Nghệ Thuật Thương Yêu

 

 

B.S.Nguyễn Đ́nh Lư

 

Nhà thần học Trung Hoa Choang-Seng Song viết rằng trong ngôn ngữ Trung Hoa khi nói về t́nh yêu người ta dùng hai từ thươngyêu ghép liền vào nhau. Đó là thun-ai (pain-love).Trong ngôn ngữ Việt Nam cũng vậy, người Việt nam thường dùng tù kép thương yêu để chỉ  t́nh yêu theo nghĩa rộng.

Tác giả này đă dẫn chứng thương liền với yêu bằng h́nh ảnh người mẹ ôm gh́ lấy con, hôn chặt vào má nó gần như muốn nhai ngấu nghiến đứa bé. T́nh thương yêu của người mẹ lớn lao, tha thiết đến độ khiến bà cảm thấy đau đớn. T́nh thương yêu đă sinh ra một sức mạnh rất gần với sự đau đớn.

Tán thành quan điểm trên đây và cũng là theo một tập quán trong ngôn ngữ Việt Nam, tôi dùng danh từ t́nh thương yêu khi nói đến chữ ái trong thất t́nh, đến t́nh yêu tha nhân .

T́nh thương yêu, quan niệm then chốt nhất trong thần học và đạo đức học Thiên Chúa giáo, cũng là một trong những quan niệm mơ hồ về thần học, đạo đức học, tâm lư học và văn hóa với những giải thích khác nhau và những định nghĩa mâu thuẫn nhau.                                                        Cho nên t́nh thương yêu, để có một sự nhắc nhở rơ ràng, đ̣i hỏi không phải chỉ một nền tảng thần học và một sườn triết học nhưng c̣n động lực tâm lư và một nội dung cùng bối cảnh đạo đức. Điều này hướng dẫn ta t́m hiểu những h́nh thức cùng những kiểu mẫu t́nh thương yêu.

 

NHỮNG H̀NH THỨC VÀ NHỮNG KIỂU MẪU T̀NH YÊU THƯƠNG

 

Nền Tảng Thần Học

 

T́nh thương yêu dược xem là một trong ba đức  thần học thiết yếu, Tin, Cậy và Kính Mến. Qua bao thế kỷ trước tác thần học, sự phân tích t́nh thương yêu hướng vào ḷng thương yêu tự hiến, agape. Bản chất của agape chuyển hóa qua một sự phát triển của những kiểu  nhấn mạnh..

Như  (1) ḷng nhân, đó là ḷng thương yêu kẻ không đáng thương và kẻ không thể thương, agape là ḷng thương yêu độ lượng, vị tha, trắc ẩn, quí trọng tha nhân một cách quên ḿnh, trong một mối quan tâm vô tư đến sự an lành của người đó. Nó hoàn toàn không tùy thuộc vào sự xứng đáng hay giá trị người thụ hưởng, nhưng chỉ  tùy thuộc vào ḷng quảng đại của kẻ yêu thương.

 Như  (2) sự tuân phục thúc giục thương yêu tha nhân v́ vai tṛ, theo mệnh lệnh hay sự bắt buộc đạo đức, như vậy, agape là sự tuân phục với ḷng tin và thiện chí một bắt buộc đạo đức để hành động cho sự tốt lành của tha nhân hầu hoàn thành mệnh lệnh của Chúa Kitô.

Như  (3) sự tự hy sinh dẫn đến ḷng thương yêu tha nhân gây lợi cho người thiệt cho ḿnh-nhu cầu tha nhân trên hết-như vậy agape là một việc tự hy sinh cho tha nhân đặt nhu cầu của tha nhân lên trên nhu cầu của chính ḿnh, có khi ḿnh c̣n phải trả giá cao.

Như  (4) cái nh́n b́nh đẳng, xem tha nhân có giá trị b́nh đẳng với ḿnh, ngay khi biết ḿnh cao quí va øcó giá trí không giảm, agape như vậy vừa là một hành động của ư chí

        thực thi ḷng trắc ẩn đối với tha nhân không chút dè đặt

        vừa là một hành động của trái tim-qui trọng bản thân và tha nhân vô điều kiện.

T́nh thương yêu như thế xem tha nhân là kẻ được thương yêu dù khi có hận thù, nghĩa là tha nhân là kẻ thù.

Quan điểm thứ nhất, ḷng nhân, đă từng là lối giải thích nổi bật về ḷng yêu thương trong lịch sử Thiên Chúa giáo. Hầu hết các nhà thần học hiện đại và hậu hiện đại chỉ trích quan điểm này có tính cách  chủ nghỉa gia trưởng. Quan điểm thứ tư, cái nh́n b́nh đẳng, ngày nay được áp dụng nhiều hơn v́ nó có thể bao gồm cảø ba quan điểm khác là ḷng nhân, tuân phục và tự hy sinh, theo một lối tóm thu  một cách nghiêm chỉnh sự toàn vẹn, công bằng và hạnh phúc cho toàn thể nhân loại, kể cả những kẻ thù.

Trong  Kinh Thánh có ít nhất là năm từ dùng để chỉ các h́nh thức của t́nh yêu thương, mặc dù chỉ có ba từ xuất hiện trong Tân Ước:

(1)  eros, sự t́m kiếm một đối tượng trong t́nh thương yêu có tính cách thẩm mỹ, say đắm hay tâm linh;

(2)  philia, giây liên kết biệt đăi trong cảm t́nh,t́nh bạn và liên đới xă hội;

(3)  storge, t́nh thương yêu chăm sóc bởi ḷng trắc ẩn;

(4) agape, t́nh thương yêu vô phân biệt, tự hiến trong sự kính trọng b́nh đẳng;

(5) koinomia là t́nh thương yêu trong sự hỗ tương của cộng đồng, trong sự chia sẻ đời sống chung trong giao ước và cam kết.

 

T́nh thương yêu thứ năm không phaỉø sự t́m kiếm một đối tượng (eros) haysự tự hiến vị tha (agape). Nó là một biểu hiện sự hỗ tương trong việc cho và việc nhận hợp nhất với nhau. Đó là từ đích thực của ḷng thương yêu Thiên Chúa giáo, điểm cuối của của lộ tŕnh nhiều từ (eros,philia,storge,agape,koinomia).

 

Sườn Triết Học

 

Mọi kiểu mẫu t́nh thương yêu đều đước sự phân tích triết học, nhưng eros, philiaagape được chú ư hơn cả. Ở đây chỉ  ư niệm agape được tuyển chọn để bàn luận.

Agape là một mối quan tâm sâu xa đến sự an lành của tha nhân, tỏ ra thông cảm va øthấu hiểu tha nhân mà không có ư muốn quản chế tha nhân,   không muốn được tha nhân cám ơn hay không muốn vui hưởng tíến tŕnh việc làm của ḿnh. Agape là một việc phân phối quả quyết lợi ích cho ḿnh và tha nhân. Ta có thểù xem nó là một liên thể từ quên người đến quên ḿnh với những bước trung gian từ sư ïbiệt đăi bản thân, qua sự tương đồng b́nh đẳng đến sự bietä đăi tha nhân.

Khi agape được tiết chế bởi công bằng, sự tương đồng b́nh đẳng trở nên tiêu chuẩn cho sự lượng giá cái ǵ là sáng tạo cho tha nhân, cho những tương quan và cả cho bản thân. Điểm quân b́nh giữa sự quan tâm chính đáng cho cả hai bên và nhu cầu của họ có thể thay đổi với bối cảnh, những hoàn cảnh và những t́nh huống đặt biệt của bất cứ bên nào.

 

Động Lực Tâm Lư

 

Trong bài phân tích của ông ve àt́nh thương yêu như một năng lực hiệp nhất Paul Tillich đă viết t́nh thương yêu là sự căng thẳng giữa ḥa hợp và phân ly. T́nh thương yêu là năng lực thúc đẩy đời sống đang t́m sự hợp nhất của những kẻ chia rẽ. Một cá nhân cần t́m sự hợp nhất với những ca ùnhân khác nhưng không phải hy sinh căn tính của ḿnh hay vi phạm căn tính của kẻ khác. Điều này duy tŕ tính cách qui tâm của con người mà không bi thu hút hoặc bị bỏ rơi bởi tha nhân. Những sự phân cực này-thu hút hay bỏ rơi, nhận ch́m hay làm lơ, ḥa hợp hay phân ly-diẽn tả những nỗi lo sợ căn bản đồng thời những nhu cầu thiết yếu  cho tính cách con người quân b́nh.Theo Fritz Perls, Thương yêu tha nhân là tiến lại càng gần càng tốt mà không vi phạm tha nhân hay mất chính ḿnh. Hơn là một điểm thăng bằng, ḷng thương yêu là một tiến tŕnh tích cực của sự hỗ tương. Ḷng thương trưởng thành t́m kiếm sự hỗ tương biểu hiện sự trao đổi giũa cho và nhận trong một mối quan hệ.

Nhiều lư thuyết gia tâm lư giả sử rằng  nguyên tắc chủ nghĩa khoái lạc tâm lư chủ trương rằng mọi con người đều bị lôi cuốn đi t́m khoái lạc cho chính ḿnh và tránh sự đau đớn. Tiêu biểu trổi nhất cho quan điểm này là Sigmund Freud, người đă phát biểu nguyên tắc khoái lạc làsự diễn tả căn bản động cơ thức đẩy con người. Quan điểm trái ngược là sự vị tha tâm lư, nó hỗ trợ cho khả năng yêu ḿnh  cách biệt sự khoái lạc cho ḿnh tức la øḷng ích kỷ. Ḷng thương yêu ḿnh và thương yêu tha nhân có tính cách bổ túc cho nhau. Sự quan tâm thực t́nh đến sự an lành của bản thân không thể bị phân chia khỏi sự quan tâm đến sự an lành của những kẻ khác có 1ư nghĩa đối với ḿnh, và ḷng yêu ḿnh thực sự thức đẩy con người nh́n kẻ khác với sự quí trọng b́nh đẳng. Eric Fromm đă phát biẻu rơ ràng nhăn giới đó và chỉ cho ta thấy những khả năng của con người có thể tiến tới sự quí trọng ḿnh vàtha nhân như  một phương thế làm giảm sự tha hóa của xă hội nhân loại và gia tăng những khả năng của con người quí việc cho hơn việc nhận, quí ḿnh ǵ hơn là ḿnh ǵ hay làm ǵ.Việc nh́n thấy một sự điều ḥa giữa vị kỷ và vị tha đă trởû nên giả thuyết căn bản về  tính cách tiềm năng và hiện sinh của con người và của nhiều loại tâm lư học đại chúng ngược lại với những lư thuyết gia về những liên hệ đối tương và phân tích thấy vị kỷ và vị tha trong t́nh trạng căng thẳng vĩnh viễn.

 

Nội Dung Đạo Đức

 

              Nếu một quan  niệm cần có một ư nghĩa, ḷng thương yêu đ̣i hỏi một cộng đồng đạo đức.Thực hành đạo đức không thể diễn ra trong sự cô đơn của con người hay trong quyết định cá nhân. Nó phát khởi từ trong cộng đồng, và trực tiếp bởi những cam kết của con người. Chỉ ở trong một cộng đồng riêng biệt mà việc thực hành ḷng thương yêu thành h́nh, tiếp nhận nội dung, và viên thành. Đạo đức xuất hiện từ truyền thống của Kant đặt sự nhấn mạnh chính lên lư trí và xem nhẹ cảm xúc. Ông ta đặt đạo đức lên một nền các luật lệ có tính cách phổ quát trong đó tất thảy những người có lư trí cần phải tuân theo. Như thế, ông ta cho rằng nguyên tắc phổ quát về sự quí trọng đối với mọi người có lư tríù như là những cứu cánh ở chínnh họ và không bao giờ chỉ là phương tiện tầm thường tạo thành kích thước của ḷng thương yêu đích thực. Nhăn quan theo phái Aristotle, ngược lại, nh́n ḷng thương yêu không phải làmột luật lệ phổ quát mà là một đức tính trung dung cho sự phát biểu vàsự hỗ trợ cộng đồng nhân loại.

Thần học Thiên Chúa giáo dựa trên ḷng thương yêu vô điều kiện, tự hiến, thường hằng và tha thiết của Thiên Chúa. Sự hiện diện của Thiên Chúa trong sự sinh ra, đời sống, sự giảng huấn và sự chết của Chúa Kitô bày tỏ ḷng thương yêu thiêng liêng trong kinh nghiệm con người và cộng đồng nhân loại. Mầu  nhiệm nhập thể, chịu đóng đinh và sống lại không phải chỉ là sự sự pha chế ḷng thương yêu siêu nhiên mà c̣n là sự biến đổi kinh nghiệm tự nhiên của con người , sự phục hồi những khả năng của con người được tạo dựng,tặng phẩm ân sủng giúp phục hồi ḷng can đảm để thương yêu, sự cam kết để săn sóc ngay cho kẻ thù của ḿnh,s ự tham gia vào năng lực của Chúa Thánh Linh, năng lực giúp ta có thể tiến xa hơn khả năng  thương yêu thông thường đến một kinh nghiệm không thông thường về agape trong tương quan và trong cộng đồng.

 

 

 

 

PHẢI CHĂNG THƯƠNG YÊU  LÀ MỘT NGHỆ THUẬT ?

 

T́nh thương yêu có phải là một nghệ thuật?  Nếu như thế, nó đ̣i hỏi kiến thức và nổ lực. Nhưng, người ta thường không nghĩ thế và cho rằng không có ǵ để học hỏi về ḷng thương yêu.

            Thái độ đó dựa trên những tiền đề sau đây:

            1.T́nh thương yêu thiết yếu là được yêu thường, không phải là yêu thương, cũng không phải khả năng thương yêu. Đa số người nghĩ như vậy và vấn đề của họ là làm sao  để được thương yêu, để đáng được thương yêu.

            2.Vấn đề thương yêu là vấn đề một đối tượng, không phải là vấn đề một khả

năng. Người ta nghĩ rằng thương yêu là đơn giản, t́m được một đối tượng thích hợp để thương yêu

 - hay để được thương yêu - mới là khó. Thái độ này có nhiều lư do có gốc rễ trong sự phát triển của xă hội hiện đại trong thế kỷ thư hai mươi .Một lư do là sự thay đỗi lớn trong việc lựa chọn một “đối tượng của ḷng thương yêu”. Trong thời đại Nữ Hoàng Victoria, cũng như trong nhiều truyền thống văn hóa, ḷng yêu thương hầu hết không phải là kinh nghiệm riêng tư tự phát đưa đến hôn nhân.Trái lại hôn nhân được thực hiện theo qui ước bởi gia đ́nh hay nhờ mai mối; hôn nhân được quyết định dựa trên những suy xét xă hội,và ḷng thương yêu được xem như sẽ đến sau khi thành hôn. Thật chẳng khác ǵ quan niệm “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” của Đông phương. Trong vài thế hệ gần đây quan niệm t́nh yêu lăng mạn đă trở thành gần như phổ quát trong thế giới Tây phương. Quan niệm mới về sự tự do trong t́nh yêu đă giúp sự quan trọng của đối tượng vượt trỗi hơn sự quan trọng của chức năng.

            3. Toàn bộ văn hóa đương thời của chúng ta dựa trên ḷng ham muốn mua bán, trên ư niệm trao đổi một cách hỗ tương thuận lợi. Cho nên hai người cảm nhau, thương yêu nhau khi họ cảm thây họ đă t́m ra một đối tượng tốt nhất có sẵn trên thị trường, tùy theo những giới hạn của những giá trị trau đổi của chính họ.Trong một nền văn hóa với sự định hướng theo thị trường nổi bật , và trong đó sự thành công vật chất là giá trị xuất sắc th́ chẳng lạ ǵ tương quan t́nh thương yêu của con người cũng theo khuôn mẫu trao đổi đang ngự trị hàng hóa và thị trường lao động.

            Sự sai lầm thứ ba này đưa đến ư nghĩ rằng chẳng có ǵ đáng học hỏi về t́nh thương yêu và nó nằm trong sự lầm lẫn giữa kinh nghiệm sơ khỏi của sự phải ḷng  và t́nh trạng thương yêu lâu bền. Nếu hai người từng xa lạ với nhau, bỗng nhiên để bức tường ngăn đôi bên đổ xuống, và họ cảm thấy gần nhau, cảm thấy là một giây phút họp nhau làm một đó là  một kinh nghiệm hoan lạc nhất, kích động nhất trong đời. Nó c̣n kỳ diệu và như có phép lạ hơn cho hai người khi họ đă từng sống khép kín, cô đơn, không t́nh thương yêu. Phép lạ của sự thân thiết bất chợt đó thường được làm cho dễ dàng hay nếu nó ḥa hợp với hay phát khởi bởi sự hấp dẫn phái tính và sự kết cuộc t́nh dục. Tuy nhiên, kiểu t́nh thương yêu tự bản chất nó không bền. Hai người trở nên biết nhau tường tận, sự thân thiết mất dần tính cách phép lạ, cho đến khi sự đối kháng của họ, những thất vọng của họ và sự buồn chán lẫn nhau giết chết những ǵ c̣n lại của sự kích thích lúc ban đầu. Tuy nhiên, lúc ban đầu họ không biết những điều đó, họ cho cường độ sự say mê, của sự cuồng dại v́ nhau làbằng chưng cường độ t́nh thương yêu của họ, trong khi đó chỉ là bằng chứng của mức độ cô đơn trước kia của họ.

            Thái độ cho rằng chẳng có ǵ dễ bằng thương yêu vẫn c̣n là ư nghĩ vượt trổi về t́nh thương yêu dù thực tại phũ phàng đă chứng minh đều ngược lại. Chẳng có hoạt động nào bắt dầu với những hy vọng và những chờ mong phấn khởi và để rồi thất bại dễ dàng như tinh thương yêu. Nếu là một hoạt động nào khác, người ta sẽ nôn nóng t́m hiểu những lư do của sự thất bại và học hỏi cách nào để làm khá hơn-hay người ta sẽ bỏ cuộc. Nhưng v́ người ta không bỏ cuộc được trong t́nh thương yêu, con đường thích hợp để khắc phục sự thất bại trong t́nh thương yêu  là quan sát những lư do của sự thát bại và tiến hành nghiên cứu ư nghĩa của t́nh thương yêu.

            Bước đầu tiên là trở nên ư thức rằng thương yêu là một nghệ thuật cũng như sống là một nghệ thuật; nếu chúng ta muốn học để biết thế nào là thương yêu chúng ta phải tiến hành như khi chúng ta muốn học một nghệ thuật khác như âm nhạc, hội họa,vv...

 

Những bước cần thiết trong việc học hỏi một  nghệ thuật là những bước nào?

 

            Tiến tŕnh học tập  có thể tạm phân chia thành  hai phần: phần một, sự am tường lư thuyết; phần hai, sự  thành thạo trong thực hành. Nhưng bên cạnh học tập lư thuyết vá thực hành c̣n một yếu tố thứ ba cần thiết để trở thành một “tay tổ” trong một nghệ thuật  là mối quan tâm tối cao đối với vấn đề làm chủ nghệ thuật,nghĩa là không có ǵ trong đời quan trọng hơn nghệ thuật. Điều này đúng với mọi nghệ thuật kể cả nghệ thuật thương yêu. Nhưng trong nền văn hóa hiện thời, dù ḷng khao khát yêu thương thực sâu xa trong ḷng mọi người, hầu như bất cứ cái ǵ cũng quan trọng hơn t́nh thương yêu. Tỉ dụ: sự thành công, uy tín, tiền bạc, quyền năng...Hầu hết nỗ lực của ta được dùng để học tập cách nào để đạt những mục tiêu đó, và hầu như chẳng có nỗ lực nào dàng cho việc học tập nghệ thuật thương yêu.

            Phải chăng người ta cho rằng những điều giúp cho họ được tiền bạc hay uy tín mới đáng học hỏi và rằng t́nh yêu chỉ lợi ích cho tâm hồn, không có ư nghĩa lợi lộc như người đời nay vẫn nghĩ.

           

            T̀NH YÊU THƯƠNG SỰ PHÂN TÁN CỦA NÓ

TRONG XĂ HỘI TÂY PHƯƠNG HIỆN ĐẠI

 

            Nếu t́nh thương yêu là một khả năng của một cá tính trưởng thành và phong phú th́ khả năng thương yêu của một cá nhân sinh sống trong một nền văn hóa tùy thuộc ảnh hưởng của nền văn hóa đó đối với cá tính một người trung b́nh. Nếu chúng ta nói đến t́nh thương yêu trong văn hóa Tây phương hiện đại, có nghĩa là chúng ta tự hỏi cơ cấu xă hội của văn minh Tây phương và tinh thần phát xuất từ đó có đem đến sự phát triển t́nh yêu thương hay không. Nêu câu hỏi tức là trả lời một cách phủ định. Không một quan sát viên khách quan nào về đời sống Tây phương nghi ngờ rằng t́nh yêu thương -t́nh anh em, t́nh mẹ con, t́nh nam nữ- là một hiện tượng tương đối lạ, và vị trí của nó bị chiếm bởi một số những h́nh thức t́nh yêu thương giả hiệu, chúng thực sự làï những h́nh thức phân tán của t́nh yêu thương..

            Xă hội tư bản dựa, một mặt, trên nguyên tắc tự do chính trị và mặt khác, trên thị trường như một tác nhân điều hợp mọi liên hệ kinh tế và do đó mọi liên hệ xă hội. Thị trường hóa vật quyết định những điều kiện theo đó những hóa vật được trao đổi,thị trường cần lao điều hợp sự thủ đắc và việc buôn bán cần lao. Những vật hữu ích cũng như năng lượng và kỹ xảo hữu ích của con người được biến đổi thành những hóa vật dược trao đổi không cần sử dụng bạo lực và không có gian trá trong những điều kiện của thị trường.

            Sự kiện trên đây vốn là cơ cấu căn bản của tư bản chủ nghĩa ngay từ lúc ban đầu. Nhưng trong khi nó vẫn là đặc tính của tư bản chủ nghĩa hiện đại, một số yếu tố khác đă thay đổi, đem lại cho chủ nghĩa tư bản hiện đại những phẩm cách đặc trưng và tạo ảnh hưởng sâu xa đến cơ cấu cá tinh con người hiện đại. Kết quả sự phát triển tư bản chủ nghĩa là chúng ta đượcchứng kiến tiến tŕnh ngày càng gia tăng của trung ương tập quyền và tập trung tư bản. Các xí nghiệp càng ngày càng lớn. Quyền sở hữu tư bản đầu tư vào các xí nghiệp đó ngày càng xa ĺa chức năng quản trị chúng. Hàng trăm ngàn người có cổ phần “làm chủ” xí nghiệp; một cơ quan quản trị được thù lao cao,không là chủ xí nghiệp,   nhưng quản trị nó. Cơ quan này ít quan tâm đến việc kiếm lợi nhuận tối đa mà chú trọng đến việc bành trướng xí nghiệp và quyền uy của họ.

 Sự tập trung ngày càng gia tăng về tư bản và sự xuất hiện một cơ quan quản trị với nhiều quyền hành song hành với sự phát triển của phong trào lao động. Qua sự nghiệp đoàn hóa lao động, cá nhân công nhân không phải thương lượng với thị trường lao động bởi chính ḿnh và cho chính ḿnh; người công nhân được hợp nhất trong các nghiệp đoàn lớn, cũng được lănh đạo bởi một cơ quan hành chánh đại diện cho ḿnh trước những thực thể kỹ nghệ khổnglồ. Sáng kiến được chuyển, dù hay hay dở, trong các lănh vực tư bản cũng như cách lănh vực lao động, từ cá nhân sang cơ quan quản trị. Số người mất tư cách độc lập để trở thành lệ thuộc những quản trị các quyền lực kinh tế lớn càng ngày càng gia tăng.

            Một sắc thái quyết định khác do sự tập trung tư bản, và là đặc tính của tư bản chủ nghĩa hiện đại nằm trong  đường lối đặc trưng của việc tổ chức công việc làm. Các xi nghiệp trung ương tập quyền rộng răi với sự phân công lao động triệt để đem đến sự tổ chức công việc làm trong đó cá nhân mất tính cách cá nhân và trở thành một cái răng cưa có thể hao ṃn trong một bộ máy. 

            Vấn đề con người trong tư bản chủ nghĩa hiện đại có thế được diễn tả như sau:

Tư bản chủ nghĩa hiện đại cần những người hợp tác với nhau một cách điều ḥa và đông đảo; và những sở thích của họ  dược tiêu chuẩn hóa và dễ dàng chịu ảnh hưởng và được tiên liệu. Nó cần những con người cảm thấy tự do và độc lập, không lệ thuộc một quyền uy, một nguyên tắc hay một lương tâm nào, nhưng  ẵn sàng chịu chỉ huy, làm điều ǵ được chờ đợi ở họ và thích ứng với bộ máy xă hội không cọ xát, những người có thể được hướng dẫn không cần bạo lực, được lănh đạo không cần người lănh đạo, thức giục tíến lên không cần mục tiêu, miễn là làm điều lành, luôn di độc động , luôn tiến lên.

            Hậu quả là con người hiện đại bị tha hóa đối với chính ḿnh,với đồng loại và với thiên nhiên. Con người được biến thành thành một hóa vật, kinh nghiệm những động lực đời sống như một sự đầu tư phải đem lại cho cho ḿnh lợi nhuận tối đa trong nhửng điều kiện thị trường hiện hữu. Mối tương quan nhân loại thiết yếu là môi tương quan giữa những tự động tử, mỗi cá thể đặt sự an toàn của ḿnh trên sự gần gũi với tập đoàn và tính cách không khác kẻ khác trong tư tưởng, cảm xúc hay hành động. Trong khi mọi người cố gắng t́m lại càng gần những kẻ khác càng tốt mọi người vẫn cảm thấy ḿnh vô cùng cô đơn, thâm nhiễm bởi cảm thức sâu xa về t́nh trạng bất an, ḷng lo lắng và mặc cảm có lỗi khi chưa có thể vượt qua sự cách biệt của con người.

                       

            THỰC  HÀNH T̀NH  YÊU THƯƠNG

 

            Lư thuyết không giúp ǵ cho việc thực hành nghệ thuật yêu thương, chính trong thực hành yêu thương ta có thể học hỏi nghệ thuật đó.

            Ta cũng không thể có một một quyển sách dạy cách tự thực hành nghệ thuật yêu thương như một quyển sách dạy nấu ăn hay may cắt. Thương yêu là một kinh nghiệm riêng tư. Bàn luận về thực hành yêu thương là bàn về những tiền đề của nghệ thuật yêu thương và những cách tiếp cận nghệ thuật đó. Những bước tiến đến mục tiêu phải do chính kẻ muốn thực hành cất bước. Tuy nhiên việc bàn luận về những cách tiếp cận có thể hữu ích cho những ai muốn thành kẻ làm chủ nghệ thuật thương yêu..

            Trước hết, việc thực hành một nghệ thuật đ̣i hỏi kỷ luật. Đối với nghệ thuật yêu thương đó là kỷ luật trong suốt đời người. Không có kỷ luật đời sống sẽ hỗn độn và thiếu sự tập trung.

            Sự tập trung là một điều kiện cần cho việc làm chủ nghệ thuật yêu thương. Trong nền văn hóa ngày nay của chúng tasự tập trung thật hiếm. Trái lại, nó tạo nên t́nh trạng không tập trung và phân tán của cách sống. Chúng ta thường làm nhiều việc cùng một lúc.

            Yếu tố thư ba là ḷng kiên nhẫn. Đối với con người hiện đại, sự kiên nhẫn cũng khó thực hành như kỷ luật và sư tập trung. Toàn bộ hệ thống kỹ nghệ tạo nên t́nh trạng trái ngược lại .Đó là tính cách nhanh chóng. Tất thảy những máy móc được chế tạo để thực hiện sự nhanh chóng. Con người hiện đại nghĩ rằng cái ǵ tốt cho máy là tốt cho người. Khi làm một việc ǵ không được nhanh chóng con người hiện đại cho ḿnh đă để mất th́ giờ quí báu dù người đó nhiều khi chẳng biết làm ǵ với thời giờ ḿnh có được.

            Yếu tố thứ tư là mối quan tâm tối cao đến vấn đề làm chủ nghệ thuật. Nếu một nghệ thuật không được xem là có tầm quan trọng tối cao th́ kẻ thực tập chỉ có thể thành một tay tài tử giỏi là cùng, nhung người đó không thể thành người lam chủ nghệ thuật.. Thế mà trong nghệ thuật thương yêu dường như những tay tài tử đông đảo hơn là những người làm chủ.

            Một điểm cần lưu ư nữa là không ai học một nghệ thuật một cách trực tiếp mà là một cách gían tiếp, nghĩa là kẻ thực tập phải học nhiều thứ khác cơ hồ không liên quan ǵ với nhau trước khi bắt đầu học tập nghệ thuật chính. Về nghệ thuật t́nh thương yêu, điều trên đây có nghĩa là kẻ muốn làm chủ nghệ thuật đó phải bắt đầu bằng  việc thực hành kỷ luật, tập trung và kiên nhẫn trong mọi gian đoạn của đời sống ḿnh.

 

            Làm cách nào để thực hành kỷ luật?

 

            Điều thiết yếu là kỷ luật không thể là một qui tắc cưỡng ép từ bên ngoài, nó phải thành một sự biểu hiện ư chí của một người.

            Sự tập trung là một việc khó thực hành trong văn hóa ngày nay v́ mọi thứ cơ hồ làm ngược lại khả năng tập trung. Bước đầu tiên quan trọng trong việc thực tập tập trung là tập ở một ḿnh với chính ḿnh, không đọc sách, không nghe đài, không hút thuốc, không ăn uống vv...Một cách nghịch lư, việc ở một ḿnh với chính  ḿnh là một điều kiện của khả năng thương yêu. Ta cảm thấy thương yêu ai v́ ta bồn chồn đúng ngồi không yên. Điều đó không phải là dấu hiệu t́nh thương yêu thực.

            Ta c̣n phải luyện tập tập trung và bất cứ việc ǵ ta đang làm.

            Sự tập trung trong quan hệ với những kẻ khác có nghĩa là khả năng lắng nghe người khác nói.

            Tập trung có nghĩa là sống trọn trong hiện tại chốn này và bây giờ, và không nghĩ ǵ đến việc sắp phải làm, rong khi ḿnh đang làm một việc ǵ. Tập trung hẳn là việc những người thương yêu nhau phải làm. Họ phải học cách để được gần gũi nhau không t́m cách lẩn tránh nhau..

            Sau đây chúng ta bàn về những đức tính có ư nghĩa đặc trưng cho khả năng thương yêu.

            Điều kiện chính cho việc thành tựu t́nh thương yêu là chế ngự ḷng ái kỷ của ḿnh. Đối cực của ḷng ái kỷ là tính cách cách quan.

            Khả năng suy nghĩ một cách khách quan là lư trí; thái độ cảm xúc phía sau lư trí

là sự  khiêm tốn.

            Như vậy, t́nh thương yêu tùy thuộc vào sự thiếu vắng tương đối của ḷng ái kỷ, nó đ̣i hỏi sự phát triển ḷng khiêm tốn, tính khách quan và lư trí. Trọn đời một người phải hiến cho mục tiêu đó.

            Sự vượt khỏi ḷng ái kỷ đ̣i hỏi một điều kiện cần là niềm tin.

            Sự thực hành nghệ thuật thương yêu đ̣i hỏi sự thực hành niềm tin. Niềm tin đây là một niềm tin duy lư có gốc rễ từ kinh nghiệm tư tưởng và cảm xúc riêng của một người.Niềm tin duy lư phát xuất từ một niềm xác tín độc lập dựa trên sự quan sát và suy tư phong phú của riêng ḿnh bất chấp dư luận của đa số.

            Trước hết là niềm tin ở chính ḿnh, tin ở bản ngă không đổi của ḿnh, tin ḿnh hôm nay và ngày mai vẫn là ḿnh.

            Niềm tin ở chính ḿnh dẫn đến niềm tin vào người khác, tin chắc người khác đáng tin cậy, không thay đổi những thái độ nền tảng và ṇng cốt của nhân cách.

            Niềm tin ở  những người khác c̣n là niềm tin ở những tiềm năng của họ.

            Việc để có niềm tin đ̣i hỏi ḷng can đảm. Đó là khả năng chấp nhận sự rủi ro, và sẵn sàng chấp nhận đau đớn cùng thất vọng. Đễ được thương yêu và yêu thương cần ḷng can đảm để phán đoán một số giá trị như đáng được môi quan tâm tối cao và sẵn sàng lao vào và đánh cá mọi sự trên những giá trị đó.

            Việc thực hành niềm tin và ḷng can đảm bắt đầu với những chi tiết nhỏ trong đời sống hằng ngày. Bước đầu tiên là t́m hiểu ở đâu và lúc nào ḿnh mất niềm tin, t́m những biện luận đă được dùng để che đậy sự mất niềm tin, nhận thức ở đâu ḿnh hành động một cách hèn nhát và minh đă biện minh như thế nào. Thương yêu là một hành động của niềm tin, và kẻ nào ít niềm tin th́ cũng ít t́nh thương yêu.

            Một yếu tố  khác cũng cần thiết cho việc thực hành t́nh thương yêu làhoạt động. Hoạt động không  chỉ có nghĩa là “làm một việc ǵ”, nhưng c̣n là một hoạt động nội tại, việc sử dụng phong phú các năng lực của ḿnh. Thương yêu là một hoạt động. Khi ta yêu ai ta luôn luôn ở trong t́nh trạng quan tâm tích cực đèn người ḿnh yêu,nhưng không phải chỉ với người ấy mà thôi. Ta không thể liên hệ một cách tích cực với người ḿnh thương yêu nếu ta làm biếng,nếu ta không luôn luôn ở trong t́nh trạng y thức, tỉnh táo và hoạt động. T́nh trạng ư thức, tỉnh táo và hoạt độnng không chỉ trong lănh vực t́nh yêu mà cả trong những lănh vực khác.

            Việc bàn luận về nghệ thuật thương yêu không thể được giới hạn trong phạm vi  riêng tư v́ nó liên hệ chặt chẽ với phạm vi xă hội. Những mối liên hệ xă hội được qui định bởi nguyên lư về sự công chính .Sự công chính có nghĩa là không dùng sự gian trá và xảo quyệt trong việc trau đổi hóa vật và dich vu ïvà cả trong sự trau đổi những cảm xúc. Sự phát triển đạo lư về ḷng công chính là một đóng góp đặt biệt của xă hội tư bản.

Trong xă hội tư bản, yếu tố quyết định tất cả là sự trao đổi trên thị trường. Dù trên thị trường  hàng hóa, thị trường lao động hay thị trường dịch vụ,mỗi người trao đổi thức ǵ ǵ người ấy muốn bán ra để đổi lấy vật ǵ người ấy muốn thủ đắc trong những điều kiện của thị trương, không dùng sự cưỡng ép hay gian trá.

            Tuy nhiên, sự công chính không đồng nghĩa với ḷng thương yêu."Thương yêu người ta như ḿnh"có nghĩa là cảm thấy ḿnh có trách nhiệm với tha nhân và là một với tha nhân trong khi ḷng công chính chỉ có nghĩa là tôn trọng quyền hạn của tha nhân,không có nghĩa là cảm thấy ḿnh có trách nhiệm với tha nhânvà là một vớitha nhân.. Trong việc thực hành ḷng thương yêu ta phải nhận thấy sự khác biệt giữa t́nh thương yêu và ḷng công chính.

            Ta thấy nguyên lư về sự công chính  làm nền tảng cho xă hội tư bản không hợp với nguyên lư về t́nh thương yêu. Công chính và thương yêu ḥa hợp với nhau là hiếm có.Ngay kẻ có thể thương yêu trong hệ thống tư bản ngày nay có lẽ là ngoại lệ v́ tinh thần qui hướng về sản xuất và xă hội tham lam hóa vật khiến đa số không cưỡng lại được với khuynh hương chung.

 

          Trên đây, tôi chỉ làm một công việc “thuật nhi bất tác”tóm lươc một ít tư tưởng hiện đại về t́nh thương yêu, nhất tư tưởng của Eric Fromm, không ngoài mục đích gợi ư suy tư về những khủng hoảng  t́nh yêu thương trong nền văn hóa hiện đại của chúng ta.