Chuyển hóa thực
trạng ngày hôm nay ?
Vai tṛ lănh
đạo của mỗi người
Nguyễn Văn Thành
Lausanne, Thụy Sĩ
Chuyển hóa thực trạng ngày
hôm nay có nghĩa là :
Biến không thành có,
Hóa bóng đêm thành mặt trời rạng tỏ,
Chuyển luân rác nuôi sống những cánh đồng,
Giữa sa mạc làm tuôn chảy ḍng sông,
Trong chết chóc vun trồng hạt mầm sống,
Đường tiến lên : Thứ tha và Hy vọng.
(Bài khai khóa Tuần Lễ Xă Hội 2003 do TT Nguyễn-Trường –Tộ tổ chức tại
Trung Tâm Violau, Ausbourg, Đức quốc)
Chuyển hóa t́nh trạng ngày hôm nay là bổn phận và trách nhiệm của mỗi người
trong chúng ta.
Đó không phải chỉ là câu nói vu vơ, thiếu chứng liệu trong cuộc sống làm
người. Những bậc vị vọng như Hoàng Liên, Nguyễn văn Thuận, và một số bạn
bè có mặt ở giữa chúng ta… đă từng thực hiện cuộc đời và con đường chuyển
hóa ấy, trong thinh lặng, nước mắt và khổ đau. Từ các trại tù biệt giam ở
Miền Bắc Việt Nam, họ đă trở về. Những tác phẩm của họ như « Aùnh Sáng
và Bóng Tối », « Năm chiếc bánh và hai con cá » đang kể lại cho chúng ta
những bước đường mà họ đă can đảm đi qua từng ngày, trong ṿng 13 năm...
Đó là những «bước lang thang, bước hồi hộp, bước bồn chồn. Bước vất vả,
bước thao thức, bước xót xa. Bước cô đơn, bước ê chề, bước thất bại », Nhưng
đồng thời đó cũng là những « Bước khổng lồ, bước liều mạng, bước phấn khởi.
Bước khải hoàn và bước Yêu Thương ».
Bước như vậy, theo lối giải thích của Hoàng Liên, là rời bỏ tất cả những
ǵ hiện bây giờ đang c̣n là bóng tối trong con người của chúng ta, và can
đảm đứng dậy, đi vào vùng Aùnh Sáng. Ngày ngày, học lại một lối nh́n. Ngày
ngày, nghe lại với vành tai xôn xao. Ngày ngày, mở rộng cửa ḷng, để đón
tiếp những cách làm mới. Khuôn đúc lại những thái độ mới. Thiết lập lại
những quan hệ mới. Chứng nghiệm lại những t́nh cảm mới. Tôi luyện lại
những ngôn ngữ mới…Nói tóm lại, KHÁM PHÁ Ư NGHĨA cho cuộc sống của chính
ḿnh và của anh chị em đồng bào chung quanh ḿnh.
Bao lâu con đường đổi mới ấy chưa được khởi công xây dựng, trong con tim
của mỗi người, tất cả mọi công tŕnh đổi mới khác, đang được hô hào đó đây,
ở bên ngoài, chỉ là tṛ hề bịp bợm, láo khoét, quảng cáo tuyên truyền hay
là phương tiện ngụy trang, nhằm đàn áp, bốc lột xương máu của người khác
mà thôi. Bao lâu kỳ thị, thiên kiến, hận thù và bạo động c̣n len lỏi, nằm
vùng trong tâm tưởng của chúng ta, bằng cách nầy hay cách khác, chính
chúng ta là nguyên nhân chủ động, biến non nước và quê hương thành một
trại tù to tướng, vô biên cương, đương khi miệng lưỡi chúng ta lải nhải,
eo sèo những khẫu hiệu « Yêu Nước, giữ Nước và dựng Nước ».
Nói một cách rơ ràng và thấm thấu, cái ǵ là điều quan trọng cần đặt lên
hàng đầu trong cuộc sống( What matters most ) ? Điều nào là ưu tiên số một,
trong kế hoạch hành động (First things first) ? . Bao lâu chưa có câu trả
lời thỏa đáng ở nơi đây, chúng ta chỉ bơ vơ, loạn động, như vượn chuyền
cành, hay là đội đá vá trời, xây nhà trên băi cát.
Cách đây hơn năm thế kỷ (1442), Nguyễn Trăi đă khai vạch cho chúng ta con
đường cần dấn bước và tiến tới :
« Lấy Đại Nghĩa mà thắng Hung tàn,
Lấy Chí Nhân mà thay Cường bạo ».
Hẳn thực, không đi con đường Nhân Nghĩa – T́nh Người, trong ḷng cuộc đời,
chúng ta chưa ư thức ḿnh là ai và không thể nào kết hợp, hướng dẫn quần
chúng. Không đi con đường làm bằng chất liệu hiểu biết và yêu thương nầy,
mỗi cá nhân chúng ta không thể nào thực thi những bước « đồng hành và
chia sẻ » với người anh chị em, hai bên cạnh chúng ta.
Trong tinh thần và ư nghĩa ấy, thay đổi thực trạng ngày hôm nay, trong con
người của chúng ta, cũng như trong môi trường Quê Hương và Đất Nước… không
phải « là điều làm cũng được, không làm th́ không sao ». Nếu không ra tay
thực thi công cuộc thay đổi ấy, trong bản thân và cuộc đời, chúng ta chưa
làm người một cách thực sự và trọn vẹn.
Thế nhưng, chúng ta làm thế nào ? Trên b́nh diện khoa học, đâu là những kỹ
năng cần tôi luyện và học tập hằng ngày, để Ngôn và Hành, lời nói và việc
làm ăn khớp với nhau ?
Nhằm thúc đẩy và kêu gọi mỗi người – nhất là những ai thuộc giới trẻ –
khám phá, sáng tạo cho ḿnh những câu trả lời trung thực, can đảm và liêm
chính, bài nói chuyện nầy sẽ lần lượt giới thiệu hai trọng điểm :
Trong phần thứ nhất : Tại sao, động lực nào thúc đẩy chúng ta chuyển hóa
thực trạng ngày hôm nay ? Một cách cụ thể chúng ta cần chuyển hóa những ǵ ?
Và chuyển hóa bằng cách nào ? Chúng ta thực thi những động tác chuyển hóa
ấy với ai, trong địa hạt nào ?
Trong phần thứ hai : chúng ta cần tôi luyện những điều kiện và kỹ năng
nào, trên mặt khoa học, để có thể bắt tay vào việc, không tŕ hoăn, hẹn
rày hẹn mai ?
Trong lời kết luận, tôi sẽ nhấn mạnh rằng : Chuyển hóa thực trạng ngày hôm
nay, trong bản thân của mỗi người, cũng như chuyển hóa thực trạng của Quê
Hương và Đất Nước là vai tṛ và trách nhiệm của từng người, không trừ sót
một ai. Khi làm những điều ấy, một đàng, chúng ta thực hiện những hoài bảo
trọng đại trong cuộc đời làm người của ḿnh. Đàng khác, khi làm những điều
ấy, chúng ta đảm nhiệm vai tṛ lănh đạo của chúng ta, một cách can trường.
Không tránh né. Không thoái thác. Không khoán trắng cho một ai. Không ngồi
chờ quả sung từ đâu đâu bỗng nhiên rơi vào miệng. Đồng thời, không đội đá
vá trời. Không cho ḿnh có mọi quyền năng. Không tưởng ḿnh nắm trọn trong
tay mọi chân lư.
Lănh đạo trong thời đại Ngh́n Năm Thứ Ba, có nghĩa là đồng hành và chia
sẽ. Thay v́ áp đặt từ trên, từ ngoài, chúng ta bước từng bước đồng cảm với
người anh chị em, trên mỗi chặng đường làm người và xây dựng quê huơng.
Phần thứ nhất
Bốn động tác để chuyển hóa thực trạng ngày hôm nay
Để có thể chuyển hóa cuộc đời và t́m ra ư hướng làm người, chúng ta cần khảo
sát bốn vấn đề cơ bản sau đây :
· Tại sao chúng ta phải thay đổi thực trạng ngày hôm nay ?
· Thực trạng ấy bao gồm những ǵ ?
· Chúng ta thay đổi thế nào, làm ǵ, bắt đầu từ đâu ?
· Chúng ta làm công việc thay đổi với ai ?
Vấn đề thứ nhất : Lư tưởng làm người thúc giục chúng ta chuyển hóa cuộc đời
· Vai tṛ của chúng ta trong ḷng cuộc đời (roles),
· Những giá trị chính yếu có khả năng điều hướng toàn diện cuộc
sống và thúc giục chúng ta đi lên, vươn tới (governing values),
· Sứ mệnh cần thực hiện và thành đạt (Mission).
Trong t́nh h́nh xă hội và chính trị hiện nay, con người có xu thế sử dụng
bạo động, để cưỡng chế người khác thực hiện ư muốn của ḿnh. Dùng chiến
tranh, để áp đặt ḥa b́nh. Dùng nhà tù, để cải tạo, chỉnh huấn. Dùng roi đ̣n,
để giáo dục con cái. Dùng áp lực, để đ̣i hỏi kẻ khác phải thay đổi. Vào
thời Trung Cỗ, tôn giáo chính thống ở Aâu Châu đă dùng giàn thiêu, để
trừng trị những thành phần phản đạo.
Tuy nhiên, kinh nghiệm và thực tế cho chúng ta thấy rằng : khi con người
bị cưỡng chế, trừng phạt…thay v́ thay đổi, con người chỉ trở nên phản động
hoặc bị động. Những ai BỊ đối xử bằng bạo động và cưỡng bách, trong tuổi
thiếu thời, theo định luật phản hồi nhân quả, trong địa hạt tâm lư, những
người ấy chầy kíp sẽ trở thành tác nhân gây ra bạo động cho những người
khác, bằng cách nầy hoặc cách khác, khi họ đảm nhận những trách vụ trong
ḷng xă hội. Một cách đặc biệt, trong hoàn cảnh cụ thể của Đất Nước Việt
Nam, hằng triệu người bị dẫn độ vào các trại tù biệt giam, từ 1975… nhưng
mấy người đă được cải tạo thực sự, theo chí hướng của chế độ xă hội chủ
nghĩa cọng sản, sau khi ra khỏi nhà tù ? Phải chăng những nhân vật như
Hoàng Liên, Nguyễn Văn Thuận… và bao nhiêu người khác bị cưỡng bức cải
tạo, đă trở thành cọng sản, theo ư đồ của chính quyền Bắc Việt ?
Theo lối nh́n của tâm lư đương đại, duy bản sắc hay là lư tưởng làm người
là động cơ thúc đẩy con người không ngừng chuyển hóa bản thân và cuộc đời.
Trong lăng kính và ư nghĩa ấy, tôi chỉ có thể thay đổi, chừng nào tôi ư
thức được rằng : Tôi là ai ? Con người đích thực của tôi làm bằng những chất
liệu nào ? Nhu cầu làm người đ̣i hỏi tôi phải thực hiện, thành đạt những
ǵ trong cuộc sống hằng ngày ?
Nói một cách vắn gọn, lư tưởng là năng động từ bên trong nội tâm, kêu mời
và thúc đẩy tôi đứng dậy, vươn ḿnh lên, tiến tới.
Theo tác giả Hyrum W. SMITH (2001), lư tưởng là một tiến tŕnh không bao
giờ có điểm tới nơi. Đó là một con đường tôi phải đi, suốt cuộc đời, bằng
cách hướng tới một cái ǵ cao đẹp, trọng đại nhất trong đời tôi. Là ưu
tiên số một, đứng trước tất cả mọi ưu tiên c̣n lại.
Tuy nhiên, trong thân phận và điều kiện làm người, sai lầm có thể có mặt
khắp muôn nơi. Điều mà tôi khẳng định là tốt đẹp, cao quí ngày hôm nay, chưa
hẳn c̣n tốt đẹp và cao quí, trong năm hoặc mười năm sau này. Chính v́ lư
do đó, ngày ngày, tôi cần rà soát, kiểm điểm và điều chỉnh lại toàn diện
con người của tôi.
Nhằm mục tiêu đổi mới, đánh sáng lại những chiều kích trọng đại và cao cả,
trong lư tưởng và hoài bảo, chúng ta cần dựa vào những chuẩn mực sau đây :
Chuẩn mực thứ nhất : Lư tưởng là viễn ảnh kỳ hùng, có khả năng động viên
con người toàn diện của tôi, trong cuộc sống thường ngày. Cho nên, bốn
lănh vực thuộc cuộc sống làm người phải đóng góp phần ḿnh một cách đồng đều,
vào công việc thực hiện lư tưởng. Lănh vực thứ nhất là sự kiện hay là hành
động cụ thể và khách quan. Hẳn thực, thiếu hành động chứng minh, lư tưởng
chỉ là quảng cáo, tuyên truyền.
Lănh vực thứ hai là lối nh́n của lư trí có khả năng điều hướng mọi hành động.
Lối nh́n ấy được diễn tả và thông đạt cho người khác bằng ngôn ngữ.
Lănh vực thứ ba là những xúc động hăng say, hứng khởi, nhiệt t́nh, có khả
năng động viên con người ngày ngày bước tới, vượt qua mọi trở ngại và
thách đố.
Lănh vực sau cùng là quan hệ xây dựng và đóng góp, giữa người và người.
Nếu lư tưởng là động cơ thúc đẩy tôi làm người, tôi không thể nhân danh lư
tưởng ấy, để đàn áp, bốc lột, thống trị và thủ tiêu những ai đang làm người
với tôi, hai bên cạnh tôi.
Khi cán cân thăng bằng không có mặt giữa bốn yếu tố sinh hoạt nầy, lư tưởng
sẽ lập tức trở thành thoi chột, phiến diện : đó là một ư thức hệ độc tài,
thống trị, đàn áp. Hẳn thực, tự bản chất lư tưởng mang đến cho chúng ta
nhiệt t́nh và hăng say, hạnh phúc và an b́nh nội tâm. Ư thức hệ, trái lại,
bất kể thuộc loại nào – chính trị, tôn giáo, triết lư hay là khoa học -
chỉ gieo rắc lo sợ, hận thù và nghi kỵ, trong cuộc sống làm người.
Chuẩn mực thứ hai : Lư tưởng có quan hệ mật thiết với nhu cầu cơ bản và
chính đáng của tôi và đồng thời tôn trọng nhu cầu làm người của kẻ khác.
Để định nghĩa và khẳng quyết nhu cầu của ḿnh, chúng ta cần thực thi hai động
tác bổ túc cho nhau. Trước hết, chúng ta tŕnh bày, một cách tích cực, TÔI
MUỐN ǵ, để yêu cầu kẻ khác đóng góp và thỏa măn.
Thứ đến, chúng ta cần diễn tả một cách tiêu cực : TÔI KHÔNG CHẤP NHẬN
những ǵ. Khi đề xuất những giới hạn, chúng ta khẳng định chủ quyền của
ḿnh và đ̣i hỏi kẻ khác tôn trọng, dừng lại, không t́m cách vượt qua.
Để khẳng định lư tưởng, chúng ta diễn tả nhu cầu của ḿnh. Nhưng đồng thời,
chúng ta cũng có trách nhiệm lắng nghe và nh́n nhận và coi trọng nhu cầu
của kẻ khác. Không có thái độ ĐỒNG CẢM hai chiều như vậy, mọi quan hệ giữa
người và người sẽ trở thành tranh chấp và xung đột, hận thù và chiến tranh :
Tao hơn mày thua. Mày phải chết, để cho tao sống.
Thi sĩ John DONNE, vào thế kỹ thư 17, đă nhấn mạnh tính liên đới, đồng
trách nhiệm của những ai mang thân phận và cuộc sống làm người, qua câu
nói sau đây : « Không một con người nào là một cô đảo. Trên con đường làm
người, chúng ta có những liên hệ, gắn bó chặt chẽ vào nhau ». Hẳn thực,
trên cùng một chuyến tàu làm người, tôi không thể sống sót một ḿnh, khi
những người khác phải chết đuối hay là bị tiêu diệt.
Chuẩn mực thứ ba : lư tưởng soi đường, dẫn lối cho chúng ta trong ḷng
cuộc đời. Cho nên, lư tưởng phải được chúng ta ư thức, nghĩa là diễn tả ra
ngoài, bằng lời nói và hành động. Nhờ đó, chúng ta biết : chúng ta đi đâu,
về đâu. Hiện tại chúng ta đang có những thuận lợi nào ? Những cạm bẫy nào
đang cản trở bước đường của chúng ta. Theo tác giả H.W. SMITH, nhằm khám
phá và xác định lư tưởng của ḿnh, chúng ta cần khảo sát một cách rơ ràng
và tường tận ba thành tố chính yếu :
· Thành tố thứ nhất : vai tṛ hay là trách nhiệm hiện tại của tôi
là ǵ ? Trong t́nh h́nh hiện tại, tôi có những quan hệ ràng buộc nào ?
Tôi cần làm những ǵ cho những người cùng chia sẻ cuộc sống với tôi ?
· Thành tố thứ hai : những giá trị nào đang điều hướng cuộc đời của
tôi ? Khi hành động ăn khớp với những giá trị cơ bản, tôi có những cảm
nghiệm hăng say và hứng khởi, hạnh phúc và an b́nh nội tâm. Trái lại, khi
khổ đau, chán nản, lo buồn, thất vọng… xuất hiện trong nội tâm, đó là
những tiếng c̣i báo động cho tôi biết rằng những giá trị của tôi không được
tôn trọng, những nhu cầu chính đáng của tôi không được thỏa măn.
· Thành tố thứ ba : Mục đích cuối cùng mà tôi nhắm tới là ǵ ? Sứ
mệnh mà tôi muốn thực hiện và hoàn thành một cách mỹ măn, trong cuộc sống
làm người bao gồm những chiều kích chính yếu nào ? Nói một cách vắn gọn,
« ưu tiên số một », hay là « điều quan trọng bậc nhất » trong cuộc sống
làm người là ǵ ? V́ lư do và chí hướng nào, tôi sẵn sàng hy sinh mạng
sống, danh vọng và tiền tài ?
- Bao lâu chúng ta chưa t́m kiếm, diễn tả, một cách rơ ràng và
trong sáng – hay là viết ra, trên giấy trắng mực đen - những điểm vừa được
tŕnh bày…Đó là giai đoạn khám phá (Discovering),
- Bao lâu chúng ta chưa thiết lập những kế hoạch hành động, với
những mục tiêu ngắn và dài han, có những thời hạn được xác định rơ rệt…Đó
là giai đoạn hoạch định chương tŕnh (Planning),
- Bao lâu chúng ta chưa biết : ngày hôm nay, tôi cần thực thi những
động tác cụ thể nào…Đó là giai đoạn thực hiện (Acting),
- Bao lâu chúng ta chưa đi qua ba giai đoạn ấy, lư tưởng c̣n rất xa
vời, thoát khỏi tầm nắm bắt của chúng ta. Nói đúng hơn, đó chỉ là một giấc
mơ c̣n chập chờn, mờ ảo, chưa được chúng ta t́m cách chuyển hóa thành hiện
thực, trong cuộc đời làm người, ở đây và bây giờ.
Vấn đề thứ hai :
Thực trạng ngày hôm nay
· Những năng động cần phát huy,
· Những bị động cần chuyển hóa.
Khi nói đến lư tưởng, trong phần vừa qua, chúng ta đă khảo sát mục đích
tối hậu của cuộc đời. Đó là tận điểm, chúng ta nhắm tới và quyết tâm thực
hiện, trong toàn thể cuộc đời. Thực trạng ngày hôm nay, trái lại, là vị
trí hiện thời của chúng ta. Đó là con người hiện thực và cụ thể, với bao
nhiêu điểm tích cực và tiêu cực đang c̣n trà trộn vào nhau.
Khi so sánh lư tưởng và con người hiện thực ngày hôm nay, một cách khách
quan và khoa học, chúng ta sẽ dễ dàng phân biệt hai lănh vực đối kháng với
nhau : Một bên là những năng động thúc giục, kêu mời chúng ta thực hiện lư
tưởng trong ḷng cuộc đời. Bên kia là những bị động, những chướng ngại đang
cản trở con đường đi lên và bẻ găy ư chí vươn tới của chúng ta.
Để có thể phân biệt những ǵ là ánh sáng và bóng tối, những ǵ là năng động
và bị động, trong con người hiện thực, chúng ta cần sử dụng hai phương
thức hành động bổ túc và điều hướng lẫn nhau.
Phương thức thứ nhất là quan sát ḿnh, nh́n ḿnh, ư thức về ḿnh. Khi
chúng ta « biết ḿnh », theo lời nhận xét của tổ tiên, chúng ta sẽ có khả
năng « trăm trận, trăm thắng », có nghĩa là «làm chủ bản thân và cuộc đời ».
Trên con đường hướng đến lư tưởng, chúng ta có thể đánh giá chúng ta đang
ở đâu. Nếu chúng ta đă đi đúng hướng, chúng ta tiếp tục đi tới, bổ túc và
kiện toàn. Trường hợp có những sai lệch, chúng ta điều chỉnh, sửa sai. Sai
lầm là một điều tự nhiên và thường t́nh, trong cuộc sống làm người. Khi
sai lầm được ư thức và sưa chữa, sai lầm không c̣n là sai lầm. Sai lầm trở
thành một bài học phong phú, một kinh nghiệm quí hóa, để thăng tiến bản
thân và làm đẹp cuộc đời. Ngoài ra, những ai ư thức một cách sáng suốt về
những sai lầm của ḿnh, những người ấy có khả năng đồng cảm với tha nhân
và sẵn sàng thứ tha cho những anh chị em đă vi phạm những lỗi lầm, trên
con đường làm người.
Câu chuyện sau đây minh họa những điều tôi vừa đề xuất :
Một thiền sinh hỏi vị thầy của ḿnh :
- Thưa sư ông, làm sao sư ông có thể luôn luôn điềm đạm,
làm chủ bản thân ḿnh, một cách tuyệt hảo như vậy ?
- Sư ông trả lời : v́ ông đă có những quyết định đứng đắn,
trước mỗi hành động.
- Nhưng làm sao để có những quyết định đứng đắn ?
- V́ ông đă có nhiều kinh nghiệm, trong cuộc đời.
- Nhưng thế nào là có nhiều kinh nghiệm ?
- V́ chính ông đă có những quyết định sai lầm trong quá khứ,
khi c̣n bé nhỏ như con bây giờ.
Chính v́ những lư do vừa được đề xuất, trong cuốn sách « Nguyễn Trăi và
vấn đề giáo dục con cái » (2001), tôi đă yêu cầu những bậc cha mẹ, cũng như
những ai thực thi vai tṛ giáo dục, trong ḷng quê hương, hăy can đảm sáng
tạo cho con em chúng ta, năm khung trời mở rộng :
· Thứ nhất, cho phép con em khẳng định tính độc đáo và khác biệt
của ḿnh,
· Thứ hai, cho phép con em sai lầm,
· Thứ ba, khuyến khích và cho phép con em diễn tả, nhất là những
xúc động tiêu cực, như giận, buồn, lo, sợ…
· Thứ bốn, cho phép trẻ em mộng mơ, tŕnh bày ra ngoài những ước
vọng và hoài bảo của ḿnh, một cách hồn nhiên, thoáng thoát,
· Thứ năm, cho phép trẻ em có quyền từ chối, trả lời « Không » với
chúng ta, để khẳng quyết con người của ḿnh.
Làm được như vậy, chúng ta đang đặt nền mống vững chắc, cho từng từng thế
hệ tự do và sáng tạo, cơ hồ Nguyễn Trăi, Lư Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo,
Hoàng Hậu Ỷ Lan… có điều kiện xuất hiện và triển nở, trên từng tấc đất của
Núi sông.
Mặc dù với bao nhiêu cố gắng, như tôi vừa giới thiệu, để nh́n ḿnh, quan
sát ḿnh, t́m hiểu ḿnh, một cách khách quan và chính xác, thiên kiến,
thành kiến vẫn luôn luôn tồn tại. Chúng nó len lỏi, nằm vùng trong mỗi lối
nh́n, ư kiến và quan điểm của chúng ta, nhất là khi chúng ta nói về ḿnh,
binh vực ḿnh, đề cao ḿnh. Theo cách nh́n của Tâm lư đương đại, chúng ta
có xu thế nh́n ḿnh, xuyên qua một loại « cửa sổ vô h́nh ». Đó là một hệ
tin tưởng » (belief window), đă đóng lớp rêu phong, trong tâm tưởng của
chúng ta, từ những ngày thơ ấu. Do đó, chúng ta dễ dàng xuyên tạc, bóp méo
những tin tức về ḿnh. Chúng ta tin tưởng như đinh đóng đó là những « sự
thật một trăm phần trăm ». Cho nên, chúng ta không bao giờ t́m cách kiểm
chứng, đặt lại vấn đề, sửa sai và đổi mới.
C̣n có một cách làm thứ hai là yêu cầu kẻ khác đóng góp, phản hồi. Lắng
nghe họ và tạo điều kiện, để cho họ nói về chúng ta, một cách thành thực
và chính xác. Tôi sẽ khảo sát cách làm nầy, khi đề cập vấn đề thứ tư sau
nầy.
Nhằm tóm lược tất cả những điều được tŕnh bày trong phần nầy, chúng ta
hăy trở lại với câu hỏi : thực trạng cần được chúng ta chuyển hóa ngày hôm
nay bao gồm những ǵ ? Đó là tất cả những bị động, những sức nặng ù ĺ đang
làm tê liệt mọi sức sống vươn lên của chúng ta, trên con đường thực hiện
lư tưởng. Đó là « những lực lượng phản động », đang đóng sào huyệt giữa
con tim của mỗi người trong chúng ta tất cả, không trừ sót một ai. Thay v́
đưa tay , chỉ phe bên kia, để tố cáo, mạt sát, kết án, loại trừ, chúng ta
hăy can đảm nh́n ḿnh. Tên giặc đang đàn áp chúng ta và gieo rắc hận thù
khắp muôn nơi, trên quê hương của chúng ta, là chính ḿnh chúng ta. Cho
nên, mọi kế hoạch đổi thay và chuyển hóa cuộc đời…phải bắt đầu từ nơi đó :
con người của chúng ta.
Hẳn thực, mỗi người hăy tự nhủ ḷng ḿnh : Suốt một đời phục vụ điều Thiện,
rao giảng điều Thiện, đấu tranh cho điều Thiện, trên khắp mọi nẻo đường
của quê hương và thế giới…điều Aùc vẫn luôn luôn tồn tại trong tôi, trong
lối nh́n của tôi, trong từng hơi thở và lời nói của tôi, trong từng thớ
thịt và xương máu của tôi.
Khi mỗi người Việt Nam ư thức được điều ấy, một cách thành khẩn và khiêm
cung, chúng ta đang là b́nh minh, gọi mặt trời trở về, trên ruộng đồng của
quê huơng.
Vấn đề thứ ba :
Thiết lập và thực hiện Kế Hoạch Hành Động
Câu hỏi thứ nhất : Chúng ta cần làm ǵ, với những năng động đă được khám
phá ?
Câu hỏi thứ hai : Chúng ta chuyển hóa thế nào những sức nặng ù ĺ, bị động,
trong ḷng cuộc sống ?
Để trả lời một cách vắn gọn, chúng ta cần lưu tâm đến những giai đoạn quan
trọng cần thực hiện sau đây :
· Củng cố và phát huy những năng động đă có mặt, nhưng chưa được
thuần thành.
· Trở lui với những năng động đă thuần thành, trong những giai đoạn
khó khăn và khủng hoảng, trên con đường thực hiện lư tưởng.
· Phân chia mục đích của cuộc đời (bao gồm những giá trị và sứ
mệnh), thành nhiều mục tiêu cụ thể, được xếp đặt theo thứ tự ưu tiên 1,
2, 3…
· Phân chia mỗi mục tiêu cụ thể thành hai loại mục tiêu ngắn hạn và
dài hạn. Thời gian thực hiện mục tiêu dài hạn kéo dài từ 1 đến 3 năm tối
đa. Thời gian thực hiện mỗi mục tiêu ngắn hạn không vượt quá 6 tháng.
· Để thực hiện mỗi mục tiêu ngắn hạn, chúng ta cần sáng tạo từ 5
đến 10 tác động cụ thể, để thực tập, tôi luyện lặp lui lặp tới, mỗi ngày,
cho đến khi nào mục tiêu ngắn hạn được hoàn thành, nhuần thục.
Một cách đặc biệt, để chuyển hóa những sức nặng ù ĺ, bị động, trở ngại…
chúng hăy khảo sát hai b́nh diện khác nhau, nhưng luôn luôn chồng chéo lên
nhau. B́nh diện thứ nhất là những hành vi tiêu cực, hoàn toàn đối nghịch
với chí hướng vươn lên, đi tới, xích lại gần lư tưởng. B́nh diện thứ hai
là chức năng hoặc phần vụ TÍCH CỰC của những hành vi tiêu cực đang gây cho
chúng ta những rối loạn, phiền hà, tŕ trệ.
Khi t́m ra được chức năng tích cực, chúng ta có thể đề xuất những tác động
cụ thể, để đáp ứng và thỏa măn nhu cầu làm người của chúng ta. Xuyên qua
cách chuyển hóa nầy, hành vi tiêu cực sẽ từ từ nhường bước cho những hành
vi tích cực và năng động, có khả năng phục vụ lư tưởng, mà chúng ta muốn
thực hiện trong ḷng cuộc đời.
Ví dụ sau đây sẽ minh họa cách làm vừa được giới thiệu. Em A không muốn đi
học. Phần vụ tích cực của hành vi từ chối ấy là bảo vệ an toàn cho bản
thân và cuộc sống của ḿnh, v́ ở trường học, một vài học sinh lớn hơn đă
có thái độ đe dọa, đối với em ấy. Để hóa giải t́nh trạng khó khăn nầy, cô
giáo ở lớp học cần lưu tâm đến em A nhiều hơn, trong các giờ ra chơi…để em
A t́m lại được ḷng tự tin và an toàn nội tâm.
· Sau khi thời gian thực hiện mục tiêu đă chấm dứt, chúng ta cần
ngồi lại, đánh giá kết quả. Nếu mục tiêu đă thành đạt, chúng ta cần nêu ra
một cách rơ ràng : chúng ta đă đạt được kết quả, nhờ vào những kỹ năng nào ?
Nếu công việc đă thất bại, chúng ta cũng cần rút kinh nghiệm : chúng ta
thất bại, tại ví lư do nào ? Lần sau, chúng ta cần bổ túc và kiện toàn ở
chỗ nào
Vấn đề thứ tư :
Yêu cầu kẻ khác đóng góp, phản hồi
· Bạn THẤY, NGHE ǵ, ở đâu, khi nào...
· Từ những sự kiện ấy, bạn đề xuất GIẢ THUYẾT nào ?
· Xuyên qua LỐI NH̀N hay là cách THUYÊN GIẢI của bạn, tôi cần rút
ra những kết luận nào ? Tôi cần LÀM G̀ ?
· Với những cọng sự viên, tôi cần phát huy những QUAN HỆ nào ?
· Trong lănh vực XÚC ĐỘNG và T̀NH CẢM, theo bạn tôi đang có những
nhu cầu nào ? Và những người cùng chung sống và làm việc với tôi, đang cần
ǵ ? Tôi đáp ứng thế nào ?
Từ giai đoạn khám phá lư tưởng cho đến lúc đánh giá những thành quả thâu
lượm được, trong từng mỗi bước đi tới, chúng ta cần những đóng góp phản
hồi của kẻ khác, về con người của chúng ta, trong bốn lănh vực sinh hoạt :
- thứ nhất là những hành động và ngôn ngữ khách quan bên ngoài,
- thứ hai là những giá trị và lối nh́n có khả năng điều hướng toàn
diện con người,
- thứ ba là đời sống xúc động và t́nh cảm,
- thứ bốn là những quan hệ tiếp xúc và trao đổi qua lại giữa người
với người, trong môi trường xă hội.
Như trước đây tôi đă nhấn mạnh, thiếu một trong bốn thành tố trên đây, con
người của chúng ta sẽ mất quân b́nh. Và lư tưởng, mà chúng ta muốn thực
hiện, chỉ là một ư đồ « má phấn môi son hay là vẽ rồng họa rắn ».
Tuy nhiên, tôi cần phải thêm, không một tin tức nào là sự thật một trăm
phần trăm. Mỗi tin tức do người khác cung ứng đều là quặng sản. Chính
chúng ta, theo lối nói của văn hào Paulo CUELHO, là người « luyện vàng »,
có khả năng biến sắt, thép, đồng, ch́… thành vàng nguyên chất. Nếu chúng
ta thích nịnh bợ, người khác sẽ t́m cách để « vuốt đuôi » chúng ta. Nếu
chúng ta thích lèo lái mọi sự, người khác sẽ « làm vui ḷng », « vổ tay
hoan hô », hay là « thinh lặng đồng lơa ». Nếu chúng ta là những người
« cố quyết t́m sự thật », ở cuối chặng đường t́m kiếm, sự thật sẽ đến
viếng thăm và cư ngụ trong quả tim của chúng ta. Sự thật không bao giờ là
sự kiện, có sẵn trước mặt. Sự thật – bất kỳ loại sự thật nào – đi đôi với
đức tin vào ḿnh và vào người khác. Sự thật là hoa trái của một quan hệ
qua lại, hai chiều giữa hai tâm hồn bồi đắp và nuôi dưỡng lẫn nhau.
Trong tác phẩm « Đồng cảm để đồng hành » (T́nh Người, Mùa xuân 2003), tôi
đă quảng diễn một cách sâu rộng những động tác cụ thể cần thực hiện, khi
chúng ta đồng cảm với kẻ khác : có mặt với họ, lắng nghe họ, trân trọng và
nh́n nhận những ǵ họ trao ban cho chúng ta, mặc dù đó có thể là những nhu
cầu làm người bị ngụy trang đằng sau ngôn ngữ hận thù, tố cáo, kết án,
lăng nhục... Khi chúng ta có khả năng nhận ra khuôn mặt làm người của kẻ
khác, đằng sau những « nét mặt c̣n nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi »,
chính lúc đó, chúng ta ĐANG LÀM NGƯỜI. Lư tưởng làm người đang thành xương
thành thịt, trong con người của chúng ta.
Không bước đi những bước đồng cảm với anh chị em đồng bào, chúng ta không
thể nào khám phá nhu cầu chính đáng và cơ bản của họ. Bản chất đích thực
của vai tṛ lănh đạo phải chăng là tạo ra mọi điều kiện thuận lợi và tốt
hảo, để kẻ khác cũng làm người với chúng ta ?
Nói khác đi, trong mỗi phút giây, khi chúng ta cố quyết làm người, trong
từng quan hệ tiếp xúc và trao đổi, chúng ta đang đảm nhiệm vai tṛ lănh
đạo của ḿnh, mặc dù chúng ta chỉ là một tù nhân sống chui rúc trong trại
tù biệt giam. Hiểu được sự thật ấy, chúng ta sẽ nhận thức được một cách
rốt ráo thế nào là trở nên người lănh đạo có khả năng đồng hành và đồng
cảm, trong ḷng quê hương và dân tộc, trong những t́nh huống hiện nay.
Phần thứ hai
Bốn kỹ năng khoa học để thực hiện lư tưởng trong mỗi giây phút của cuộc
đời
· Ư thức về ḿnh (Self-awareness),
· Làm chủ bản thân và cuộc đời của ḿnh (Self-management),
· Khả năng đồng cảm với tha nhân (Empathy),
· Khả năng kết dệt những quan hệ đóng góp xây dựng và trao đổi hài
ḥa với những người chung sống trong môi trường (Relationship-management).
Để có thể thực hiện lư tưởng, trong bốn giai đoạn được tŕnh bày trên đây,
về mặt kiến thức và khoa học, chúng ta cần vận dụng kỹ năng « vừa T́nh vừa
Lư », trong con người của chúng ta. Theo lối gọi của Daniel GOLEMAN, đó là
một loại « Trí Thông Minh coi trọng T́nh Cảm », có cơ sở cụ thể và khách
quan, trong Hệ Thần Kinh trung ương năo bộ.
Cơ sở nầy là đường giây liên lạc nối kết cấu trúc Hạnh Nhân thuộc Hệ Viền
nằm sâu trong năo bộ và Thùy Trán bên trái, thuộc Hệ Tân Vỏ Năo. Nếu v́ lư
do tai nạn hoặc bệnh hoạn, cấu trúc Hạnh nhân bị thương tổn, bệnh nhân vẫn
duy tŕ khả năng lư luận, nhưng không c̣n biết đồng cảm với người khác.
Trái lại, khi Thùy Trán – nhất là phần phía trên – bị tương tổn, bệnh nhân
sẽ mất khả năng làm chủ hay là chế ngự đời sống xúc động và t́nh cảm của
ḿnh.
Nhờ có những tin tức trao qua gửi về giữa Hạnh Nhận và Thùy Trán, chúng ta
kết hợp bốn loại khả năng cùng một lúc :
- thứ nhất là khả năng hiểu biết ư nghĩa của những sự kiện xảy ra
bên ngoài,
- thứ hai là khả năng vận dụng trực giác, để có một lối nh́n toàn
diện, tổng thể trước những vấn đề,
- thứ ba là khả năng điều hướng, điều hợp đời sống t́nh cảm và xúc
động,
- thứ bốn là khả năng đồng cảm với người khác, nghĩa là đặt ḿnh
vào vị trí của họ, hiểu được họ, như chính họ hiểu ḿnh, trong những quan
hệ tiếp xúc và trao đổi.
Khả năng kết hợp vừa T́nh vừa Lư, như chúng ta đă nói, c̣n mang tên là
« Trí Thông Minh coi trọng T́nh Cảm », cung ứng cho chúng ta bốn loại kỹ
năng cần thiết cho mọi công tác lănh đạo, từ giai đọan đề xuất khám phá
một hướng đi sự đến giai đoạn hoàn thành kế hoạch hành động.
Kỹ năng thứ nhất : ư thức về ḿnh
Khi ư thức về ḿnh được mài nhọn và đánh sáng mỗi ngày, nhờ học tập, tôi
luyện và khả năng lắng nghe kẻ khác…tôi có ít nhất hai kỹ năng tinh nhuệ,
khả dĩ bồi đắp cho lư tưởng làm người và vai tṛ lănh đạo.
Kỹ năng thứ nhất cho phép tôi nhận thức và phân định một cách dễ dàng,
nhanh chóng : đâu là những năng động tích cực, đâu là những bị động tiêu
cực đang cùng có mặt trong con người hiện thực của tôi.
Kỹ năng thứ hai tạo điều kiện cho tôi biết phân biệt một cách sáng suốt và
bén nhạy lằn ranh giữa những sự kiện khách quan và những thiên kiến hay
là những định kiến. Đó là những « Hệ tin tưởng » xa xưa, cỗ đại, chưa bao
giờ được tôi nhận diện và đối diện, bằng cách kiểm chứng, một cách can
đảm, chân thành và khoa học.
Kỹ năng thứ hai : Làm chủ bản thân ḿnh
Khi có kỹ năng làm chủ bản thân và cuộc đời, tôi biết : tôi đang đi về
đâu ? Hiện tại tôi ở chỗ nào ? Tôi cần phải làm ǵ ? Khi có một chướng
ngại xuất hiện, trên đường đi, tôi hóa giải bằng cách nào ? Tôi chuyển
biến thế nào những thất bại, lỗi lầm… trong cuộc đời thành kinh nghiệm quí
hóa và bài học thăng tiến bản thân ?
Một cách đặc biệt, trong đời sống xúc động và t́nh cảm, con người có kỹ
năng làm chủ bản thân ḿnh không bao giờ bị tê liệt và tràn ngập, trước
những cơn khổ đau trầm trọng, hay là trong những t́nh huống bệnh hoạn,
tang chế xảy đến một cách bất ngờ.
Trên đây, tôi đă nói đến vai tṛ của Thùy Trán, bên phía trái, thuộc hệ
Tân Vỏ Năo. Nhờ hoạt động của cấu trúc nầy, con người có khả năng gọi trở
về, trong cuộc đời của ḿnh, những kinh nghiệm thành công, hạnh phúc, vui
sướng đă có mặt trong quá khứ, để hóa giải hoặc bồi đắp cho những t́nh
huống cay nghiệt, u tối đang xảy ra trong giờ phút hiện tại.
Kỹ năng thứ ba : Đồng Cảm với tha nhân
Mặc dù bao nhiêu nét khác biệt, đang tạo ngăn cách giữa bản thân tôi và
người đối diện, nhờ vào kỹ năng đồng cảm, tôi vẫn nhận ra khuôn mặt của
tôi, trong người ấy, và khuôn mặt của người ấy đang hiện diện trong thâm
cung của quả tim tôi. Câu nói của người đi trước đang nhắc nhủ cho chúng
ta về sự thật « nhất tâm » ấy : « Ḿnh với ta, tuy hai mà một. Ta với Ḿnh
sao một mà hai ? ». Dựa vào những nét khác biệt, tôi có thể đón nhận nơi
người khác, những bài học và kinh nghiệm, để bổ túc và kiện toàn những ǵ
c̣n thiếu sót, trong con người và cuộc đời của tôi. Trái lại, khi khám phá
được những điểm giống nhau, như khổ đau, buồn chán, thất vọng, phản bội,
lỗi lầm… chúng ta chỉ có một con đường, để cùng đi với nhau : đó là Thương
Yêu và Tha Thứ. Dân tộc nào không rút ra được, từ lịch sử của ḿnh, những
bài học Tha Thứ, dân tộc ấy đang trên đường suy vong và tự hủy.
Kỹ năng thứ tư : Đóng góp xây dựng và quan hệ hài ḥa
Người khác – bất kể họ là ai, bạn hay thù, thân nhân hoặc xa lạ – là vốn
đầu tư lớn lao và phong phú hơn tất cả mọi loại vốn đầu tư khác. Đó là vốn
đầu tư có khả năng biến chúng ta thành người.
Tuy nhiên, như tôi đă nhấn mạnh nhiều lần trước đây, chúng ta là « người
luyện vàng », có khả năng biến thành vàng những ǵ là quặng sản, trong tầm
tay của chúng ta. Đối với tha nhân, có mặt trong môi trường sinh hoạt hằng
ngày, từ ngày sinh ra khỏi ḷng Mẹ, chúng ta cũng có một trách nhiệm luyện
vàng như vậy. Họ sẽ đóng góp, nếu chúng ta yêu cầu và đón nhận những đóng
góp của họ. Nếu chúng ta đối xử với họ như kẻ thù, họ sẽ là những tên thực
dân, xâm lược. Thể theo lối nh́n của Eric BERNE – tác giả sáng lập Phương
Pháp phân tích những quan hệ trao đổi - (Analyse transactionnelle),
không một người nào là nạn nhân, cứu tinh hay thực dân, tự bản sắc của
ḿnh. Trong mọi quan hệ trao đổi giữa người với người, nếu chúng ta thấy
ḿnh là nạn nhân, chúng ta sẽ t́m người, để « tấn phong họ » thành thực
dân hay là cứu tinh. Trái lại, khi chúng ta thấy ai khác là nạn nhân,
chúng ta sẽ nhảy vào làm tên thực dân hay là vị cứu tinh. Tuy nhiên, không
ai có thể « chơi » tṛ chơi làm thực dân hay là làm vị cứu tinh suốt cuộc
đời. Tên thực dân sẽ bị đánh ngă quị, để trở thành nạn nhân. Vị cứu tinh
một ngày nào đó sẽ trở thành tên thực dân, đối với những người, mà ḿnh đă
cứu văn và viện trợ. Và nạn nhân ngày trước bây giờ trở thành tên thực
dân, đối với người khác, thậm chí đối với anh chị em đồng bào của ḿnh.
Chính v́ những lư do vừa được quảng khai, trong những quan hệ tiếp xúc và
trao đổi, nếu kẻ khác được chúng ta cư xử và đăi ngộ là người, chúng ta sẽ
làm người. Trái lại, khi kẻ khác chỉ là « công cụ » hay là « đồ vật »,
trong lối nh́n của chúng ta, lúc bấy giờ chúng ta chỉ là « nửa người, nửa
ngợm, nửa đười ươi », nghĩa là một quái thai, trong thế giới làm người.
Trong tinh thần và lăng kính ấy, để có thể lănh đạo anh chị em đồng bào,
chúng ta hăy bắt đầu LÀM NGƯỜI và trân trọng tư cách làm người của anh chị
em chúng ta.
KẾT LUẬN
Cái ǵ sẽ xảy ra, nếu chúng ta thực hiện lư tưởng với bốn giai đoạn được
đề xuất trên đây ?
Để trả lời, tôi xin nêu ra một số câu hỏi vắn gọn sau đây :
· Phải chăng chúng ta là những Thánh Gióng ? Lên đường đánh tan
Giặc ÂN, và mang về cho Đất Nước thanh b́nh và thịnh vượng, sau khi được
bà con xa gần cho ăn, cho mặc, cho ngựa, cho gươm. Làm xong phận sự, Thánh
Gióng đă ra đi, trở về Trời với Mẹ Aâu Cơ.
· Phải chăng chúng ta là những Trần Hưng Đạo ? Tại Vạn Kiếp, khi
vua Trần Nhân Tôn ngự thuyền đến tham vấn : « Thế giặc qua to, đánh nhau
lâu sợ hại cho dân. Hay là Trẫm ra hàng, để cứu muôn dân ? ». Trần Hưng
Đạo đă khảng khái tâu lại : « Nếu Bệ Hạ muốn hàng, xin hăy chém đầu trẫm
trước đă ».
· Phải chăng chúng ta là những vua Lư Thánh Tôn đầy ḷng nhân từ và
quí trọng người dân của ḿnh ? Nhà vua thường than thở với Triều Đ́nh :
« Trẫm yêu dân như yêu con ». Cho nên, vào mùa rét lạnh, Nhà Vua truyền
lệnh phân phát chăn chiếu cho những tội nhân.
· Phải chăng chúng ta là những Trần B́nh Trọng ? Khi quân Nguyên
xâm chiếm Nước ta lần thứ hai, Trần B́nh Trọng bị bắt ở biên thùy và bị
giải đến trước tướng Nguyên là Thoát Hoan. Tướng nầy đem mồi phú quí dụ
Trần B́nh Trọng : « Hăy về hàng ta đi, rồi sẽ được phong làm vương đất
Bắc ». Trần B́nh Trọng nổi giận, quát lên rằng : « Ta thà làm quỉ Nước
Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc ».
· Phải chăng chúng ta là những Nguyễn Trăi ? « Chăn lạnh choàng
vai, đêm chẳng ngủ. Suốt đời, ôm măi nỗi lo dân ».
Để t́m ra câu trả lời trung thực, mỗi người hăy trở về trong thâm cung của
ḷng ḿnh. Hăy lắng nghe lời kêu gọi của Núi Sông, Đất Nước. Hăy gọi Lạc
Long Quân và Bà Aâu Cơ trở về giữa chúng ta :
Hăy gọi Cha về, ḷng ai thao thức sóng vỗ,
Hăy lắng nghe lời ru của Mẹ, khi cuộc đời đầy giông tố.
- Công cha Như Núi Thái Sơn,
Nghĩa Mẹ như Nước trong nguồn chảy ra -,
Anh em cùng một Mái Nhà,
Ngọt bùi chia sẻ, gần xa một ḷng.
Con là ai ? – Hạt bụi, giữa Đất Trời Vũ Trụ.
Nhưng đời con gây động chuyển hằng ngàng tinh tú.
Con đứng lên, đập tan những hận thù, bom đạn…
Bàn tay con, sáng tạo lại Núi Sông tṛn đầy và viên măn.
Bước chân con mang Hạnh phúc cho Đời,
Quả Tim con Nguồn Suối không bao giờ cạn vơi.
Giữa băo tố, Hồn Đại Dương vẫn lặng,
Ngày sương mù, Ḷng Trời Cao cứ nắng.
Ngàn sông tràn nước, ngàn mảnh trăng rơi…
Muôn dặm không mây, chỉ một Bầu Trời ».
Phải chăng đó là lư tưởng của chúng ta ?
Sách tham khảo
1.-Goleman D. –The new Leaders - Little Brown, London 2002
2.-Smith H.W. – What matters most – Simon & Schuster, London 2001
3.-Hoàng Liên – Ánh Sáng và Bóng Tối – Van Nghe, California 1990
4.-Nguyễn văn Thuận – Năm chiếc bánh và hai con cá – Định Hướng,
Strasbourg 1999
5.-Nguyễn văn Thành – Nguyễn Trăi và Vấn đề giáo dục con cái – T́nh Người,
Lausanne 2001
6.- Nguyễn văn Thành – Đồng Cảm để Đồng Hành – T́nh Người, Lausanne 2003
7.- Một nhóm giáo sư – VIỆT SỬ, quyển 1 và 2 – Inst. Asie du Sud-Est,
Paris 1993
 |