Các bạn thân mến,
Đây là lần gặp gở thứ ba kể từ Đại Học Hè VNHN lần thứ nhất tổ chức tại
Suisse, năm 1996.
Hai lần trước, tôi đă tŕnh bày các đề tài về cách xử dụng màu
sắc và cảm ứng của người Việt nam trong cách nh́n và đặt tên màu sắc qua
thi văn và ca dao (1). Lần thứ hai về cách vẽ và bồi tranh lụa Việt nam
(2).
Lần này, đề tài tôi sắp tŕnh bày có phần khó khăn và phức tạp
hơn hai lần trước, v́ với sơn mài, ngoài tài hoa cùa người họa sĩ qua chủ
đề của tranh cùng nét vẽ điêu luyện, sự thành công của tác phẩm c̣n phụ
thuộc rất nhiều về kỹ thuật ; nhất là kỹ thuật cổ truyền (CT) chỉ xử dụng
sơn ta, mà cách chế biến c̣n là một bí mật gia truyền, các loại màu cũng
do nghệ nhân pha trộn với kỹ thuật riêng. Dụng cụ để thực hiện các giai
đoạn cũng rất đặc biệt.
Ngoài ra các trở ngại chính khi dùng sơn ta là điều kiện bảo quản, thời
gian chờ sơn khô (trong pḥng ủ) và sau hết là sơn gây dị ứng ngoài da cho
gần 90% người xử dụng. Sau một vài lần bị sơn ăn, 90% sẽ được miễn nhiễm,
10% c̣n lại không chịu được sơn sẽ bỏ nghề.
Trong hoàn cảnh sống xa quê hương, người họa sĩ trước đây đă từng làm
tranh SM sẽ t́m đủ mọi cách để thực hiện cho bằng được sự đam mê của ḿnh.
Phải mất gần 5 năm (1983-1988) tôi mới có thể xử dụng thành công loại sơn
mới cùng với các kỹ thuật không khác mấy với kỹ thuật củ (CT) dùng sơn
ta.
Sơn ta trích từ nhựa cây sơn thiên nhiên có tên khoa học là
Rhus Succedanea, hoặc Rhus Vernicifera và Mélanorhéa laccifera, tùy theo
phong thổ các nơi trồng khác nhau (Phú Thọ ở miền Bắc ; Blao ở Cao Nguyên
Trung phần, hoặc sơn Nam Vang..vv.) mà cách thu hoạch cho đến cách chế
biến để có được các loại sơn hom, sơn lót và sơn quang..vv đều có rất
nhiều điểm giống nhau giữa ta và Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn (3) ..vv.
Điểm khác biệt lớn nhất là các nghệ nhân ta đă biết cho thêm
chất nhựa cây thông vào sơn quang (4) để tăng thêm tính chất trong suốt
của sơn, cũng như lúc mài tranh và đánh bóng dể dàng hơn.
Kỹ thuật xử dụng sơn ta vào sáng tạo tranh sơn mài chỉ bắt đầu ở nước ta
vào khoảng những năm cuối thập niên 20 của thế kỹ vừa qua (1920-1930), tuy
rằng các bậc nghệ nhân tiền bối của ta đă biết dùng sơn ta để chế tạo các
vật dụng trang trí gia dụng như : tráp, hộp, khay hoặc câu đối kể từ đời
Trần (thế kỹ thứ 14). Trước đó, sơn ta chỉ được dùng như một loại dầu (5)
để trét ghe thuyền, gàu tát nước hay một ít đồ gia dụng như cơi, rổ .. vv.
Ở miền Nam, ngành tiểu công nghệ nở rộ vào những năm cuối thập niên 50,
với Trung Tâm Tiểu Công Nghệ Việt Nam thuộc nhà Kỹ Thuật Học Vụ. Riêng
ngành gổ, gấm, sơn mài đă được nâng lên đến bậc Bách Khoa Trung Cấp và Cao
Đẳng Kỹ Thuật (6).
Trong thời gian này, trường Cao Đẳng Kỹ Thuật Phú Thọ đă thử nghiệm thành
công một loại sơn mới trích từ dầu hột điều (noix d'acajou). Tính chất ứng
dụng gần giống với sơn ta về mọi mặt, không gây dị ứng cho người xử dụng.
Khi biến chế ra sơn quang (7), sơn phủ, độ trong suốt có màu cánh dán của
sơn phủ (8) biến chế từ sơn ta.
Loại sơn hột điều đến năm 1975 vẩn c̣n nằm trong pḥng thí nghiệm v́ giá
thành quá cao, vả lại hột điều là một sản phẩm được xử dụng nhiều trong
ngành thực phẩm (9), mỹ phẫm và dược phẩm. Riêng lục địa Phi Châu đă cung
ứng đến 30% nhu cầu thế giới (một triệu tấn/năm).
Trở lại sơn mài hóa học (10), ở đây cần giải thích thêm là tất cả các loại
sơn dùng trong kỹ nghệ sơn trên gổ, như cửa ra vào, bàn ghế tủ hoặc sơn
trên sắt như tàu bè, xe cộ, máy bay .. vv đều do nền kỹ nghệ hóa chất sản
xuất.
Những loại sơn này đa số không thể mài được, dầu là với giấy nhám nước.
Trái lại các loại sơn thuộc nhóm polyestère, polyuréthane hoặc epoxy, đều
mài được một cách dể dàng với giấy nhám nước, nên ở đây ta tạm gọi là sơn
mài Tây ; đa số là thứ phẩm của nền kỹ nghệ dầu hỏa.
Dưới dạng sơn màu nếu là đơn chất chúng sẽ được gọi chung là peinture
bi-couche, hoặc auto-base, nghĩa là sau khi vật dụng được sơn với loại sơn
này, nó cần được bảo vệ bằng một lớp vernis trong suốt (sơn bóng).
Như đă tŕnh bày ở trên, danh từ sơn mài dùng để chỉ loại sơn trong khi vẽ
màu hoặc sau khi vernis đều có thể mài được.
Danh từ vernis trong sơn hóa học cũng có thể so sánh được với danh từ sơn
quang hoặc sơn phủ trong sơn mài ta.
Theo định nghĩa của tự điển Robert, khi chỉ về chất liệu th́ laque có nghĩa
là một chất nhựa quánh, lấy từ những loại cây vùng viễn đông có màu đỏ nâu,
đây chính là sơn sống chảy từ thân cây sơn, sơ khởi có màu trắng như sữa,
sau khi tiếp xúc với không khí th́ trở thành nâu đỏ như trên.
Cũng theo Robert, laque cũng là một loại sơn bóng hóa học (vernis
chimique) trong suốt hoặc ẩn màu. Cuối đến thế kỹ thứ 19, đàu thế kỹ 20,
một số nghệ nhân Âu Châu đă học hỏi kinh nghiệm của các nghệ nhân Trung
Hoa và Nhật Bản. Sau một thời gian t́m tôi, nghiên cứu, họ cũng chỉ đi đến
một kết quả tương tự như tranh sơn của Trung Hoa hoặc Nhật, nghĩa là sơn
được điều chế có độ quánh tỏa nhanh ở điều kiện khí hậu tự nhiên. Sau khi
sơn tỏa đều hết cả mặt phẳng rồi mới đem vào pḥng ủ có độ ẩm cao.
Một vài nghệ nhân Âu Châu c̣n xử dụng cả sơn dầu pha thêm dầu cá để tăng
độ bóng ; cả mấy phương pháp trên đều không qua giai đoạn mài và đánh bóng.
Mài và đánh bóng chỉ có trong sơn mài Việt Nam. Nhất là đánh bóng bằng
ḷng bàn tay với than xoan và bột chu (11).
Sau đây là những giai đoạn thực hiện sơn mài theo kỹ thuật mới,
được ghi chú vắn tắt (MT). Nếu phải so sánh với một số tên gọi dùng trong
kỹ thuật cổ truyền, sẽ được ghi tắt (CT).
Về tranh, vật liệu đầu tiên là một tấm ván ép, dầy từ 10 đến 18 ly mét,
tùy theo cở tranh nhỏ, trung b́nh hoặc lớn.
Giai đoạn 1 : gồm có hom, bó, lót (CT)
1) Sơn hom (12) nay sẽ được thay thế bằng một chất
trám dẻo được trộn với một chất xúc tác giúp cho hổn hợp khô nhanh (vài
phút) và trở nên cứng rắn có thể mài ngay được sau 20 phút. Tên gọi chung
là mastic 2K hoặc mastic polyestère.
Hom từ 3 đến 4 lượt. Sau mỗi lượt đều phải mài phẳng và xử dụng giấy nhám
thường từ số 80 đến 150. Với kỹ thuật mới, giai đoạn bó sẽ được bỏ qua v́
mastic 2K chịu được sự thay đổi nhiệt độ, từ 30 độ âm cho đến 50 độ nóng.
2) Bó vải : Thay vào đó ta sẽ tiếp tục đi thêm 3
lượt mastic cellulosique (13) và vẩn phải mài sau mổi lượt với giấy nhám
số 220 thường là giấy nhám nước (có thể mài khô).
3) Sơn lót
a- Kiểm soát : Trước khi sơn lót cần phải kiểm soát xem tấm vóc (14)
đă thật sự được mài phẳng chưa bằng cách đi một lượt mastic loảng (15) với
lượt mastic mỏng này, các lỗi kỹ thuật nếu có do các lớp trước trám hoặc
mài chưa kỹ để lại chổ lồi lơm, vết trầy ..vv, sẽ được sữa chữa kịp thời.
b- Sơn nền : Trong sơn mài cổ truyền (CT), nền của tấm vóc thường được
sơn từ 2 đến 3 lựơt sơn nh́, có khi là sơn sống, có khi dùng sơn chín (16)
tùy theo thể loại tranh
- nền sơn sống cho tranh khảm xa cừ và tranh cẩm trứng
- nền sơn chín (màu đen) cho loại sơn mài và sơn khắc, laque
coromandel (sơn chín hạng nhứt).
Giai đoạn 2: Lên tranh
Với sơn mài mới (MT), lên tranh gồm nhiều kỹ thuật khác nhau
:
A - Kỹ thuật 1 : Lên tranh hoàn toàn bằng các loại bút vẽ khác nhau, bút
mềm cho loại tranh lụa để đi nét sau khi đă sang h́nh vẽ (calquer) qua tấm
vóc. Bút vẽ sơn dầu hoặc acrylic loại vừa và bút cứng (pinceau brosse)
dung cọ đi màu bằng những touches nhỏ, như khi vẽ tranh sơn dầu theo trường
phái ấn tượng (impressionisme). Quan sát tranh mẫu số 1 : " ngựa và hoa
vàng "
B - Kỹ thuật 2 : H́nh vẽ mẩu không đồ (calquer) sang qua tấm nền nhưng được
sang qua một tấm giấy mờ (papier à calquer) ; tấm giấy này sẽ được cắt làm
nhiều bản rập (pochoir) để che các phần cần giữ trắng trên nền tranh.
Tấm tranh càng nhiều màu, số bản rập càng nhiều hơn. Kỹ thuật này vừa xử
dụng cọ vẽ phối hợp với aérographe (17).
Quan sát tranh mẩu số 2 : " Vũ điệu Mapouka ", ta sẽ nhận thấy phần nhân
vật được che bằng giấy calque (phần A, từ bản rập đă cắt). Phần nền được
sáng tạo tùy hứng theo từng động tác sau đây :
1) Dùng rouleau (loại sơn tường nhà) chạy trên một khây sơn đặc (18);
sơn chỉ đủ dính vào trục vải sau đó trục này sẽ chạy trên tấm vóc (14)
từng lằn sơn bột để lại trên phần này chính là phần trắng (22) của tấm vóc
được rữa với nước lạnh. Trước đó, nền tấm vóc đă được đi 1 hoặc 2 lượt sơn
với aérographe trên nền tranh mẩu số 2, nền được đi màu vàng kim loại ẩn
xa cừ, thuộc nhóm polyestère khô nhanh (khoảng 10 đến 20 phút mài được).
2) Tiếp theo, dùng kỹ thuật số 1 để lên màu phần thân thể, trang phục
và trang sức. Phần dán vàng trên trang sức dùng sơn pha loảng thêm vernis,
vàng là loại vàng cho kỹ thuật in danh thiệp (sẽ chỉ rơ ở phần thực hành).
Để tạo h́nh, khối cho các nhân vật này, phần nền sẽ được che với bản rập B
trong khi tạo bóng đậm nhạt trên phần A với aérographe (17).
Aérographe là một dụng cụ được chế tạo cùng nguyên tắc với b́nh xịt sơn
(pistolet à peinture) trong kỹ nghệ sơn xe hơi nhưng được thu nhỏ đến mức
tối đa chỉ lớn bằng một cây bút mực (stylo).
Với các bạn yêu thích sưu tầm các loại bích chương (affiches,
posters-arts graphiques) và đă từng xữ dụng qua kỹ thuật aérographie th́
nay đem ứng dụng qua sơn mài mới (MT), chỉ là vấn đề thay đổi chất liệu từ
mực nước đi trên giấy vẽ, b́a cứng, toile acrylic .., nay đổi qua màu pha
vernis và vẽ trên vóc gỗ mà thôi.
Kỹ thuật này (17) đă được một vài nhà tiểu công nghệ (không rơ xuất
xứ (19)) đă dung thực hiện một số tranh sơn mài (MT) với cùng loại sơn
polyestère và vernis polyuréthane, các nét vẽ đều dùng loại bút lumocolor/STAEDLER
(mài được với nước) có đủ các đầu bút lớn nhỏ và gamme màu khác nhau, kể
cả vàng và bạc .. , riêng vàng lá dán trên nền là loại vàng của kỹ thuật
in danh thiệp. Có thể t́m thấy loại tranh này (một mẩu được sản xuất hàng
loạt) cở 30*30 cm sao lại tranh của Gustave Klimt, khá đẹp ở khu Olympiade
Paris 13, với giá rẽ (300FF # 40$US)
C - Kỹ Thuật 3 : Kỹ thuật sáng tạo hoàn toàn do ngẩu hứng.
Các bạn quan sát tranh mẩu số 3 sẽ thấy đây là một loại tranh không đề (như
các bài ca không tên) :
1- Dùng cọ hoặc dao vẽ (couteau à peindre) đi màu đặc (18) trên một
chất liệu (20) không thấm nước ; tấm giấy hoặc plastic này cùng cở với tấm
vóc. Đây là một bối cục h́nh ; khối được áp xuống mặt vóc và ấn nhẹ cho
màu đặc (18) dính vào tấm vóc. Khi gở tấm plastic ra khỏi tấm vóc, màu đặc
dính lại trên vóc cho một h́nh khối gần giống với bản gốc (20) nhưng có phần
linh động và tự nhiên.
2- Dùng aérographe vớI độ thoát màu trung b́nh (buse n 3) để xịt lên
tấm vóc bằng các màu sắc thuộc gamme màu đă định trước. VớI phần nền tranh
nên chọn các nhóm tương cận đă chia trên ṿng thuần sắc (Định Hướng số
10-1996). Trên tranh mẫu số 3 ; nền chính màu xanh ngă qua tím và đỏ tía.
Muốn có màu xanh da trời, hoa cà, hồng nhạt, chỉ cần pha thêm sơn trắng
với các màu nguyên thủy. Với aéroghaphe, sơn màu được pha loảng với dầu
pha (21) theo tỷ lệ 50%, thay v́ 15 đến 25%, theo bản chỉ dẩn của nhà sản
xuất ghi trên hộp.
3- Khoảng 10 phút sau sơn khô, có thể rữa dưới ṿi nước lạnh để rửa
sạch phần sơn đặc (18), sẽ thấy lộ ra phần nền trắng (22).
4- Dùng giấy nhám nước số 600 mài nhẹ trên tấm nền, có thể mài hơi nặng
tay trên vùng sơn có hai màu, giao ḥa nhau để t́m ra thêm một số màu sắc,
h́nh và nét được tạo bất ngờ. Quan sát tranh số 3 trong t́nh trạng chưa
hoàn tất.
5- Phần ḥan tất sẽ được tiếp tục trong giờ thực hành gồm có :
5.1 : VớI bố cục ngẩu hứng vừa t́m được, hăy t́m cách hoàn chỉnh bố cục
này. Bạn xoay trở tấm tranh nhỏ này theo ngược xuôi, ngang dọc ǵ cũng
thấy thuận chiều và thêm vài nét chấm phá kể như bạn vừa hoàn tất một bức
tranh thuộc trường phái trừu tượng (abstrait).
5.2 : Đến đây tranh vẫn chưa có tên gọi (không đề). Bạn có thể cho tranh
một đề tài bằng cách đặt một tấm giấy calque mờ trên tranh, dựa theo các
h́nh khối có sẳn để t́m ra các h́nh thể dạng tương tự hoặc nhân vật, thú
vật, chim, cá, hoa, lá.. Từ trừu tượng, bạn đă có thể đặt cho tranh một
tên gọi.
Dựa theo bản phác họa trên giấy calque này, bạn có thể hoàn tất bức tranh
với kỹ thuật 1.
5.3 : Sau cùng tranh được sơn phủ
một nước vernis 2K (23) bằng aérographe có đầu thoát sơn số lớn nhất (buse
n 3 = 0.5m/m đường kính) cho các loại tranh cở nhỏ và các loại hộp gổ,
b́nh, lọ sơn mài ..
Với cở tranh lớn trên 20*30 cm, nên dùng các loại mấy tạo áp xuất cao (air
compresseur) và b́nh xịt sơn có độ thoát lớn (buse cở 1,5 m/m ĐK) (24)
Sau khi đi từ 2 đến 3 nước vernis 2K, tranh sẽ bóng loáng tự nhiên, không
cần phải mài hoặc đánh bóng.
KẾT LUẬN
Trên đây tôi chỉ tŕnh bày các nét chính của kỹ thuật làm sơn mài, với sơn
hóa học để giúp các bạn có một khái niệm tổng quát.
Các bộ môn nghệ thuật tạo h́nh (Art plastique) nặng về thực hành hơn là lư
thuyết v́ vậy, tôi sẽ cố gắng tŕnh bày một cách đơn giản và dể hiểu hơn
trong phần thực hành.
Nếu các bạn có hứng thú học hỏi kỹ thuật làm sơn mài và chấp nhận tây hóa
(phần kỹ thuật) một ngành mỹ thuật cổ truyền của nước ta, xin liên lạc vớI
trung tâm NTT, để được cuốn băng video cách chỉ dẩn kỹ thuật này từ A đến
Z (25).
Chúc các bạn thành công.
CHÚ THÍCH
Định Hướng số 10-1996 "Màu sắc trong tiếng Việt"
Định Hướng số 17-1998 "Tranh lụa Việt Nam"
Trung Hoa : chuyên về chạm nổi, cẩn nổi bằng các loại đá hiếm đủ màu trên
nền sơn quang, đen, đỏ hoặc phủ vàng (b́nh phong, đồ gổ...).
Nhật Bản : Nền tranh nh́n gần c̣n thấy được sớ vải ẩn hiện dưới sơn quang
hoặc vàng lá thường chiếm 50% diện tích tranh. Nổi tiếng về tranh bộ 4, 6
tấm cở lớn. Kỹ thuật này được gọi sơn lụa (soie laquée).
Đại Hàn : Tranh được cẩn nổi xa cừ dát mỏng. Về sau thường được cho vào
khuôn (moule) và đổ nhựa Epoxy.
Việt Nam : Với kỹ thuật phủ và mài tranh (sơn mài) xa cừ được cẩn ch́m (tranh
cẩn) hoặc phối hợp chung với vỏ trứng, sơn màu tạo cho tranh mọt vẽ sống động
và sang trọng, chứng tỏ tài sáng tạo và khéo tay của nghệ nhân Việt Nam
trong lănh vực này.
Sơn quang : được biến chế từ sơn sống, có màu ở trạng thái nguyên thủy (đỏ
nâu), cũng sơn này đánh trong chậu sắt với chày sắt sẽ cho sơn đen, do xúc
tác với sulfate de fer.
Là một loại nhựa cây thuộc họ cây dái ngựa (acajou-mahogani).
Trước ở gần trường đua Phú Thọ sau dời xuống Thủ Đức, trở thành Trường Đại
Học Bách Khoa.
Sơn quang : Sơn được tiếp tục quậy trong chậu gổ, và gia thêm nhựa thông
nấu chảy.
Sơn quang được lướt rất kỹ với bông g̣n bọc vải. Ta có sơn phủ.
Noix d'acajou
Các nhà sản xuất nổi tiếng ở Âu châu gồm có Dupont và Standox Herbert.
Than xoan do gổ cây sầu đông (lilas du Japon - famille des oléacées) hoa
lốm đốm nhỏ màu tím nhạt, hương rất thơm. Than được tán thật nhỏ, rây mịn
dùng để đánh bóng tranh. Bột chu c̣n gọi là thổ chu, đất từ nham thạch nuí
lửa rây mịn.
Sơn hom : Sơn sống trộn với bột chu cho một chất trám dẽo. Về sau để có
một hổn hợp dẽo mau khô và cứng hơn, sơn sống được trộn với thạch cao
(plâtre) (CT)
Một chất trám dẽo, độ đặc loăng như kẹo mạch nha, dùng tấm nhựa mỏng cở 1
carte bleu (CB) để trải nhanh nhiều lốp trên mặt gổ hom. Loại mastic này
thường có màu xám.
Tấm vóc : là tên gọi tấm ván đă đi qua các giai đoạn hom, bó, lót (CT) để
thực hiện một tấm tranh sơn mài. Cũng như vẽ tranh lụa, bạn phải tự căng
lụa trên khung, và quét hồ trước khi vẽ.
Mastic loăng do mastic cellulosique (13) được nhà sản xuất pha thêm một số
chất loảng chóng khô. Khi xịt lên tranh có thể pha loăng thêm với diluant
cellulosique, và dùng pistolet xịt sơn, cở sơn xe hơi.
Sơn chín : sơn sống lấy từ cây xuống để lắng trong một tháng. Lốp trên
cùng là sơn nhất, lốp kế đến là sơn nh́. Sơn nhất dùng để pha chế ra sơn
phủ, sơn nh́ để pha chế ra sơn quang ; sơn phủ và sơn quang gọi là sơn
chín. Lốp dưới cùng gọi là sơn ba dùng trộn với bột chu, thạch cao để có
sơn hom. Sơn ba có thể dùng trong trạng thái tự nhiên (sơn sống)
Đa số các cửa hàng sách lớn và các hiệu bán dụng cụ về hội họa, đều có bán
hàng chục cuốn sách giải thích và chỉ dẩn về cách xử dụng aérographe.
Sơn đặc : Trong bài này, danh từ này đặc biệt dùng để chỉ một hổn hợp sơn
nước, hoặc dùng sơn nước để sơn tường nhà, hoặc gouache trong ống (tube)
được pha thêm chút muối, ḷng trắng hột gà để bảo vệcác phần cần phải giử
trắng trên tấm hom nền. Sơn đặc này sau đó dược lấy ra dể dàng dưới một
ṿi nước.
Các loại ván lót tường dùng trong ngành trang trí nội thất đă được sản xuất
từ lâu tại Pháp và nhất là Ư đă dùng một kỹ thuật tương tự ; nếu ai chịu
khó t́m ṭi cũng có thể đi đến kết quả gần giống nhau trong kỹ thuật xử
dụng sơn mài hóa hợc (MT)
Dùng một tấm plastic dày và trong suốt, bạn sẽ dể kiểm soát hơn.
Dầu pha loảng (diluant) dùng cho loại sơn mài hóa học (MT) cũng có từ
nguồn gốc polyestère với sơn bi-couche hoặc sơn auto-base. Dùng dầu pha
khác loại, sơn sẽ đóng cục không dùng được.
Nền trắng phần được che bởi sơn đặc hoặc pochoir lộ ra sau khi rửa với nước
lạnh.
Vernis 2K tức vernis 2 thành phần (composants) gồm vernis và durcisseur.
Tỷ lệ pha thông thường là 2 phần vernis + 1 phần durcisseur. Dầu pha loảng
vernis nên mua loại cùng tên hiệu nhà sản xuất.
Air compresseur có độ thoát gió tối thiểu từ 1 đến 8 bars.
Một cuốn vidéo sẽ được phát hành trong tháng 12-2001.
|