Cách xưng hô trong xă hội Việt

 

Hoàng Đức Phương
Paris, Pháp

 

Hôm nay chúng tôi xin hân hạnh được tŕnh bày cùng quư vị cách xưng hô độc đáo trong xă hội Việt mà người ta thường nói là phức-tạp; rườm-rà chứ không đơn giản như các dân tộc khác.
Nhưng, đó lại chính là đóa hoa đáng để chúng ta hănh diện với đời. Chỉ v́ không biết rơ ư nghĩa cùng cội nguồn của cách xưng hô này từ đâu mà ra nên ta tưởng là nhiêu khê. Trong thực tế th́ đây lại là sự tế-nhị và tôn kính lẫn nhau trong cách giao-tế của con người Việt mà không một dân tộc nào có cả.
         Bây giờ tôi xin tŕnh bày ư niệm về sự tôn kính lẫn nhau trong cách xưng hô độc đáo này, mà thế giới không dân tộc nào có cả.
          Khi không biết tại sao lại xưng hô như vậy th́ thấy ngượng-ngùng, e-dè v́ sợ vô lễ; nhưng khi đă biết rồi th́ lại thấy hănh diện về nếp sống tâm linh của dân Việt, sao lại tế nhị như vậy.
 
Cách xưng hô trong gia đ́nh, theo vai-vế
 
      Xưng là tự cho ḿnh một chỗ đứng trong đại gia đ́nh (chứ không phải gia tộc ).
     C̣n Hô là cho người đối thoại một chỗ đứng trong cùng đại gia đ́nh đó.
Xưng th́ bắt buộc phải xưng cho chính ḿnh, chứ không thể nói thay cho người khác được. Tuy nhiên trong trường hợp khó khăn th́ có thể nói thay cho bút hiệu, danh xưng hay tên của tổ chức, của hội đoàn. Tức là ta xưng thay cho người vắng mặt; mà người vắng mặt đó có thể lại là chính ta.
C̣n Hô th́ có thể nói thay cho người khác được, nhưng bắt buộc phải là người có vai-vế thấp hơn ta, hay ngang vai với ta là cùng. Tức là Hô thay cho con, cho cháu hay cho em, chứ không được quyền Hô thay cho Anh Chị hay cho Cha Mẹ; như vậy là hỗn láo, xấc xược, vô lễ .
Cách Xưng và Hô được phân định theo 3 tiêu-chuẩn sau đây:        
1- T́nh cảm,
2- Học thức (hiểu biết về đạo làm người)
3- Tuổi tác
Cái khó là làm sao dung ḥa được 3 yếu tố với nhau trong trường hợp xung khắc rơ rệt.
Tỷ dụ một bà 50 tuổi thất học nói chuyện với một cậu Tiến sỹ 20 tuổi trong t́nh cảm thân thuộc. Đứng về tuổi tác th́ bà ta bằng vai mẹ cậu; nhưng đứng về học vấn th́ bà ta chưa xứng đáng làm học tṛ của cậu. C̣n về chức vụ ngoài đời th́ bà ta thua xa, thuộc loại đi lâm đi ở chẳng hạn. Xưng hô làm sao để thấy ḿnh vẫn trọng cậu Tiến Sỹ, nhưng vẫn giữ được vai-vế tuổi-tác của ḿnh. Nh́n theo con mắt Tây Phương th́ tưởng là bất b́nh đẳng, rườm-rà, lép vế, phân biệt giai cấp, mầt nhân vị....nhưng nh́n dưới lăng kính xă hội Việt th́ lại là b́nh đẳng thân thương tột độ.
Để có cái nh́n tổng quát th́ chúng ta hăy tạm nhận danh xưng của các vai-vế trong gia-đ́nh theo biểu đồ đính kèm cho thuần nhất. Sau đó mới nói đến nguyên tắc đặt ḿnh và người đối-thoại với ḿnh vào vị-trí nào cho đúng cách.
Các vai-vế trong gia đ́nh được thiết lập một cách rơ-ràng trong biểu-đồ vai-vế và đừng lẫn bên nội với bên ngoại, vai trên  vai dưới, trai với gái, dâu với rể.
       Chữ viết trong khung là vai-vế của người đó đối với hàng con cháu. Viết đậm là người cùng huyết thống, c̣n gạch đít là người ngoài nhưng do kết duyên mà thành người nhà; gọi chung chung là thông gia (nghĩa là do cưới xin mà 2 bên trở nên thân thiết như người nhà. Chữ thông có nghĩa là nối liền với nhau).
      Chữ viết ngoài khung là vai-vế của người đó đối với hàng Cha Mẹ, cùng máu-mủ th́ gọi là ruột thịt; c̣n do cưới gả mà ra th́ gọi là dâu hay rể. Thuộc bên Vợ hay bên Chồng th́ thêm chữ  Vợ hay Chồng vô.
     B́nh thường th́ người ta chỉ hô vai-vế chính và bỏ chữ Nội Ngoại, Dâu Rể hay Vợ Chồng đi; chỉ thêm những chữ đó vào khi cần minh định rơ ràng mà thôi.
Khi xưa Vợ Chồng gọi nhau bằng Ḿnh với Tôi, chữ Ḿnh có nghĩa là thân thể. Coi nhau như một phần thân thể của ḿnh vậy. Thiết nghĩ vợ chồng gọi nhau bằng Ḿnh với Ta th́ không có ǵ có thể khăng-khít và thắm thiết hơn.
- Gạch nối để chỉ liện hệ ruột thịt, gạch chấm để chỉ thông gia. Khung đơn để chỉ ruột thịt, c̣n khung kép để chỉ do hôn nhân mà thành người trong nhà ( 1).
 

 
Biểu đồ vai vế trong gia đ́nh Việt Nam

 
 
Nguồn gốc của cách xưng hô trong gia đ́nh
Gia đ́nh gồm 3 thế hệ:
· Thế hệ ông bà, thuộc về hàng trên (vai trên).
· Thế hệ gốc là Cha Mẹ, thuộc về hàng Cha Mẹ, hàng gốc (bằng vai).
· Thế hệ Con cái, thuộc về hàng dưới (vai dưới).
Đại gia đ́nh có nghĩa là gia đ́nh nhiều người, chứ không phải là nhiều thế hệ.
Nhiều hơn 3 thế hệ liên tục th́ gọi là Gia Tộc. Tộc có nghĩa là ḍng họ, cùng chung một tổ tông mà ra và c̣n được gọi là tộc ho (2).
  Chữ Đồng Bào có nghĩa là cùng một bọc trăm trứng mà ra. Đồng là cùng và bào là bọc. Nghĩa là 100 con cùng cha cùng mẹ lại sinh nở cùng một lúc đă nói lên tinh thần b́nh đẳng tuyệt đối rồi. Mỗi con có một cá tính riêng nên tạo thành 100 giống, mà tất cả đều cùng một gốc Việt mà ra (3).
 
Trường hợp thông thường
 
A/- Đối với người trong họ
 
1)-Tuổi tác cân xứng
Tuổi tác cân xứng th́ bắt buộc phải theo cách xưng hô trực ư. Nghĩa là vai-vế ở đâu thi xưng hô ở đó.  C̣n bé th́ gọi nhau bằng anh xưng em hay chị xưng em. Nhưng khi lớn lên, ở tuổi có con cái th́ hô thay cho con ḿnh. Nhưng xưng th́ xưng theo vai vế của chính ḿnh. Tỷ dụ người anh kêu người em ruột là em xưng anh khi chưa lập gia đ́nh. Đến khi thành gia thất th́ gọi nhau thay cho con ḿnh. Lúc đó người anh gọi em ḿnh bằng Chú (tức là chú của con tôi) và xưng là anh hay tôi. C̣n người em th́ gọi anh ḿnh là Bác xưng em (chứ không phải là tôi), nếu xưng tôi là hỗn, chơi trèo. C̣n người chị lúc đó kêu em ḿnh là Cậu và xưng chị hay tôi.
Khi có gia thất th́ bố mẹ vẫn có thể gọi con ḿnh bằng con xưng là bố hay mẹ; nhưng thường thường v́ trọng con ḿnh nên gọi thay cháu và xưng là tôi. Tức gọi con ḿnh bằng Chú, bằng Cô, bằng Cậu hay bằng D́; chứ không gọi bằng Bác. Nếu gọi bằng Bác tức là tâng con ḿnh lên và giảm t́nh thân máu mủ đi. Ngày xưa c̣n lấy tên của cháu đích tôn để gọi cho bố mẹ. Tỷ dụ người con đầu ḷng là Tuấn th́ gọi bố mẹ nó là ông Tuấn, Bà Tuấn, trong trường hợp này th́ xưng tôi. Đây là trường hợp trọng con ḿnh khi nó đă có địa vị trong xă hội.         
Tỷ dụ con ḿnh làm quan, chức trọng quyền cao, ra ngoài mọi người kiêng nể th́ không thể gọi để làm mất thể diện của con ḿnh đi được. Con ḿnh có nên ông nên bà th́ ḿnh mới lên chức cụ được. C̣n con ḿnh là thằng là con th́ ḿnh cũng chẳng vẻ vang ǵ. Vậy th́ gọi đúng tư thế của con ḿnh trong xă hội tức là tự ḿnh trọng ḿnh đó. C̣n gọi quá lố là tâng bốc khôi hài, mà dân ta gọi là "bốc thối".
Vợ chồng lúc này không gọi nhau bằng Ḿnh với Ta, hay Anh với Em nữa mà gọi nhau bằng Bố Nó, Mẹ Nó và xưng là Tôi, chứ không phải Ta. Chữ Ḿnh th́ đi với chữ Ta là ngang nhau, C̣n chữ Bố, Mẹ mà đi với Ta là trịch thượng. Tức là bố của con tôi, hay mẹ của con tôi ơi! Hoặc Bố Tuấn hay Mẹ Tuấn ơi!
2)- Tuổi tác quá chênh lệch
Trường hợp này bắt buộc phải gọi thay cho con. Như vậy vẫn trọng vai trên của người đối thoại, mà vẫn giữ được vai vế tuổi tác của ḿnh.
Tỷ dụ một anh 25 tuổi lại là  chú ruột của một bà 50 tuổi, có con lớn hơn ḿnh. Nếu gọi nhau bằng chú cháu th́ không hợp với tuổi tác, và bất tiện. Vậy th́ gọi thay cho người khác là tiện nhất.
Về phần anh chàng th́ bắt buộc anh ta phải gọi bà kia bằng Bác (hay là Bà th́ hơi kém thân t́nh) và xưng là tôi. Bác ở đây là chị của con tôi, c̣n xưng tôi là giữ nguyên vai chú ở hàng trên. Về phần bà kia th́ phải gọi cậu này bằng ông, có nghĩa là ông của con tôi và xưng là Cháu. Vai cháu ở đây có 2 nghĩa: đó là vai-vế thật của bà ta mà cũng có thể là xưng cho con ḿnh. Là v́ như trên đă nói là bố mẹ đôi lúc lấy tên con làm tên ḿnh. Đây là một điều tế nhị trong cách xưng hô. Vẫn trọng người đối thoại, mà vẫn giữ được thể diện về tuổi tác của ḿnh. C̣n không biết th́ thấy là rườm-rà lôi-thôi, rắc-rối khó hiểu.
 
B/- Đối với người ngoài
Đối với người ngoài th́ tùy theo t́nh cảm ḿnh dành cho họ, cộng với tuổi tác và chức vụ hay vị thế của họ trong xă hội (nói chung là sự hiểu biết) mà đặt họ cho đúng chỗ vai-vế trong gia đ́nh. Cách xưng hô này không cố định; tùy theo môi trường mà áp dụng.
 
1/- Đối với Thày học:
Thày ở đây là sư phụ, tức ông Thày dạy ta đạo làm người (Việt Học). C̣n người dạy nghề th́ gọi là sư huynh (tức là đàn anh). Ở đây ta gọi sư phụ hay sư huynh đều là Thày cả. Ngoại trừ Huấn Luyện Viên th́ không thể bốc thơm họ lên làm bậc Thày được. Nếu ta bốc thơm th́ lập tức họ sẽ phải từ chối chức vị đó, c̣n im lặng là họ tự kiêu cho ḿnh xứng đáng với ngôi vị đó.
Thày là người giữ chức vụ dạy ta nên người, như vậy phải ngang với bố ḿnh. Đứng về phương diện tinh thần th́ đứng trên Bố, v́ dân Việt trọng nghĩa.
V́ thế nên gọi Thày xưng con. Khi xưa chỉ có đàn ông mới giữ chức vụ làm Thày, v́ vậy nên Vợ của Thày th́ gọi là Cô; nghĩa là em gái (tinh thần) của bố ḿnh. Ngày nay người đàn bà cũng giữ chức vụ dạy ta nên người nên gọi luôn là Cô, hay là Cô giáo. Chữ Cô khởi thủy là em gái của bố ḿnh chứ không phải là một chức vụ dạy dỗ người khác, v́ lúc đó phái nữ không giữ chức vụ này. Nay đáng lư phải gọi là ông Thày và bà Thày mới đúng; nhưng gọi như vậy th́ trối tai, khó nghe.
V́ vậy nên hô chức Thày hay Cô th́ phải xưng là con, chứ không phải là cháu. Thày và Cô là Bố và Mẹ về tinh thần. Bố và Mẹ chỉ có một, không ai có thể thay thế ngôi vị đó được.
· Trường hợp học viên ít tuổi, đáng tuổi con cái th́ không có vấn đề chi cả. Nay tuổi tác bất tương xứng th́ phải gọi khác đi; miễn sao vẫn trọng Thày, trọng Cô mà vẫn giữ được tư thế của ḿnh.
 
- Trường hợp một cô sinh viên 22 tuổi đi học ông Thày 28 tuổi, th́ cô không thể nào xưng con hay xưng em được; mà bắt buộc cô ấy phải gọi là Thày và xưng là Cháu. Thày ở đây vẫn là ngang với Bố ḿnh, nhưng tuổi chỉ đáng làm em bố ḿnh thôi. Nếu không có sự liên hệ học vấn th́ cô đó gọi ông kia là Chú xưng cháu hay Anh xưng Tôi. Trong trường hợp này gọi Chú th́ xấc, mà gọi Anh th́ hỗn. C̣n xưng là Em th́ có vẻ lẳng-lơ.
C̣n nếu là cậu sinh viên th́ gọi là Thày và xưng là em. V́ tuổi đời th́ ông chỉ đáng làm anh tôi, c̣n học vấn th́ ông làm Thày tôi.
C̣n ông Thày th́ dễ ăn nói, cứ gọi là anh hay chị và xưng tôi. Anh hay chị ở đây có thể là ngang vai với tôi, mà cũng có thể là ngang vai với con tôi (dù tôi  chưa có con).
- Ơ Bây giờ trường hợp một anh sinh viên 28 tuổi, quân nhân đi học văn hóa bà Thày 25 tuổi; trường hợp này anh ấy phải gọi bà ta là Cô (Cô ở đây là bà Thày, tức Cô giáo) và xưng Em nếu cấp bậc của anh thấp; c̣n không th́ xưng tôi nếu cấp bậc của anh cao trong xă-hội.
- Trường hợp khó xử: Một anh Trung Úy 22 tuổi đi làm giáo sư huấn luyện Tú Tài cho những cô nữ sinh ở lứa tuổi 18. Đối với anh th́ dễ, anh cứ gọi là chị và xưng là tôi. Chị ở đây là chị của em tôi, chứ không phải chị của tôi. Nếu là chị của tôi th́ bắt buộc phải xưng là em. C̣n đối với các nữ sinh th́ tùy sự liên hệ gia đ́nh với giáo sư mà xưng cho đúng cách. Hô th́ gọi là Thày rồi, c̣n xưng th́ mỗi cô xưng một cách.
- Nếu không liên hệ chi th́ xưng cháu.
- Nếu ông bố là vị chỉ-huy trực tiếp của anh trung Úy th́ xưng là tôi.
- Nếu ông anh là bạn đồng ngũ th́ xưng là em.
- Nếu ông bố là thuộc cấp của vị Trung Úy th́ xưng là con.
 
Nói tóm lại:  Cách hô th́ tương đối dễ gọi, v́ nghi hoặc th́ cứ tâng người ta lên. Nếu quá cao th́ người ta sẽ cải chính, c̣n quá thấp th́ người ta bắt bẻ và ḿnh xin lỗi v́ sơ ư. C̣n cách xưng th́ rất tế nhị. Nếu xưng đúng th́ người ta trọng ḿnh, c̣n xưng sai th́ người ta coi thường chứ không ai bắt bẻ cả. V́ vậy nên khi đến một nơi không biết người đó là ai th́ phải hỏi xem gọi bằng ǵ? Không thể gọi chồng bằng ông, bằng bác mà gọi vợ người ta bằng chị được. Hoặc gọi con người ta bằng ông, bằng bà mà gọi bố mẹ người ta bằng anh bằng chị th́ đâu có được.
 
 
 
2)-Trường hợp thân t́nh:
Nghĩa là người ngoài mà ḿnh dành cho họ t́nh cảm gia đ́nh. Theo mẫu hệ th́ đặt họ vào bên Mẹ th́ quư hơn là đặt vào bên Cha. Tức cho người ta vị thế là Cậu, là D́ hay là Bác. Nếu để người ta vào vai Cậu hay D́ của con ḿnh th́ phải xưng là Tôi hay là Chị là Anh. V́ lúc này ḿnh ở vai Cha Mẹ, cùng hàng với họ nhưng vai trên. C̣n để người ta vào vị thế Bác của con ḿnh th́ phải xưng là Em hay tôi. C̣n gọi cho chính ḿnh th́ phải xưng là cháu, thân hơn th́ xưng là con.
· Tỷ dụ Một cậu 25 tuổi đến thăm một cô bạn 22 tuổi tên là Hằng, nếu gặp:
- Em cô ta th́ hỏi: Em cho anh hỏi chị Hằng có nhà không? (Chị ở đây là chị của người đối thoại với ḿnh)
- Anh hay Chị cô ta th́ hỏi: Thưa Anh (hay Chị) cho em hỏi Hằng có nhà không ạ? Nhớ thêm chữ ạ, và không được dùng chữ chị Hằng hay em Hằng. V́ nếu thêm chữ chị tức là chị của ḿnh, lép vế không được. C̣n thêm chữ em th́ xấc, v́ tự cho ḿnh ngang vai với người đối thoại.
- Bố hay Mẹ cô ta th́ hỏi: Thưa bác cho cháu hỏi em (hay chị) Hằng có nhà không ạ? Hay cô Hằng có nhà không ạ? Dùng chữ cô th́ có vẻ xa cách. Cô ở đây có nghĩa là em gái mà gọi thay cho con ḿnh. C̣n dùng chữ Em là gọi ngay cho chính ḿnh th́ thân thiết hơn; dùng chữ Chị th́ chỉ mới là sơ giao thôi. C̣n bỏ chữ Em hay chữ Chị đi, tức là gọi cộc lốc th́ thất lễ với Bố Mẹ cô ta. Tức là ăn nói xếch-mé coi con người ta không ra cái ǵ cả, vậy th́ làm sao hỏi được vợ?.
 
3)- Trường hợp gia nhân
Người giúp việc trong nhà gọi con của ông bà chủ.
Đứng về tuổi tác th́ bà ta ngang hàng với Bố Mẹ cô hay cậu chủ. Nhưng về học vấn th́ bà ta chỉ đáng làm học tṛ thôi; mặc dù cô cậu này lại không phải là Thày dạy người ta.
Về cách Hô th́ gọi là Cô, là Chú (tức em của bố ḿnh, hay ngang với bố mẹ của con ḿnh) hay là Cậu là D́, nhưng phải xưng là Cháu hay Con. Tức gọi theo giá trị tâm linh (sự hiểu biết).
 
Trường hợp Biến dạng
 
Đây là trường hợp đặc biệt, bắt buộc phải dùng đến chức vụ trong xă hội, hay giao tế trong cộng đồng để nói một cách chung chung hợp với tất cả mọi người.
 
A/- Phép xướng danh:
(tức là xưng thay cho tập thể hay  dùng chính tên ḿnh để xưng)
      Trường hợp một giáo sư về âm-nhạc lên tŕnh diễn trên sân khấu. Ở dưới cử tọa đủ mọi thành phần, Già có, Trẻ có, Nam có, Nữ có, người đáng bậc Thày có mà học tṛ của giáo sư cũng có. Về cách hô cho một cộng đồng đa dạng th́ dễ. Có thể dùng chữ quư vị, hay toàn thể khán thính giả hay đồng bào thân mến. Đó là gọi theo vị-thế. C̣n xưng th́ không có vai-vế nào hợp cả. Tức là xưng Tôi, Em, Chị, Con, Cháu đều không tiện cả. Vậy th́ bắt buộc phải xưng tên, nghĩa là nói thay cho người vắng mặt.
Tỷ dụ giáo sư có danh hiệu là Xuân Sắc, thành lập ban nhạc là Trâu Đen trong hội Bông Lan chẳng hạn, th́ lúc đó bà ta có thể nói: Kính thưa quư vị, Xuân Sắc xin cống hiến nhạc phẩm .. ... hay là ban nhạc Trâu Đen xin hiến quư vị... hay là hội Bông Lan xin giới thiệu với quư vị nhạc phẩm...... do ban nhạc Trâu Đen tŕnh diễn.
B/-Xưng hô theo chức vụ
          V́ nhu cầu của tổ-chức, kỷ-luật gây sức mạnh, nên những người trong quân đội vẫn gọi nhau theo cấp bực. Đây là xưng hô theo đẳng trật Quân Giai trong gia đ́nh binh đội, sống chết có nhau. Có trên có dưới hẳn hoi, nhưng trên dưới theo chức vụ chứ không theo tuổi tác.
C/- Xưng hô theo lư tưởng
     V́ nhu cầu sinh hoạt và đă thề nguyền sống chết có nhau nên những người trong gia đ́nh tinh-thần sau đây gọi nhau bằng danh xưng của ư chí:
    Những người trong cùng một tổ chức chính trị, hay đấu tranh vẫn gọi nhau theo lư tưởng chung của tổ chức như là đồng chí, chiến hữu,....... như vậy là gạt bỏ tuổi tác và vai-vế ra ngoài. Đây là tinh thần b́nh đẳng, ai cũng giống nhau theo giá trị tinh thần. Tất cả đoàn viên đều thuộc cùng một gia đ́nh; đó là gia đ́nh dấn thân cho hạnh phúc của dân tộc, và họ đă thề nguyện sống chết có nhau.
 
Trường hợp đặc Thù của dân Việt
 
 Vai vế của Bố và Mẹ th́ không ai có thể thay thế được. Do đó nếu không phải là bố mẹ ruột (đẻ) th́ phải gọi khác đi như là Thày và U, Chú và Thím hay Dượng và D́, nay gọi là PAPA và MAMAN, tức là giảm thân t́nh máu mủ đi một bậc.
      V́ thế cho nên khi Mẹ chết, Cha đi lấy vợ khác (gọi là tục huyền. Tục huyền là tiếng Hán, có nghĩa là nối lại giây đàn đă đứt), th́ các con gọi người vợ kế của bố bằng D́ và xưng là Con. Có nghĩa là bà chỉ bằng vai em của mẹ tôi thôi. Thay v́ xưng bằng Cháu th́ xưng bằng Con cho gần hơn. Nếu bà vợ kế cay-nghiệt th́ lúc đó gọi là D́ Ghẻ. Chữ ghẻ có nghĩa là lạnh lùng (ghẻ lạnh). Nếu người vợ sau không cưới, tức là sống chung bồ bịch hay vợ hai.... th́ các con gọi người này bằng Chị và xưng là Tôi. Có nghĩa là bà chỉ ngang vai với chị cả của chúng tôi thôi. Nhưng đối với các con cùng cha khác mẹ th́ vẫn gọi là các em, như em ruột của ḿnh vậy. Không có danh từ EM NỬA Với (demi frère) như Tây Phương, sở dĩ khác là v́ những đứa nhỏ này ăn theo ḍng Bố nên được thăng chức.
       C̣n nếu Cha chết, Mẹ đi lấy chồng th́ gọi là tái giá. Tái là trở lại, giá là lấy chồng (tiếng Hán). Th́ các con gọi ông chồng mới này bằng Dượng và xưng Con, nếu không thân th́ xưng là Tôi. Vai-vế Dượng của ông ta th́ không thể bỏ đi được. Sở dĩ gọi bằng Dượng là v́ lúc đó mẹ ḿnh bị hạ xuống một bậc thành D́, tức là em gái của mẹ. Chồng của D́ th́ gọi bằng Dượng. Con cái cùng Mẹ khác Cha, nếu thân thiết th́ gọi nhau bằng anh (hay chị) và em, c̣n không th́ gọi nhau là Anh (hay Chị) với Tôi. Cách xưng hô này là quyền của con cái, bà mẹ không có quyền bắt chúng phải gọi thế này hay thế khác. Ngược lại khi bố tục huyền th́ con vợ trước không có quyền coi con bà kế là người ngoài được. Nhưng nếu là con bà hai hay vợ theo th́ người con có quyền khước từ mà người Bố không có quyền ngăn cản.                                                                               
 
Tại sao lễ giáo dân Việt lại như vậy? Theo Mẫu Hệ th́ đáng lư phải trọng bên Mẹ hơn bên Cha mới đúng. Cách xưng hô định sẵn như trên được giải-thích như sau:
· V́ dân ta theo mẫu hệ nên một đôi vợ chồng chỉ có 2 người thôi. Người thứ 3 là người không chính thức. Ngang vai với Bồ Bịch nên không thuộc gia đ́nh, do đó cách xưng hô có khác. Cái khác biệt này là tùy các con thuộc 2 phe tự quyết định lấy, Bố hay Mẹ không có quyền bắt chúng nó phải gọi nhau như thế này hay thế kia được. Chính Bố hay Mẹ đă đi trái phong tục lễ giáo của dân Việt nên không c̣n quyền ǵ đối với các con trong vấn đề giao-tế với nhau nữa. Chúng thương nhau th́ tốt, c̣n không th́ cũng đành chịu.
(Theo lễ giáo của dân Việt th́ trước khi chính thức cưới vợ, người con trai phải đến ở nhà vợ tương lai (gọi là ở rể) 3 năm để Bố Mẹ người con gái xem xét tâm t́nh trước khi đồng ư gả hay không. Ta gọi là bổ củi 3 năm mới cưới được vợ, coi chuyện Trọng Thủy và Mỵ Châu th́ rơ. Tại sao khi Trọng Thủy về thăm Cha ở bên nước Ngô th́ Mỵ Châu lại không theo về Ngô mà ở lại nước Việt? Chỉ v́ chưa cưới nên chưa có chuyện thuyền theo lái, gái theo chồng. Điểm này chứng tỏ dân Việt quan niệm thành lập gia đ́nh để xây dựng hạnh-phúc lứa đôi trong hạnh phúc chung của gia tộc. V́ thế nên người ta nh́n thẳng vào 2 nhân vật chính, với sự cố vấn của người ngoài cuộc là cha mẹ hai bên. Không có vấn đề sính lễ, thách cưới bán con như người Hán (Tàu) để rồi hành con dâu.
(Người Hán theo Phụ Hệ, nên mọi quyền hành nằm trong tay người chồng. Khi lấy vợ th́ phải dẫn cưới do bên đàng gái thách cưới, chữ thách đă có nghĩa là mua bán đổi chác rồi. Do đó khi về nhà chồng th́ cô dâu trở nên lép vế: Mất tiền mua mâm th́ đâm cho thủng (tục ngữ của mẹ chồng với nàng dâu). V́ quan niệm này nên người vợ là nhân viên thừa hành của người chồng chứ không phải là cộng sự viên như dân Việt.                                                                                 
Do đó người Hán chúc cô dâu chú rể là Long Phụng giao duyên, sắt cầm ḥa hợp. Đó là hạnh phúc lứa đôi một cách ích kỷ, không nghĩ đến người khác.  
C̣n dân Việt th́ chúc cô dâu chú rể là Rồng Tiên song hiệp. Có nghĩa là vợ chồng hợp lực âm dương (bổ xung cho nhau) để xây dựng hạnh phúc cho ḿnh và cho người xung quanh (hai họ). Muốn có hạnh phúc trọn vẹn th́ hạnh phúc của lứa đôi phải nằm trong hạnh phúc của 2 bên thông gia. 
 
Giao lưu văn hóa Việt Hán
Khi bị người Hán thống trị th́ nẩy sinh ra tư tưởng lấy vợ hai cho chồng để chứng minh sự giàu có của ḿnh. Khôi hài ở chỗ là chính bà vợ Cả đi chọn và cưới bà vợ Hai cho chồng, chứ ông chồng không được quyền tự chọn lấy vợ bé như ở bên Tàu.
Tại sao? Người Hán quan niệm rằng lấy vợ là một gánh nặng phải nuôi, nên càng nhiều vợ th́ chứng tỏ người đàn ông càng lắm tài. Do đó chính người chồng tự ư đi chọn vợ bé cho ḿnh, sau đó thông báo để bà Cả biết. Lẽ dĩ nhiên là mỗi bà một dinh cơ do ông chồng cấp phát.
         C̣n ở Việt Nam, v́ bắt chước kẻo sợ người đời (sống trong nô lệ Tàu) chê là ghen, là nghèo nên bà vợ Cả phải đi mua bà vợ Hai về cho Chồng ; đôi khi bà bé chả sơ múi chi cả. Đó là cái tinh khôn của bà vợ Cả.
 
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh-lùng.
Năm th́ mười họa chăng hay chớ,
Một tháng đôi lần, có cũng không.    
                                                    (Hồ Xuân Hương)
 
Phần lớn những bà bé mua về đều thuộc loại gia đ́nh nghèo đói, thấp hèn phải cắn răng bán con để cứu gia đ́nh. V́ thế nên con bà Cả gọi bà hai là Chị.
C̣n một điểm đáng lưu ư nữa là phong tục Tàu không có chuyện tái giá của người đàn bà góa, v́ khi cưới cha mẹ đă thách rồi nên bà thuộc sở hữu của nhà chồng. Do đó phải ở vậy thờ chồng và nuôi con. C̣n phong tục Việt th́ khác hẳn. Hết ba năm tang chế: Lạy anh, em đi lấy chồng. Nghĩa là sau 3 năm măn tang (hết tang) chồng th́ người đàn bà góa được quyền bước thêm bước nữa mà xă hội hoàn toàn đồng ư và cho đó là quyền sống của con người phải được tôn trọng. Luật Hồng Đức có bảo vệ quyền này của người đàn bà góa.
 Tại sao lại 3 năm tang chế mà không phải là 3 tháng như Tây Phương hay 4, 5 năm chi đó? Tại sao các cụ thời thượng cổ lại có lư do rất chánh đáng này, mà bây giờ vẫn c̣n thấy hợp lư? Chỉ v́ tổ tiên chúng ta không những coi trọng gia đ́nh và gia tộc mà c̣n tôn trọng quyền sống tự do của con người nữa.
Hai cái tương khắc với nhau (cộng đồng và cá nhân, t́nh và lư) ấy thế mà người xưa đă dung ḥa được th́ không phải là chuyện dễ. Âu đây cũng là một niềm hănh diện về nền văn minh tinh thần của dân ta vậy.
Thật vậy, khi người chồng nằm xuống, có thể lúc đó bà vợ vừa mới mang thai. Cái thai đó là thai của gia đ́nh nhà chồng chứ không phải của riêng bà vợ. V́ thế phải đợi 9 tháng 10 ngày sinh nở xong xuôi th́ mới tính chuyện bước đi bước nữa được. Khi sinh nở xong, v́ nhu cầu bú mớm của đứa bé nên bà phải hy-sinh t́nh cảm riêng tư để nuôi con cho đến khi thôi bú, tức là đứa con đầy 2 tuổi th́ mới dọng-dẽo ai nuôi cũng được. Lúc này th́ bà có thể trao con cho nhà chồng nuôi và bước đi bước nữa (nếu bà muốn). Hơn nữa, nếu quả thực bà yêu chồng th́ 3 năm mới chỉ là thời gian tối thiểu để bà dứt t́nh chăn gối.
Cách giải quyết này không phải là trường hợp bắt con như Tây Phương nghĩ. Thực vậy, đây không những là v́ quyền lợi của đứa bé mà c̣n là quyền lợi của ngay chính người mẹ nữa. Khi bà bước đi bước nữa th́ bà không phải là người trong gia tộc nhà chồng nữa. Bà vẫn có quyền về thăm con cái với t́nh mẹ con trọn vẹn, nhưng bà không được quyền nuôi nấng và dạy dỗ nó nữa. Phần nuôi nấng và dạy dỗ chúng thuộc nhiệm vụ của nhà chồng. Chết Cha c̣n Chú, vắng Mẹ bú D́. C̣n về phần bà vợ góa th́ lúc đó bà được tự do như con gái, không bị ràng buộc về tinh thần cũng như vật chất với các con đời chồng trước. Tuy nhiên cũng có cái thiệt là mẹ con không được chung sống hàng ngày với nhau. Nhưng làm sao làm hài ḷng được tất cả các đ̣i hỏi tương khắc với nhau?
         Lư luận Tây Phương là lư luận theo t́nh cảm thiển cận. Bây giờ tỷ dụ con đầu ḷng là con gái kém mẹ 18 tuổi. Nếu Mẹ nuôi th́ cô con bắt buộc phải ở với ông Dượng. Đến tuổi dạy th́ lại nhập-nhằng với ông Dượng, lúc đó th́ thật là khó xử cho bà. Ở bên Pháp trường hợp này đă từng xẩy ra và đưa đến hậu quả là bà mẹ tự tử. Đây là sự tự do quá trớn của ngưới Tây Phương, quá thiên về nhu cầu vật chất.
 
Kết luận
 
Tóm lại, chúng ta chỉ có một cách xưng hô chính là vai vế trong gia đ́nh. Hoặc theo liên hệ gia đ́nh, hoặc theo t́nh cảm riêng tư, hoặc theo tuổi tác, hoặc theo kiến thức, hoặc theo đẳng trật, hoặc theo lư tưởng.                                     
       Vấn đề khó là tự ḿnh phải định vai-vế của người và của ḿnh cho đúng chỗ. Và nên nhớ rằng vai-vế xưng hô thay đổi tùy theo môi trường sinh hoatï ( 4)
 
_____________________
Chú thích
1- Trong biểu đồ ghi theo tư-tưởng của người xưa quan-niệm là Trời th́ tṛn, Đất th́ vuông (theo kinh dịch nói về sự biến hóa của vạn vật trong vũ-trụ). Cha th́ tượng trưng cho Trời, c̣n Mẹ th́ tượng trưng cho Đất. Trời che Đất chở. Công Cha như núi Thái Sơn, nghĩa Mẹ như nước trong Nguồn chảy ra.
 
        Người Hán (Tàu) theo Phụ-hệ, tức lấy Cha làm chính. Bên Nội gần hơn bên Ngoại. Nội có nghĩa là bên trong, c̣n Ngoại có nghĩa là bên Ngoài hàng rào. Do đó họ nói t́nh nghĩa Phu Thê, Phu là Chồng; Thê là Vợ. Phu Thê là tiếng Hán.
C̣n người Việt theo Mẫu-hệ, tức là lấy bên Mẹ làm chính. Bên Ngoại lại gần hơn bên Nội. Do đó dân Việt vẫn nói: Vợ Chồng như đũa có đôi, hay thuận vợ thuận Chồng th́ tát bể Đông cũng cạn. Rơ-ràng bà Vợ đi trước, ông Chồng đi sau, chứ không có chuyện Chồng Chúa Vợ Tôi như người Hán. Người Hán th́ Phu xướng Phụ tùng, tức Chồng nói th́ Vợ phải nghe; như vậy th́ làm ǵ có chuyện thuận vợ thuận chồng. Rơ ràng nếp sống của dân Việt trái ngược với nếp sống của dân Hán (dân Tàu).
     2- Thoạt đầu th́ nước Văn Lang được thành lập bởi 15 vùng an lạc mà ra. Mười lăm vùng đó được gọi là 15 Bộ Lạc. Do đó chỉ có 15 danh xưng cho 15 ḍng họ mà thôi. Do đó, danh xưng tộc họ của dân Việt chỉ có khoảng trên dưới 20 là cùng. Trong khi đó th́, các nước khác có hàng trăm tộc họ; v́ họ lập quốc trễ nên lúc đó dân số đă quá đông rồi.
Nước Văn Lang được thành lập để bảo vệ an ninh chung của 15 bộ chống lại nước Ngô ở phương Bắc. Lúc đó nước Hán chưa có, nước Chiêm và nước Miên cũng chưa. Biên giới nước Văn Lang bắt đầu từ vùng Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam (phía Nam sông Tây Giang chảy ra Hồng Kông, tức Hương cảng) xuống tận đèo Hải Vân, phía Tây th́ chiếm trọn nước Ai Lao bây giờ. Lúc đó nước Ai Lao (Lào) có danh xưng là Lăo Qua, có nghĩa là người ở Vân Nam di dân đến lập quốc từ lâu đời rồi. Quảng Đông th́ do bộ lạc Lạc việt làm chủ, Quảng Tây th́ do bộ lạc ÂU Việt  làm chủ....Đồng bằng sông Hồng th́ do Giao Chỉ Việt làm chủ.
Giao Chỉ là hỗn danh của Tàu dùng để chỉ sắc dân có 2 ngón chân cái tơe ra 45 độ nên giao vào nhau. Hiện nay ở vùng Ninh B́nh, Hoa Lư vẫn c̣n người có 2 ngón chân cái tơe ra; với điều kiện là họ chưa bao giờ đi giầy cả. Đây là trung tâm hành chánh của nước Văn Lang, nơi có đền Hùng (Lâm Thao, Phú Thọ) và được gọi là vùng Văn Lang hay bộ lạc Văn Lang Từ Thanh Hóa cho tới đèo HẢI VÂN th́ do bộ lạc Việt Thường  làm chủ. Chiến khu Lâm Ấp là đất của Việt Thường, tức vùng từ Nghệ An cho tới đèo Hải Vân.
Lúc đó nước Văn Lang theo chế độ DÂN CHỦ PHÂN QUYỀN, làng xóm tự trị. Mười lăm vùng đó kết hợp với nhau bằng Tâm và cư-xử với nhau bằng Đức. Đức có nghĩa là chỉ đem những cái tốt cho người để xây dựng cộng đồng, đất nước. C̣n cái ǵ xấu th́ giữ lại cho ḿnh. Đẹp đẽ đem ra, xấu-xa giữ lại. Chữ Văn có nghĩa là bặt thiệp, lịch sự. Chữ Lang có nghĩa là người hào hoa, phong nhă biết cách cư-xử .(1)
       Người điều hành một bộ lạc th́ gọi là Lănh Vương, người chỉ huy Binh đội (quân đội) của một vùng th́ gọi là Quân Vương. Mười lăm ông Lănh Vương hợp lại bầu lên ông Hùng VƯƠNG. Do đó dân ta mới nói  Lệnh Vua c̣n thua Lệ Làng  để chỉ thể chế dân chủ phân quyền lúc đó. Nước Văn Lang được thành lập, tính đến năm 2001, đă được 4.880 năm. Tức là đă được 4.879 năm tṛn, nay bước sang năm thứ 4.880  (4880 ième année hay 4880th year)
Vùng Lạc Việt (Quảng Đông) nằm sát nước Ngô nên chịu mũi xung kích thường xuyên của kẻ thù Phương Bắc (đây là người Ngô không phải là người Hán đâu). Do đó ta mới có những câu: Mối thù tuyền kiếp Ngô Việt, hay giặc bên Ngô không bằng bà Cô bên chồng. Hoặc thằng Ngô con Đĩ để chỉ gái Việt đi lấy chồng Ngô, chỉ có đĩ mới lấy chồng Ngô; giống như chữ Me Tây trong thời Pháp thuộc vậy.. Đó là sự kiện lịch sử đă qua, nói ra để rơ ḷng người lúc đó. Nay thời thế đă khác nên suy tư cũng phải hợp với bối cảnh lịch sử ngày hôm nay th́ mới gọi là có tinh thần cầu tiến.
Vào khoảng 600 năm trước Thiên Chúa giáng sinh, Lănh Vương Lạc Việt lúc đó là Câu Tiễn bị vua Ngô hành-hạ nên mới quyết tâm trả thù. Bầy mưu lập kế trong suốt 20 th́ san bằng được nước Ngô để rửa hận. Sau đó sai người viết thành văn bản câu chuyện Rồng Tiên khai quốc, 100 trứng 100 con để truyền đạt cho hậu thế kinh nghiệm xương máu trong 20 năm cá nằm chốc thớt, và gian truân đó. Đây làm học thuyết căn bản của khoa Nhân Văn Việt Tộc (tức Việt Học). Sau khi đánh chiếm được nước Ngô rồi th́ trả lại một phần đất cho nước Sở và nước Tề đă bị vua ông là Hạp Lư chiếm; chỗ c̣n lại (tức nước Ngô lúc nguyên thủy) th́ chặt làm 3 vùng với 3 danh xưng khác nhau. Đó là: Ngô Việt, Mân Việt và Bách Việt. Bách Việt là vùng đất Hồ Nam (phía Nam hồ Động Đ́nh), chứ không phải là 100 giống Việt đâu. Danh từ Động Đ́nh (nơi họp của các siêu nhân, thần thánh) bắt nguồn từ thời điểm này.(2)
Từ đây mới đẻ ra danh từ Đồng Bào, lấy màu vàng của tơ tầm làm sắc thái của dân Văn Lang. Ngày xưa quan niệm trời tṛn đất vuông, trời che đất chở nên lá cờ tượng trưng cho lảnh thổ phải mang h́nh vuông, có nghĩa là chân phương vuông vức. Nay theo quy ước quốc tế là h́nh chừ nhật, bề dài bằng 3/2 bề rộng. Cờ là biểu tượng của đất nước; c̣n Xí là hiệu lệnh của uy quyền Vua Chúa, Tướng Soái hay chức tước vua ban. Xí th́ bé hơn Cờ.
       Người Việt ḿnh chọn cờ màu Vàng để nói lên thể chế Dân Chủ Phân Quyền: Nước Việt của toàn dân Việt, toàn dân giữ nước chứ không phải Triều Đ́nh giữ nước. Do đó cờ nước Ta bắt buộc phải mang nền Vàng, với ư nghĩa là nước của toàn dân chứ không phải của nhóm lănh đạo.
C̣n người Hán th́ lấy màu Đỏ của mặt trời làm nền cờ của họ để nói lên uy quyền của nhà Vua (Thiên Tử), con trời sai xuống để trị muôn loài, trăm họ (đối kháng với 100 trứng). Tức là chế độ Quân Chủ chuyên chế, đất của chúa, lúa của trời.
      3- Gốc Việt là đặc tính của ông Lạc Long Quân và bà Âu Cơ, tức Rồng và Tiên.
Chữ con Rồng cháu Tiên là chỉ ông Lạc Long Quân đă hấp thụ được tinh hoa của Mẹ và của Bà, tức huyết thống theo Mẫu Hệ. Mẹ ông Lạc Long quân là Long Nữ ở vùng hồ Động Đ́nh, c̣n bà Nội ông Lạc Long Quân là Tiên Nữ ở phía nam dăy núi Ngũ Lĩnh (tức vùng Hồ Nam bây giờ, phía Nam hồ Động Đ́nh). Một điểm đáng chú ư: Rồng là con đực chứ không thấy nói Rồng cái bao giơ cả. Vợ con Rồng Tàu là Phụng (con gà), c̣n vợ con Rồng Việt là Tiên (người). V́ nhu cầu pha giống để lấy tinh anh nên trong chuyện mới cho thêm con Rồng cái (Long nữ) duy nhất vào. C̣n chúng ta là con nhà ṇi Âu Cơ và Lạc Long, tức thuộc ḍng dơi Rồng Tiên. Ông Thần Kim Quy (Rùa Vàng) là chỉ ông Lạc Long Quân.
Trăm con có trăm cá tính khác nhau nên tạo ra 100 giống, nhưng tất cả đều cùng chung một đặc tính Việt, do đó giống nào cũng móc thêm chữ Việt là thế. Tỷ dụ Ngô Việt, có nghĩa là người Ngô nay biến thành người Việt; tức người Việt gốc Ngô. Mân Việt là người Việt ở vùng sông Mân.                                                                                                               
V́ danh từ Đồng Bào phải được thực thi để cho trọn vẹn t́nh nghĩa anh em ruột thịt nên những quy luật giao tế đă được Triều-đ́nh ban hành. Và từ đó đă có rất nhiều nghi thức tập tục, cho đến nay đă trở thành truyền thống dân tộc mà chúng ta không để ư, và không ai đặt thành vấn đề nữa.
       Tỷ dụ trước khi ăn th́ phải mời nhau cùng ăn; hay cách xưng hô trong gia-đ́nh đều bắt nguồn từ truyền thuyết này mà ra. Hiện nay vẫn c̣n mà không ai đặt vấn đề cả.
Tại sao trước khi ăn lại phải mời; mặc dù đó là phần ăn của ḿnh? Tại sao ḿnh đang ăn có người đi qua th́ bổn phận người đang ăn phải mời người đi qua cùng ăn với ḿnh? Trong khi đó, theo Tây Phương th́ người đi qua có bổn phận phải chúc người đang ăn cho được ngon miệng (bon appétit). Dân Việt mà nói như vậy là chửi xéo nhau: Tham ăn tục uống. C̣n dân Hán (Tàu) th́ họ không có tục lệ mời nhau nên mạnh ai nấy ăn, và cũng chẳng chúc nhau ăn cho ngon miệng.
Lư do: Đó là do nhân sinh quan của từng dân tộc một mà sinh ra cung cách giao tế mỗi nước một khác. Đôi khi c̣n tương phản là khác.
· - Người Việt v́ coi nhau như anh em nên chứng tỏ tinh thần nhường cơm xẻ áo. Tỷ dụ ta có người em ruột đến thăm, không lư ta ăn một ḿnh để cậu em chầu ŕa hay sao? Do đó chính ta phải mời trước. C̣n cậu em đ̣i tức là hành động xin ăn coi không được.
·  - Người Tây Phương coi nhau như người xa lạ (cá nhân chủ nghĩa), đói th́ đă có cháo thí của xă-hội, nên phần ai nấy ăn. Người ta ăn phần của người ta để bồi dưỡng sức khỏe. Do đó v́ lịch sự nên người đi qua phải chúc người đang ăn được ngon miệng, và người đang ăn phải cám ơn lời chúc đó. V́ ăn có ngon miệng th́ sức khỏe mới được bồi dưỡng. Đó là thực tế, có thực mới vực được đạo.
· - C̣n người Hán với thuyết Thiên Tử th́ mạnh ai nấy ăn. Thực phẩm đă có Thiên Tử (Vua) lo, việc chi phải mời nhau? Tất cả đều là con dân của Thiên Tử cả. Vua bảo chết th́ sẵn sàng chết, vua bảo sống th́ phải cố mà sống không được cưỡng lời. Coi đạo Khổng th́ rơ.
 
Tới đây th́ chúng ta đă thấy rơ là tại sao dân Việt lại gọi nhau trong vai-vế gia đ́nh, mà nay đă thành truyền thống rồi. Đó há chẳng là một niềm tự hào cho chúng ta hay sao?
      4- . Cũng người đó lúc th́ gọi là Anh xưng Tôi hay Em, khi th́ gọi là Bác xưng Cháu, lúc th́ lại gọi là Ông xưng Tôi.
Tỷ dụ:  Hai người Nam Nữ ở 2 lứa tuổi chênh nhau tới 20 năm tuổi đời. Nhưng ở trong quân ngũ (hay cùng một tổ-chức chính trị) cùng đẳng cấp nên gọi nhau là Anh (hay Chị) với Tôi hay là Em.
Nhưng khi ra ngoài, Vợ người ta lại là Bác ḿnh, không lư gọi vợ người ta là Bác xưng Cháu mà gọi người ta là Anh xưng Tôi (hay Em) th́ không được.
   Đến khi em ḿnh lại là học tṛ của người ta, cậu em th́ gọi là Thày xưng Con th́ lúc đó bắt buộc ḿnh phải gọi là Ông xưng Tôi th́ mới tiện.
 

 

Tài liệu tham khảo
 
(1) Một ngàn nô lệ Tàu?...Ai đă đầu độc tư tưởng của Ta? : Ấn phẩm Nối Chí TÂY SƠN số 6; do Ban Tế Tự Paris ấn hành ngày  01/11/1997.
(2) Rồng Tiên khai quốc: Học thuyết căn bản của khoa Nhân văn Việt Tộc. Ấn phẩm đầu tay của Ban Tế Tự Paris phát hành nhân ngày kỷ niệm 200 năm chiến thắng Đống Đa (1989).