Giáo huấn công giáo về xă hội
Gia Đ́nh
I. Cơ Chế Gia Đ́nh
II. Hôn Nhân
III. Con Cái và Cha Meï
IV. Gia đ́nh, Giáo dục và Văn hoá
V. Đặc Tính Thánh Thiêng của Sự Sống Nhân Linh
VI. Nạn Phá Thai và Làm Chết Êm Dịu
VII. Án Tử H́nh
VIII. Phẩm Giá Người Nữ
I. Cơ Chế Gia Đ́nh
84. Bởi v́ Đấng Tạo Hoá đă đặt gia đ́nh làm nguồn gốc và nền tảng cho xă hội con
người, nên gia đ́nh trở thành "tế bào đầu tiên và sống động của xă hội" (Apostolicam
Actuositatem, n. 11).
Gia đ́nh có những liên hệ chặc chẽ và sống động với xă hội v́ nó làm thành nền
tảng cho xă hội và không ngừng tiếp sức cho xă hội bằng việc phục vụ sự sống :
chính giữa ḷng gia đ́nh đă sinh ra các công dân và chính trong gia đ́nh mà các
công dân ấy lần đầu tiên thực tập các nhân đức xă hội, là linh hồn cho sinh hoạt
và sự phát triển xă hội.
Như thế, v́ bản chất và ơn gọi của nó, thay v́ đóng khung trên chính ḿnh, gia đ́nh
rộng mở ra với những gia đ́nh khác và với xă hội, và chu toàn vai tṛ xă hội của
ḿnh.
(Familiaris Consortio, n. 42)
85. Cấu trúc cơ bản đầu tiên đối với "một sinh thái học nhân bản " là gia đ́nh,
trong ḷng gia đ́nh con người nhận lấy những khái niệm quyết định liên quan tới
chân lư và sự thiện, trong gia đ́nh con người học biết thế nào là yêu và được
yêu và, do đó, làm thành một nhân vị cụ thể có nghĩa ǵ. Ở đây nói tới gia đ́nh
xây dựng trên hôn nhân, nơi sự hiến thân hơ tương của người nam và người nữ tạo
ra một môi trường sống, trong đó đứa trẻ có thể sinh ra và phát huy các khả năng
của ḿnh, ư thức được phẩm gia của ḿnh và chuẩn bị đối phó với vận mạng độc nhất
và không thể thay thế của ḿnh. Ngược lại, thường xảy ra việc con người không
muốn thực hiện những điều kiện đích thực về việc sinh sản loài người, và con người
đi tới chỗ tự coi ḿnh và coi chính mạng sống ḿnh như là một tổng thể những cảm
giác để hưởng thụ chớ không như một công tŕnh phải hoàn thành. Từ đó phát sinh
sự thiếu tự do, bắt phủ nhận nhiệm vụ ràn buộc ḿnh cách vững bền với một người
khác và nhiệm vụ sinh con, hoặc là đưa tới chỗ xem con cái như một trong những "sự
" nhiều này mà người ta có thể có hay không có tuỳ theo sở thích của ḿnh, lại
c̣n cạnh tranh với những sự có thể khác. Phải xem lại gia đ́nh như là cung thánh
sự sống. Thật vậy, gia đ́ng là thánh thiêng, nó là nơi mà sự sống, hồng ân của
Thiên Chúa, có thể được tiếp nhận cách xứng hợp và được bảo vệ khỏi nhiều cuộc
tấn công nó phải chịu đựng, gia đ́nh là nơi sự sống có thể phát triển theo những
yêu sách thuộc sự lớn mạnh nhân bản đích thực. Đôi với điều người ta gọi là văn
hoá sự chết, gia đ́nh là nơi phát sinh văn hoá sự sống … (Centesimus Annus, n.
39)
86. Nhưng con người chỉ sống trong môi trường xă hội của ḿnh, nơi gia đ́nh giữ
một vai tṛ chính. Vai tṛ này có thể thái quá, tuỳ những thời gian và không
gian, khi nó được thực thi có hại cho những tự do cơ bản của nhân vị. Thường quá
thẳng nhặc và kém tổ chức, những khung cảnh xă hội trong các xứ đang phát triển
vẫn c̣n cần thiết trong một thời gian, tuy nhiên phải nới lỏng từ từ ảnh hưởng
quá đáng của nó. Nhưng gia đ́nh tự nhiên, một vợ một chồng và bền vững, như
Thiên Chúa đă ấn định và kitô giáo đă thánh hoá, phải là "nơi gặp gỡ của nhiều
thế hệ giúp nhau đạt được một sự khôn ngoan rộng lớn hơn và điều hoà các quyền
nhân vị với những yêu sách khác thuộc đời sống xă hội" (GS Anna 50-51)
(Populorum progressio, n. 36)
87. Ở trong "dân của sự sống và v́ sự sống", trách nhiệm của gia đ́nh có tính
quyết định: đóù là một trách nhiệm xuất phát từ chính bản tính của nó - là làm
nên một cộmg đồng sự sống và t́nh yêu, xây dựng trên hôn nhân - và từ sứ vụ phải
"giữ ǵn, mặc khải và thông truyền t́nh yêu" (Familiaris Consortio, n. 17).
Chính t́nh yêu của Thiên Chúa mà cha mẹ là những kẻ đuợc kêu mời hợp tác và giải
thích qua sự truyền thông sự sống và trong việc giáo dục, theo ư định của Cha
(x. GS n. 50)
(Evangelium vitae, n. 92)
88. Là hạch nhân đầu tiên của xă hội, gia đ́nh có quyền được hưởng mọi sự nâng
đỡ của Nhà Nước để hoàn thành đầy đủ sứ vụ riêng của ḿnh. Những luật pháp của
Nhà Nước như thế, phải được diễn đạt cách nào để có thể khuyến khích những điều
kiện sống tốt cho gia đ́nh, giúp gia đ́nh chu toàn những trách nhiệm riêng ḿnh.
Trước cơn cám dỗ ngày nay vẫn mănh liệt để hợp thức hoá, như điều thay thế cho
sự phối hợp hôn nhân, những h́nh thức phốùi hợp mà, do bản tính của chúng và đặc
tính tạm bợ của chúng, không thể nào biểu lộ ư nghĩa gia đ́nh cũng không bảo đảm
lợi ích của nó, th́ một trong những bổn phận đầu tiên của Nhà Nước là khuyến
khích và bảo vệ qui chế gia đ́nh đích thực, tôn trọng gương mặt tự nhiên cũng như
những quyền bẩm sinh và không thể thay thế của nó.
(Sứ điệp ngày thế giới hoà b́nh, 1994, n. 5)
II. Hôn Nhân
89. Theo ư định của Thiên Chúa, hôn nhân là nền tảng cho một cộng đoàn rộng lớn
hơn, tức là gia đ́nh, v́ chính cơ chế hôn nhân và t́nh yêu vợ chồng đều qui hướng
về việc truyền sinh và giáo dục con cái là triều thiên của cơ chế và t́nh yêu ấy
(x. GS n, 50)
(Familiaris Consortio, n. 14)
90. Theo ư định của Thiên Chúa, phái tính hướng về t́nh yêu vợ chồng. Trong hôn
nhân, ái ân trở thành dấu chỉ và bảo đảm của sự hiệp thông tinh thần. Giữa hai
tín hữu, dây liên kết hôn nhân được thánh hoá bằng bí tích.
"Nhờ khả năng t́nh dục, người nam và người nữ hiến thân cho nhau qua những hành
vi dành riêng cho vợ chồng. T́nh dục không chỉ là hành vi sinh lư, nhưng liên
can đến những điều thâm sâu nhất của nhân vị. Tính dục chỉ thực sự xứng đáng với
con người, khi nó là thành phần không thể thiếu của t́nh yêu giữa người nam và
người nữ đă cam kết hiến thân cho nhau trọn vẹn suốt đời" (Familiaris Consortio,
n. 11)
Những hành vi thực hiện sự kết hợp thân mật và thanh khiết của đôi vợ chồng đều
cao quí và chính đáng. Được thi hành cách thật sự nhân linh, những hành vi ấy
biểu hiện và khích lệ sự hiến thân cho nhau nhờ đó hai người làm cho nhau thêm
phong phú trong hoan lạc và biết ơn (GS, n. 49). Khả năng sinh dục là nguồn vui
và khoái lạc:
"Chính Đấng Sáng Tạo…. đă muốn rằng trong nhiệm vụ truyền sinh đôi vợ chồng cảm
thấy một sự vui thú và thoả măn nơi thân xác và tinh thần. V́ vậy vợ chồng chẳng
làm điều ǵ xấu xa khi t́m kiếm và tận hưởng sự khoái lạc đó. Họ đón nhận những
ǵ Đấng Sáng Tạo đă ban cho., Tuy nhiên, họ phải biết giữ tiết độ" (Piô XII,
diễn văn 29 Oct 1951).
Nhờ sự kết hợp của vợ chồng, hai mục đích của hôn nhân được thực hiện: lợi ích
của chính đôi vợ chồng và lưu truyền sự sống. Không thể tách rời hai ư nghĩa
hoặc hai giá trị này của hôn nhân mà không làm biến chất đời sống tinh thần của
vợ chồng cũng như phương hại đến lọi ích của hôn nhân và tương lai của gia đ́nh.
Như thế t́nh yêu vợ chồng đ̣i hỏi người nam và người nữ phải chung thuỷ vừa phải
sẵn sàng đón nhận con cái.
(CEC nn. 2360-2363)
91. Đấng Tạo Hoá đă thiết lập và ban những định luật riêng cho đời sống chung
thân mật và cộng đoàn t́nh yêu vợ chồng. Đời sống chung này được gầy dựng do
giao ước hôn nhân, nghĩa là sự ưng thuận cá nhân không thể rút lại. Như vậy bởi
một hanh vi nhân linh, trong đó, hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau,
nhờ sự an bài của Thiên Chúa, phát sinh một định chế vững chắc có giá trị trước
mặt xă hội nữa. V́ lợi ích của lứa đôi, của con cái và của xă hội, nên sợi dây
liên kết thánh thiện này không lệ thuộc sở thích của con người. Chính Thiên Chúa
là Đấng tác tạo hôn nhân, phú bẩm những lợi ích và mục tiêu khác nhau; những điều
ấy hết sức quan trọng đối với sự tiếp nối nhân loại, sự phát triển cá nhân và phần
roiă đời đời của mổiă thành phần trong gia đ́nh, quan trọng đối với phẩm giá, sự
vững chắc, an b́nh và thịnh vượng của chính gia đ́nh và của toàn thể xă hội loài
người. Tự bản chất, chính định chế hôn nhân và t́nh yêu lứa đôi qui hướng về sự
sinh sản và giáo dục con cái như chóp đỉnh diễm phúc của hôn nhân. Như thế, bởi
giao ước hôn nhân, người nam và người nữ "không c̣n là hai, nhưng là một xương
thịt" (Mt 19, 6), phục vụ và giúp đỡ lẫn nhau bằng sự kết hợp mật thiết trong
con người và hành động của họ, cảm nghiệm và hiểu được sự hiệp nhất với nhau mỗi
ngày đầy đủ hơn. Sự liên kết mật thiết vẫn là sự tự hiến của hai người cho nhau
cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đ̣i
hỏi kết hợp với nhau bất khả phân ly '
(Gaudium et Spes, n. 48)
92. Một sự chia sẻ nào đó quyền lănh chúa của Thiên Chúa cũng biểu lộ qua trách
nhiệm riêng biệt được phó thác cho con người đối với sự sống thật sự nhân bản.
Đó là một trách nhiệm đạt chóp đỉnh khi người nam và người nữ, trong hôn nhân,
sinh ra sự sống, như Công đồng Vatican II nhắc nhở :"Chính Thiên Chúa đă phán "
Người đàn ông ở một ḿnh không tốt" (ST2, 18) và ngay từ đầu Thiên Chúa đă dựng
nên con người có nam có nữ (Mt 19, 4), đă muốn cho phép con người tham gia đặt
biệt trong công tŕnh sáng tạo; nên Chúa đă chúc phúc người nam và người nữ:"Hăy
sinh sôi nẩy nở cho nhiều" (St 1, 28)" (GS n. 50). Khi nói tới "một sự chia sẻ
đặt biệt của người nam và người nữ vào "công tŕnh sáng tạo của Chúa, Công Đồng
muốn nhấn mạnh rằng sinh ra một đứa con là một biến cố nhân linh sâu xa và có
tính tôn giáo cao, bởi v́ việc sinh ra đó bao hàm đôi vợ chồng đă trở thành một
xương thịt" (St 2, 24), và cùng một lúc, chính Chúa, qua sự hiện diện của Người.
(Evangelium vitae, n. 43)
III. Con Cái và Cha Mẹ
93. Khi vợ chồng kết hợp sinh một con người mới, con người mói đó mang vào thế
giới với ḿnh một h́nh ảnh của Chúa và một sự giống đặc biệt với Chúa: trong
sinh học về sự sinh sản có ghi chép gia phả của nhân vị.
Khi khẳng định rằng vợ chồng, vói tư cách là cha mẹ, là những cọng sự viên của
Chúa Sáng Tạo trong việc thụ thai và sinh một hữu thể nhân linh mới, chúng ta
không chỉ quy chiếu về những luật sinh học; nói đúng hơn, chúng tôi muốn nhấn mạnh
rằng trong t́nh phụ tử và mẫu tử nhân linh, chính Chúa hiện diện theo một cách
thức khác với điều ǵ xảy ra trong bất cứ việc sinh sản nào khác "trên trái
đất". Thật vậy, chỉ từ Chúa mới có thể có "h́nh ảnh " này, sự "giống " này, là điều
riêng biệt cho hữu thể nhân linh, như điều đó xảy ra trong việc sáng tạo. Sinh
sản là sự tiếp tục sáng tạo.
(Gratissimam Sane, n. 9)
94. Khi biểu lộ t́nh cha của Thiên Chúa và sống lại t́nh cha ấy trên mặt đất này
(Ep 3, 15), người nam được mời gọi đứng ra bảo đảm sự phát triển thống nhất của
mọi thành phần trong gia đ́nh. Để chu toàn trách vụ này, ông cần phải quảng đại
lănh lấy trách nhiệm đối với sự sống được thai nghén trong ḷng người mẹ, canà
phải chú tâm chia sẻ cố gắng giáo dục con cái với vợ ḿnh (x. GS, n. 52), công
việc ấy sẽ không bao giờ làm chia rẽ gia đ́nh, nhưng làm cho gia đ́nh được vững
mạnh trong sự hiệp nhất và ổn định, nên một lời chứng về đời sống kitô hữu trưởng
thành để hướng dẫn con cái vào trong kinh nghiệm sống động về Chúa Kitô và về
Hộiä Thánh một cách hữu hiệu hơn.
(Familiaris Consortio, n. 25)
95. Chắc chắn rằng sự b́nh đẳng về phẩm giá và trách nhiệm giữa người nam và người
nữ đủ biện minh cho người nữ dấn thân vào các vai tṛ xă hội. Đàng khác, muốn
thật sự đề cao phẩm giá phụ nữ, th́ cũng cần phải nh́n nhận rơ ràng vai tṛ làm
mẹ và lo việc gia đ́nh của phụ nữ có giá trị so với tất cả những vai tṛ công
cộng và tất cả những chức nghiệp khác. Sau nữa cũng c̣n cần phải làm sao để tất
cả những vai tṛ và những chức nghiệp ấy đuợc liên kết chặc chẽ với nhau, nếu người
ta muốn cho sự phát triển xă hội và văn hoá được nhân bản thật sự và trọn vẹn.
(Familiaris Consortio, n. 23)
IV. Gia đ́nh, Giáo dục và Văn hoá
96. Bổàn phận giáo dục bắt nguồn từ trong ơn gọi đầu tiên của đôi bạn là dự phần
công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa: khi sinh ra một ngôi vị mới trong t́nh yêu và
do t́nh yêu, một ngôi vị mang sẵơn trong ḿnh ơn gọi phải lớn lên và phát triển,
bậc cha mẹ cũng từ đó mà lănh nhận bổn phận phải giúp đỡ hữu hiệu cho ngôi vị ấy
được sống một đời sống nhân bản trọn vẹn. Như Công đồng Vatican II đă nhắc lại:"V́
là người truyền sự sống cho con cái, nên cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng
phải giáo dục chúng, và v́ thế, họ phải đươc coi là những nhà giáo đầu tiên và
chính yếu của chúng. Vai tṛ giáo dục này quan trọng đến nổi nếu thiếu sót sẽ
khó ḷng bổ khuyết dược. Thật vậy chính cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia d8́nh một
bầu khí thấm nhuần t́nh yêu cũng như ḷng thành kính đối với Thiên Chúa va tha
nhân, để giúp cho việc giáo dục toàn diện của con cái họ trong đời sống cá nhân
và xă hội được dễ dàng. Do đó gia đ́nh là trường học đầu tiên dạy các đức tính
xă hội mà không một đoàn thể nào khác có thể vượt qua được." (Gravissimum
Educationis, n. 3). V́ cha mẹ đă sinh ra con cái nên quyền và bổn phận giáo dục
là một điều nằm trong yếu tính của họ; v́ tương quan giữa họ với con cái là một
t́nh yêu thương không thể thay thế được, nên quyền và bổn phận giáo dục của họ
có tính cách độc đáo và cơ bản so với bổn phận giáo dục của những người khác, đó
cũng là một cái ǵ không thể thay thế và không thể chuyển nhượng được, cho nên
cũng không thể khoán trắng cho người khác hay bị người khác cưỡng đoạt.
(Familiaris Consortio, n. 36)
97. Cũng giống như xă hội dân sự, gia đ́nh, Chúng tôi đă nói trên, là một xă hội
thật sự, có uy quyền riêng, tức là uy quyền phụ tử. Cho nên, điều măi chắc chắn
là trong phạm vi do mục đích trực tiếp của nó quyết định, gia đ́nh hưởng được
những quyền ít ra băng các quyền của xă hội dân sự, đối với sự lựa chọn và sử
dụng tất cả những ǵ cần cho sự bảo toàn thân nó và cho việc thực thi một sự tự
trị chính đáng. Ít ra bằng, Chúng Tôi nói, bởi v́ xă hội gia đ́nh so với xă hội
dân sự chiếm một sự ưu tiên logic và một sự ưu tiên thực tế, cần cho các quyền
lợi và các bổn phận của nó. Nếu các công dân, nếu các gia đ́nh đi vào trong xă
hội nhân linh mà gặp ở đó, thay v́ một sự nâng đỡ, lại là một sự ngân trở, thay
v́ một cuộc bảo vệ, lại là sự suy giảm các quyền của họ, th́ xă hội đó đáng quăng
đi hơn là t́m kiếm. (Rerum Novarum, n. 13)
98. Vai tṛ xă hội của gia đ́nh chắc chắn không thể giới hạn vào việc truyền
sinh và giáo dục, cho dầu hai công việc này là h́nh thức đầu tiên không thể thay
thế được để diễn tả vai tṛ ấy. Gia đ́nh dầu biệt lập hay kết thành hiệp hội, đều
có thể và phải dấn thân cho nhiều công cuộc phục vụ xă hội, cách riêng là lo cho
những người nghèo, và trong mọi trường hợp lo cho những người và những t́nh cảnh
mà các tổ chức từ thiện và cứu tế công cộng không thể lo hết được. Sự đóng góp
xă hội của gia đ́nh có cái độc đáo riêng mà càng ngày người ta càng thấy rơ và
càng phải tích cực cổ vơ nhiều hơn, nhất là khi con cái bắt đầu lớn dần, để làm
cho tất cả mọi thành phần trong gia đ́nh đều tham gia hết sức có thể.
(Familiaris Consortio, n. 44)
99. Đây là một sai lầm nghiêm trọng và tai hại khi muốn quyền bính dân sự tự
tiện thâm nhập cho tới cung thánh gia đ́nh. Chắc chắn, nếu có một gia đ́nh lâm
vào cảnh khốn đốn về vật chất và v́ thiếu các nguồn lợi, gia đ́nh ấy không thể
nào tự ḿnh thoát ra khỏi được, th́ điều chính đáng là, trong những lúc tận số
như vậy, công quyền phải ra tay giúp đỡ gia đ́nh đó bởi v́ mỗi gia đ́nh là một
thành phần xă hội. Cũng vậy, nếu một gia đ́nh có phần nào là kịch trường diễn xuất
những vi phạm nặng nề các quyền lẫn nhau, th́ buộc công quyền tái lập ở đó quyền
của mỗi người. Làm như vậy không phải giẫm chân trên các quyền người công dân,
nhưng bảo đảm cho họ một sự bênh vực và một sự bảo vệ theo phép công bằng. Nhưng,
tất cả những ai nắm giữ công quyền phải dừng lại tại đây; thiên nhiên cấm họ vượt
quá những giới hạn này.
(Rerum Novarum, n. 14)
100. Bên trong "dân của sự sống và v́ sự sống", trách nhiệm của gia đ́nh là quyết
định ; đó là một trách nhiệm xuất phát từ chính bản tính của nó - bản tính đó là
làm nên một cộng đồng sự sống và t́nh yêu, xây dựng trên hôn nhân - và từ sứ vụ
của nó là "giữ ǵn, mặc khải và truyền thông t́nh yêu" (Familiaris Consortio, n.
17). Đây chính xác là chính t́nh yêu của Chúa, mà cha mẹ là những người cộng tác
và giải thích trong việc truyền thông sự sống và trong việc giáo dục, theo chương
tŕnh của Cha (x. GS, n. 50). Như vậy đó là một t́nh yêu cho nhưng không, đón
nhận, hiến thân: trong gia đ́nh, mỗi người được nh́n nhận, tôn trọng và kính nể
bởi v́ họ là một nhân vị, và, nếu có ai có những nhu cầu hơn, th́ sự chú ư và
những chăm sóc đối với họ phải nhiều hơn.
Gia đ́nh đóng một vai tṛ bao lâu các thành phần của ḿnh hiện hữu, từ lúc sinh
ra cho đến chết. Gia đ́nh thực sự là "cung thánh của sự sống, nơi mà sự sống,
hồng ân Thiên Chúa, có thể được đón nhận và bảo vệ cách xứng hợp khỏi nhiều cuộc
tấn công nó phải đương đầu, gia đ́nh là nơi sự sống có thể phát triển theo các
yêu sách của sự lớn lên nhân bản đích thực" (CA, n. 39). Do đó vai tṛ của gia
đ́nh có tính quyết định và không thể thay thế để xây dựng văn hoá sự sống.
V́ là Giáo Hội tại gia, gia đ́nh có ơn gọi loan truyền, cử hành và phục vụ Tin
Mừng sự sống. Đó là một sứ vụ liên can trước hết đến các đôi vợ chồng, được kêu
gọi lưu truyền sự sống, luôn ư thức về ư nghĩa của sự sinh sản, bởi sự sống là
một biến cố đặc biệt chúng tỏ sự sống nhân linh là một hồng ân đă được nhân lănh
th́ tới phiên nó cũng phải được ban tặng. Trong việc tạo ra một sự sống mới, cha
mẹ hiểu rằng đứa con, "nếu là hoa quả của việc họ tự dâng hiến cho nhau t́nh
yêu, về phần nó, trở nên một hồng ân cho cả hai: một hồng ân phát sinh từ một
hồng ân" (Gioan Phaolô II, Diễn văn tại Hội Thảo của các Giám Mục Âu Châu, 1989,
n. 5).
(Evangelium Vitae, n. 92)
101. Tin Mừng sự sống nằm trong trung tâm sứ điệp của Chúa Giêsu. Được Giáo Hội
đón nhận hằng ngày với t́nh yêu, Tin Mừng ấy phải được rao giảng với ḷng can
đảm và trung thành như là một Tin Mừng cho con người của mọi thời đại và mọi văn
hoá.
Thời rạng đông của ơn cứu chuộc, một con trẻ sinh ra, sự sinh ra đó được loan
báo như một Tin Mừng: "Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là
Tin Mừng cho toàn dân: hôm nay một Đấng Cứu độ đă sinh ra cho anh em trong thành
vua Đavid" (Lc 2, 10-11). Đă hẳn, cuộc hạ sinh của Đấng Cứu Thế đă giải ra "niềm
vui lớn" này, ngày Noel, ư nghĩa đầy đủ của mọi sự sinh ra nhân linh cũng được
mặc khải như vậy, và như thế niềm vui cứu thế xuất hiện như là nền tảng và sự
viên măn của niềm vui đi theo sự sinh ra của mọi đứa con (Ga 16, 21).
Chúa Giêsu biểu lộ điều ở tận trung tâm sứ vụ cứu chuộc của Người khi nói: "Phần
tôi, tôi đến, để cho chiên được sống và sống dồi dào" (Ga 10, 10). Trên thực tế,
Chúa muốn nói về sự sống "mới" và "muôn đời", đó là sự hiệp thông với Chúa Cha,
mọi người được kêu gọi sống sự hiệp thông đó nhờ ân sủng trong Chúa Con, bởi tác
động của Chúa Thánh Thần, Đấng Thánh Hoá. Chính xác trong sự sống này mà các
phương diện và những giai đoạn sống của con người, tất cả đều đạt được sự viên
măn của chúng.
(Evangelium Vitae, n. 1)
V. Đặc Tính Thánh Thiêng của Sự Sống Nhân Linh
102. Sự sống con người đến từ Thiên Chúa, đó là một hồng ân của Chúa, là h́nh
ảnh và là dấu ấn, là sự chia sẻ hơi thở sống động của Người. Như vậy Thiên Chúa
là Chúa duy nhất của sự sống này: con người không thể định đoạt nó. Chính Chúa
đă lặp lại với ông Noê sau đại hồng thuỷ: "Nhưng Ta sẽ đ̣i mỗi người phải đền nợ
máu các ngươi, tức là mạng sống của các ngươi: Ta sẽ đ̣i mỗi người phải đền mạng
sống của người anh em ḿnh" (St 9, 5). Và bản văn Kinh Thánh đểå ư nhấn mạnh
rằng đặc tính thánh thiêng của sự sống có nền tảng trong Chúa và trong hành động
sáng tạo của Người: "V́ Thiên Chúa đă làm ra con người theo h́nh ảnh Thiên Chúa"
(St 9, 6).
Evangelium Vitae, n. 39)
103. "Sự sống nhân linh là thánh thiêng bởi v́, ngay từ đầu, nó bao hàm "hành
động sáng tạo của Chúa" và vẫn luôn giữ một sự quan hệ đặc biệt với Đấng Tạïo
Hoá, cùng đích duy nhất của ḿnh. Chỉ một ḿnh Chúa là Chủ sự sống từ lúc nó
khởi đầu cho đến lúc kết thúc; không ai, trong bất cứ hoàn cảnh nào, có thể đ̣i
cho ḿnh quyền được trực tiếp huỷ diệt một hữu thể nhân bản vô tội". Bằng những
lời nói đó, Huấn thị Donum Vitae (n. 7) tŕnh bày nội dung trọng tâm mặc khải
của Chúa về đặc tính thánh thiêng và về sự bất khả xâm phạm của sự sống con
người.
(Evangelium Vitae, n. 53)
104. Tính bất khả xâm phạm của ngôi vị phản ánh tính tuyệt đối bất khả xâm phạm
của chính Thiên Chúa, được biểu lộ trước tiên và căn bản nơi bản tính bất khả
xâm phạm cuộc sống con người. Dĩ nhiên, thật chính đáng khi nói đến những quyền
của con người, chẳng hạn, quyền được khoẻ mạnh, quyền cư trú, quyền được lao
động, có gia đ́nh, được giáo dục … nhưng thật sai lầm, - ngày nay người ta
thường lẫn lộn như thế - khi nói đến quyền con người mà lại không cương quyết
bảo vệ quyền được sống như là quyền đầu tiên, nguồn gốc và là điều kiện của các
quyền khác.
Giáo Hội không bao giờ chấp nhận những vi phạm quyền sống là quyền của mọi
người, quyền này đă và đang bị xúc phạm do tư nhân hay do chính các nhà cầm
quyền. Chủ thể của quyền này là con người, trong suốt quá tŕnh phát triển của
nó, từ khi h́nh thành trong bào thai cho đến khi chết theo tự nhiên, và trong
mọi t́nh trạng, dù đau yếu hay mạnh khoẻ, què quặt hay b́nh thường, giàu có hay
nghèo khổ.
(Christifideles Laici, n. 38)
105. Khi ưu ái và quảng đại đón nhận sự sống, nhất là khi sự sống đó yếu ớt và
bịnh tật, Giáo Hội đang sống một giai đoạn trọng đại trong sứ vụ của ḿnh, c̣n
cần thiết hơn nữa khi nền "văn hoá sự chết" đang lan tràn. Thật vậy Giáo Hội tin
tưởng chắc chắn rằng sự sống con người, dù có yếu ớt hay đầy đau khổ, vẫn luôn
luôn là một hồng ân của Thiên Chúa tốt lành. Chống lại sự bi quan và ích kỷ đang
che mờ thế giới, Giáo Hội ủng hộ sự sống, và trong mỗi sự sống con người Giáo
Hội biết khám phá nét cao đẹp của tiếng "Vâng", của tiếng "Amen" là Đức Kitô (x.
2 Cr 1, 19; Kh 3, 14). Đối nghịch với tiếng "không" đang tràn ngập và làm cho
thế giới ảm đạm, Giáo Hội đưa ra tiếng "Vâng" sống động, bênh vực cho con người
và thế giới chống lại những kẻ đang đe doạ và làm tổn thương đến cuộc sống
(Familiaris Consortio, n. 30). Người giáo dân do ơn gọi hay do nghề nghiệp có
trách nhiệm trực tiếp hơn phải đón nhận sự sống, cụ thể hoá và hữu hiệu hoá
tiếng "Vâng" của Giáo Hội dối với sự sống con người.
(Christifideles Laici, n. 38)
106. Lư trí chứng thực rằng có thể có những đối tượng của hành vi nhân linh mà
xem ra "không thể phối trí để hướng về" Thiên Chúa, bởi vi tự căn rễ chúng mâu
thuẫn với sự thiện của con người xét như là được tạo dựng theo h́nh ảnh Thiên
Chúa. Đó chính là những hành vi mà, trong truyền thống luân lư của giáo Hội,
người ta gọi là "xấu xa tự bên trong" (intrinsece malum): chúng là xấu luôn luôn
và do tự nơi chúng, nghĩa là do chính đối tượng của chúng, không tuỳ thuộc vào
những ư hướng về sau của người hành động và của hoàn cảnh. Do bởi sự kiện này,
dầu không hề phủ nhận tầm ảnh hưởng của hoàn cảnh và nhất là do ư hướng, Giáo
Hội luôn dạy rằng "có những hành vi luôn luôn là không được phép, do chính chúng
và tự nơi chúng, chớ không tuỳ thuộc hoàn cảnh, mà là không được phép một cách
nghiêm trọng, do bởi đối tượng của chúng" (Reconciliatio et Paenitentia, n. 17).
Trong khuôn khổ của sự tôn trọng nhân vị, Công Đồng Vatican II đă khai triển một
cách rộng răi về vấn đề các hành vi này: "Tất cả những ǵ đối chọi lại với chính
sự sống, ví dụ như mọi hành vi giết người, diệt chủng, phá thai, giết chết êm
dịu và kể cả tự tử có suy tính; tất cả những ǵ xâm phạm đến sự toàn vẹn của
ngôi vị con người, như cắt bỏ một phần cơ thể, tra tấn thể lư hoặc tinh thần,
cưỡng bức tâm lư; tất cả những ǵ xúc phạm đến phẩm giá của con người, như những
điều kiện sống thấp kém, giam cầm vô cớ, đày ải, nô lệ, măi dâm, buôn bán phụ nữ
và trẻ em; hoặc c̣n như những điều kiện lao động tồi tệ hạ thấp các công nhân
xuống ngang hàng với công cụ đổi chác, không coi trọng nhân cách tự do và hữu
trách của họ: tất cả những việc thực hành ấy và những việc thực hành tương tự
khác hiểu theo nghĩa loại suy đều thật sự là vô luân. Chẳng những làm băng hoại
nền văn minh, những thực hành ấy c̣n làm mất danh giá của những kẻ chủ động hơn
là của những người nhận chịu, chúng lăng mạ một cách trầm trọng phẩm vị của Tạo
Hoá" (GS n. 27).
(Veritatis Splendor, n. 80)
VI. Nạn Phá Thai và Làm Chết Êm Dịu
107. Sự sống nhân linh nằm trong hoàn cảnh hết sức bất ổn khi nó đi vào trong
thế giới và khi nó ra ngoài thời gian để đi vào cơi đời đời. Lời Chúa không
thiếu những sự mời mọc phải chăm sóc và tôn trọng sự sống, nhất là đối với sự
sống mang bệnh hoạn và già yếu. Nếu không có những sự mời trực tiếp và minh
nhiên phải bảo toàn sự sống từ đầu, cách riêng sự sống chưa sinh ra, cũng như sự
sống sắp chấm dứt, th́ điều đó được giải thích dễ dàng v́ cả đến khả năng xúc
phạm, tấn công, hay, tệ hơn, phủ định sự sống trong những hoàn cảnh thể ấy, vẫn
là xa lạ đối với những viễn tượng tôn giáo và văn hoá của dân Chúa'
(Evangelium Vitae, n. 44).
108. "Không có ǵ cũng không có ai có thể cho phép giết một hữu thể nhân linh vô
tội, thai nhi hay phôi thai, trẻ em hay người lớn, người già, người bịnh bất trị
hay đang hấp hối. Không ai có thể van nài cử chỉ giết người này cho ḿnh hay cho
một kẻ khác được giao phó cho ḿnh chăm sóc, cũng không nên nghĩ tới điều đó,
cách minh nhiên hay không. Không một quyền bính nào có thể áp đặt cách hợp pháp
việc giết người hay ban phép đi nữa.
(Jura et Bona, n. 2)
109. Do đó, với thẩm quyền Chúa Kitô ban cho Phêrô và những kẻ Kế Vị ngài, trong
sự hiệp thông với tất cả các Giám Mục Giáo Hội Công Giáo, tôi khẳng định rằng
giết trực tiếp và hữu ư một hữu thể nhân linh vô tội, là việc làm phi luân luôn
luôn trầm trọng. Giáo lư này, dựa trên luật pháp không viết ra, nhưng tất cả mọi
người khám phá ra nó trong tâm ḷng ḿnh dưới ánh sáng của lư trí (x. Rm 2,
14-15), giáo lư đó được xác nhận lại bởi Kinh Thánh, được truyền thông qua
Truyền Thống Giáo Hội và được răn dạy bởi Huấn Giáo thông thường và phổ quát.
(Evangelium Vitae, n. 57)
110. Tôi muốn gởi một tư tưởng cách riêng đến các chị em, những phụ nữ phải cậy
đến sự phá thai. Giáo Hội biết có nhiều nguyên nhân đă có thể đè nặng trên quyết
định của các chị em, và Giáo Hội không nghi ngờ rằng, trong nhiều trường hợp,
quyết định đó gây nên đau đớn và có khi bi đát. Có lẽ vết thương trong linh hồn
các chị em chưa lành lặn. Trên thực tế, điều đă xảy ra đă là và vẫn là bất chính
cách sâu xa. Nhưng chị em đừng có ngă ḷng và đừng mất hy vọng. Chị em nên hiểu
biết điều ǵ đă xảy ra và giải thích điều đó theo chân lư th́ hơn. Nếu chị em
chưa làm, th́ chị em nên lấy ḷng khiêm nhượng và tin cậy mà sám hối: Người Cha
giàu ḷng thương xót đợi chờ chị em để tha thứ chị em và ban b́nh an cho chị em
trong bí tích Hoà Giải. Chị em sẽ thấy rằng không ǵ bị mất mát và chị em cũng
có thể xin lỗi đứa con của chị em từ nay sống trong Chúa. Với sự trợ giúp của
những lời khuyên bảo và của những bạn bè kinh nghiệm hiện diện, chị em có thể là
thành viên của những người bênh vực xác tín nhất về quyền của mọi người đối với
sự sống, bằng chứng từ đau đớn của chị em. Qua sự cam kết của chị em pḥ sự
sống, hoặc bằng cách chấp nhận sinh ra những đứa con khác, hoặc bằng cách tiếp
nhận và chăm sóc những ai đang cần kíp có người ở gần họ, chị em sẽ cố gắng
thiết lập một cách thức mới mẻ giúp quí trọng sự sống con người.
(Evangelium Vitae, n. 99)
VII. Án Tử H́nh
111. "Tự vệ chính đáng không những là một quyền, nhưng c̣n là một trọng trách
đối với người có trách nhiệm bảo vệ mạng sống kẻ khác. Việc bảo vệ công ích đ̣i
phải đặt kẻ xâm phạm bất chính vào t́nh trạng không thể tác hại. V́ lư do này,
những nhà chức trách hợp pháp có quyền sử dụng cả đến vũ khí để ngăn chậën những
kẻ xâm phạm đến cộng đồng dân sự được uỷ thác cho ḿnh" (Saint Thomas d' Aquin,
STh, II-II, 64, 7).
Bổn phận bảo vệ ích chung đ̣i buộc Nhà Nước phải nỗ lực ngăn chận các vi phạm về
nhân quyền và về những quy tắc cơ bản cho cuộc sống chung của công dân khỏi lan
tràn, đáp ứng bổn phận bảo vệ ích chung đ̣i hỏi. Nhà hữu trách hợp pháp có quyền
và bổn phận đề ra h́nh phạt cân xứng với tội phạm. Mục đích đầu tiên của h́nh
phạt là đền bù lại những thiệt hại do lỗi lầm gây ra. Nếu phạm nhân tự nguyện
chấp nhận th́ h́nh phạt có giá trị đền tội. Ngoài việc bảo vệ trật tự công cộng
và an ninh cho mọi người, h́nh phạt c̣n có mục đích chữa trị: trong mức độ có
thể được, h́nh phạt phải góp phần cải hoá phạm nhân
(CEC nn 2265-2266)
112. Trong viễn ảnh này, cũng phải đặt ra vấn đề án tử, đối với án tử người ta
ghi nhận, trong Giáo Hội cũng như trong xă hội dân sự, một khuynh hướng ngày
càng tăng là phải áp dụng án này rất hạn chế, có khi đ̣i phải bỏ hẳn. Phải đặt
vấn đề này trở lại trong khuôn khổ một bản án h́nh sự luôn luôn xứng hơn với
phẩm giá con người và như vậy, xét cho cùng, hợp với ư định của Chúa đối với con
người và xă hội. Trên thực tế, h́nh phạt xă hội tuyên phạt "phải sinh hiệu quả
trước tiên là đền bù thiệt hại do tội mang vào" (CEC, n. 2266).
Những công quyền phải mạnh tay trước sự vi phạm các quyền nhân vị và xă hội,
bằng cách bắt người có tội phải đền bù tương xứng vơiù tội, điều kiện để được
nhận lại cho hưởng quyền tự do. Theo chiều hướng này, quyền bính cũng đạt được
chủ đích là bảo vệ trật tự công cộng và sự an ninh cho nhân vị, "c̣n mang lại
cho kẻ tội phạm một kích thích và một sự giúp đỡ để sửa ḿnh và cải hoá" (CEC,
n. 2266).
Chính v́ để đạt được tất cả những cứu cánh này, điều rơ ràng là mức độ và tính
chấùt h́nh phạt phải được lượng giá và quyết định kỹ càng, và không nên đưa tới
biện pháp tột cùng là tiểu trừ tội phạm, nếu không phải là gặp trường hợp cần
thiết tuyệt đối, khi việc bảo vệ xă hội không thể cho phép làm khác hơn. Nhưng,
ngày nay, v́ chế độ h́nh sự được tổ chức luôn luôn hiệu nghiệm hơn, nên những
trường hợp này khá hiếm, nếu không phải là không hiện hữu trên thực tế.
(Evangelium Vitae, n. 56)
113. Giáo huấn truyền thống của Hội Thánh không loại trừ án tử h́nh, khi đă xác
minh đầy đủ căn tính và trách nhiệm của phạm nhân, nếu đây là biện pháp khả thi
duy nhất để bảo vệ hữu hiệu mạng sống con người khỏi bị xâm phạm bất chính. Tuy
nhiên, nếu các phương tiện nhân đạo hơn cũng đủ để bảo vệ an ninh con người khỏi
bị xâm phạm, nhà cầm quyền phải dùng những phương tiện này, v́ đáp ứng hơn với
những hoàn cảnh cụ thể của công ích và phù hợp hơn với phẩm giá con người. Thực
ra, ngày nay, v́ Nhà Nước có nhiều cách để chế ngự hữu hiệu tội ác, làm cho kẻ
đă phạm tội không c̣n khả năng tác hại, không dứt khoát tước đoạt khả năng hối
cải của họ, nên những trường hợp tuyệt đối phải khử trừ phạm nhân "từ nay khá
hoạ hiếm, nếu không muốn nói là thực tế không c̣n nữa".
(CEC, n. 2267)
VIII. Phẩm Giá Người Nữ
114. Chắc chắn c̣n nhiều việc phải làm để cho hoàn cảnh của người nữ và của
người mẹ không sinh ra một kỳ thị nào, Điều khẩn cấp là phải đạt cho được ở khắp
nơi sự b́nh đẳng hữu hiệu các quyền của nhân vị và do đó, sự đồng đều mức lương
cho một việc làm ngang nhau, việc bảo vệ các bà mẹ lao động, một sự thăng tiến
công bằng trong nghề, sự b́nh đẳng vợ chồng trong quyền gia đ́nh, việc công nhận
tất cả những ǵ liên hệ với các quyền và các bổn phận của người công dân trong
một chế độ dân chủ. Đó là một hành vi công bằng, mà cũng là cần thiết. Trong
chính sách cho tương lai, người nữ sẽ luôn luôn dính líu trong các vấn đề trầm
trọng đang bàn căi ngày nay; thời gian rảnh rỗi, bản chất của sự sống, những
cuộc di dân, những dịch vụ xă hội, sự làm chết êm dịu, ma tuư, sức khoẻ và những
chăm sóc, sinh thái học, v.v... trong tất cả những lănh vực này, sự hiện diện xă
hội đầy nghị lực hơn của người nữ tỏ ra là quí giá, v́ sự hiện diện đó góp phần
biểu lộ những mâu thuẫn của một xă hội tổ chức chỉ theo những tiêu chuẩn của
hiệu lực và sản xuất, mà c̣n bắt phải tái xác định những hệ thống, có lợi cho
những diễn tiến của sự nhân đạo hoá, đặc điểm của "nền văn minh t́nh yêu".
(Lettre aux femmes, n. 4)
115. Một phần của cử chỉ anh hùng này là chứng từ thinh lặng, nhưng phong phú và
hùng biện biết bao của "tất cả những người mẹ can đảm tự hiến ḿnh hoàn toàn cho
gia đ́nh ḿnh, những người mẹ chịu đau đớn khi sinh con, rồi sau đó sẵn sàng
chịu đựng tất cả những mệt nhọc, đương đầu với tất cả những hy sinh, để truyền
thông cho chúng những ǵ là tuyệt hảo nơi họ" (Gioan Phaolô II, Bài giảng phong
thánh, 1994). Để hoàn thành sứ vụ ḿnh, "các người mẹ anh hùng này không luôn
gặp được một sự nâng đỡ nơi những người xung quanh. Ngược lại, những kiểu văn
minh, thường được các phương tiện truyền thông xă hội cổ động và phổ biến, không
yểm trợ t́nh mẫu tử. Nhân danh nền phát triển và tính hợp thời, người ta tŕnh
bày như từ nay đă lỗi thời, những giá trị của ḷng trung tín, của đức khiết tịnh
và hy sinh, những đức tính mà một số người vợ và người mẹ Kitô giáo đă làm vẻ
vang và c̣n tiếp tục làm vẻ vang … Hỡi các người mẹ can đảm, chúng tôi cám ơn
chị em, v́ t́nh yêu không thể nói được của chị em! Chúng tôi cám ơn chị em v́
chị em đặt niềm tin dũng cảm vào Chúa và vào t́nh yêu của Người. Chúng tôi cám
ơn chị em v́ sự hy sinh cuộc đời của chị em … Trong mầu nhiệm Phục Sinh, Chúa
Kitô trả lại chị em ân huệ mà chị em đă làm. Thật vậy Chúa Kitô có quyền phép
trả lại chị em mạng sống mà chị em đă mang đến cho Người làm của lễ" (Gioan
Phaolô II, Bài giảng phong thánh, 1994).
(Evangelium Vitae, n. 86)
116. "Thiên Chúa sáng tạo con người theo h́nh ảnh ḿnh, Thiên Chúa sáng tạo con
người theo h́nh ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ" (St
1, 27). Đoạn văn vắn tắt này chứa đựng những chân lư cơ bản về nhân chủng học:
con người là chóp đỉnh của tất cả trật tự sáng tạo trong thế giới hữu h́nh; loài
người, khởi sự chính lúc người nam và người nữ được kêu mời hiện hữu, kết thúc
tất cả công tŕnh sáng tạo; cả hai là những hữu thể nhân linh. Người nam và
người nữ cùng một cấp bậc b́nh đẳng, cả hai được tạo dựng nên giống h́nh ảnh
Thiên Chúa. H́nh ảnh này, giống h́nh ảnh Chúa, thiết yếu đối với hữu thể nhân
linh, được người nam và người nữ, trong tư cách là cha là mẹ, truyền thông cho
con cái: "hăy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất"
(St 1, 28). Đấng Tạo hoá giao phó quyền"thống trị mặt đất" cho loài người, cho
tất cả mọi nhân vị, cho tất cả mọi người nam và người nữ, là những kẻ múc lấy
phẩm giá và ơn gọi ḿnh trong "nguồn gốc" chung của họ.
(Mulieris Dignitatem, n. 6)
117. Muốn biến đổi nền văn hoá có lợi cho sự sống, th́ ư tưởng và hành động của
các người nữ đóng một vai tṛ độc đáo và chắc chắn quyết định: họ có trách
nhiệâm cổ vơ một "chủ nghĩa nữ quyền mới", chủ nghĩa này không ngă dưới sức cám
dỗ đi theo những kiểu cách nam giới, nhưng biết nh́n nhận và diễn tả thiên tài
nữ giới trong tất cả những biểu lộ của sự sống trong xă hội, cố gắng vượt qua
tất cả mọi h́nh thức kỳ thị, bạo loạn và khai thác. Lấy lại sứ điệp cuối cùng
của Công Đồng Vatican II, tôi cũng gởi tới các người nữ lờøi kêu gọi khẩn thiết
này: "Hăy giao hoà con người với sự sống" (Sứ điệp cuối cùng Công Đồng (1965)
gởi cho phụ nữ). Các chị em phụ nữ được kêu gọi chứng minh cho ư nghĩa của t́nh
yêu đích thực, của sự hiến ḿnh và tiếp nhận kẻ khác được thực hiện cách riêng
biệt trong quan hệ vợ chồng, nhưng cũng phải linh hoạt tất cả những tương quan
liên vị khác nữa. Kinh nghiệm của t́nh mẫu tử làm cho chị em ư thức sâu sắc đối
với nhân vị của kẻ khác và đồng thời trao cho chị em một trách nhiệm đặc biệt:
"T́nh mẫu tử bao hàm một sự hiệp thông đặc biệt với mầu nhiệm sự sống đang chín
muồi trong dạ người nữ … Loại tiếp xúc duy nhất này với hữu thể nhân linh mới
đang mang thai, tới phiên nó, tạo ra một thái độ đối với con người - không những
đối với đứa con riêng ḿnh nhưng đối với con người nói chung - điều đó đánh dấu
sâu xa tất cả nhân tính người nữ" (Mulieris Dignitatem, n. 18). Thật vậy, người
mẹ đón rước và mang trong ḿnh một người khác, bà cho phép nó lớn lên trong ḷng
bà, bà cho nó một chỗ dành riêng cho nó nhưng vẫn tôn trọng sự khác biệt của nó.
Như vậy, người nữ cảm thấy và dạy rằng những tương quan nhân bản là đích thực,
nếu chúng mở ra đón nhận nhân vị của kẻ khác, nhân vị được nh́n nhận và yêu
thương v́ phẩm giá phát sinh từ sự kiện làm một nhân vị, chớ không phải do những
yếu tố khác như sự hữu dụng, sức mạnh, lư trí, vẻ đẹp, sức khoẻ. Đó là sự đóng
góp cơ bản mà Giáo Hội và nhân loại chờ đợi ở người nữ. Đó là điều tiên quyết
cần thiết cho việc thay đổi văn hoá đích thực này.
( Evangelium Vitae, n. 99)
Lm Phêrô Nguyễn Quang Sách chuyển ngữ
|