời sống đầy đủ; hôn nhân, chồng vợ sẽ được hạnh phúc hơn lên... nhưng sự thực th́ bẽ bàng, xáo trộn và ngược lại với mọi ư nghĩ ban đầu. Những con số thống kê hiện nay hay bị thay đổi và không chính xác lắm nhưng ai cũng công nhận rằng con số ly dị của đồng bào ḿnh tại hải ngoại cao hơn khi c̣n ở Việt-nam rất nhiều. Tại sao như vậy?

            Đây có phải là mặt tiêu cực của chủ nghĩa cá nhân (individualisme), chủ nghĩa duy vật (matérialisme) và chủ nghĩa thực tế (réalisme). Con người khi vật chất đầy đủ có nhiều tự do, chỉ nghĩ đến ḿnh th́ có khuynh hướng độc lập, không thích lệ thuộc vào chồng hay vợ của ḿnh hoặc gia đ́nh ḿnh. Khuynh hướng này được bảo vệ qua luật pháp, thành thử ta nhận thấy nền tảng gia đ́nh xă hội Âu Mỹ lung lay nhưng người Việt-nam mới tới tưởng rằng hay đẹp, dường như tiêu chuẩn hấp dẫn nên đón nhận dễ dàng và sự đổ vỡ hạnh phúc trong t́nh nghĩa vợ chồng không thể tránh được!

Cuộc sống lứa đôi nào chẳng có những lúc bất đồng xảy ra nhưng rồi cũng có thể giải quyết được, không gây đổ vỡ khi c̣n sống trong môi trường đại gia đ́nh như ở Việt-nam nhưng trái lại dễ dàng chấm dứt, ly dị tại hải ngoại. Khi c̣n trong nước, hôn nhân là vấn đề hệ trọng của cả đời người, chẳng phải chỉ yêu thương hợp nhau cưới hỏi mà c̣n phải quảng đại hy sinh. Vợ chồng bất ḥa trước khi nhờ luật pháp giải quyết được ông bà cha mẹ hai bên góp ư và vị lănh đạo tôn giáo, hướng dẫn tinh thần khuyên răn tạo nhiều cơ hội ḥa thuận trở lại, cùng nhau nuôi nấng, dạy dỗ con cái, phụng dưỡng cha mẹ, ông bà... gây dựng đại gia đ́nh. Mục đích hôn nhân ở đây theo truyền thống, nối dơi tông đường và tạo hạnh phúc cho nhau. Một người trong nhà hoặc vợ hoặc chồng không hạnh phúc cả ḍng họ buồn lây. Điều này tránh được nhiều bản án ly dị, hậu quả đưa con cái đến cảnh bơ vơ, gia đ́nh tan nát.

Trong một khía cạnh khác của đời sống lứa đôi là xă hội và luật pháp Âu Mỹ công nhận vấn đề nam nữ b́nh quyền. Người đàn bà sống tại các nơi này có quyền ngang hàng như đàn ông, khác với phong tục tập quán nước nhà người vợ được sắp xếp thứ yếu sau người chồng. Người vợ hay người phụ nữ  tại Âu Mỹ cũng đi làm, có xe riêng, có trương mục riêng, có thể mua các bảo hiểm riêng tư và tự giải quyết một số vấn đề liên hệ đến cuộc sống riêng của ḿnh mà không cần đến sự giúp đỡ của người đàn ông hay chồng ḿnh. V́ chung đụng và chịu ảnh hưởng của xă hội mới, văn hóa mới của một nền văn minh như thế nên gia đ́nh Việt-nam hay cảnh sống dể bị đổi thay rất nhiều. Sự thay đổi của xă hội bên ngoài vang đội vào nếp sống gia đ́nh, ảnh hưởng lứa đôi vợ chồng là vậy.

 

3.2  Giáo dục con cái

 

            Đă sống thành vợ chồng th́ mong sớm có con cái và nuôi dưỡng cho chúng lớn khôn nên người. Nh́n các con, cha mẹ mong chúng thành danh, hữu ích, t́m được người yêu, t́m trường học tốt, t́m học bỗng, t́m được nghề tốt... Con cái mới lớn lên th́ c̣n theo sự hướng dẫn dạy bảo nhưng nhiều khi vừa xấp xỉ tuổi thành niên (17, 18, 19...) th́ thấy khung cảnh gia đ́nh chật hẹp, cần phải ra đi, thoát ly lối sống cũ để vào cuộc sống mới, tự lập, hào hứng hơn, phiêu lưu hơn... nhưng rồi nhiều đổ vỡ đau thương cho đời sống các em này và gây nhiều các phiền cho cha mẹ, họ hàng. Hiện nay, rải rác các nơi ở Âu Mỹ, người Việt-nam đang gặp một hiện tượng lạ và có thể gọi là hiện tượng trái chuối’. Ở trái chuối vỏ màu vàng nhưng trong th́ trắng. Thành ngữ này chỉ về một số thanh thiếu niên Việt-nam, bên ngoài dung mạo, vóc dáng hoàn toàn là Việt-nam nhưng bên trong tâm t́nh không c̣n thuần túy Việt-nam nữa! Cá tính, cử chỉ, lời nói, lối sống của các em đă Âu Mỹ hóa rồi!

Các em lập luận rằng không trách chúng tôi v́ chúng tôi đến đây từ nhỏ hoặc sinh ra và lớn lên ở đây, học hành ở đây, bạn bè ở đây, sống ở đây th́ phải hấp thụ nền văn hóa ở đây. Có điều ǵ sai trái khi con cá nước mặn bơi lội trong biển cả? Các em nói đúng nhưng quên mất một điều là từ lư thuyết đến thực tại có một khoảng cách rất xa. Hai mươi sáu năm qua đủ cho một thế hệ trưởng thành nhưng kinh nghiệm thực tế đồi hỏi chiều dài và kích thước của đời sống? Các phong trào bài ngoại và kỳ thị chủng tộc đang gia tăng? Văn hóa của mỗi dân tộc như mảnh vườn có hoa đẹp th́ cũng có cỏ rác! Biết học hỏi cái đẹp của người, nhưng cái đẹp của ḿnh cũng nên trân quư ǵn giữ, bảo vệ. Nếu v́ tinh thần thực tế người Âu Mỹ chú trọng ngày sinh thiết tưởng ḷng nhớ biết ơn ta chú trọng ngày người thân quá văng cũng là cái đẹp?

             Nói đến giáo dục con cái ở Âu Mỹ, người ta quan niệm trẻ cũng là một con người, nó có nhân cách của nó; do đó phương pháp và nguyên tắc giáo dục là để cho trẻ tự phát triển bằng cách khuyến khích uốn nắn chứ không khiển trách, rầy la hay đánh đập. Với tâm lư và xă hội học người ta chứng minh tỷ lệ tù nhân bị kết án trọng tội, đa số đều có khỏang thời thơ ấu bị đánh đập, hất hủi, bỏ rơi và nơi người lớn tội phạm xảy ra cũng thường là h́nh thức trả thù quá khứ ấu thơ bị hà khắc, bạc đăi, bạo hành...

           Chúng ta phải nghĩ thế nào khi người Việt-nam ḿnh thường rầy la, đánh đập trẻ con và cho đó là răn dạy v́ viện dẫn ‘thương cho roi cho vọt; ghét cho ngọt cho bùi’! Đây là cách thương của người Việt-nam nhưng liệu ở hải ngoại này con cái chúng ta có hiểu được như vậy không?

Con em chúng ta muốn được cha mẹ bày tỏ t́nh thương cách cụ thể nhưng thường thường các em không được t́nh thương đó! Các em ở tuổi thiếu niên rất cần t́nh thương của cha mẹ và cần hơn khi c̣n nhỏ dại v́ các em có những biến đổi nhiều trong đời sống tâm sinh lư. Ở tuổi này các em có nhiều lần nh́n vào chính ḿnh và cũng dễ dàng không chấp nhận chính ḿnh. Mặc cảm thua thiệt, mặc cảm bị bỏ bê, mặc cảm học kém, vụng về... Làm cha mẹ phải bày tỏ t́nh thương với con cái một cách tế nhị và kín đáo; tránh làm các em phải hổ thẹn trước bạn bè và người chung quanh. Đừng bao giờ la rầy, nhắc nhở... nếu chưa biết rơ nguyên nhân tại sao con ḿnh có hành động, cử chỉ khác thường và khi đă biết rồi khéo léo, dịu dàng yên ủi, giúp đỡ để con cái ḿnh cảm thấy được an ủi che chở hơn trách phạt nặng nề.

             Một trong những phương cách bảo vệ và trao truyền văn hóa là tạo cơ hội khuyến khích con em ḿnh học hỏi Việt-ngữ. Ngôn ngữ là chuỗi dài kư âm đă được hệ thống hóa dưới h́nh thức, tiếng nói và chữ viết  để diễn đạt tư tưởng con người. Làm sao truyền đạt được cái hay cái đẹp, tinh hoa của dân tộc nếu con cái ḿnh không am hiểu tiếng mẹ đẻ? Phải rành tiếng Việt th́ sự ngăn cách giữa các thế hệ già trẻ mới khỏa lấp đi được. Nhiều bậc làm cha mẹ cho rằng học Việt-ngữ sẽ làm mất th́ giờ, chương tŕnh của con cái ở học đường, sức học của trẻ sẽ yếu đi, nên khuyến khích chúng học giỏi các thứ tiếng Âu Mỹ hơn tiếng mẹ đẻ của chúng. Cuối cùng là các thứ tiếng, các con em học rất giỏi và cha mẹ theo không kịp và nhờ các em giải thích lại bằng tiếng Việt th́ các em không biết ǵ, ‘ngọng’ luôn! Khoảng cách bắt đầu ở đây và lớn dần theo ngày tháng v́ con cái và cha mẹ có hiểu nhau th́ mới gần gũi nhau hơn và thương yêu gắn bó nhiều hơn. Một điểm nữa cần nhấn mạnh là sau này t́nh h́nh đất nước đổi thay và chế độ độc tài vắng bóng trên quê hương, thế hệ trẻ từ bốn phương trở về Việt-nam như hoa muôn hồng ngh́n tía. Lúc đó sẽ không có người Hoa Kỳ gốc Việt, người Canada gốc Việt, người Úc gốc Việt, người Pháp gốc Việt, người Anh gốc Việt, người Đức gốc Việt v..v... nhưng có người Việt-nam từ Hoa Kỳ, Canada, Úc, Pháp, Anh, Đức v..v... trở về. Ta tự hỏi các em sẽ nói thứ tiếng ǵ nếu không biết tiếng Việt-nam; hay một lần nữa các em lại bơ vơ lạc lơng và cảm thấy lưu đày ngay trên chính quê hương ḿnh.

             Con em chúng ta nếu được may mắn, được cha mẹ chú ư trao truyền ngôn ngữ nước nhà, văn minh văn hóa dân tộc và từ cử chỉ, lối sống thể hiện là một em bé hoàn toàn Việt-nam. Nơi tạm dung, ở nhà trường và môi trường xă hội giúp em học hành hiểu biết ngôn ngữ, nếp sống văn minh, văn hóa bản xứ th́ chắc cũng không có xung đột nào nhưng sẽ dễ dàng cho đời sống tại gia đ́nh, với cộng đồng người Việt-nam tại hải ngoại và mai sau khi về Việt-nam cũng vậy. Đi đâu, ở đâu em cũng có hạnh phúc v́ em có nhiều điều kiện để hạnh phúc.

 

3.3 Trong đại gia đ́nh

 

            Hầu như rất ít người Việt-nam có may mắn khi ra đi đem được trọn vẹn gia đ́nh hay đoàn tụ gia đ́nh, th́ nói chi đại gia đ́nh là cả vấn đề khó khăn. Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp Quốc (United Nations High Commissioner for Refugees; viết tắt UNHCR) chú trọng giúp đỡ các gia đ́nh tỵ nạn, cho việc đoàn tụ gia đ́nh gồm những người thân yêu gần gũi nhất như ông bà, cha mẹ và con cái. Càng lớn tuổi th́ sự hội nhập càng khó khăn, ngôn ngữ mới không học được, đời sống mới không dung ḥa được, khí hậu nơi ở mới không quen chịu đựng được, thức ăn mới mẻ không hạp khẩu vị. Xă hội Việt-nam mở rộng như căn nhà ở Việt-nam mỡ rộng, tâm t́nh người Việt-nam cởi mở, vồn vă thân mật, dể dàng. Người lớn tuổi Việt-nam cũng có tính cả nể, dĩ hoa vi quư, không thích đụng chạm nên hay nói cái điều người ta muốn nghe hơn là nói thật điều ḿnh muốn nghĩ. Trái lại người Âu Mỹ tính t́nh bộc trực thẳng thắng muốn diễn tả điều ǵ th́ rơ ràng, đi vào thẳng vấn đề, họ cũng hay lạc quan, tự tin, không thích ai thương hại.

          Ông bà hay cha mẹ lớn tuổi thương con, thương cháu nhưng v́ sợ làm phiền muộn con cháu và đôi khi cảm thấy rất cô đơn ngay bên con cháu của ḿnh nên lui đi sống riêng để tránh vướng vít v́ vậy quạnh quẽ, tủi thân! Gia đ́nh Âu Mỹ là kiểu mẫu gia đ́nh đơn vị, trong đó chỉ có cha mẹ và con cái, một kiểu gia đ́nh hạt nhân. Rất ít khi thấy ở đây có gia đ́nh nào sống chung với nhau tới 3 thế hệ: ông bà, cha mẹ và cháu.

         Các hăng bảo hiểm sức khỏe hoặc xă hội ở đây cũng không chịu bảo hiểm cho ông bà và chỉ bảo hiểm cho gia đ́nh gồm vợ chồng con cái mà thôi! Những đổi thay của xă hội mới không đồng đều giữa người già và người trẻ, giữa người lớn tuổi và thanh thiếu niên v́ vậy thường xảy ra nhiều điều đáng tiếc. Điều này cũng dễ hiểu v́ ông bà hay cha mẹ con cái lớn tuổi có một căn bản văn hóa và nếp sống đạo đức vững vàng hơn các con em, do đó họ ít chịu ảnh hưởng của nền văn hóa mới, nếu có chỉ là những đổi thay bắt buộc để thích nghi dễ dàng vào một xă hội mới mà thôi.

Người trẻ tuổi hay con em ngược lại, v́ tâm lư c̣n nhiều hăng say, nhiệt thành. Để khắc phục khó khăn, ngôn ngữ mới nên cũng dễ dàng hội nhập vào nền văn hóa mới, vào những lối sống mới một cách tự nhiên hơn các bậc ông bà, cha mẹ lớn tuổi nhiều.

           Nếu tâm lư của người trẻ hăng say, năng động v́ dể chịu ảnh hưởng của các trào lưu mới như thụ hưởng gia tài dân chủ, tự do của xă hội mới nên dễ dàng thành công hơn người già trong sự nghiệp và công ăn việc làm. Để tránh những xung đột đáng tiếc giữa thế hệ già trẻ, những xung khắc, đỗ vỡ, thiếu thông cảm th́ không có ǵ tốt hơn là nên ngồi lại với nhau để t́m ra đâu là khuyết điểm, sai lầm của các bạn trẻ cũng như của ông bà cha mẹ là những người lớn tuổi. Đâu là những ưu tư khắc khoải của ông bà, cha mẹ? Đâu là những ước mơ mong đợi của con em cần nơi ông bà, cha mẹ? Đặc biệt hơn hết, đâu là đầu mối của dây liên hệ tinh thần trong gia đ́nh, trong cộng đoàn và xă hội để hàn gắn đổ vỡ cho gia đ́nh được hạnh phúc an vui, cho mọi người trong gia đ́nh biết tin yêu trong hoan lạc chân thiện mỹ! Ngoài ông bà, cha mẹ là người lớn tuổi trong gia đ́nh c̣n có thể có các người thân thuộc như chú bác, cô d́ dượng, cậu mợ... trong bối cảnh mới chắc cũng ít có cơ hội gặp gỡ nhau như tại quê nhà thường hằng? V́ vậy ảnh hưởng của đại gia đ́nh không c̣n nhiều vào mỗi đơn vị tiểu gia đ́nh. Lối sống mới trong hoàn cảnh mới, những người thân trong gia đ́nh chỉ c̣n thăm hỏi qua thư từ hay đôi ba năm trong kỳ hè lại đến thăm nhau và tâm t́nh chưa cạn đă lui về với nếp sống riêng tư nên ít c̣n chịu ảnh hưởng lẫn nhau nữa.

 

IV. Gia đ́nh Việt-nam tại hải ngoại với đức tin Cơ đốc giáo

Trong làn sống người ra đi t́m tự do và định cư tại các nước Âu Mỹ có rất nhiều gia đ́nh tín nhân Cơ đốc giáo. Cũng như đồng hương của ḿnh có cùng hoàn cảnh tha hương, thay đổi môi trường sống, mọi sinh hoạt đều đổi thay mới mẻ... đời sống các tín nhân và gia đ́nh của họ đă hội nhập như thế nào?

 

4.1 Như gặp môi trường thuận lợi?

Hầu hết các quốc gia Âu Mỹ, nơi thu nhận nhiều người Việt-nam tỵ nạn có tỷ lệ dân số rất cao theo Cơ đốc giáo. Nếu không có ǵ thay đổi chắc chắn các gia đ́nh người Việt-nam tại hải ngoại dễ hội nhập v́ cùng một niềm tin, cùng thể thức hành đạo. Nhưng trớ trêu thay, các quốc gia Âu Mỹ ngày nay, khoa học kỹ thuật tiến bộ, các triết lư mới mẻ, các chủ thuyết hiện sinh, duy vật, biện chứng, cá nhân... làm cho đời sống niềm tin không c̣n bền vững, nhiều người thối lui trong đức tin. Nhiều ngôi giáo đường rộng lớn nhưng thiếu vắng tín nhân lui tới, những truyền thống tốt đẹp đă bị lăng quên, nhiều người thậm chí chỉ c̣n mang nhăn hiệu bên ngoài và đời sống của họ ích kỷ, tham lam, cầu danh, đoạt lợi... gia đ́nh bị xáo trộn, những nạn ly dị, thay chồng đổi vợ, con cái bơ vơ, thiếu được chăm sóc giáo dục trở nên thảm họa cho ngày nay và trong tương lai! Luân lư thiếu vắng, lời Kinh Thánh không c̣n được giảng dạy, ít có người chịu khó ham thích học hỏi những dạy bảo để trở thành người đầy nhân tín, sống thánh thiện, hạnh phúc cho ḿnh và chu toàn cho gia đ́nh.

Giáo lư căn bản và ḷng yêu Thiên Chúa không c̣n thể hiện, đời sống tâm linh trống rỗng, nguội lạnh th́ lời dạy sống đạo, thực hành cho đời sống và gia đ́nh trở nên biếng trễ, lạnh nhạt, thờ ơ!

Dù vậy cũng c̣n những tín nhân và gia đ́nh tiếp tục sống trong t́nh thương, che chở, dắt d́u của Thiên Chúa. Chính những người này và những gia đ́nh này là nguồn yêu thương, là ân sủng của Chúa Cứu Thế c̣n để lại trong ṿng người hư hoại, phá hủy căn bản nếp sống. Chính những người này, ư thức tâm linh, như ánh sáng của đèn trong nơi tối tăm, là chất mặn của muối làm thêm hương vị cho đời. Hơn bao giờ hết, hạnh phúc gia đ́nh được các nhà lănh đạo tôn giáo kêu gọi cũng cố và phát triển, nhất là Cơ đốc giáo. Hơn ai hết tín nhân và gia đ́nh Cơ đốc giáo biết rơ gia đ́nh là nền tảng, là yếu tố gắn liền với nhân tính, với đời sống lứa đôi, chồng vợ và sinh sản nuôi dưỡng, giáo dục con cái. Bổn phận của tính nhân không phải chỉ có đ̣i hỏi đặc quyền hôn nhân tôn giáo nhưng xây dựng gia đ́nh vững bền trong đức tin tông truyền, là cơ ấu có tự do và được bảo vệ. Bổn phận của tín nhân là ǵ há chẳng phải ‘Kính Chúa yêu người’. Yêu người đây chắc chẳng ai là tín nhân mà chẳng yêu thương người phối ngẫu là chồng hay vợ hoặc con cái của ḿnh, những thân tộc họ hàng nhà ḿnh? ‘Hỡi người làm vợ hăy vâng phục chồng ḿnh y như điều đó theo Chúa đáng phải nên làm vậy. Hỡi kẻ làm chồng hăy yêu vợ ḿnh chớ hề ở cay nghiệt với người.Côlôse 3:18-19

Người tín nhân Cơ đốc giáo biết rơ hôn nhân đă được Thiên Chúa thành lập và gia đ́nh là sự chúc phúc:

               ‘Đức Chúa Trời dựng nên h́nh người như h́nh Ngài, Ngài dựng nên loài người giống như h́nh Đức Chúa Trời, Ngài dựng nên người nam cũng như người nữ. Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: Hăy sanh sản thêm nhiều làm cho đầy dẫy đất, hăy làm cho đất phục tùng, hăy quản trị loài cá dưới biển loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên đất’.

‘Đức Chúa Trời phán rằng: loài người ở một ḿnh th́ không tốt, ta sẽ làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó... và cả hai sẽ nên một thịt’. Sáng Thế Kư 1:27-28, 18:24

Được tiếp xúc với văn minh Âu Mỹ qua ánh sáng tôn giáo, qua giáo lư căn bản để nuôi dưỡng đời sống thuộc linh và trong môi trường mới cũng c̣n rất nhiều điều thuộc lănh vực giáo dục, văn hóa, phong tục, tập quán được ảnh hưởng bởi Kinh Thánh và nếp sống hành đạo nên gia đ́nh Việt-nam của các tín nhân không phải xa lạ ngỡ ngàng lắm. Nếu nói rằng ‘cá gập nước’ th́ cơ hội thuận lợi cho tín nhân là có gặp được những giao lưu văn hóa giữa đức tin và nếp sống đạo nơi các quốc gia đă thể hiện và thực hành ít nhiều trong văn hóa và đức tin đó vậy.

 

4.2 Phát huy thăng tiến đời sống gia đ́nh

 

            Không phải chờ đợi đến sự cổ vơ kêu gọi của Liên Hiệp Quốc dành năm 1994 là năm quốc tế gia đ́nh, lúc đó mới thấy gia đ́nh cần phải thăng tiến! Những mục tiêu nhắm tới của mỗi tín nhân Cơ đốc giáo cho gia đ́nh ḿnh ở các quốc gia Âu Mỹ từ lâu vẫn là t́nh yêu, sự sống, và gia đ́nh ngày nay. Gia đ́nh tái quy tụ và con cái, gia đ́nh qua các biến cố xă hội; gia đ́nh với phụ nữ, trẻ em và người già cả, yếu đau; gia đ́nh và các biến động qua các biên giới v..v...

            Từ nếp sống chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền học thuật Á đông, luân lư và đạo đức, phong tục và tập quán hay đẹp được lưu giữ và lời Kinh Thánh làm khuôn vàng thước ngọc cho cuộc sống, gia đ́nh các tín nhân Việt-nam tại hải ngoại ít bị ảnh hưởng của các cuộc sống vội, sống cuồng, ích kỷ hẹp ḥi trái lại thực hành lối sống đạo:

‘T́nh yêu thương hay nhịn nhục, t́nh yêu thương hay nhân từ, t́nh yêu thương chẳng ghen tị, chẳng khoe ḿnh, chẳng lên ḿnh kiêu ngạo, chẳng làm điều trái phép, chẳng kiếm tư lợi, chẳng nóng giận, chẳng nghi ngờ sự dữ, chẳng vui về điều không công b́nh nhưng vui trong lẽ thật. T́nh yêu thương hay dung thứ mọi sự, tin mọi sự, trông cậy mọi sự, nín chịu mọi sự’. I Côrinhtô 13:4-7

 

Phép tắc, lễ nghĩa, nhân ái, trung dung... là những đức tin và nguyên tắc đào tạo con người. Chịu ảnh hưởng học thuật Á đông th́ về mặt sống có trật tự qui củ, có trật tự trên dưới, có phép tắc hành động, có kính nể nhường nhịn lẫn nhau trong mọi giao tế, có luân thường và trọng nhân cách. Những điều đó tín nhân Cơ đốc giáo được giáo dục cộng thêm lời dạy của Thiên Chúa nên cuộc sống cho ḿnh, cho gia đ́nh, hành xử đẹp đạo đẹp đời, trở nên hạnh phúc. Việc huấn luyến dạy dỗ con cái giữa xă hội mới, văn minh mới không phải là điều khó hội nhập. Hơn ai hết gia đ́nh tín nhân Cơ đốc giáo bước đi mỗi ngày với Chúa Cứu Thế và biết rằng trong Ngài và bên Ngài b́nh an và sung măn, gia đ́nh nhuận đầy phước hạnh và sung măn trong cuộc sống. Cũ và mới, trong nước hay hải ngoại không phải là nan đề, nhưng mỗi ngày bên Thiên Chúa thăng tiến.

 

V. Kết luận

 

            Thiên Chúa là Chúa của t́nh thương, t́nh tha thứ, v́ Thiên Chúa khoan dung độ lượng. Trong đời sống gia đ́nh, nhất là của người Việt-nam tại hải ngoại gặp biết bao nhiêu thay đổi xáo trộn và đời sống yên hàn; vui vẻ, hạnh phúc hay gặp biết bao nhiêu khó khăn nghiệt ngă đôi khi làm đỗ vỡ, con cháu bơ vơ lạc lơng? Nếu hằng ngày mỗi người trong gia đ́nh từ ông bà, cha mẹ, chồng vợ, con cái... dành th́ giờ để thờ phượng Chúa th́ chính những giờ phút ngắn ngủi đó sẽ làm cho t́nh yêu của mỗi người trong gia đ́nh thêm bền chặt v́ không ai c̣n giận ai điều ǵ, không c̣n ai bực tức trong ḷng... với lời Kinh Thánh, với lời cầu nguyện, với tâm t́nh cởi mỡ giữa ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái... những âu lo phiền năo tại cơ sở làm việc, tại nơi học đường, tại nơi nào đó tiếp xúc gặp khó khăn sẽ sớm được giải quyết với nhau, giúp đỡ nhau qua sự thử thách, qua bồn chồn lo âu. Người tín nhân Cơ đốc giáo và gia đ́nh có chỗ vựa yên trong t́nh yêu ấp ủ của Cứu Chúa Jêsus!

Tiếc thay, nhiều gia đ́nh người Việt-nam tại hải ngoại chịu nhiều sóng gió cuộc đời, chia ly khi ra đi, mất mát người thân trên đường t́m tự do; ở lại trông chờ, ra đi trông chờ ngày đoàn tụ nhưng đến nơi ḷng người thiếu chung thủy, đổi thay gây cảnh ră đàn tan nghé, con cái lạc lơng bơ vơ; rất ít người giữ được hạnh phúc gia đ́nh với đầy đủ vợ chồng con cái. Phong tục, tập quán, học vấn, và kinh nghiệm tự nó dễ nghiêng ngă trước học thuật mới, văn minh mới, xă hội mới, tiện nghi kỹ thuật tạo nếp sống hưởng thụ ích kỷ, vui chơi cá nhân nhiều hơn cho gia đ́nh, con cái và xă hội. Trong ánh sáng và văn minh Cơ đốc giáo, qua t́nh yêu của Cứu Chúa Jêsus là môi trường thuận lợi làm sống lại những tươi đẹp của học thuật, của văn hóa, phong tục, tập quán tốt v́ chính những ǵ tốt đẹp đă hài ḥa như Lời Hằng Sống hữu ích cho đời người và gia đ́nh của người. Hăy nối lại dây liên hệ tinh thần trong gia đ́nh, trong cộng đoàn và xă hội để được hạnh phúc yên vui, hăy đoàn kết, tin yêu.